TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÔN ĐỨC THẮNG
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------------
R
BÁO CÁO CUỐI KỲ
HỌC KỲ
MÔN: Đường lối cách mạng của
Đảng Cộng sản Việt Nam
Đề tài : Phân tích chủ trương đấu tranh của Đảng từ năm
1930 đến năm 1945. Ý nghĩa của chủ trương.
Nhóm 29
Giảng viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Mộng Tuyền
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 8 năm 2021
Danh sách nhóm 10
Mơn: Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
Ca 3 Thứ 3
STT
MSSV
Họ và tên
1
01800142
Phạm Như Tuyết
2
31801154
01800770
Cao Võ Phương Uyên
01800613
01801048
Đoàn Huỳnh Vi
01801048
Trần Quang Vinh
3
4
5
6
Diệp Phối Vân
Lê Nhật Vinh
Ghi chú
LỜI CAM ĐOAN
Chúng em xin cam đoan Báo cáo cuối kỳ do nhóm 10 nghiên cứu và thực hiê ̣n.
Chúng em đã kiểm tra dữ liệu theo quy định hiện hành.
Kết quả Báo cáo cuối kỳ là trung thực và khơng sao chép từ bất kỳ báo cáo của nhóm
khác.
Các tài liê ̣u được sử dụng trong Báo cáo cuối kỳ có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.
(Ký và ghi rõ họ tên)
Lời cảm ơn (nếu có)
Lời đầu tiên , em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến TS . Nguyễn Thị Mộng
Tuyền.
Trong quá trình học tập và tìm hiểu bộ môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản
Việt Nam , nhóm em đã nhận được sự quan tâm giúp đỡ , hướng dẫn rất tận tình , tâm
huyết của cơ . Cơ đã giúp nhóm chúng em tích lũy thêm nhiều kiến thức để có cái nhìn
sâu sắc và hoàn thiện hơn trong cuộc sống . Từ những kiến thức mà cơ truyền tài , nhóm
đã dần hiểu được bề dày lịch sử cũng như những kinh nghiệm quí báu mà chủ tịch Hồ
Chí Minh dã truyền lại cho thế hệ sau này. Thông qua bài tiểu luận này , chúng em xin
trình bày lại những gì mà mình đã tìm hiểu về các chủ trương đấu tranh của Đảng từ
năm 1930 đến năm 1945 gửi đến cô. Do trong mùa dịch COVID-19 hạn chế việc học
nhóm cũng như sử dụng tài nguyên. Do đó , trong quá trình hồn thành bài tiểu luận ,
chắc chắn khơng tránh khỏi những thiếu sót. Nhóm chúng em rất được những góp ý đến
từ cơ để bài tiểu luận của nhóm được hồn thiện hơn .
Kính chúc cơ sức khỏe, hạnh phúc thành công trên con đường sự nghiệp giáng dạy cho
sinh viên đại học Tôn Đức Thắng.
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU…………………………………………………………………………1
PHẦN NỘI DUNG………………………………………………………………………3
I/ Chủ trương đấu tranh từ năm 1930 đến năm 1939………………………………..3
1.1. Trong những năm 1930-1935……………………………………………………….3
A. Luận cương chính trị tháng 10/1930……………………………………………….
….3
B.
Chủ
trương
khơi
phục
tổ
chức
đảng
và
phong
trào
cách
mạng………………………...5
1.2. Trong những năm 1936-1939 ………………………………………………………8
A/
Hoàn
cảnh
lịch
sử……………………………………………………………………..9
B/
Chủ
trương
và
nhận
thức
mới
của
1939
đến
Đảng……………………………………………...10
II/
Chủ
trương
đấu
tranh
từ
năm
1945…………………………………….12
2.1. Hoàn cảnh lịch sử và sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của đảng………………
12
A.
Tình
hình
thế
giới
và
trong
nước……………………………………………………..12
B.
Nội
dung
hướng……………………………………………………………..13
chuyển
C. Ý nghĩa của sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược……………………………………
15
2.2.
Chủ
trương
phát
động
Tổng
khởi
nghĩa
giành
chính
quyền……………………….15
A. Phát động Cao trào kháng Nhật, cứu nước và đẩy mạnh khởi nghĩa từng
phần…….15
B. Chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa…………………………………………..…
17
C. Kết quả, ý nghĩa, nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm của Cách mạng
Tháng
Tám……………………………………………………………………………………..18
III/ Ý nghĩa chủ trương……………………………………………….….…………19
PHẦN KẾT LUẬN………………………………………………….………….……21
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………….…….22
PHỤ LỤC …………………………………………………………………………....23
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
-
Sau chiến tranh thế giới lần I , dưới ảnh hưởng hoàn cảnh lịch sử mới ( cả trong
nước và thế giới ) , phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam có bước phát triển mới , với
sự tham gia của nhiều tầng lớp nhân dân , nhiều hình thức đấu tranh phong phú , nhất là
phong trào ở đô thị . Sau khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời đã trực tiếp lãnh đạo và
đưa ra các quyết sách cho cách mạng Việt Nam . Giai đoạn 1930–1939 là giai đoạn vô
cùng quan trọng của cách mạng Việt Nam , Đảng cộng sản mới ra đời và đang trong
quá trình xây dựng lực lượng cũng như hoàn chỉnh đường lối , chuẩn bị cho cuộc chiến
đầu lâu dài . Giai đoạn 1939–1945: Khi chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, Đảng đã
chuyển hướng chỉ đạo chiến lược đưa nhiệm vụ giành chính quyền là vấn đề trực tiếp
của cách mạng Việt Nam. Đường lối này đã góp phần tập hợp được mọi lực lượng yêu
nước đấu tranh giải phóng dân tộc, giành chính quyền về tay nhân dân. Thắng lợi của
cách mạng tháng Tám là bài học vô giá, nhiều mặt cho cách mạng Việt Nam.
