VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------
TRƯƠNG THẾ TRỌNG
ĐỊNH TỘI DANH TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM
CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Hà Nội, năm 2021
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------
TRƯƠNG THẾ TRỌNG
ĐỊNH TỘI DANH TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM
CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH
Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS NGUYỄN THANH DƯƠNG
Hà Nội, năm 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan nội dung luận văn “Định tội danh tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” là cơng trình
nghiên cứu khoa học của riêng tơi thực hiện với sự hướng dẫn khoa học của Phó
giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thanh Dương. Tất cả những tài liệu, số liệu và kết quả
nghiên cứu trong luận văn này hoàn tồn trung thực và chưa được cơng bố trong bất
kỳ cơng trình khoa học nào khác.
Tác giả luận văn
Trương Thế Trọng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH TỘI DANH TỘI
LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN................................. 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của việc định tội danh tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản ................................................................................... 7
1.2. Cơ sở pháp lý và quy trình định tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam................. 16
Chương 2: TÌNH HÌNH CĨ LIÊN QUAN VÀ THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI
DANH ĐỐI VỚI TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI
SẢN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ................................................... 29
2.1. Tình hình có liên quan đến hoạt động định tội danh tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh .................... 29
2.2. Tình hình cán bộ làm cơng tác định tội danh đối với tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh .................... 35
2.3. Thực tiễn định tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
tại Thành phố Hồ Chí Minh ............................................................................ 38
Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM HIỆU QUẢ ĐỊNH
TỘI DANH ĐÚNG ĐỐI VỚI TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM
ĐOẠT TÀI SẢN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH .............................. 54
3.1. Yêu cầu bảo đảm hiệu quả định tội danh đúng đối với tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản tại Thành phố Hồ Chí Minh ................................... 54
3.2. Các giải pháp đảm bảo hiệu quả định tội danh đúng đối với tội lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản tại Thành phố Hồ Chí Minh .............................. 60
KẾT LUẬN .................................................................................................... 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 74
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1: Số lượng các vụ án hình sự về tội phạm xâm phạm sở hữu giai đoạn
2016-2020........................................................................................................ 31
Bảng 2: Số lượng các bị cáo phạm các tội xâm phạm sở hữu giai đoạn 20162020 ................................................................................................................. 32
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hưởng ứng sự phát triển mạnh mẽ của xu thế tồn cầu hóa kinh tế, Việt Nam,
nước đang phát triển cũng hoàn toàn thuận lợi hội nhập nền kinh tế quốc tế. Trong
các nhiệm vụ đổi mới, đất nước ta chú trọng đổi mới kinh tế và thực chất của đổi
mới kinh tế chính là chuyển từ mơ hình kinh tế tập trung quan liêu hành chính bao
cấp sang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cùng với
việc cơ chế thị trường được vận dụng đầy đủ, linh hoạt sẽ phát huy mạnh mẽ và có
hiệu quả mọi nguồn lực nhằm phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế, nâng cao
đời sống nhân dân, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh”. Tuy vậy, kinh tế thị trường cũng có những hạn chế, khuyết tật của nó
như phân hóa giàu nghèo, thất nghiệp, ô nhiễm môi trường…và kinh tế thị trường
cũng đã tác động nhiều đến văn hóa, lối sống và đạo đức con người, làm phát sinh
nhiều loại tội phạm xuất hiện, trong đó có nhóm tội phạm xâm phạm đến quyền sở
hữu mang tính chất chiếm đoạt như tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, lừa
đảo chiếm đoạt tài sản, cướp tài sản, trộm tài sản, cướp giật tài sản, cưỡng đoạt tài
sản,... là những tội có những biểu hiện hành vi, mục đích khác nhau nhưng đều xâm
phạm đến quyền sở hữu tài sản của con người, đều tác động xấu đến đời sống xã
hội.
