Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

TIỂU LUẬN LỊCH sử ĐẢNG CAO cấp CHÍNH TRỊ đảng cộng sản việt nam lãnh đạo kết hợp mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong cách mạng việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.02 KB, 18 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

BÀI THU HOẠCH
LỚP CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TÊN MƠN HỌC:
LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

TÊN BÀI THU HOẠCH:

Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo kết hợp mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong cách mạng Việt Nam
ĐIỂM TRUNG BÌNH CHUNG
Bằng số

Bằng chữ

TP.HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021


MỤC LỤC
PHẦN I. MỞ ĐẦU…………………………………………………………………….................................... 1
PHẦN II. NỘI DUNG…………………………………………………………………………….…….…...2
1. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu và là nguồn gốc sức mạnh của
cách mạng và dân tộc Việt Nam…………………..…….…………………...…………...
………………. 2

2. Nội dung chủ yếu của bài học nắm vững mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội………………………...…….……………………………………....……...…………………. 4
3. Những nguy cơ, thách thức trong tiến trình Đảng lãnh đạo kết hợp mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn hiện nay
…..........................................................9



III. KẾT LUẬN ………………………………………………………………………...................................14


1

PHẦN 1: MỞ ĐẦU
Trải qua 35 năm đổi mới, nhờ vận dụng sáng tạo, phát triển Chủ nghĩa Mác –
Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhờ sự lãnh đạo đúng đắn của Ðảng, sự nỗ lực phấn
đấu, chung sức đồng lịng của tồn Ðảng, tồn dân, tồn qn và sự giúp đỡ, hợp
tác của cộng đồng Quốc tế, nhân dân ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử, Đất nước phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi
mới, tạo ra thế và lực mới để Đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp. Văn
kiện Ðại hội XIII của Ðảng nhận định: “lý luận về đường lối đổi mới, về CNXH và
con đường đi lên CNXH của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được
hiện thực hóa… Ðất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín
quốc tế như ngày nay” [1]
Những thành tựu trên đây tạo tiền đề quan trọng, tạo nguồn lực, động lực vật
chất và tinh thần to lớn để toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân ta vượt qua mọi khó
khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới, vì độc lập dân tộc và
CNXH.
Những thành tựu ấy do nhiều nguyên nhân, trong đó có ngun nhân quan
trọng là Ðảng ln kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trên nền tảng chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong q trình đổi mới. Chính vì vậy,
cương lĩnh xây dựng Đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển
năm 2011) đã khái quát 5 bài học lớn, trong đó bài học lớn đầu tiên là “nắm vững
ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH - ngọn cờ vinh quang mà Chủ Tịch Hồ Chí
Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau”.
Những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử cả về lý luận và thực tiễn của 35
năm đổi mới, đặc biệt là nhiều thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện, tạo nhiều

dấu ấn nổi bật trong nhiệm kỳ Ðại hội XII là minh chứng hùng hồn cho tính đúng
đắn của con đường độc lập dân tộc và CNXH của nước ta. Ðồng thời đó cũng là sự
bác bỏ đanh thép những quan điểm sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch,
phần tử cơ hội chính trị phủ nhận vai trị của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, vai trị lãnh đạo của Ðảng, phủ nhận con đường XHCN, tách rời, đối lập
độc lập dân


2

tộc và CNXH, phủ nhận định hướng XHCN, phủ nhận những thành tựu mà nhân
dân ta đạt được trong đổi mới. Cần kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm
sai trái, thù địch đó để bảo vệ Ðảng, Nhà nước và chế độ XHCN, bảo vệ nền tảng
tư tưởng của Ðảng, bảo vệ và phát triển đường lối đổi mới, thành quả của sự
nghiệp đổi mới theo định hướng XHCN.
Xuất phát từ vấn đề trên, sau khi học xong mơn Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt
Nam, thuộc chương trình cao cấp lý luận chính trị, em đã chọn nội dung: “Đảng
Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo kết hợp mục tiêu độc lập dân tộc và Chủ Nghĩa
Xã Hội trong cách mạng Việt Nam” làm bài thu hoạch hết môn học.
PHẦN 2: NỘI DUNG
1. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu và là nguồn gốc sức
mạnh của cách mạng và dân tộc Việt Nam
Mác, Ăng - ghen, Lênin xây dựng học thuyết về chủ nghĩa xã hội và chính
các ơng đã đề cao vấn đề dân tộc, ủng hộ các dân tộc bị áp bức giành độc lập dân
tộc. Các ông xác định bản thân giai cấp vô sản phải đại biểu cho phong trào dân tộc
và tự mình trở thành dân tộc. Học thuyết về chủ nghĩa xã hội đề cao các giá trị dân
tộc, phát huy các giá trị độc lập dân tộc, thực hiện bình đẳng dân tộc trong một thế
giới đại đồng. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại xuất hiện một học thuyết khoa
học và cách mạng, giải quyết toàn diện và triệt để các vấn đề về dân tộc, độc lập
dân tộc, bình đẳng dân tộc.