-
Qua bài tiểu luận tìm hiểu đường lối đấu tranh giành chính quyền của Đảng ta
trong những năm 1930-1945 giúp các có thể tìm hiểu sâu sắc hơn một giai đoạn hào
hùng của dân tộc, những năm đầu cách mạng Việt Nam đặt dưới sự chỉ huy tài tình sáng
suốt của Đảng cộng sản Việt Nam và đặc biệt là chủ tịch Hồ Chí Minh.
2. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu của đề tài.
2.1 Nhiệm vụ:
Phân tích chủ trương đấu tranh của Đảng từ năm 1930 đến năm 1945. Ý nghĩa của chủ
trương.
2.2 Mục đích :
1
-
Hiểu được hoàn cảnh ra đời, nội dung, ý nghĩa của chủ trương đấu tranh của
Đảng từ năm 1930 đến năm 1945,
-
Nhìn nhận được điểm hạn chế và tiến bộ của Đường lối đấu tranh giành chính
quyền 1930-1945.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
3.1 Đối tượng:
- Chủ trương đấu tranh từ năm 1930 đến năm 1939
- Chủ trương đấu tranh từ năm 1939 đến năm 1945:
+ Hoàn cảnh lịch sử và sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng
+ Chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Hồn cảnh ra đời, nội dung, ý nghĩa của Đường lối đấu tranh giành chính quyền từ năm
1930 đến năm 1945.
4. Phương pháp nghiên cứu:
-
Phương pháp phân tích và tổng thích hợp thuyết: qua các lý thuyết đã được học
từ Đường lối đấu tranh giành chính quyền 1930-1945 có nhiệm vụ phân tích và tổng
hợp hệ thống.
-
Phương pháp lịch sử: nghiên cứu hoàn cảnh ra đời, nội dung, ý nghĩa của chủ
trương đấu tranh của Đảng từ năm 1930 đến năm 1945.
2
Phương pháp thu thập tài liệu: dựa trên báo chí sách vở giáo trình và tài liệu điện
-
tử thu thập những thông tin về chủ trương đấu tranh của Đảng từ năm 1930 đến năm
1945.
PHẦN NỘI DUNG
I.
Chủ trương đấu tranh từ năm 1930 đến năm 1939
1.1 Trong những năm 1930-1935
a. Luận cương chính trị tháng 10 – 1930
Hồn cảnh:
Tháng 4-1930, Trần Phú về nước hoạt động, được bổ sung vào Ban Chấp hành
-
Trung ương lâm thời, cùng Ban Thường vụ chuẩn bị cho Hội nghị lần thứ nhất Ban
Chấp hành Trung ương.
-
Từ ngày 14 đến 31-10-1930, Ban Chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần thứ
nhất tại Hương Cảng, Trung Quốc do Trần Phú chủ trì. Hội nghị thống nhất:
+ Thực hiện chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, Hội nghị đã quyết định đổi tên
Đảng thành Đảng Cộng sản Đơng Dương.
+ Thơng qua Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương do Trần
Phú soạn thảo.
+ Cử Trần Phú làm Tổng Bí thư.
Nội dung chủ yếu của Luận cương tháng 10 năm 1930:
3
- Phân tích đặc điểm, tình hình xã hội thuộc địa nửa phong kiến và nêu lên những vấn
đề cơ bản của cách mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương do giai cấp công nhân lãnh
đạo.
- Mâu thuẫn giai cấp ngày càng diễn ra gay gắt ở Đơng Dương, “Giữa một bên thì thợ
thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ; một bên thì địa chủ, phong kiến, tư bản và đế
quốc chủ nghĩa”.
- Phương hướng chiến lược của cách mạng Đông Dương: lúc đầu là cuộc “cách mạng
tư sản dân quyền”, có “tính chất thổ địa và phản đế”. Sau khi cách mạng tư sản dân
quyền thắng lợi sẽ tiếp tục phát triển bỏ qua thời kỳ tư bản là đấu tranh thẳng lên con
đường xã hội chủ nghĩa.
-
Nhiệm vụ cách mạng: Xóa bỏ tàn tích phong kiến và đánh đổ đế quốc chủ nghĩa
Pháp, làm cho Đông Dương hồn tồn độc lập. Hai nhiệm vụ đó có quan hệ khăng khít
với nhau. Trong đó “vấn đề thổ địa cách mạng là cái cốt của cách mạng tư sản dân
quyền”.
-
Lực lượng cách mạng: Giai cấp vô sản vừa là động lực chính của cách mạng tư
sản dân quyền, vừa là giai cấp lãnh đạo cách mạng. Dân cày là lực lượng đông đảo nhất
và là động lực mạnh của cách mạng. Tư sản thương nghiệp thì đứng về phe đế quốc và
địa chủ chống lại cách mạng, còn tư sản cơng nghiệp thì đứng về phía quốc gia cải
lương và khi cách mạng phát triển cao thì họ sẽ theo đế quốc. Trong giai cấp tiểu tư sản,
bộ phận thủ cơng nghiệp thì có thái độ do dự; tiểu tư sản thương gia thì khơng tán thành
cách mạng; tiểu tư sản trí thức thì có xu hướng quốc gia chủ nghĩa và chỉ có thể hăng
hái tham gia chống đế quốc trong thời kì đầu. Chỉ có các phần tử lao khổ ở đô thị như
những người bán hàng rong, thợ thủ cơng nhỏ, trí thức thất nghiệp mới đi theo cách
mạng.
-
Phương pháp cách mạng: Để đạt được mục tiêu cơ bản của cuộc cách mạng là
đánh đổ đế quốc và phong kiến, giành chính quyền về tay cơng nơng thì phải ra sức
chuẩn bị cho quần chúng về con đường “võ trang bạo động”. Võ trang bạo động để
giành chính quyền là một nghệ thuật, “phải tuân theo khuôn phép nhà binh”.
4
-
Vai trò của Đảng: Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là điều kiện cốt yếu cho thắng
lợi của cách mạng. Đảng phải có đường lối chính trị đúng đắn, có kỉ luật tập trung, liên
hệ mật thiết với quần chúng. Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, lấy chủ nghĩa
Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, đại biểu chung cho quyền lợi của giai cấp vô sản ở
Đông Dương, đấu tranh để đạt được mục đích cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.