Thành phố Hồ Chí Minh là một đơ thị lớn cả về chính trị, kinh tế, văn hóa…
của cả nước. Thành phố Hồ Chí Minh nằm ở “ngã tư” giữa các con đường hàng hải
quốc tế, là tâm điểm của khu vực Đông Nam Á, là đầu mối giao thông nối liền các
tỉnh trong vùng và là cửa ngõ quốc tế với dân số 8.893.082 người (tính đến thời
điểm 01/4/2019) [40]. Thành phố Hồ Chí Minh giữ vai trị quan trọng bậc nhất
trong nền kinh tế Việt Nam, chiếm 22,2% tổng sản phẩm cả nước (giai đoạn 2016 2020) và 27% tổng thu ngân sách của cả nước (năm 2019) [16]. Song song với điều
kiện kinh tế, xã hội phát triển, dân cư đơng đúc tại thành phố Hồ Chí Minh, thì các
loại tội phạm phát sinh cũng nhiều hơn về số lượng, phức tạp về tính chất, trong đó
có loại tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Đây là loại tội phạm xâm
1
phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của con người. Đi đôi với việc
đời sống ngày càng nâng cao, mức độ tích lũy vốn, tài sản cũng càng lớn, vì vậy mà
loại tội phạm này đã và đang diễn biến phức tạp, tăng về số lượng, tính chất và thủ
đoạn ngày càng tinh vi. Đây là một thực tế khách quan.
Việc định tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản tại
Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian vừa qua cũng đã đạt được nhiều kết quả,
góp phần khơng nhỏ vào cơng tác phịng, chống tội phạm của cả nước nói chung và
Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Bên cạnh đó, thực tiễn định tội danh đối với tội
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản vẫn cịn nhiều khó khăn, vướng mắc, hạn chế
như: việc xác định tội danh, quyết định hình phạt, vấn đề hình sự hóa các quan hệ
dân sự, quan hệ kinh tế...Vừa qua Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung
năm 2017 có hiệu lực từ 01/01/2018 đã có nhiều nội dung đổi mới liên quan đến
loại tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Điều này đặt ra yêu cầu cần
phải có q trình nghiên cứu về lý luận, áp dụng vào thực tiễn đúng đắn và thống
nhất hơn.
Trước thực trạng nêu trên, tác giả cho rằng việc nghiên cứu cơ sở lý luận và
thực tiễn việc áp dụng pháp luật của các cơ quan tư pháp trong việc định tội danh
đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, đánh giá kết quả đạt được, những
hạn chế còn tồn tại và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng các quy
định của pháp luật hình sự Việt Nam trong việc định tội danh đối với tội lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản tại Thành phố Hồ Chí Minh là cần thiết.
Từ những lý do trên, học viên chọn đề tài “Định tội danh tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài luận
văn thạc sỹ luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Thực tiễn nghiên cứu khoa học pháp lý liên quan đến các tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt trong pháp luật hình sự Việt Nam nói chung và tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nói riêng là đề tài thu hút sự quan tâm của nhiều
nhà nghiên cứu khoa học xã hội. Trong tình hình hiện nay thì số lượng các bài viết,
2
cơng trình nghiên cứu về cải cách tư pháp và áp dụng pháp luật của Tòa án trong
việc định tội danh các loại tội phạm nói chung và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản nói riêng khá phong phú. Điển hình như:
- “Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam – Phần các tội phạm” của Trường Đại
học Luật Hà Nội, do Giáo sư tiến sỹ Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên, được Nhà xuất
bản Công an nhân dân xuất bản năm 2019;
- “Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam – Phần các tội phạm” của Trường Đại
học Kiểm sát Hà Nội do Tiến sỹ Phạm Mạnh Hùng và Tiến sỹ Lại Viết Quang chủ
biên, được Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội xuất bản năm 2019;
- Luận văn thạc sỹ luật học năm 2014 “Phân biệt các tội xâm phạm sở hữu với các
vi phạm trong giao dịch dân sự về tài sản” của tác giả Nguyễn Khánh Vân tại Đại học
Luật Hà Nội;
- Luận văn thạc sỹ luật học năm 2016 “Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
trong pháp luật hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Hồng Minh tại Đại học Luật
Hà Nội;
- Bài viết “Một số bất cập khi áp dụng pháp luật về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản” của tác giả Dương Thị Hải Yến đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 16 năm 2015.