Các phong trào yêu nước ở Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX theo
lập trường phong kiến hay dân chủ tư sản, tiểu tư sản đều có mục tiêu giành độc lập
cho dân tộc nhưng lại sai lầm trong xác định đường lối, con đường phát triển và
phương pháp đấu tranh, qua khảo nghiệm của lịch sử đều lần lượt thất bại. Lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc ngay khi đón gặp Chủ nghĩa Mác – Lênin đã tìm thấy ở đó con
đường cứu nước đúng đắn: gắn liền giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, giải
phóng xã hội, giải phóng con người; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Sự gặp gỡ giữa Nguyễn Ái Quốc với Chủ nghĩa Mác – Lênin là sự gặp gỡ tất yếu


3

giữa chủ nghĩa yêu nước với hệ tư tưởng khoa học và cách mạng của thời đại. Từ
khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đường lối nhất quán mà Đảng chọn lựa từ
1930 đến nay là con đường gắn độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đây là một
đường lối đúng đắn. Bởi vì nó được đưa ra trên cơ sở căn cứ khoa học và thực tiễn,
đó là: Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các khoa học cụ thể khác;
xác định được mục tiêu chiến lược và đề ra được những vấn đề cơ bản của cách
mạng Việt
Nam.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là nguồn sức mạnh cho cách mạng
Việt Nam. Một đường lối đúng bao giờ cũng có sức mạnh, vì nó phù hợp với
nguyện vọng của nhân dân và phù hợp với qui luật phát triển của lịch sử. Thực tiễn
và kinh nghiệm lịch sử cho thấy, sự tồn vong và phát triển của mỗi Quốc gia – Dân
tộc đều gắn liền với việc giữ vững nền độc lập và chủ quyền của Quốc gia – Dân
tộc ấy. Sống trong độc lập, tự do là nguyện vọng thiết tha của mọi người trong cộng
đồng dân tộc, giành và giữ nền độc lập của Tổ quốc luôn là mối quan tâm thường
trực của nhân dân. Tôn trọng độc lập và chủ quyền quốc gia trở thành nguyên tắc
cơ bản và điều kiện tiên quyết cho việc thiết lập và duy trì quan hệ bang giao giữa
các nước. Vượt qua những hạn chế của lập trường phong kiến, lập trường tư sản,

chủ nghĩa xã hội đã đưa đến những nội dung mới và triệt để trong việc giải quyết
vấn đề độc lập dân tộc. Độc lập dân tộc phải trên cơ sở độc lập thực sự về kinh tế,
chính trị, văn hóa, ngoại giao; độc lập dân tộc phải bảo đảm xóa bỏ tình trạng áp
bức, bóc lột và nô dịch của dân tộc này với dân tộc khác cả về kinh tế, chính trị và
tinh thần; quan hệ giữa các nước dựa trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tơn
trọng chủ quyền dân tộc, cùng đóng góp vào lợi ích chung của các dân tộc, vì hịa
bình thế giới, vì sự tiến bộ của lồi người. Những giá trị đó chỉ có thể đạt được ở
chủ nghĩa xã hội. Chỉ với chủ nghĩa xã hội, dân tộc mới phát huy cao độ sức mạnh
của mình, trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng, trong xây dựng đất nước, nâng cao
sức mạnh tổng hợp quốc gia, củng cố vững chắc độc lập dân tộc.