-
Về quan hệ quốc tế: Cách mạng Đông Dương là một bộ phận của cách mạng vơ
sản trên thế giới, vì thế vơ sản Đông Dương phải liên lạc mật thiết với vô sản trên thế
giới, nhất là vô sản Pháp để làm mặt trận cho mẫu quốc và thuộc địa, cho sức đấu tranh
của cách mạng mạnh lên
Ý nghĩa của Luận cương :
Luận cương đã vạch ra được nhiều vấn đề căn bản của cách mạng Việt Nam mà Chính
cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt đã nêu ra, tuy nhiên vẫn còn tồn tại một số hạn chế:
- Luận cương không nêu ra được mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam là mâu
thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và đế quốc Pháp.
- Khơng đặt nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc lên hàng đầu.
- Chưa đánh giá đúng vai trò cách mạng của giai cấp tiểu tư sản, tư sản dân tộc mà
cường điệu hoá những hạn chế của họ. Từ đó phủ nhận quan điểm đúng đắn trong
Chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt và hạn chế này tồn tại tới Hội nghị Trung
ương 8 (5/1941) mới được khắc phục hoàn toàn
- Nguyên nhân của hạn chế:
Do những người lãnh đạo nhận thức máy móc, giáo điều về mối quan hệ giữa
vấn đề dân tộc và giai cấp trong xã hội thuộc địa nửa phong kiến Việt Nam.
Không nắm được đầy đủ đặc điểm tình hình xã hội và giai cấp ở Việt Nam.
Chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi khuynh hướng “tả” trong Quốc tế Cộng sản.
5
- Luận cương đã thể hiện là một văn kiện tiếp thu được những quan điểm chủ yếu của
Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ tóm tắt, xác định được nhiệm vụ
nịng cốt của cách mạng. Luận cương cũng có những mặt hạn chế nhất định: Sử
dụng một cách dập khn máy móc chủ nghĩa Mác-Lênin vào cách mạng Việt Nam,
còn quá nhấn mạnh đấu tranh giai cấp.
b) Chủ trương khôi phục tổ chức Đảng và phong trào cách mạng
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929-1933)
- Trong hệ thống tư bản chủ nghĩa đã tàn phá nghiêm trọng nền kinh tế của các
nước tư bản. Để chống đỡ những khó khăn về kinh tế, giai cấp tư sản đã trút gánh nặng
khủng hoảng lên vai nhân dân lao động trong nước và nhân dân lao động ở các nước
thuộc địa. Ở Đông Dương, thực dân Pháp đặt thêm các thứ thuế và các thứ phụ thu làm
đời sống của mọi tầng lớp nhân dân càng kiệt quệ.
- Sau khởi nghĩa Yên Bái (2-1930), thực dân Pháp đã khủng bố đẫm máu phong
trào yêu nước, mâu thuẫn giữa các tầng lớp nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp ngày
càng gay gắt. Chính sách kinh tế và chính sách cai trị dã man tàn bạo của thực dân Pháp
đã làm bùng nổ cuộc đấu tranh chống Pháp quyết liệt của nhân dân ta.
- Trong bối cảnh đó Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời (3-2-1930), Đảng đã trở
thành hạt nhân lãnh đạo cuộc đấu tranh, Đảng đã đưa phong trào đấu tranh lên một tầm
vóc mới với quy mơ tồn quốc.
Phong trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh
Diễn biến phong trào:
-
Vừa mới ra đời, Đảng trở thành đội tiên phong lãnh đạo cách mạng, phát động
được một phong trào cách mạng rộng lớn, mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh. Đế quốc
Pháp và tay sai thẳng tay đàn áp, khủng bố. Lực lượng của ta đã bị tổn thất lớn: nhiều
cơ sở Đảng tan vỡ, nhiều cán bộ cách mạng, đảng viên ưu tú bị địch bắt, giết, tù đày.
Phong trào đấu tranh lắng xuống.
6
-
Cao trào cách mạng do Đảng Cộng sản chủ trương và phát động đã kéo dài trên
một năm , diễn ra trên 25 tỉnh thành khắp cả ba miền đất nước và đạt tới đỉnh điểm trên
đất Nghệ Tĩnh. Ở Nghệ Tĩnh, phong trào đấu tranh bùng nổ vào sáng ngày 1-5 với sự
tham gia của công nhân khu công nghiệp Vinh - Bến Thụy và nông dân các huyện lan
cận đòi tăng lương , giảm giờ làm , bỏ sưu , giảm thuế , chống khủng bố , ủng hộ cuộc
đấu tranh của công nhân nhà máy dệt Nam Định , ủng hộ Liên bang Xô Viết…
-
Hệ thống tổ chức Đảng bị thực dân Pháp đánh phá ác liệt, song dù khủng bố
trắng thực dân Pháp cũng không thể xóa được một thành quả của cao trào cách mạng
1930 - 1931 là quyền lãnh đạo cách mạng đã thuộc về Đảng cộng sản Đông Dương. Sự
khủng bố của thực dân Pháp khơng thể làm nản chí các chiến sĩ cộng sản và quần chúng
yêu nước, một số cuộc đấu tranh vẫn tiếp tục nổ ra, nhiều chi bộ Đảng trong nhà tù vẫn
được thành lập. Một số tổ chức Đảng ở cả ba miền Bắc Trung Nam vẫn tiếp tục duy trì
và được quần chúng bảo vệ.
-
Thành quả lớn nhất của phong trào cách mạng 1930-1931 mà quân thù khơng thể
xố bỏ được là: Khẳng định trong thực tế vai trò và khả năng lãnh đạo cách mạng của
giai cấp vơ sản, của Đảng; Hình thành một cách tự nhiên khối liên minh công-nông
trong đấu tranh cách mạng; Đem lại cho nhân dân niềm tin vững chắc vào Đảng, vào
cách mạng.
-
Nhiều đảng viên vượt ngục đã tiếp tục tham gia khôi phục Đảng và lãnh đạo
quần chúng đấu tranh. Các Xứ ủy Bắc kỳ, Nam kỳ, Trung kỳ bị thực dân Pháp phá vỡ
nhiều lần đã lần lượt được khôi phục lại trong năm 1931 - 1933, nhiều cơ sở Đảng được
thành lập mới.