- Bài viết “Những điểm mới của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy
định trong Bộ luật Hình sự” của tác giả Đinh Văn Quế đăng trên Tạp chí Tòa án số 8
năm 2016.
- Bài viết “Bàn về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản ” của tác giả Lê
Quang Sáng đăng trên Tạp chí Khoa học Kiểm sát số 3 năm 2014.
- Sách chuyên khảo “Các tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt” của
tác giả Cao Thị Oanh, được Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội xuất bản năm 2015.
Có thể nhận thấy những cơng trình nghiên cứu nói trên tuy đã có những phân
tích khá sâu sắc về loại tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, đã nêu ra
những vướng mắc, bất cập của pháp luật hiện hành trong việc xử lý loại tội phạm
này. Tuy nhiên, các cơng trình nghiên cứu hầu như đều dựa trên các quy định của
Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009. Sau khi Bộ luật Hình
sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 có hiệu lực, thì tổng quan có thể nhận thấy các
3
bài viết liên quan đến tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản chủ yếu là các bài
viết chuyên khảo dung lượng nhỏ, chưa tổng quan hết các quy định, ít bài viết đánh
giá hiệu quả hay hạn chế, bất cập của việc áp dụng các quy định mới của Bộ luật
Hình sự năm 2015 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên thực tiễn Việt
Nam và đặc biệt là Thành phố Hồ Chí Minh. Điều này đặt ra cho tác giả yêu cầu
phải nghiên cứu đề tài định tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và khảo sát tình hình thực tiễn về
định tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình
sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh, tác giả đề xuất các giải pháp áp
dụng đúng trong việc định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản tại
Thành phố Hồ Chí Minh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận việc định tội danh đối
với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản như khái niệm, đặc điểm, vai trị, quy
trình định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
- Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật về định tội danh tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2015, có sự đối chiếu, so sánh với các quy định trước đây.
- Đánh giá thực tiễn định tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đề xuất các giải pháp áp dụng đúng trong việc định tội danh đối với tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu dưới góc độ luật về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản và góc độ lý luận và thực tiễn trong việc trong việc định tội danh tội lạm dụng
4
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Cụ thể, đề tài tập
trung nghiên cứu các vấn đề sau:
- Các vấn đề về lý luận, các quan điểm về định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản như khái niệm, đặc điểm, vai trị, quy trình định tội danh đối với loại
tội phạm này.
- Các quy định của pháp luật hình sự về định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản.
- Thực tiễn định tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh bao gồm những kết quả đạt được, những khó
khăn tồn tại cũng như nguyên nhân của tình hình.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về không gian: Đề tài nghiên cứu trên cơ sở tổng hợp số liệu tình
hình giải quyết các vụ án lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn Thành
phố Hồ Chí Minh.
- Phạm vi về thời gian: Từ ngày 01/01/2018 đến 01/01/2021.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác
Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước về vấn đề nhà nước và pháp luật nói chung, về các vấn đề tội phạm và hình
phạt, về đấu tranh phịng, chống tội phạm; lý luận về tội phạm học.
Quá trình nghiên cứu luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như:
Phương pháp tổng hợp, phân tích, đánh giá, thống kê, khái qt hóa, phương pháp
lịch sử, tư duy logic, phương pháp quy nạp, diễn giải… để làm sáng tỏ nội dung và
phạm vi nghiên cứu của đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Về phương diện lý luận
Luận văn góp phần làm sáng tỏ, bổ sung, hồn thiện lý luận về định tội danh
đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản bao gồm các khái niệm, đặc điểm
5
tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản; Khái niệm, đặc điểm, vai trò của việc định
tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản; Quy trình định tội danh
đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
hiện hành trên cơ sở đánh giá, so sánh với pháp luật hình sự Việt Nam trước đây.