4

Thế nên, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh với trí tuệ thiên tài và những
kiến thức, tình cảm mới của mình đã khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng
dân tộc khơng có con đường nào khác con đường cách mạng vơ sản”[2], “chỉ có
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức
và nhân dân lao động trên toàn thế giới khỏi ách nô lệ”[3]
Như vậy, đường lối đúng đắn là yếu tố hàng đầu đảm bảo cho cách mạng
thành cơng. Do đó, trong mọi giai đoạn cách mạng đảng phải đặc biệt quan tâm đến
xây dựng đường lối. Đường lối đúng tạo sức mạnh, tạo niềm tin cho nhân dân, tạo
uy tín cho đảng, nhờ vậy, đảng giữ được vai trò lãnh đạo.
2. Nội dung chủ yếu của bài học nắm vững mục tiêu độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội.
Ngay tại Hội nghị thành lập Đảng vào mùa xuân năm 1930, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã thơng qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt
(Cương lĩnh đầu tiên của Đảng) mà tư tưởng cốt lõi là độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi
tới xã hội cộng sản”[4]. Cương lĩnh đã bao quát được nhiệm vụ đấu tranh giải

phóng dân tộc với những giá trị đích thực của độc lập dân tộc và phương hướng
tiến lên của dân tộc, giải quyết được cả yêu cầu phát triển của dân tộc và của xã hội
Việt Nam, đó là sự lựa chọn đúng đắn dứt khoát, sự lựa chọn của lịch sử.
Đại hội II đã thơng qua Báo cáo Chính trị “Bàn về cách mạng Việt Nam”
do đồng chí Trường Chinh soạn thảo đã xác định:
“Đặc điểm của cuộc cách mạng này là làm tròn nhiệm vụ dân chủ tư sản và
tiến triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa, không cần phải qua một cuộc nổ bùng
cách mạng, một cuộc nội chiến, và thiết lập nhân dân dân chủ chun chính dưới
hình thức cộng hào dân chủ nhân dân, chứ không thiết lập công nơng chun chính
hình thức xơ viết cơng nơng binh”[5].
Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng thông qua
Cương lĩnh xây dựng Đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã rút ra 5


5

bài học lớn, trong đó, bài học đầu tiên là bài học về đường lối: nắm vững ngọn cờ
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là bài học xuyên suốt quá trình cách mạng
nước ta. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc..
Cương lĩnh còn khẳng định: “Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua
chế độ tư bản”. Ở đây, đảng ta khẳng định là “bỏ qua chế độ tư bản” – tức là bỏ qua
việc xác lập địa vị thống trị của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, của giai
cấp tư sản chứ những thành tựu, những mặt tích cực của giai đoạn phát triển tư bản
chủ nghĩa, ta tiếp thu có chọn lọc.
Đại hội XI tiếp tục khẳng định con đường mà Đảng ta nhất quán đi theo từ
khi ra đời cho đến nay: “Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội”[6] Bài học này được rút ra trên cơ sở tổng kết những bài học lịch sử trên thế
giới và Việt Nam; từ thực tiễn lãnh đạo cách mạng của Đảng; phù hợp với nguyện
vọng của nhân dân, với truyền thống của dân tộc và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa

Mác – Lênin.
Trong tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam, đường lối độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã trải qua các giai đoạn phát triển với nội dung,
hình thức, bước đi phù hợp với đặc điểm mỗi thời kì lịch sử:
* Giai đoạn 30-54:
Trong giai đoạn này, đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội thể hiện ở nội dung chủ yếu: muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước
tiên phải giành được độc lập dân tộc, cách mạng giải phóng dân tộc là thời kì dự bị
để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Cách mạng xã hội chủ nghĩa tuy là phương hướng tiến
lên nhưng lại có ảnh hưởng quyết định đến tính chất triệt để và tạo ra sức mạnh
hùng hậu của cách mạng giải phóng dân tộc. Ở giai đoạn này, độc lập dân tộc là
nhiệm vụ trực tiếp, chủ nghĩa xã hội là phương hướng, mục tiêu.
Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tạo tiền đề cho cách mạng xã hội chủ
nghĩa trên các mặt:
Thứ nhất, xác lập vị trí lãnh đạo của đảng.


6

Thứ hai, thiết lập chính quyền dân chủ nhân dân.
Thứ ba, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Thứ tư, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.
Còn cách mạng xã hội chủ nghĩa là phương hướng nên nó chi phối cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở các lĩnh vực sau:
Thứ nhất, quyết định phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, quyết định người lãnh đạo.
Thứ ba, quyết định nhiệm vụ, lực lượng cách mạng dân tộc dân chủ.
Thứ tư, quyết định phương pháp cách mạng dân tộc dân chủ.
Giữa 2 giai đoạn này không có bức tường thành ngăn cách, kết thúc cách
mạng dân tộc dân chủ là mở đầu cho cách mạng xã hội chủ nghĩa.