Chương trình hành động của Đảng Cộng sản Đông Dương:
- Lãnh đạo: Đảng Cộng sản Đông Dương.
- Lực lượng: công nông Đông Dương.
- Nhiệm vụ: chống đế quốc, chống phong kiến và tiến lên Xã Hội Chủ Nghĩa.
7
- Yêu cầu: Bỏ luật hình, thả tù chính trị đàn áp,..Bỏ các thuế khơng hợp lý và bỏ
độc quyền rượu , thuốc phiện, muối. Tự do ngơn luận đi lại trong và ngồi nước,...
- Đầu năm 1932, theo chỉ thị của Quốc Tế Cộng sản, Lê Hồng Phong và một số
đồng chí trong ngoài nước đã tổ chức ra Ban lãnh đạo Trung ương Đảng. Tháng 6-1932
Ban lãnh đạo Trung ương Đảng công bố “Chương trình hành động của Đảng Cộng sản
Đơng Dương” và của các đồn thể cách mạng. Chương trình hành động năm 1932 phù
hợp với điều lịch sử lúc bấy giờ, trước mắt nhằm đưa cách mạng ra khỏi thoái trào bằng
quyết tâm xây dựng Đảng vững mạnh và khôi phục phong trào cách mạng của quần
chúng.
- Tinh thần chung của chương trình hành động cho thấy Đảng nêu những khẩu
hiệu “tối thiểu” để đòi quyền lợi hàng ngày đồng thời không quên khẩu hiệu “tối đa” là
tiến lên đấu tranh chính trị, chuẩn bị cho khởi nghĩa giành chính quyền khi có điều kiện.
Những u cầu chính trị trước mắt cùng những biện pháp tổ chức phù hợp với hoàn
cảnh thực tế lúc bấy giờ đã giúp phong trào cách mạng và hệ thống tổ chức của Đảng
từng bước được phục hồi.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I của Đảng:
- Nhờ sự cố gắng phi thường của Đảng, được sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản, đến
cuối 1934 đầu 1935 hệ thống tổ chức của Đảng đã được khôi phục và phong trào
quần chúng dần được nhen nhóm lại.
- Khi hệ thống tổ chức của Đảng được khôi phục từ cơ sở tới Trung ương, Ban chỉ
huy ở ngoài của Đảng quyết định triệu tập Đại hội Đảng. Tháng 3-1935, Đại hội lần
thứ nhất của Đảng họp tại Ma Cao (Trung Quốc).
- Đại hội đề ra các nhiệm vụ trước mắt: Củng cố và phát triển Đảng cả về lượng và
chất; Đẩy mạnh cuộc vận động và thu phục quần chúng; Tuyên truyền chống đế
quốc, chống chiến tranh, ủng hộ Liên Xô và cách mạng Trung Quốc…
8
- Hồ Chí Minh nói: “Chính sách Đại hội Ma Cao vạch ra không sát với phong trào
cách mạng thế giới và trong nước bấy giờ”.
Tình hình thế giới chủ nghĩa phát xít ra đời: Phát xít Đức, phát xít Tây Ban Nha,
phát xít Ý, phát xít Nhật.
Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản
- Trước tình hình đó , Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản họp tại Matxcova
( 7/1935 ) dưới sự chủ trì G , Dimitơrốp . Đồn đại biểu Đảng Cộng sản Đơng
Dương do Lê Hồng Phong dẫn đầu đã tham dự Đại hội . Thẻ cấp cho Nguyễn Ái
Quốc và Lê Hồng Phong khi tham dự Đại Hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng Sản
( 7/1935 )
- Kẻ thù: chủ nghĩa phát xít.
- Nhiệm vụ: dân chủ hịa bình và thành lập mặt trận nhân dân.
1.2 Trong những năm 1936-1939
a. Hồn cảnh lịch sử
Tình hình thế giới:
- Hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 đã làm cho mâu thuẫn
nội tại của chủ nghĩa tư bản thêm gay gắt và phong trào cách mạng của quần chúng
dâng cao.
- Một số nước đi vào con đường phát xít hố: dùng bạo lực để đàn áp phong trào đấu
tranh trong nước và ráo riết chạy đua vũ trang phát động chiến tranh thế giới mới. Chủ
nghĩa phát xít thắng thế ở Đức, Ý, Nhật, chúng liên kết với nhau lập ra phe “Trục”,
tuyên bố chống Quốc tế Cộng sản và phát động chiến tranh chia lại thế giới. Nguy cơ
phát xít và chiến tranh thế giới đe dọa nghiêm trọng nền hồ bình và an ninh quốc tế.
- Đại hội VII Quốc tế Cộng sản họp tại Matxcova (7-1935) dưới sự chủ trì của
G.Đimitơrốp. Đồn đại biểu Đảng Cộng sản Đông Dương do Lê Hồng Phong dẫn đầu
đã tham dự Đại hội. Đại hội đã xác định:
9
+ Kẻ thù nguy hiểm trước mắt của nhân dân thế giới chưa phải là chủ nghĩa đế
quốc nói chung mà là chủ nghĩa phát xít.
+ Nhiệm vụ trước mắt của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thế giới chưa
phải là đấu tranh lật đổ chủ nghĩa tư bản, giành chính quyền mà là chống chủ
nghĩa phát xít và chiến tranh, địi tự do, bảo vệ dân chủ, hồ bình và cải thiện đời
sống.
+ Đối với các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, vấn đề lập Mặt trận thống nhất
chống đế quốc có tầm quan trọng đặc biệt.
Tình hình trong nước:
-
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới có nhiều biến động ảnh hưởng sâu sắc tới đời
sống của mọi giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Trong khi đó, bọn cầm quyền phản động ở
Đơng Dương ra sức vơ vét, bóc lột và khủng bố phong trào đấu tranh của nhân dân làm
cho bầu khơng khí chính trị trở nên ngột ngạt, u cầu có những cải cách dân chủ.
