Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Vận dụng lý luận về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, hãy phân tích tính tất yếu của quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (364.28 KB, 12 trang )

lOMoARcPSD|11558541

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
-------***-------

BÀI TẬP LỚN
MÔN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
ĐỀ BÀI: Vâ ̣n dụng lý luâ ̣n về mối quan hê ̣ biê ̣n chứng giữa lực lượng
sản xuất và quan hê ̣ sản xuất, hãy phân tích tính tất yếu của quá trình xây
dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở Viê ̣t Nam
trong thời kỳ quá đô ̣ lên Chủ nghĩa xã hơ ̣i.
Họ và tên: NGƠ THU THẢO
Lớp tín chỉ: Triết học Mác – Lênin (121) _ 15
Mã sinh viên: 11217312

GVHD: TS. NGUYỄN VĂN HẬU
HÀ NỘI, NĂM 2021

1


lOMoARcPSD|11558541

MỤC LỤC
A, ĐẶT VẤN ĐỀ................................................................................................................3
B, NỘI DUNG....................................................................................................................4
I, CƠ SỞ LÝ THUYẾT: Lý luận về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất................................................................................................4
1, Phương thức sản xuất..............................................................................................4
2, Lực lượng sản xuất..................................................................................................4
3, Quan hệ sản xuất.....................................................................................................5


4, Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.............6
II, VẬN DỤNG THỰC TIỄN: Phân tích tính tất yếu của quá trình xây dựng và
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở Viêṭ Nam trong thời kỳ quá
đô ̣ lên Chủ nghĩa xã hô ̣i..................................................................................................7
1, Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp nhiều hạn chế:..............................7
2, Xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong thời kì
quá độ lên Chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan.................................................8
3, Thành tựu và hạn chế, thách thức của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
.....................................................................................................................................11
C, KẾT LUẬN..................................................................................................................12
D, TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................................12

2


lOMoARcPSD|11558541

A, ĐẶT VẤN ĐỀ
Bài học của nước Nga
Ngược dòng thời gian trở về năm 1917, sau khi cách mạng tháng Mười Nga thắng lợi
vẻ vang, V.I.Lênin và đảng Bôn-sê-vích đã quyết định thực hiện “chính sách cộng sản
thời chiến” để tiến nhanh lên chủ nghĩa cộng sản. Mặc dù nước Nga đã trải qua giai đoạn
phát triển trung bình của chủ nghĩa tư bản nhưng cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội mùa
xuân năm 1921 đã cho thấy đây là một chính sách sai lầm. Chính V.I.Lênin đã thừa nhận:
“Chúng ta chưa tính tốn đầy đủ mà đã tưởng là có thể trực tiếp dùng pháp lệnh của nhà
nước vô sản để tổ chức theo kiểu cộng sản chủ nghĩa trong một nước tiểu nông, nhà nước
sản xuất và phân phối sản phẩm”. Vấn đề của nước Nga lúc bấy giờ đã củng cố tầm quan
trọng của quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất: muốn thay đổi quan hệ sản xuất, phải bắt đầu từ sự thay đổi trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất chứ không thể đốt cháy giai đoạn chỉ với một pháp lệnh. Và

chính sách kinh tế mới (NEP – 2/1921) là sự sửa sai kịp thời, phù hợp với thực tiễn của
nước Nga.
Qua tấm gương của lịch sử trên ta có thể thấy một trong những nguyên nhân tan rã của
hệ thống Xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu là do xây dựng mô hình Chủ nghĩa xã
hội không có sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Do đó, việc nghiên
cứu mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất – hai mặt không
thể tách rời của phương thức sản xuất là hết sức cần thiết để đổi mới đất nước một cách
toàn diện và bền vững; đặc biệt trong thời kỳ hiện nay, Chủ nghĩa xã hội có nhiều thay
đổi và biến động.
Ở Việt Nam, giai đoạn đầu xây dựng đất nước tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua
chủ nghĩa tư bản, chính sách của Đảng và Nhà nước đã có những hạn chế. Tuy nhiên,
Đảng ta đã nhận thức được điều đó và nhanh chóng đổi mới bằng quyết định xây dựng
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và sau hơn 35 năm, chúng ta đã có những kết
quả đáng tự hào.
Từ những lý do trên em quyết định chọn đề tài " Vận dụng lý luận về mối quan hệ
biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất để phân tích tính tất yếu
của quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở Việt
Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội" Vì đây là một vấn đề phức tạp và vớn
hiểu biết của em cịn nơng cạn và ít ỏi nên bài tiểu luận của em khó tránh khỏi những sai
sót và khuyết điểm cần phải sửa đổi và bổ sung. Em rất mong và trân trọng mọi ý kiến
đóng góp của thầy để từ đó em có thể củng cố được kiến thức của mình. Em xin chân
thành cảm ơn thầy!
3