* Giai đoạn 54-75
Sau năm 1954, tình hình thế giới và trong nước rất phức tạp. Đất nước tạm
thời bị chia cắt làm hai miền. Cách mạng Việt Nam phải giải quyết vấn đề thống
nhất tổ quốc chưa từng có tiền lệ trong lịch sử. Lúc này, cả nước xuất hiện 3 xu
hướng chính: thứ nhất, tập trung giải phóng miền Nam, tập trung lực lượng chống
Mỹ; thứ hai, tập trung xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc; thứ ba, tiến hành
cách mạng xã hội ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.
Với tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, trung thành với lợi ích dân tộc,
Đảng ta đã lựa chọn xu hướng thứ 3, tức là tiến hành đồng thời 2 cuộc cách mạng ở
2 miền. Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là hậu phương, có vai trị quyết
định nhất đối với sự nghiệp cách mạng của cả nước. Cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân ở miền Nam là tiền tuyến, có vai trò quyết định trực tiếp đối với sự
nghiệp cách mạng của cả nước. Đây là đường lối độc lập, tự chủ, sáng tạo. Trên thế
giới, chưa từng có một nhà lý luận nào nói về điều này, thực tiễn trên thế giới cũng
chưa có nước nào làm.


7

Ở miền Bắc, chủ nghĩa xã hội khơng cịn là định hướng mà đã trở thành
hiện thực, trở thành mục tiêu trực tiếp. Vì cả nước ta, Nam cũng như Bắc, đều có
nhiệm vụ chống Mỹ, nên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc mang đặc điểm là chủ nghĩa
xã hội thời chiến. Vì thế, để xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng không chỉ vận dụng
qui luật của bản thân chủ nghĩa xã hội mà còn cả qui luật của chiến tranh cách
mạng. Động lực phát triển kinh tế ở miền Bắc không chỉ là sự kết hợp các lợi ích,
coi lợi ích của Tổ quốc là tối cao, mà cả lòng yêu nước nồng nàn của nhân dân.
“Mỗi người làm việc bằng hai” – lời kêu gọi đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh là lấy
lịng u nước làm một trong những động lực thúc đẩy sản xuất và chiến đấu. Để
xây dựng chủ nghĩa xã hội thời chiến, đảng nhất thiết phải quản lí nền kinh tế có kế
hoạch với chế độ tập trung cao độ và thực hiện chính sách bao cấp ở mức độ thích

hợp. Qua 21 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Bắc đã đạt được những thành
tựu lớn, thực hiện đầy đủ vai trò quyết định nhất trong cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước. Đại hội Đảng lần thứ IV năm 1976 đã đánh giá chính xác vai trị của
miền Bắc xã hội chủ nghĩa: “Khơng thể nào có thắng lợi của sự nghiệp kháng
chiến chống Mỹ cứu nước nếu không có miền Bắc xã hội chủ nghĩa”[7].
Miền Nam đã thể hiện đầy đủ nhất, xuất sắc nhất vai trò quyết định trực
tiếp đánh đuổi đế quốc Mỹ ra khỏi miền Nam, đồng thời góp phần bảo vệ miền Bắc
xã hội chủ nghĩa. Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh tập trung trí tuệ chỉ
đạo cách mạng miền Nam, từ xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang đến
xây dựng chế độ mới ở các vùng giải phóng, đặc biệt là xây dựng cơ sở đảng vững
mạnh. Đảng và nhà nước đã huy động lực lượng ở miền Bắc phục vụ miền Nam,
gửi vào đó hàng triệu thanh niên, hàng nghìn tấn vũ khí, đặc biệt nhiều binh đoàn
chủ lực. Do vậy, sức mạnh của miền Nam là sức mạnh của chế độ mới, sức mạnh
tại chỗ và sức mạnh của chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Dựa vào sức mạnh của cả
nước, đảng chủ trương kiềm chế và đánh thắng địch ở miền Nam, phát động nhiều
cuộc tiến công chiến lược, buộc địch phải xuống thang.