-
Tình hình trên đây làm cho các giai cấp và tầng lớp tuy có quyền lợi khác nhau,
nhưng đều căm thù thực dân, tư bản độc quyền Pháp, và đều có nguyện vọng chung
trước mắt là đấu tranh đòi được quyền sống, quyền tự do, dân chủ, cơm áo và hồ bình.
Trong lúc này, hệ thống tổ chức của Đảng và các cơ sở cách mạng của quần chúng đã
được khơi phục. Mặt khác, Chính phủ Mặt trận bình dân Pháp ban hành một số chính
sách dân chủ có lợi cho các thuộc địa. Đây là những yếu tố rất quan trọng, quyết định
bước phát triển mới của phong trào cách mạng nước ta.
b. Chủ trương và nhận thức mới của Đảng
-
Trước những biến chuyển của tình hình trong nước và thế giới, đặc biệt dưới ánh
sáng của chủ trương chuyển hướng chiến lược của Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng
sản vào tháng 7-1936, Ban Chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần thứ hai tại Thượng
Hải. Xuất phát từ tình hình thực tế Ban Chấp hành Trung ương Đảng xác định:
-
Mục tiêu chiến lược: không thay đổi so với Hội nghị lần thứ nhất- cách mạng ở
Đông Dương vẫn là “cách mạng tư sản dân quyền – phản đế và điền địa – lập chính
quyền của cơng nơng bằng hình thức Xơ Viết, để dự bị điều kiện đi tới cách mạng xã
hội chủ nghĩa”. Song, xét rằng, cuộc vận động quần chúng hiện thời cả về chính trị và
tổ chức chưa tới trình độ trực tiếp đánh đổ đế quốc Pháp, lập chính quyền công nông,
10
giải quyết vấn đề điền địa. Vì vậy, Đảng phải nắm lấy những yêu cầu này để phát động
quần chúng đấu tranh, tạo tiền đề đưa cách mạng tiến lên bước cao hơn sau này.
Về kẻ thù của cách mạng: Kẻ thù trước mắt nguy hại nhất của nhân dân Đông
Dương cần tập trung đánh đổ là bọn phản động thuộc địa và bè lũ tay sai của
chúng..
Về nhiệm vụ trước mắt của cách mạng: Chống phát xít, chống chiến tranh đế
quốc, chống bọn phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và
hồ bình. Để thực hiện những nhiệm vụ trước mắt của cách mạng, Ban Chấp
hành Trung ương quyết định thành lập Mặt trận nhân dân phản đế, bao gồm các
giai cấp, dân tộc, đảng phái, đồn thể chính trị, xã hội và tín ngưỡng, tơn giáo
khác nhau, với nịng cốt là liên minh công – nông để cũng đấu tranh địi những
quyền dân chủ đơn sơ.
Về đồn kết quốc tế: Đồn kết với giai cấp cơng nhân và Đảng Cộng sản Pháp,
ủng hộ Mặt trận Nhân dân Pháp, ủng hộ Chính phủ Mặt trận Nhân dân Pháp để
cùng chống kẻ thù chung là phát xít và phản động thuộc địa ở Đơng Dương.
Về hình thức tổ chức và biện pháp đấu tranh: Hội nghị chủ trương phải chuyển
hình thức tổ chức bí mật, khơng hợp pháp sang các hình thức tổ chức và đấu
tranh cơng khai và nửa công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp, nhằm làm cho
Đảng mở rộng sự quan hệ với quần chúng, giáo dục, tổ chức và lãnh đạo quần
chúng đấu tranh bằng các hình thức và khẩu hiệu thích hợp.
Nhận thức mới của Đảng về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ:
-
Tháng 10-1936, Trung ương Đảng được tổ chức lại do đồng chí Hà Huy Tập làm
Tổng Bí thư, trong văn kiện Chung quanh vấn đề chiến sách mới Ban Chấp hành Trung
ương cũng đặt ra vấn đề nhận thức lại mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân
chủ, phản đế và điền địa trong cách mạng Đơng Dương: cách mạng giải phóng dân tộc
không nhất thiết phải gắn kết chặt với cuộc cách mạng điền địa. “Nếu phát triển cuộc
đấu tranh chia đất mà ngăn trở cuộc đấu tranh phản đế thì phải chọn vấn đề nào quan
trọng hơn mà giải quyết trước”. Đó là nhận thức mới phù hợp với tinh thần Cương lĩnh
cách mạng đầu tiên của Đảng, bước đầu khắc phục hạn chế của Luận cương chính trị
tháng 10-1930.
11
-
Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào quần chúng từ giữa năm 1936 trở đi
khẳng định sự chuyển hướng chỉ đạo cách mạng đúng đắn của Đảng. Hội nghị lần thứ
ba (3-1937), lần thứ tư (9-1937), tiếp đó là Hội nghị lần thứ năm (3-1938) đã đi sâu về
công tác tổ chức của Đảng, quyết định chuyển mạnh hơn nữa về phương pháp tổ chức
và hoạt động để tập hợp được đông đảo quần chúng trong mặt trận chống phản động
thuộc địa, chống phát xít, địi tự do, cơm áo, hịa bình.
-
Tháng 3-1939, Đảng ra bản Tun ngơn của Đảng Cộng sản Đông Dương đối
với thời cuộc, nêu rõ họa phát xít đang đến gần, Chính phủ Pháp hiện đã nghiêng về
phía hữu, ra sức bóp nghẹt tự do dân chủ, tăng cường bóc lột nhân dân và ráo riết chuẩn
bị cho chiến tranh. Tuyên ngôn kêu gọi các tầng lớp nhân dân phải thống nhất hành
động hơn nữa trong việc đòi các quyền tự do dân chủ, chống nguy cơ chiến tranh đế
quốc.
-
Tại Hội nghị tháng 7-1939 Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ cho xuất bản tác phẩm
Tự chỉ trích, nhằm rút kinh nghiệm về những sai lầm, thiếu sót của Đảng viên, hoạt
động cơng khai trong cuộc vận động tranh cử ở Hội đồng quản hạt Nam kỳ (4-1939).