lOMoARcPSD|11558541

B, NỘI DUNG
I, CƠ SỞ LÝ THUYẾT: Lý luận về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất.

1, Phương thức sản xuất
Theo Chủ nghĩa Mác-Lênin từ trước đến nay, loài người đã trải qua 5 hình thái kinh tế
xã hội, đó là: hình thái công xã nguyên thuỷ, hình thái chiếm hữu nô lệ, hình thái phong
kiến, hình thái tư bản chủ nghĩa và hình thái xã hội chủ nghĩa. Mỗi hình thái kinh tế xã
hội được quy định bởi một phương thức sản xuất nhất định. Chính những phương thức
sản xuất vật chất này là yếu tố quyết định sự phát triển hình thái kinh tế xã hội.
Về khái niệm, phương thức sản xuất là cách thức con người tiến hành quá trình sản
xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người.
Về cấu trúc, bất kì phương thức sản xuất nào cũng đều có sự phù hợp giữa lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất luôn song song tồn
tại và tác động lẫn nhau để hình thành một phương thức sản xuất. Đây là hai yếu tố quan
trọng quyết định tính chất, kết cấu của xã hội.
2, Lực lượng sản xuất
Về khái niệm, lực lượng sản xuất là một hệ thống gồm các yếu tố (người lao động và
tư liệu sản xuất) cùng mối quan hệ (phương thức kết hợp), tạo ra thuộc tính đặc biệt (sức
sản xuất) để cải biến giới tự nhiên, sáng tạo ra của cải vật chất theo mục đích của con
người.
Về cấu trúc, lực lượng sản xuất gồm hai bộ phận là người lao động (xét theo mặt kinh
tế - xã hội) và tư liệu sản xuất (xét theo mặt kinh tế - kỹ thuật).
Người lao động là con người dùng tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng lao động và năng lực
sáng tạo; sử dụng tư liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất. Hiện nay, lao động cơ bắp
đang có xu hướng giảm trong khi lao động có trí tuệ và lao động trí tuệ ngày càng tăng
lên.
Tư liệu sản xuất là điều kiện vật chất cần thiết để tổ chức sản xuất. Tư liệu sản xuất
gồm:
+ Tư liệu lao động là yếu tố vật chất của sản xuất mà con người dựa vào để tác động lên
đối tượng lao động.
 Phương tiện lao động : yếu tố vật chất của sản xuất được con người sử dụng gián tiếp
để tác động lên đối tượng lao động
 Công cụ lao động : phương tiện vật chất mà con người trực tiếp sử dụng để tác động

vào đối tượng lao động; mang yếu tố “trung gian”, “truyền dẫn” giữa người lao động và

4


lOMoARcPSD|11558541

đối tượng lao động. Công cụ lao động quyết định năng suất lao động, là yếu tố “động
nhất”, “cách mạng nhất” trong lực lượng sản xuất.
+ Đối tượng lao động là yếu tố bị lao động con người tác động lên bằng tư liệu lao động,
biến đổi phù hợp với mục đích sử dụng của con người
Về đặc điểm, đặc trưng của lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa công cụ lao động
và người lao động. Trong đó, người lao động là nhân tố hàng đầu, giữ vai trị qút định;
cơng cụ lao động là ́u tớ cơ bản, quan trọng, không thể thiếu được.
Về sự phát triển, lực lượng sản xuất phát triển thể hiện ở hai phương diện không tách
rời nhau là tính chất và trình độ:
+ Tính chất của lực lượng sản xuất nói lên tính chất cá nhân hoặc tính chất xã hội hoá
trong việc sử dụng tư liệu sản xuất.
+ Trình độ của lực lượng sản xuất là sự phát triển của người lao động và công cụ lao
động.
Hiện nay, trong thời đại diễn ra cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, khoa học đã
trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, trở thành mắt khâu quan trọng trong quá trình sản
xuất. Người lao động và công cụ lao động được trí tuệ hóa, nền kinh tế ở những quốc gia
phát triển trở thành nền kinh tế tri thức.
3, Quan hệ sản xuất
Về khái niệm, quan hệ sản xuất là tổng hợp các quan hệ kinh tế - vật chất giữa người
với người trong quá trình sản xuất vật chất. Đây là quan hệ đầu tiên, cơ bản, chủ yếu,
được hình thành khách quan, quyết định mọi quan hệ xã hội.
Về phân loại, có ba quan hệ sản xuất có mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại, chi
phối, ảnh hưởng lẫn nhau

- Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất.
+ Là quan hệ giữa các tập đoàn người trong việc chiếm hữu , sử dụng các tư liệu sản
xuất xã hội.
+ Quy định địa vị kinh tế - xã hội của các tập đoàn người.
+ Quan hệ xuất phát, cơ bản, trung tâm, quyết định các quan hệ khác.
- Quan hệ trong tổ chức quản lý và trao đổi hoạt động với nhau.
+ Là quan hệ giữa các tập đoàn người trong tổ chức sản xuất và phân công lao động
+ Quyết định trực tiếp quy mô, tốc độ, hiệu quả của nền sản xuất; đẩy nhanh hoặc kìm
hãm sự phát triển của nền sản xuất.
+ Đóng vai trò quan trọng trong nâng cao hiệu quả quá trình sản xuất
5


lOMoARcPSD|11558541

- Quan hệ về phân phối sản phẩm lao động.
+ Là quan hệ giữa các tập đoàn người trong việc phân phối sản phẩm lao động xã hội
+ Thúc đẩy tốc độ, nhịp điệu sản xuất, làm năng động hóa toàn bộ đời sống kinh tế xã hội
(hoặc làm trì trệ, kìm hãm quá trình sản xuất.
4, Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Phương thức sản xuất vận động và phát triển do sự biến đổi của lực lượng sản xuất.
Cụ thể, trong quá trình sản xuất, để công việc bớt nặng nhọc và năng suất được nâng cao,
con người luôn tìm cách cải tiến công cụ lao động trở nên tinh xảo, thuận tiện hơn. Bên
cạnh đó, con người cũng cải thiện kĩ năng sản xuất thuần thục hơn, kinh nghiệm sản xuất
ngày một dày dặn, kiến thức khoa học được tích lũy. Do đó, lực lượng sản xuất là yếu tố
có tính năng động, cách mạng. Ngược lại, quan hệ sản xuất là yếu tố có tính ổn định
tương đối. Trong tác phẩm “Sự khốn cùng của Triết học”, Mác viết: “Do có được những
lực lượng sản xuất mới, lồi người thay đổi phương thức của mình, do thay đổi phương
thức sản xuất, cách kiếm sống của mình, lồi người thay đổi tất cả những quan hệ xã hội
của mình”

* Những tác động của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản
xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là đòi hỏi khách quan của nền
sản xuất vì:
+ Lực lượng sản xuất vận động, phát triển không ngừng sẽ mâu thuẫn với tinh “đứng
im” tương đối của quan hệ sản xuất.
+ Quan hệ sản xuất tư chỗ là “hình thức phù hợp”, “tạo địa bàn” phát triển của lực
lượng sản xuất trơ thành “xiềng xich” kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Đòi hỏi tất yếu của nền sản xuất xã hội là phải xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập
quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất đã phát triển.
* Những tác động của quan hệ sản xuất tới lực lượng sản xuất
Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của quá trình sản xuất có tính độc lập tương
đối nên tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực lượng sản xuất:
+ Quan hệ sản xuất là “hình thức phát triển” của lực lượng sản xuất, “tạo địa bàn đầy
đủ” cho lực lượng sản xuất phát triển.
+ Nếu quan hệ sản xuất “đi sau” hay “vượt trước” trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất đều là không phù hợp:
 Khi quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất thì nền sản xuất phát triển
đúng hướng, quy mô được mở rộng; khoa học công nghệ được áp dụng nhanh
chóng; người lao động nhiệt tình hăng hái sản xuất, lợi ích của người lao động được đảm
bảo và thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.