8

Như vậy, trung thành với con đường đã chọn, độc lập tự chủ trong hoạch
định đường lối, nắm vững đặc điểm tình hình nước ta, vận dụng sáng tạo lý luận
chủ nghĩa Mác – Lênin và những kinh nghiệm của các nước, tạo được sự đồng
thuận về tư tưởng, ý chí và hành động trong tồn đảng, tồn dân để đưa cách mạng
tiến lên.
* Giai đoạn 1975 đến nay:
Cả nước tiến hành 2 nhiệm vụ cách mạng: xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội và bảo vệ vững chắc tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Lý luận Mác – Lênin chỉ rõ: thời kì quá độ là một thời kì rất dài, bao gồm
nhiều thời kì nhỏ. Vấn đề khó khăn là phải xác định đúng và đề ra mục tiêu cho phù

hợp với mỗi thời kì cách mạng. Cũng như giai đoạn cách mạng trước đây, để kết
hợp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, cùng với việc xác định nhiệm vụ chiến
lược đúng đắn, đảng phải hoạch định nhiệm vụ chiến lược lâu dài thành mục tiêu
cụ thể, thích hợp với mỗi chặng đường.
Từ đại hội V nhất là từ đại hội VI trở đi, với đường lối đổi mới và mục tiêu
cụ thể được xác định đúng đắn, đảng và nhân dân ta đã giành được thắng lợi quan
trọng. Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kì khóa VII (1-1994) đánh giá thắng
lợi của sự nghiệp đổi mới: thành tựu to lớn có ý nghĩa hàng đầu là đã khắc phục
được một bước rất quan trọng tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội. Thành tựu
quan trọng thứ hai là đã tiếp tục giữ vững và củng cố sự ổn định chính trị. Thành
tựu thứ ba là quan hệ đối ngoại được mở rộng. Như vậy, nhiệm vụ của chặng
đường đầu đã hoàn thành về căn bản.
Dù còn nhiều mặt yếu kém, những thành tựu quan trọng đã đạt được cho
phép ta đưa đất nước chuyển dần sang thời kì mới: “thời kì đẩy tới một bước cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, trước hết là cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
nơng thơn. Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là con đường thốt khỏi nguy cơ tụt hậu
kinh tế so với các nước xung quanh, giữ được ổn định chính trị, xã hội, bảo vệ độc
lập, chủ quyền và định hướng phát triển xã hội.


9

Đảng cũng xác định rõ mục tiêu phấn đấu của thời kì này là trong khoảng 3
thập kỉ, nước ta sẽ tiến một bước quan trọng trên con đường xây dựng đất nước
thành một nước xã hội chủ nghĩa, dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng,
văn minh. Trong khi thực hiện nhiệm vụ chiến lược trọng tâm là xây dựng chủ
nghĩa xã hội, không được buông lỏng nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc. Mỗi bước thắng lợi
của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đều làm tăng thêm sức mạnh bảo vệ nền
độc lập dân tộc. Bảo vệ nền độc lập dân tộc lại tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây
dựng chủ nghĩa xã hội.

Trong giai đoạn cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc thể
hiện ở quyết tâm bảo vệ chủ quyền quốc gia; bảo vệ đảng, chế độ, nhân dân; xây
dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc. Chủ nghĩa xã hội thể hiện ở quyết tâm đẩy mạnh cơng nghiệp hóa - hiện
đại hóa, phấn đấu mục tiêu đến năm 2020 là nước công nghiệp; thực hiện mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh; phát triển nền kinh tế
thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo
vệ môi sinh; thực hiện thắng lợi Cương lĩnh xây dựng chủ nghĩa xã hội.Tất cả
quyết tâm và nhiệm vụ ấy nhằm mục đích tiến tới xây dựng một nước Việt nam
độc lập, thống nhất, dân chủ, giàu mạnh, xã hội chủ nghĩa.
3. Những nguy cơ, thách thức trong tiến trình Đảng lãnh đạo kết hợp
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn hiện nay
- Tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới
vẫn là nguy cơ thường trực và khó khắc phục
Tồn cầu hóa tạo ra những thách thức không nhỏ đối với những nước đang
xây dựng chủ nghĩa xã hội, như Việt Nam, Trung Quốc, Cu-ba, Lào. Vì tồn cầu
hóa hiện nay, về bản chất, là tồn cầu hóa do chủ nghĩa tư bản độc quyền chi phối,
hơn nữa lại diễn ra trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội hiện thực đang lâm vào thoái
trào, nên tác động tiêu cực của nó đến các nước phát triển theo con đường xã hội
chủ nghĩa lại càng rõ rệt. Về phương diện kinh tế, đây là cuộc cạnh tranh, đấu
tranh hết