Tác phẩm đã phân tích những vấn đề cơ bản về xây dựng Đảng, tổng kết kinh nghiệm
cuộc vận động dân chủ của Đảng, nhất là về đường lối xây dựng Mặt trận dân chủ Đông
Dương. Tác phẩm không chỉ có tác dụng lớn trong cuộc đấu tranh khắc phục những
lệch lạc, sai lầm trong phong trào vận động dân chủ, tăng cường đoàn kết, thống nhất
trong nội bộ Đảng, mà còn là một văn kiện lý luận quan trọng về cơng tác xây dựng
Đảng, vận động quần chúng.
Tóm lại, trong những năm 1936-1939, chủ trương mới của Đảng đã giải quyết đúng
đắn mối quan hệ giữa mục tiêu chiến lược và mục tiêu cụ thể trước mắt của cách mạng,
các mối quan hệ giữa liên minh công – nông và vấn đề giai cấp, giữa phong trào cách
mạng Đông Dương, phong trào cách mạng ở Pháp và trên thế giới; đề ra các hình thức
tổ chức và đấu tranh linh hoạt, thích hợp nhằm hướng dẫn quần chúng đấu tranh giành
quyền lợi hàng ngày, chuẩn bị cho những cuộc đấu tranh cao hơn vì độc lập và tự do.
Các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng trong thời kì này đánh dấu
bước trưởng thành của Đảng về chính trị và tư tưởng, thể hiện bản lĩnh và tinh thần độc
12
lập tự chủ, sáng tạo của Đảng, mở ra một cao trào mới trong cả nước. Cao trào dân chủ
1936-1939 thực sự là cuộc vận động cách mạng sâu rộng, hiếm có ở một xứ thuộc địa,
đã tuyên truyền đường lối, chủ trương cách mạng của Đảng cho quảng đại nhân dân,
mở rộng lực lượng và trận địa cách mạng, sáng tạo nên những hình thức tổ chức, hình
thức đấu tranh mới linh hoạt, gắn kết phong trào cách mạng Đông Dương với cuộc đấu
tranh chung chống chủ nghĩa phát xít của nhân dân thế giới.
II. Chủ trương đấu tranh từ năm 1939 đến năm 1945
2.1 . Hoàn cảnh lịch sử và sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng
a. Tình hình thế giới và trong nước
Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ:
-
Ngày 1-9-1939, chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ, trong đó Pháp là nước tham
chiến. Chính phủ Pháp thi hành một loạt các biện pháp đàn áp lực lượng dân chủ ở
trong nước và phong trào cách mạng thuộc địa.
-
Tháng 6-1940, Đức tấn công Pháp và Chính phủ Pháp đã đầu hàng. Ngày 22-6-
1941, quân phát xít Đức tấn cơng Liên Xơ. Từ khi phát xít Đức tấn cơng Liên Xơ, tính
chất chiến tranh đế quốc chuyển thành cuộc chiến tranh giữa các lực lượng dân chủ do
Liên Xô làm trụ cột với các lực lượng phát xít do Đức cầm đầu.
Tình hình trong nước:
-
Chiến tranh thế giới thứ hai đã ảnh hưởng mạnh mẽ và trực tiếp đến Đông
Dương và Việt Nam. Ngày 28-9-1939, Tồn quyền Đơng Dương ra nghị định cấm
tun truyền cộng sản, cấm lưu hành, tàng trữ tài liệu cộng sản, đặt Đảng Cộng sản
Đơng Dương ra ngồi vịng pháp luật, giải tán các hội hữu ái, nghiệp đoàn và tịch thu
tài sản của các tổ chức đó, đóng cửa các tờ báo và nhà xuất bản, cấm hội họp và tụ tập
đông người.
-
Trong thực tế, ở Việt Nam và Đông Dương, thực dân Pháp đã thi hành chính
sách thời chiến rất trắng trợn. Chúng phát xít hóa bộ máy thống trị, thẳng tay đàn áp
phong trào cách mạng của nhân dân, tập trung lực lượng đánh vào Đảng Cộng sản
Đông Dương. Hàng nghìn cuộc khám xét bất ngờ đã diễn ra khắp nơi. Một số quyền tự
do, dân chủ đã giành được trong thời kỳ 1936-1939 bị thủ tiêu. Chúng ban bố lệnh tổng
13
động viên, thực hiện chính sách "kinh tế chỉ huy" nhằm tăng cường vơ vét sức người,
sức của để phục vụ chiến tranh của đế quốc. Hơn bảy vạn thanh niên bị bắt sang Pháp
để làm bia đỡ đạn.
-
Lợi dụng lúc Pháp thua Đức, ngày 22-9-1940 phát xít Nhật đã tiến vào Lạng sơn
và đổ bộ vào Hải Phòng. Ngày 23-9-1940, tại Hà Nội, Pháp ký hiệp định đầu hàng
Nhật. Từ dó, nhân dân ta chịu cảnh một cổ hai trịng áp bức, bóc lột của Pháp - Nhật.
Mâu thuẫn giữa dân tộc ta và đế quốc, phát xít Pháp — Nhật trở nên gay gắt hơn bao
giờ hết.
b. Nội dung chuyển hướng
Thể hiện qua:
+ Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (11-1939)
+ Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (11-1940)
+ Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (5-1941) - quan trọng nhất
Trên cơ sở nhận định khả năng diễn biến của Chiến tranh thế giới lần thứ hai và căn
cứ vào tình hình cụ thể ở trong nước, BCH Trung ương đã quyết định chuyển hướng chỉ
đạo chiến lược như sau:
Một là, đưa ra nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.
-
Giải quyết cấp bách là mâu thuẫn giữa dân tộc ta với bọn đế quốc, phát xít Pháp
- Nhật. Bởi “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải
phóng, khơng địi được độc lập, tự do cho tồn thể dân tộc, thì chẳng những tồn
thể quốc gia dân tộc cịn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận,
giai cấp đến vạn năm cũng khơng địi lại được”.
-
Tạm gác lại khẩu hiệu "Đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày", thay bằng
khẩu hiệu "Tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt Nam cho dân cày
nghèo", "Chia lại ruộng đất công cho công bằng và giảm tô, giảm tức"...