6


lOMoARcPSD|11558541

 Nếu quan hệ sản xuất không phù hợp thì sẽ kìm hãm, thậm chi phá hoại lực lượng sản
xuất. Tuy nhiên, sự kìm hãm đó chỉ diễn ra trong nhưng giới hạn, với nhưng điều kiện
nhất định.

II, VẬN DỤNG THỰC TIỄN: Phân tích tính tất yếu của quá trình xây dựng và phát triển
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở Viêṭ Nam trong thời kỳ quá đô ̣ lên Chủ nghĩa xã
hô ̣i.
1, Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp nhiều hạn chế:
a, Bối cảnh
Từ năm 1954, miền Bắc nước ta bắt đầu thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sau
30/4/1975 khi đất nước thống nhất, cả nước cùng tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ
đó cho đến trước thời kỳ đổi mới năm 1986, nhà nước thực hiện cơ chế quản lý kinh tế
kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp. Bên cạnh thành quả là huy động được sức
người, sức của phục vụ cho kháng chiến và kiến quốc thì việc duy trì cơ chế này trong
một thời gian dài đã để lại những hậu quả nghiêm trọng.
b, Những hạn chế của nền kinh tế tập trung bao cấp:
Khi nhận thức và vận dụng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng
sản xuất, chúng ta vừa chủ quan, nóng vội, duy ý chí; vừa bảo thủ, trì trệ. Mặc dù điều
kiện thực tiễn chưa đủ chín muồi khi nước ta vẫn còn là một đất nước nghèo nàn, lạc hậu,
kinh tế kém phát triển nhưng lại muốn tạo ra một quan hệ sản xuất tiên tiến đi trước để
mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.
Những điểm hạn chế của cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao
cấp:
- Không thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần; các thành phần kinh tế phi xã hội chủ
nghĩa trong khi đây là nền kinh tế phù hợp nhất của thời kỳ quá độ. Mạnh mẽ loại bỏ chế
độ sở hữu tư nhân đang tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển; nóng vội biến
kinh tế tư bản tư nhân thành quốc doanh.
- Duy trì nền kinh tế bao cấp trong thời gian dài khiến sự cạnh tranh kinh tế bị thủ tiêu,
người lao động mất động lực kinh tế, cuộc sống ngày càng khó khăn. Coi cơ chế thị
trường chỉ là thứ yếu bổ sung cho kế hoạch hoá; kìm hãm tiến bộ khoa học, công nghệ.
- Chỉ quan tâm một chiều cải tạo quan hệ sản xuất mà không chú trọng phát triển
lực lượng sản xuất khiến quan hệ sản xuất vượt trước xa trình độ của lực lượng sản
xuất, gây ra mâu thuẫn gay gắt.
- Trong xác lập quan hệ sản xuất, chỉ chú trọng sở hữu mà coi nhẹ quản lí và phân

phối; tuyệt đối hố vai trị của cơng hữu, làm cho quan hệ sản xuất chỉ còn tồn tại
giản đơn dưới hai hình thức toàn dân và tập thể
c, Hậu quả :
7


lOMoARcPSD|11558541

Đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội những năm đầu thập niên 80: lực lượng
sản xuất kém phát triển, tình trạng trì trệ kéo dài, sản xuất đình đốn, đời sống người dân
gặp nhiều khó khăn.
d, Kết luận:
Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung không còn phù hợp với thực tại khách quan của đất
nước, đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải tiến hành đổi mới, xây dựng và phát triển một nền
kinh tế mới, vừa phù hợp với điều kiện sẵn có của đất nước; đi theo nguyện vọng của
nhân dân mà vẫn giữ vững mục tiêu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
2, Xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong thời kì quá độ lên
Chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan.
a, Khái quát về nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
Về bối cảnh, từ Đại hội Đảng lần thứ VI, bắt đầu công cuộc đổi mới, Đảng ta đã quyết
định phát triển nền kinh tế hàng hóa gồm nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa xã hội, với
nhiều chế độ sở hữu. Đây là dấu mốc quan trọng trong quá trình đổi mới tư duy lý luận
của Đảng về con đường và phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, thể hiện sự
nhận thức đúng đắn và vận dụng sáng tạo quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; đồng thời, đã đặt cơ sở, nền tảng quan
trọng để các nhân tố mới ra đời, tạo tiền đề để từng bước phát triển nền kinh tế của đất
nước. Qua quá trình vận dụng lý luận và dựa trên thực tiễn đất nước, tại Hội nghị Trung
ương 6 khóa VI (3-1989), Đảng ta đã khẳng định: “Thực hiện nhất quán chính sách cơ
cấu kinh tế nhiều thành phần, coi đây là chính sách có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính
quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội; trong đó mọi người được tự do làm ăn