10

sức cam go và phức tạp giữa các nước trong bối cảnh các thế lực tư bản độc quyền
gia tăng ảnh hưởng mạnh mẽ, chi phối tồn cầu hóa. Hai thách thức lớn nhất về
kinh tế là: Nguy cơ mất độc lập tự chủ về kinh tế và nguy cơ tụt hậu trong cuộc
cạnh tranh quốc tế đang diễn ra hết sức quyết liệt hiện nay.
Cho dù Việt Nam đã đạt được mức tăng trưởng kinh tế liên tục, ổn định trong

20 năm qua, bình quân 7%, nhưng thực tế vẫn cho thấy: Xét về số tuyệt đối thì
GDP của thế giới vẫn đã và đang ngày một doãng ra với tốc độ rất nhanh so với
GDP của Việt Nam. Nói cách khác, dù Việt Nam đã đi được nhiều bước, song đó
chỉ là những bước ngắn, nên vẫn tụt hâu so với nhiều quốc gia khác trên thế giới
dù bước chậm, nhưng họ lại đi được những bước dài. Và rõ ràng, đây là một thách
thức thực sự, là một vấn đề khó đối với Việt Nam hiện nay, rất cần có chiến lược
tổng thể, dài hạn để khắc phục.
- Nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa vẫn còn tiềm ẩn
Trong cơ chế thị trường, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần hiện nay,
ngoài phân phối theo lao động cịn phân phối theo vốn đóng góp, theo hiệu quả
kinh tế… nên dẫn tới thực tế là phân hóa xã hội ngày càng gia tăng, bất cơng xã
hội vẫn đang diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, gây căng thẳng, xung đột xã
hội và nhất là xuất hiện nguy cơ đẩy các quan hệ xã hội tới chỗ xa rời bản chất
công bằng, dân chủ, nhân đạo, nhân văn tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội. Các bất công
ấy cùng với những vấn đề xã hội, tiêu cực xã hội nhức nhối khác tiềm ẩn nguy cơ
làm chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa thể
hiện ở một số biểu hiện như sự giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và
hiệu lực quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, sự gia tăng của tình
trạng vi phạm quyền làm chủ của nhân dân; sự yếu kém của doanh nghiệp nhà
nước và kinh tế tập thể; gia tăng sự suy thối tư tưởng chính trị, đạo đức và lối
sống, sự băng hoại các giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc;...


11

- Âm mưu thực hiện “diễn biến hịa bình” của thế lực thù địch nhằm chống
phá nước ta với những biểu hiện mới, quyết liệt và tinh vi hơn trước
Thông thường, “diễn biến hịa bình” được coi là chiến lược của chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch, phản động quốc tế thực hiện phương thức, thủ đoạn
mới, phi quân sự để chống phá, đẩy lùi và đi đến xóa bỏ chủ nghĩa xã hội trên thế

giới.
Tuy nhiên, bản chất thật sự của “diễn biến hịa bình” hiện nay là hoạt động
của các thế lực đế quốc tư bản lớn và cường quyền nhằm vào các nước có chế độ
chính trị mà họ coi là khơng phù hợp với lợi ích của họ, bằng tổng hợp các biện
pháp chính trị, qn sự, kinh tế, văn hóa, xã hội, ngoại giao, an ninh… để chuyển
hóa chế độ chính trị của các nước này theo quỹ đạo có lợi cho họ. Hiện nay, “diễn
biến hịa bình” đã có những biểu hiện mới cả về chủ thể tiến hành, phương thức,
nội dung, mục tiêu… đã phát triển đến đỉnh cao, đến mức có thể coi là một “cơng
nghệ”, đó là “cơng nghệ lật đổ”, với rất nhiều kịch bản khác nhau. Đặc biệt là sự
phát triển của công nghệ số, các trang mạng, ứng dụng xã hội đã được các thế lực
thù địch ráo riết tận dụng triệt để trong thực hiện chiến lược “diễn biến hịa bình”
nhằm xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đây là nguy cơ khơng thể xem
thường, thực tế đó địi hỏi chúng ta cần phải có những biện pháp, cách thức, đối
phó và khắc chế cho phù hợp, khơng để rơi vào tình trạng bị động, bất ngờ.
- Nguy cơ từ tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, trong đó có tệ quan liêu, tham
nhũng, lãng phí ở bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn chưa được ngăn chặn triệt để
Thực tế qua quá trình phát triển thời gian qua cho thấy, đi liền với đa số đội
ngũ cán bộ là trung thành, đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Thì q
trình đó cũng cho thấy cịn một số cán bộ có bản lĩnh chính trị chưa thật sự vững
vàng, có biểu hiện dao động về lập trường, quan điểm; lười học tập, nâng cao nhận
thức về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đáng chú ý là gần đây có
một số cán bộ, đảng viên đã thực sự “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, địi “đa