6.2. Về thực tiễn
Luận văn góp phần hồn chỉnh, hồn thiện chính sách và góp phần hiệu quả
việc áp dụng đúng pháp luật hình sự về định tội danh đối với loại tội phạm lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 03 chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận về định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản.
Chương 2: Tình hình có liên quan và thực tiễn định tội danh tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp bảo đảm hiệu quả định tội danh đúng tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản tại Thành phố Hồ Chí Minh.
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH TỘI DANH
TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của việc định tội danh tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản
1.1.1. Khái niệm định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
- Khái niệm định tội danh
Để xác định một tội phạm nói chung và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản nói riêng và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội thì các cơ
quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng phải thực hiện nhiều hoạt
động tố tụng khác nhau theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Hoạt động định
tội danh là hoạt động trọng tâm của các hoạt động tố tụng hình sự, các hoạt động tố
tụng hình sự khác có chức năng bổ trợ cho hoạt động định tội danh.
Hoạt động định tội danh chính là hoạt động áp dụng pháp luật, trên cơ sở căn
cứ theo các quy định của pháp luật hình sự thì các cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng đưa ra kết luận về một tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với người phạm tội về tội phạm mà họ đã thực hiện.
Hoạt động định tội danh bao gồm việc xác định tội phạm để từ đó xác định
người phạm tội, hoặc ngược lại xác định người phạm tội rồi đến tội phạm.
Thực tiễn có những hoạt động nghiên cứu khoa học hình sự, hoạt động bào
chữa của Luật sư...mang những đặc điểm giống với hoạt động định tội danh về việc
xác định tội phạm, và trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội nhưng các hoạt
động này không phải là hoạt động định tội danh, không phải là hoạt động áp dụng
pháp luật mà chỉ mang tính chất nghiên cứu, tranh luận về lĩnh vực tội phạm và việc
định tội danh. Hệ quả của các hoạt động trên không dẫn đến truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với người phạm tội. Tuy nhiên các hoạt động như nghiên cứu, bào chữa
nói trên cũng có những mối liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động định tội danh.
Có quan điểm định nghĩa về định tội danh như sau: “Định tội danh là thuật
ngữ dùng để chỉ hoạt động đối chiếu sự phù hợp giữa các dấu hiệu thực tế của cấu
7
thành tội phạm với các dấu hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm được miêu tả quy
định trong Bộ luật Hình sự để xác định tội phạm đã xảy ra và người phạm tội, cũng
như xác định khơng có tội phạm xảy ra và khơng có người phạm tội hoặc người bị
tình nghi khơng phải là người thực hiện tội phạm (tức là họ không phạm tội) bằng
việc ra kết luận bằng văn bản áp dụng pháp luật trong tố tụng hình sự của cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có thẩm quyền trong tố tụng hình sự”[7].
Tác giả cũng đồng tình với quan điểm trên, tuy nhiên khi nói đến mục đích
của hoạt động định tội danh không chỉ đơn thuần là xác định có hay khơng có tội
phạm và người phạm tội mà mục đích của hoạt động định tội danh là để xác định
đúng tội phạm, tránh oan sai, không bỏ lọt tội phạm.
Do đó, tác giả cho rằng định tội danh là hoạt động áp dụng pháp luật của cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có thẩm quyền nhằm đối chiếu sự
phù hợp giữa các dấu hiệu thực tế của cấu thành tội phạm với các dấu hiệu pháp lý
của cấu thành tội phạm được miêu tả quy định trong Bộ luật Hình sự để xác định
đúng tội phạm, tránh oan sai nhưng cũng không bỏ lọt tội phạm.
- Khái niệm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Theo Từ điển Tiếng Việt thì “lạm dụng” là “sử dụng quá mức hoặc quá giới
hạn đã được quy định” [39];
Theo Từ điển Hán Việt thì “tín nhiệm” nghĩa là “tin cậy trong một nhiệm vụ
cụ thể nào đó [12], “tài sản” là “tiền của, của cải nói chung” [13] hoặc là “của cải
vật chất dùng để sản xuất hoặc tiêu dùng” [43]. Theo Từ điển Tiếng Việt thì “tín
nhiệm” có nghĩa là “coi là đáng tin” [24].