theo pháp luật; các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế vừa hợp tác
với nhau, bổ sung cho nhau, vừa cạnh tranh với nhau trên cơ sở bình đẳng trước pháp
luật”.
Về khái niệm, thành phần kinh tế là khu vực kinh tế, kiểu quan hệ kinh tế đặc trưng
bởi các hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất. Do đó, thành phần kinh tế tồn tại ở
những hình thức tổ chức kinh tế nhất định, căn cứ vào quan hệ sản xuất để xác định từng
thành phần kinh tế cụ thể. Ở nước ta, nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần là nền
kinh tế cấu thành bởi nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế
cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư
nước ngồi.
+ Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu toàn dân về tư liệu sản
xuất. Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, các quỹ dự trữ quốc gia các
quỹ bảo hiểm nhà nước và các tài sản thuộc sở hữu nhà nước có thể kinh doanh.
+ Kinh tế tập thể là thành phầ kinh tế bao gồm những cơ sở kinh tế do người lao động tự
góp vốn, cùng kinh doanh, tự quản lý theo nguyên tắc tập trung, bình đẳng cùng có lợi.
8


lOMoARcPSD|11558541

Kinh tế tập thể có nhiều hình thức hợp tác đa dạng dựa trên sở hữu của các thành viên và
sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi người lao động, hộ sản xuất mà không giới hạn quy mô
và địa bàn.
+ Kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất. Thành phần kinh tế tư nhân bao gồm kinh tế cá thể, kinh tế tiểu chủ và kinh tế tư
bản tư nhân.
+ Kinh tế tư bản nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở hữu hỗn hợp về
vốn giữa kinh tế nhà nước với tư bản tư nhân trong nước hoặc tư bản nước ngoài, thông
qua hình thức hợp tác như hợp đồng hợp tác kinh doanh, liên doanh…
+ Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở hữu vốn

của nước ngoài.
Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, các thành phần kinh tế khác là bộ phận
hợp thành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế tư nhân là một
bộ phần quan trọng của nền kinh tế. Bên cạnh đó, trước đổi mới, nền kinh tế nước ta chỉ
có một chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất là chế độ công hữu (gồm sở hữu toàn dân và sở
hữu tập thể). Khi tiến hành đổi mới đất nước, có thêm hình thức sở hữu mới về tư liệu sản
xuất đó là tư hữu (sở hữu tư nhân).
b, Tính tất yếu khách quan của phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phù hợp với điều kiện xu hướng phát
triển khách quan của Việt Nam.
Thứ nhất, sau khi cách mạng dân tộc dân chủ thành công, trong thời kì quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, đất nước thừa kế những di sản của nền sản xuất cũ, trong đó có những thành
phần kinh tế vẫn có lợi cho sự phát triển của đất nước như kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế
tư bản tư nhân. Bên cạnh đó, cần phải xây dựng những thành phần kinh tế mới theo yêu
cầu của Chủ nghĩa xã hội như kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế chủ nghĩa tư bản
nhà nước. Để cân bằng hai yêu cầu này, cần có một nền kinh tế đóng vai trò ”chuyển
giao” ở thời kì quá độ nên sự tồn tại của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần là một tất
yếu khách quan.
Thứ hai, từ kinh nghiệm thực tiễn về nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao
cấp, nhận thấy điều kiện nước ta khi bước vào thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội còn
nhiều hạn chế: trình độ của lực lượng sản xuất thấp kép, phát triển giữa các vùng, các
ngành không đồng đều. Do đó, phải có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế
khác nhau để đáp ứng, không thể sử dụng một mẫu số chung cho tất cả các thành phần,
các ngành, các vùng.