12

nguyên”, “đa đảng”, sám hối, “chia tay ý thức hệ”, từ bỏ chủ nghĩa xã hội… Một số
cán bộ uy tín thấp, có biểu hiện sa sút về đạo đức, lối sống, thiếu gương mẫu, thiếu
tinh thần trách nhiệm, nói không đi đôi với làm, xa rời nguyên tắc tập trung dân

chủ, tự phê bình và phê bình; thậm chí chưa vì lợi ích quốc gia - dân tộc và nhân
dân trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ, đặt lợi ích cá nhân lên trên lợi ích tập
thể; đặc quyền, đặc lợi, quan liêu, xa dân; có quan hệ kinh tế với các doanh nghiệp
“sân sau”, sa vào “lợi ích nhóm”.
Tình trạng thối hóa, biến chất, tham nhũng của một bộ phận không nhỏ cán
bộ, đảng viên là vấn nạn nhức nhối hiện nay, xuất hiện với nhiều hình thức mới,
như tham nhũng chính sách, tham nhũng đất đai, tham nhũng trong công tác cán
bộ… Tham nhũng làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, gây bức
xúc dư luận, làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, gây
ra những nguy cơ tiềm ẩn, xung đột, làm mất ổn định kinh tế - chính trị - xã hội của
đất nước, gây phương hại to lớn tới sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam và làm xấu đi hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế. Do vậy, đấu tranh
ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng tham nhũng đang là một nhiệm vụ quan trọng và cấp
bách hiện nay, nhưng cũng là một nhiệm vụ rất khó khăn, gay go, đầy phức tạp.
Chính vì vậy, để khắc chế nguy cơ này, chúng ta cần tiếp tục đẩy mạnh công
tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phòng và chống, đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi có
hiệu quả những biểu hiện suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa”… Bởi lẽ, như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa
XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã chỉ rõ: Sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ là một bước
ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khơn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết
với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của
Đảng và dân tộc.
- Nguy cơ phai nhạt, đánh mất bản sắc văn hóa, xói mịn những giá trị
truyền thống của dân tộc trong bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế


13

Tồn cầu hóa hiện nay có những bước phát triển mới, cùng với cuộc Cách

mạng công nghiệp lần thứ tư đã thúc đẩy q trình hình thành xã hội thơng tin, nền
kinh tế số; đồng thời cũng đe dọa đến bản sắc văn hóa của các dân tộc trên thế giới,
trong đó có Việt Nam. Một số ít nước lớn đang lợi dụng q trình tồn cầu hóa để
tìm cách truyền bá các giá trị văn hóa, ngơn ngữ, tập quán, lối sống của mình ra
khắp thế giới, với sự hỗ trợ đắc lực của các công cụ, phương tiện truyền thông đa
nền tảng, thực hiện mưu đồ “bá quyền văn hóa” của mình, làm phai nhạt các giá
trị truyền thống dân tộc. Nhiều phản giá trị, phản văn hóa, tư tưởng độc hại dễ dàng
xâm nhập, làm biến dạng các giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống. Đây là một
nguy cơ đang hiển hiện và ngày một gia tăng đối với Việt Nam, nhất là những tác
động tiêu cực của nó tới tầng lớp thanh niên và sẽ gây ra hệ hụy hết sức nguy hiểm,
khó lường. Bởi lẽ, giá trị truyền thống cơ bản của dân tộc Việt Nam đóng vai trị
quan trọng đối với việc xây dựng và phát triển nhân cách con người Việt Nam
trong bối cảnh tồn cầu hóa hiện nay. Bối cảnh mới hiện nay đặt ra yêu cầu phải
kết hợp giữa bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, các giá trị truyền thống với
việc tiếp thu có chọn lọc những giá trị tinh hoa văn hóa của nhân loại, kết hợp hài
hòa giữa truyền thống và hiện đại trong xây dựng nhân cách con người Việt Nam,
đáp ứng những đòi hỏi của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Nguy cơ phân liệt, xuyên tạc, hạ thấp ý nghĩa Chủ nghĩa Quốc tế trong
sáng của giai cấp công nhân, cùng với những biểu hiện dân tộc cực đoan gia tăng
Có thể thấy, những bước phát triển và thành quả của cách mạng thế giới từ
trước đến nay đều không tách rời sự thống nhất giữa chủ nghĩa yêu nước chân
chính với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, thống nhất với việc giải quyết
đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và quốc tế. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh
rằng, bất cứ khi nào mắc phải những lệch lạc và sai lầm trong giải quyết mối quan
hệ này thì khi đó phong trào cách mạng của mỗi nước cũng như của thế giới đều
vấp phải khó khăn, thậm chí là thất bại với những tổn thất hết sức nặng nề.