14
Hai là, quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh để đoàn kết tập hợp lực lượng cách
mạng nhằm mục tiêu giải phóng dân tộc.
-
Thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh thay cho
Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương; đổi tên các Hội phản đế
thành Hội cứu quốc (Công nhân cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Thanh niên cứu
quốc, Phụ nữ cứu quốc, Phụ lão cứu quốc, Thiếu niên cứu quốc…) để vận động,
thu hút mọi người dân yêu nước khơng phân biệt thành phần, lứa tuổi, đồn kết
bên nhau đặng cứu Tổ quốc, cứu giống nòi.
Ba là, quyết định xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của Đảng
và nhân dân ta trong giai đoạn hiện tại.
-
Phát triển lực lượng cách mạng, bao gồm lực lượng chính trị và lực lượng vũ
trang, xúc tiến xây dựng căn cứ địa cách mạng. Ban Chấp hành Trung ương chỉ
rõ: Việc "chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của Đảng ta và dân ta trong
giai đoạn hiện tại". Duy trì lực lượng vũ trang Bắc Sơn và chủ trương thành lập
những đội đu kích hoạt động phân tán, dùng hình thức vũ trang vừa chiến đấu
chống địch, bảo vệ nhân dân, vừa phát triển cơ sở cách mạng, tiến tới thành lập
khu căn cứ, lấy vùng Bắc Sơn, Vũ Nhai làm trung tâm.
Phương châm và hình thái khởi nghĩa ở nước ta: "Phải ln luôn chuẩn bị một lực
lượng sẵn sàng, nhằm vào cơ hội thuận tiện hơn cả mà đánh lại quân thù... với lực
lượng sẵn có, ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương
cũng có thể giành thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn". Chú
trọng công tác xây dựng Đảng nhằm nâng cao lực lượng tổ chức và lãnh đạo của Đảng,
đồng thời chủ trương gấp rút đào tạo cán bộ, cán bộ lãnh đạo, cán bộ công vận, nông
vận, binh vận, quân sự và đẩy mạnh công tác vận động quần chúng.
c. Ý nghĩa của sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược
-
Góp phần giải quyết mục tiêu hàng đầu của cách mạng Việt Nam là độc lập dân
tộc, đưa đến những chủ trương, sự chỉ đạo đúng đắn để thực hiện mục tiêu đó.
15
-
Giúp cho nhân dân ta có đường hướng đúng đắn để tiến tiến lên giành thắng lợi
trong sự nghiệp đánh Pháp đuổi Nhật giành độc lập dân tộc và tự do cho nhân dân.
-
Giúp cho công tác chuẩn bị giành độc lập ở khắp các địa phương, cổ vũ và thúc
đẩy mạnh mẽ phong trào cách mạng quần chúng.
-
Từng bước xây dựng lực lượng vũ trang trong nhân dân là cơ sở cho sự ra đời
của Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân sau này.
-
Xác lập các chiến khu và căn cứ địa cách mạng như căn cứ địa Bắc Sơn – Võ
Nhai và căn cứ Cao Bằng.
2.2 Chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền
a. Phát động Cao trào kháng Nhật, cứu nước và đẩy mạnh khởi nghĩa từng
phần
-
Phát động Cao trào kháng Nhật cứu nước:
Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới II đã đi vào giai đoạn kết thúc. Quân
đồng minh chuẩn bị tiến vào Đơng Nam Á. Phát xít Nhật lâm vào tình trạng
nguy khốn. Ngày 9-3-1945, Nhật nổ súng lật đổ Pháp trên tồn cõi Đơng
Dương, Pháp chống cự rất yếu ớt và nhanh chóng đầu hàng.
Ngay đêm 9-3-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp hội nghị mở
rộng ở làng Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh). Ngày 12-3-1945, Ban Thường
vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của
chúng ta". Với những nội dung cơ bản là:
-
Nhận định tình hình: Cuộc đảo chính của Nhật lật đổ Pháp để độc chiếm Đông
Dương đã tạo ra một cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc, nhưng điều kiện khởi nghĩa
chưa thực sự chín muồi. Tuy vậy, hiện đang có những cơ hội tốt làm cho những điều
kiện Tổng khởi nghĩa nhanh chóng chín muồi.
-
Xác định kẻ thù: Sau cuộc đảo chính, phát xít Nhật là kẻ thù chính, kẻ thù cụ thể
trước mắt duy nhất của nhân dân Đơng Dương, vì vậy phải thay khẩu hiệu “đánh đuổi
phát xít Nhật-Pháp” bằng khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít Nhật”.
-
Chủ trương: Phát động một cao trào kháng Nhật, cứu nước mạnh mẽ, làm tiền đề
cho cuộc Tổng khởi nghĩa. Mọi hình thức tuyên truyền, cổ động, tổ chức và đấu tranh
16
lúc này phải thay đổi cho thích hợp với thời kỳ tiền khởi nghĩa như tuyên truyền xung
phong, biểu tình tuần hành, bãi cơng chính trị, biểu tình phá kho thóc của Nhật để giải
quyết nạn đói, đẩy mạnh xây dựng các đội tự vệ cứu quốc,…
-
Phương châm đấu tranh: phát động chiến tranh du kích, giải phóng từng vùng,
mở rộng căn cứ địa.
-
Dự kiến những thời cơ thuận lợi để thực hiện Tổng khởi nghĩa như quân Đồng
minh kéo vào Đông Dương đánh Nhật, quân Nhật kéo ra mặt trận ngăn cản quân Đồng
minh phía sau sơ hở. Cũng có thể là cách mạng; Nhật bùng nổ và chính quyền cách
mạng của nhân dân Nhật được thành lập, hoặc Nhật bị mất nước như Pháp năm 1940 và
quân đội viễn chinh Nhật mất tinh thần.
Đẩy mạnh khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền bộ phận:
Từ giữa tháng 3-1945 trở đi, Cao trào kháng Nhật cứu nước đã diễn ra rất sôi
nổi, mạnh mẽ và phong phú về nội dung, hình thức.
Tháng 3/1945 tù chính trị nhà giam Ba Tơ khởi nghĩa, đội du kích Ba Tơ ra đời.