Theo quy định tại Điều 105 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì: “Tài sản là vật,
tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”.
Vật là một bộ phận của thế giới vật chất được giới hạn trong không gian, và
chỉ được coi vật là đối tượng của quyền sở hữu nếu vật đó có khả năng thỏa mãn
một nhu cầu nào đó của con người và con người có khả năng chi phối được, chiếm
hữu được nó. Tùy vào sự phát triển của khoa học kỹ thuật mà nhiều vật trong thế
giới vật chất trở thành tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015.
8
Tiền là vật ngang giá chung dùng làm thước đo giá trị các loại tài sản khác. Tiền
được coi là tài sản bởi nó có giá trị lưu hành, là phương tiện thanh toán trong các quan hệ
pháp luật như hợp đồng, bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, theo pháp luật dân sự Việt Nam
thì ngoại tệ khơng được coi là tiền vì nó thuộc loại tài sản hạn chế lưu thơng.
Giấy tờ có giá được hiểu là giấy tờ trị giá được bằng tiền và chuyển giao
được trong giao dịch dân sự. Giấy tờ có giá có nhiều dạng khác nhau như cổ phiếu,
trái phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu. Đặc điểm chung của giấy tờ có giá là: Xác định được
bằng tiền; Chỉ được tạo ra bởi một số chủ thể có điều kiện do Luật định; Chỉ được
coi là hợp lệ nếu được phát hành hợp pháp và ở thời điểm có hiệu lực; Khi chuyển
nhượng khơng cần phải chuyển giao thực tế bằng hiện vật mà chỉ cần thơng qua thủ
tục giấy tờ tại tổ chức có trách nhiệm; Có giấy tờ có khả năng chuyển nhượng và có
những giấy tờ có giá khơng có khả năng chuyển nhượng như cổ phiếu ưu đãi biểu
quyết...; Giấy tờ có giá xác nhận quan hệ tài sản với những chủ thể nhất định như
quyền đối với vốn góp...
Quyền tài sản, theo quy định tại Điều 115 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì
“Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối
tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác”. Bộ luật
Dân sự hiện hành công nhận một số quyền sau đây là quyền tài sản: Quyền tài sản
phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây
trồng, quyền đòi nợ, được nhận số tiền bảo hiểm đối với vật bảo đảm, quyền tài sản
đối với phần vốn góp trong doanh nghiệp, quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng,
quyền sử dụng đất, quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên, quyền yêu cầu bồi
thường thiệt hại...
Như vậy, không phải loại tài sản nào cũng là đối tượng của tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản, ví dụ như các quyền tài sản, giấy tờ có giá...
Theo Từ điển Hán Việt thì “chiếm” là “lấy làm của mình” [6] hoặc “dùng
sức mạnh, thế lực mà lấy làm của mình” [12].
9
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là “hành vi cố ý chuyển dịch một
cách trái pháp luật tài sản của người khác thành tài sản của mình, hoặc một nhóm
người hoặc cho người khác mà mình quan tâm” [3].
Từ những phân tích trên đây, tác giả cho rằng có thể đưa ra khái niệm định
tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản như sau:
Định tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hoạt động
áp dụng pháp luật, theo đó, đối chiếu sự phù hợp giữa các dấu hiệu thực tế của cấu
thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với các dấu hiệu pháp lý của cấu
thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định trong Bộ luật Hình
sự để xác định việc có tội phạm hay khơng và trách nhiệm hình sự đối với người
phạm tội đã thực hiện tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Chủ thể thực hiện hoạt động định tội danh là cơ quan tiến hành tố tụng và
người tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền được Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2015 quy định. Tại Điều 34 của Bộ luật này đã quy định có 03 loại cơ quan tiến
hành tố tụng gồm Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án [21]. Trong các cơ quan
tiến hành tố tụng thì có nhiều người tiến hành tố tụng nhưng khơng phải tất cả
những người tiến hành tố tụng đều có thẩm quyền định tội danh mà chỉ có các chức
danh cụ thể sau: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra [21]; Viện trưởng,
Phó Viện trưởng Viện kiểm sát [21]; Chánh án, Phó Chánh án Tịa án, Thẩm phán,
Hội thẩm nhân dân [21] mới có thẩm quyền định tội danh. Những người tiến hành
tố tụng khác như Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thư ký Tòa án, Thẩm tra viên,..chỉ
thực hiện các hoạt động hỗ trợ cho hoạt động định tội danh, giúp việc cho những
người có thẩm quyền định tội danh chính xác và đúng quy định.