9


lOMoARcPSD|11558541


Như vậy, ở Việt Nam, những điều kiện để xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần đang tồn tại khách quan nên việc xây dựng và phát triển nền kinh tế này
cũng là tất yếu khách quan. Phát triển theo mô hình kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
nhằm giúp sản xuất phát triển liên tục không gián đoạn và tạo ra sự cạnh tranh giữa các
thành phần kinh tế trong cơ chế thị trường sau này.
Tính ưu việt của kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong thúc đẩy sự phát triển đối
với Việt Nam
Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần đã khắc phục được những điểm tồn đọng, hạn
chế của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp, cho thấy tính ưu việt khi áp
dụng vào thời kì quá độ, phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam.
Thứ nhất, nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần tạo động lực giải phóng sức sản xuất,
sản xuất hàng hóa phát triển cả về số lượng và chất lượng. Từ đó, đặt nền móng xây dựng
cơ chế thị trường dưới sự quản lý của nhà nước.
Thứ hai, nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần đã tận dụng và khai thác tối đa sức
mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế, đặc biệt là vốn, công nghệ kĩ thuật của thành
phần kinh tế tư nhân và sự quản lí thống nhất, hiệu quả của thành phần kinh tế nhà nước
giúp cho kinh tế Việt Nam có những bước phát triển vượt bậc.
Thứ ba, thúc đẩy hình thức kinh tế quá độ, đưa nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn
xã hội chủ nghĩa, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, chỉ coi hình thức kinh tế tư bản chủ
nghĩa là “trạm trung gian”, “cầu nối”, tránh khỏi sự bảo thủ trì trệ nhưng không làm thay
đổi mục tiêu hướng đến chủ nghĩa xã hội.
Thứ tư, khắc phục được tình trạng độc quyền, thúc đẩy sự cạnh tranh – một động lực để
cải tiến kĩ thuật và phát triển lực lượng sản xuất.
Như vậy, dưới tác động của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, nền kinh tế nước ta
trở nên đa dạng, sôi động hơn; những tiến bộ khoa học – kĩ thuật – công nghệ được nâng
cao, năng suất lao động được cải thiện, chất lượng sản phẩm được đảm bảo trong khi giá
cả ngày càng cạnh tranh; không hề mâu thuẫn với mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Kinh tế hàng hóa nhiều thành phần đem lại nhiều kết quả phù hợp với nguyện vọng,
mong muốn dân giàu, nước mạnh, công bằng, văn minh của người dân Việt Nam.
Cơ cấu kinh tế hàng hóa nhiều thành phần thể hiện tinh thần dân chủ khi đảm bảo mọi

người dân được tự do làm ăn theo pháp luật. Ngoài ra, nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần cũng tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển, đưa tiến bộ khoa học – kĩ thuật vào đời sống, mở rộng giao lưu trong nước và quốc
tế. Từ đó khuyết khích nâng cao tay nghề, sự năng động, đổi mới sáng tạo trong lao động;
... phù hợp với khát vọng và mong muốn của người dân Việt Nam
10


lOMoARcPSD|11558541

3, Thành tựu và hạn chế, thách thức của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
a, Những thành tựu đạt được:
Sau hơn 35 năm, nền kinh tế Việt Nam đã có những sự phát triển đáng kể, đời sống nhân
dân ngày cảng được cải thiện. Nền kinh tế Việt Nam lọt top 40 trong những nền kinh tế
hàng đầu thế giới và đứng thứ 4 trong khối ASEAN. GDP bình quân đầu người 2020 đạt
3500 đô la Mỹ/ năm, đưa Việt Nam trở thành một trong 10 quốc gia có tốc độ phát triển
nhanh nhất thế giới và là một trong 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất thế giới hiện
nay. Dù bị tác động bởi đại dịch Covid, nhưng Việt Nam là một trong số ít những nước có
GDP tăng trưởng dương trong năm 2020 (Theo Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, tăng
trưởng GDP 2020 đạt 2,9%)
b, Những hạn chế và thách thức:
Thứ nhất, quá trình đổi mới nhận thức về kinh tế hàng hóa nhiều thành phần diễn ra
chậm, nhất là nhận thức về bản chất và nguyên tắc vận hành của nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, nên đã tạo ra sự thiếu đồng bộ, thiếu nhất quán trong quá trình hoàn
thiện thể chế kinh tế; do vậy những tiềm lực để phát triển kinh tế cịn hạn chế. Mới quan
hệ giữa Nhà nước và các thành phần kinh tế tư nhân cần phải cải thiện rõ ràng.
Thứ hai, tăng trưởng kinh tế còn chậm, chưa bền vững, lực lượng sản xuất số lượng
lớn nhưng chất lượng chưa cao, năng suất lao động thấp dẫn đến thiếu việc làm, khả năng
cạnh tranh q́c tế chưa cao địi hỏi chăm lo đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng
nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế

Thứ ba, việc phân bổ các nguồn lực lượng cho phát triển chưa đồng đều, đem lại hiệu
quả chưa cao; vấn đề phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng xã hội. Do nền kinh tế Nhà
nước và kinh tế tập thể giữ vai trò quan trọng nhất nên dễ dàng xảy ra các hiện tượng tiêu
cực như đặc quyền đặc lợi, ban phát, chạy chọt, tham nhũng. Bên cạnh đó, tệ nạn xã hội
có chiều hướng gia tăng; đời sống vật chất và tinh thần của một bộ phân dân cư chậm
được cải thiện. Yếu tố vật chất được đề cao, yếu tố tinh thần, đạo đức có lúc, có nơi bị
xem nhẹ. Do vậy, đã xuất hiện những biểu hiện của chủ nghĩa vị kỷ, cá nhân, xem thường
khinh bỉ truyền thống đạo lý, tác động xấu tới đời sống xã hội.
Thứ tư, nền kinh tế định hướng theo đuổi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”; huy động sức mạnh của mọi thành phần kinh tế cũng như của toàn
xã hội cho tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, việc thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế
không phải bằng mọi giá, nóng vội mà phải được tính toán cho phù hợp với điều kiện đất
nước theo hướng phát triển bền vững; gắn mục tiêu tăng trưởng kinh tế với bảo đảm độc
lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, bảo vệ môi trường; tiến bộ, công bằng xã hội, công bằng
từ những kết quả lao động và cống hiến xã hội của mình và “không một ai bị bỏ lại phía
sau”

11


lOMoARcPSD|11558541

C, KẾT LUẬN
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đem
lại ý nghĩa to lớn về phương pháp luận, giúp cho các nhà hoạt động thực tiễn hiểu rằng:
Muốn phát triển phương thức sản xuất, phải bắt đầu từ lực lượng sản xuất, trong đó chú
trọng đầu tư nâng cao năng lực cho lực lượng lao động và cải tiến không ngừng công cụ
lao động. Muốn xóa bỏ một quan hệ sản xuất cũ, thiết lập một quan hệ sản xuất mới phải
căn cứ vào tính chất trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Từ nhận thức đó để thấy
khi ban hành các chính sách, chủ trương cần căn cứ vào các yêu cầu khách quan của các

quy luật kinh tế, không thể nóng vội, chủ quan, duy ý chí. Để thực hiện thành công sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, tất yếu phải chuyển đổi nền kinh tế tập
trung bao cấp bảo thủ sang nền kinh tế hang hóa nhiều thành phần.
Nhận thức đúng đắn quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất cho ta cơ sở khoa học và cách mạng để thấm nhuần, nhận
thức và thực hiện đúng đắn quan điểm, đường lối, chính sách do Đảng cộng sản Việt Nam
đề ra. Qua đó cho ta niềm tin vào sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam do Đảng cộng
sản Việt Nam lãnh đạo và tổ chức thực hiện. Qua đây cũng cho ta một thế giới quan,
phương pháp luận đúng đắn để nhận thức và thực hiện thắng lợi đường lối lãnh đạo của
Đảng cộng sản Việt Nam, đấu tranh với những quan điển tư tưởng sai trái, phản động
khác.

D, TÀI LIỆU THAM KHẢO
1, Giáo trình Triết học Mác Lênin, GS.TS Phạm Văn Đức (chủ biên), BGDĐT, 2019
2, Bài viết “Về mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện
từng bước quan hệ sản xuất trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam”, trang thông tin điện tử
Hội đồng Lý luận trung ương– TS. Nguyễn Văn Hùng.
3, Bài viết “Thành phần kinh tế, tính tất yếu khách quan và vai trò của nền kinh tế nhiều
thành phần”, 123docz.net (đính kèm link)

12

Downloaded by quang tran ()



×