Đây là lực lượng vũ trang cách mạng đầu tiên do Đảng tổ chức và lãnh đạo ở miền
Trung.
Để chỉ đạo phong trào, Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ được triệu tập
(5/1945) đã quy định thống nhất các lực lượng vũ trang, phát triển lực lượng bán vũ
trang. Đồng thời, đẩy mạnh chiến tranh du kích, xây dựng 7 chiến khu trong cả nước:
Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Hoàng Hoa Thám, Quang Trung ở Bắc Kỳ; Trưng Trắc, Phan
Đình Phùng ở Trung Kỳ; Nguyễn Tri Phương ở Nam Kỳ.
Tháng 5/1945, Hồ Chí Minh về Tân Trào, Tuyên Quang. Ngày 4/6/1945 theo chỉ
thị của Người “Khu giải phóng” được thành lập gồm Cao-Bắc-Lạng-Thái-Tuyên-Hà và
một số vùng phụ cận. Khu giải phóng trở thành căn cứ địa chính của cách mạng cả nước
và là hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam mới.
Ở Đồng Bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, phong trào “phá kho thóc giải quyết nạn
đói” đã lơi cuốn hàng triệu quần chúng tham gia biến thành cuộc khởi nghĩa từng phần
diễn ra ở nhiều địa phương. Trong thời gian ngắn, Đảng đã động viên được hàng triệu
quần chúng tiến lên trận tuyến cách mạng.
b. Chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa
17
-
Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc. Ngày 2-5-1945, Hồng
quân Liên Xô chiếm Beclin tiêu diệt phát xít Đức tận hang ổ của chúng. Ngày 9-5-1945
phát xít Đức đầu hàng khơng điều kiện, ở châu Á, phát xít Nhật đang đi gần đến thất bại
hồn toàn. Quân đội các nước đế quốc với danh nghĩa đồng minh chuẩn bị vào Đơng
Dương tước vũ khí qn Nhật. Vấn đề giành chính quyền được đặt ra như một cuộc
chạy đua nước rút với quân Đồng minh.
-
Ngày 13-8-1945 Hội nghị tồn quốc của Đảng Cộng sản Đơng Dương họp tại
Tân Trào quyết định tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước từ tay phát xít
Nhật, trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương.
-
Hội nghị chi rõ khẩu hiệu đấu tranh lúc này là: "Phản đối xâm lược"; "Hồn tồn
độc lập"; "Chính quyền nhân dân". Những ngun tắc để chỉ đạo khởi nghĩa là tập
trung, thống nhất kịp thời, phải đánh chiếm ngay những nơi chắc thắng, không kể thành
phố hay nơng thơn; qn sự và chính trị phải phối hợp; phải làm tan rã tinh thần quân
địch,…
-
Hội nghị cũng quyết định những vấn đề quan trọng về chính sách đối nội, đối
ngoại sau khi giành chính quyền.
-
Ngày 16-8-1945, Đại hội Quốc dân họp tại Tân Trào, tán thành quyết định tổng
khởi nghĩa của Đảng Cộng sản Đông Dương, lập Uỷ ban dân tộc giải phóng do Hồ chí
Minh làm Chủ tịch. Ngay sau Đại hội Quốc dân, Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi đồng bào
cả nước: “Giờ quyết định vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng
lên đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.
-
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hơn 20 triệu nhân dân ta đã nhất tề vũng dậy khởi
nghĩa giành chính quyền. Từ ngày 14-8-1945, Giải phóng quân tiến công các đồn Nhật
ở Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái. Ngày 14 đến ngày 18,
giành chính quyền ở Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Quảng Nam, Phúc n, Thanh
Hố, Thái Bình.
-
Ngày 19-8: Giành chính quyền ở Thủ đô Hà Nội. Ngày 23-8: Khởi nghĩa giành
chính quyền ở Huế. Ngày 25-8: Quân Nhật ở Sài Gịn thất thủ. Ngày 28-8: Ta giành
chính quyền trong cả nước. Uỷ ban dân tộc giải phóng tuyên bố tự cải tổ thành Chính
18
phủ Lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Chỉ trong vòng 15 ngày (14 đến 28-8)
cuộc Tổng khởi nghĩa đã thành cơng trên cả nước, chính quyền về tay nhân dân.
-
Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội ngày 19-8 có ý nghĩa quyết định đối với
cả nước, làm cho chính quyền tay sai Nhật ở các nơi bị tê liệt, cổ vũ mạnh mẽ nhân dân
các tỉnh, thành phố khác nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền.
-
Ngày 2-9-1945, Tại quảng trường Ba Đình, Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ
Lâm thời đọc Tun ngơn độc lập, tuyên bố với quốc dân đồng bào: Nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa ra đời.
c. Kết quả, ý nghĩa, nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm của Cách
mạng Tháng Tám
Kết quả và ý nghĩa:
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của lịch sử
dân tộc Việt Nam, đưa dân tộc ta bước vào kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên độc lập, tự do.
Đánh giá ý nghĩa của Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chẳng
những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và
những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: lần này là lần đầu tiên trong
lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã
lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền tồn quốc”
Ngun nhân thắng lợi:
-
Cách mạng tháng 8 nổ ra trong hồn cảnh quốc tế vơ cùng thuận lợi. Đó là lúc
phe phát xít đã bại trận. Kẻ thù trực tiếp của nhân dân Việt Nam là phát xít Nhật đã phải
đầu hàng đồng minh. Quân đội Nhật ở Đông Dương mất hết tinh thần chiến đấu. Chính
phủ thân Nhật Trần Trọng Kim hoang mang, rệu rã.
-
Đó là kết quả của 15 năm đấu tranh gian khổ, đầy hy sinh của nhân dân ta dưới
sự lãnh đạo của Đảng, là kết quả tổng hợp của 3 cao trào cách mạng. Là sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng Cộng sản Đông Dương. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là điều
kiện cơ bản, quyết định thắng lợi của cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Bài học kinh nghiệm:
Một là, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống
đế quốc và chống phong kiến. Hai là, toàn dân nổi dậy trên nền tảng khối liên minh
19