14


- Bối cảnh hiện nay đang đặt ra thách thức rất lớn đối với sự bảo đảm vững
chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ vững hịa
bình, ổn định để phát triển
Đây thực sự là một thách thức rất lớn đối với Việt Nam, trong bối cảnh kinh
tế - chính trị thế giới phát triển nhanh chóng, khó lường như hiện nay. Nguyên tắc
“bất biến” là độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, là mục
tiêu xây dựng một nước Việt Nam “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn
minh”, cịn cách thức bảo đảm những ngun tắc bất di, bất dịch ấy thì có thể ứng
biến tùy thuộc từng giai đoạn phát triển. Thêm vào đó, quá trình hội nhập quốc tế
hiện nay là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh, vậy cho nên cán bộ, đảng viên,
nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp chiến lược cần nắm vững phương
châm: Hòa nhập nhưng khơng hịa tan, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ lợi
ích quốc gia
- dân tộc trong môi trường làm việc quốc tế, cảnh giác với những âm mưu thông
qua hội nhập để thực hiện “diễn biến hịa bình” đối với Việt Nam.
Những thời cơ và thách thức, cơ hội và nguy cơ này luôn xuất hiện đan xen
nhau và việc nhận diện chúng đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc xây dựng
những quyết sách, chính sách, chiến lược phù hợp với điều kiện lịch sử - cụ thể của
Việt Nam hiện nay, do đó, cần tận dụng được những thời cơ, khắc chế nguy cơ
nhằm phát triển đất nước nhanh, bền vững, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa
trong hội nhập và phát triển, hướng tới mục tiêu cao cả là xây dựng một nước Việt
Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh
PHẦN 3: KẾT LUẬN
Mặc dù tình hình thế giới và trong nước hiện nay có nhiều thay đổi, nhưng
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội vẫn là một sự lựa chọn đúng đắn của
cách mạng Việt Nam. Trong quá trình đổi mới phải nắm vững mục tiêu độc lập dân
tộc – chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một chân lý
lớn của thời đại. Chân lý ấy được Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp thu và phát triển
sáng tạo trong từng giai đoạn lịch sử, phù hợp với nhiệm vụ cách mạng Việt Nam.



15

Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là nguồn gốc của mọi thắng lợi có ý
nghĩa lịch sử và thời đại của cách mạng Việt Nam, đó là ánh sáng chỉ đường cho
dân tộc ta giành mọi thắng lợi trong giai đoạn cách mạng hiện nay.


16

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Ðại hội XIII của Ðảng, tập I,
tr.103-104
2. Hồ Chí Minh (2009), Tồn tập: Tập 9, Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 314.
3. Hồ Chí Minh (2009), Tồn tập: Tập 10, Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.
128.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng toàn tập: Tập 2, Chính
trị
Quốc gia, Hà Nội, tr.2.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng toàn tập: Tập 12, Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, tr.83.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, tr.8.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (1977), Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành
trung ương Đảng tại Đại Hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Sự thật, Hà Nội, tr. 28.
8. Giáo trình Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam, Học viện chính trị quốc gia
Hồ
Chí Minh, NXb Lý luận chính trị, HN, năm 2018




×