Định tội danh là một hoạt động áp dụng pháp luật nên trình tự, thủ tục thực
hiện hoạt động định tội danh đều phải hết sức chặt chẽ theo quy định của pháp luật
mà cụ thể là Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Hoạt động định tội danh được tiến
hành thông qua nhiều giai đoạn mà tại phần sau của luận văn này tác giả sẽ khái
quát về vấn đề này.
10
1.1.2. Đặc điểm định tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản
Từ khái niệm về định tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản có thể rút ra một số đặc điểm của hoạt động này như sau:
Bản chất của hoạt động định tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản là hoạt động áp dụng pháp luật, do đó, định tội danh mang những đặc
điểm chung của hoạt động áp dụng pháp luật:
- Thứ nhất, hoạt động định tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản là hoạt động áp dụng pháp luật mang tính quyền lực nhà nước.
Hoạt động định tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
được tiến hành bởi những cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng hình
sự có thẩm quyền tiến hành trong phạm vi quyền hạn được pháp luật quy định. Đây
là những chủ thể được trao quyền lực nhà nước để thực hiện nhiệm vụ công vụ.
Định tội danh vừa là nhiệm vụ vừa là quyền hạn. Những chủ thể này được Bộ luật
Tố tụng hình sự quy định tại Điều 34 gồm có Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa
án là các cơ quan tiến hành tố tụng và Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều
tra; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát; Chánh án, Phó Chánh án Tịa án,
Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân là những người tiến hành tố tụng có thẩm quyền
định tội danh. Những người tiến hành tố tụng khác như đã đề cập ở trên là các Điều
tra viên, Kiểm sát viên, Thư ký Tòa án, Thẩm tra viên,..sẽ thực hiện các hoạt động
hỗ trợ cho hoạt động định tội danh theo đúng quy định.
Hoạt động định tội danh thể hiện ý chí của nhà nước, nên việc định tội danh
không chỉ phải phù hợp với pháp luật thực định mà cịn phải phù hợp với chủ
trương, chính sách của Nhà nước tùy từng giai đoạn. Việc định tội danh luôn được
đảm bảo thi hành bằng các sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. Hoạt động định tội
danh mang tính bắt buộc đối với người phạm tội thực hiện hành vi tội phạm nói
chung và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nói riêng.
11
- Thứ hai, hoạt động định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
phải tn theo trình tự, thủ tục chặt chẽ và có hình thức theo quy định của pháp luật
hình sự.
Việc định tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nhằm
xác định có tội phạm xảy ra hay khơng và có người phạm tội hay khơng có người
phạm tội. Trong trường hợp có người phạm tội và tội phạm thì người phạm tội phải
gánh chịu trách nhiệm hình sự - hệ quả bất lợi, khi người phạm tội phải gánh chịu
những hình phạt mà Bộ luật Hình sự đã quy định. Xuất phát từ điều này mà pháp
luật buộc phải quy định rõ ràng về điều kiện, trình tự, thủ tục, quyền và nghĩa vụ
của các chủ thể trong quá trình định tội danh, tránh việc định tội danh tùy tiện,
khơng đúng, khơng chính xác gây thiệt hại cho người phạm tội, hoặc người bị tình
nghi phạm tội, người khơng có hành vi phạm tội.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định về các giai đoạn tố tụng khác
nhau của hoạt động định tội danh như giai đoạn điều tra, giai đoạn truy tố, giai đoạn
xét xử. Mỗi giai đoạn được pháp luật quy định vô cùng chặt chẽ về thẩm quyền,
trình tự tiến hành, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể. Việc không tuân thủ đúng
trình tự thủ tục mà Bộ luật Tố tụng hình sự quy định sẽ làm cho hoạt động định tội
danh khơng đúng, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của con người.
- Thứ ba, hoạt động định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
là hoạt động điều chỉnh mang tính cá biệt. Mục đích của việc định tội danh là cá
biệt hóa các quy phạm pháp luật hình sự trong những điều kiện, yếu tố cụ thể. Hoạt
động định tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hoạt động
đối chiếu các dấu hiệu thực tế của cấu thành tội phạm với các dấu hiệu pháp lý được
Bộ luật Hình sự quy định. Thông qua hoạt động định tội danh, các quy tắc xử sự
chung của pháp luật hình sự sẽ được cá biệt hóa một cách chính xác thành quy tắc
xử sự cụ thể cho mỗi trường hợp cụ thể. Tất nhiên, các quy tắc xử sự cụ thể nói trên
khơng được trái với các quy tắc xử sự chung mà pháp luật quy định.
- Thứ tư, hoạt động định tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản được thực hiện bằng việc ra kết luận bằng văn bản áp dụng pháp luật. Nội
12
dung của các kết luận trong hoạt động định tội danh ln chứa đựng nội dung định
tội danh. Hình thức của các kết luận phải được ban hành bằng văn bản, tương ứng
với từng giai đoạn tố tụng và thẩm quyền giải quyết và phải phù hợp với các quy
định của pháp luật hình sự. Cụ thể các hình thức văn bản áp dụng pháp luật trong
hoạt động định tội danh ở các giai đoạn tố tụng bao gồm: Quyết định khởi tố/không
khởi tố vụ án; Quyết định thay đổi bổ sung quyết định khởi tố vụ án; Quyết định
khởi tố bị can; Quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can; Quyết
định đình chỉ điều tra bị can; Quyết định điều tra bổ sung, điều tra lại; Quyết định
phục hồi điều tra, Quyết định nhập hoặc tách vụ án hình sự để tiến hành điều tra;
Kết luận điều tra; Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung; Bản cáo trạng; Bản
kháng nghị; Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án; Bản án; Quyết định trả hồ sơ để
điều tra, xét xử lại; Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm,... [21]
Thứ năm, mục đích của hoạt động định tội danh tội lạm dụng chiếm đoạt tài
sản là làm sao xác định đúng tội, tránh oan sai, tránh bỏ lọt tội phạm. Việc định tội
danh đúng sẽ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức, là cơ sở để
buộc người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự với các mức hình phạt cụ thể
theo quy định của Bộ luật Hình sự.
Việc định tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa
bàn Thành phố Hồ Chí Minh cũng mang những đặc điểm đặc thù như tác giả đã
phân tích như trên. Đó là hoạt động định tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh là một hoạt động áp dụng
pháp luật mang tính quyền lực nhà nước; Hoạt động định tội danh tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản phải tn theo trình tự, thủ tục chặt chẽ và có hình thức
theo quy định của pháp luật hình sự; Hoạt động định tội danh tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản là hoạt động điều chỉnh mang tính cá biệt; Hoạt động định
tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được thực hiện bằng việc
ra kết luận bằng văn bản áp dụng pháp luật; Mục đích của hoạt động định tội danh
tội lạm dụng chiếm đoạt tài sản là làm sao xác định đúng tội, tránh oan sai, tránh bỏ
lọt tội phạm. Tuy nhiên, tác giả cũng cho rằng hoạt động định tội danh tội lạm dụng
13
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh cịn chịu chi phối
riêng của các đặc điểm kinh tế, xã hội, dân cư riêng biệt. Thành phố Hồ Chí Minh là
một đơ thị lớn có trình độ phát triển cao bậc nhất cả nước, dân cư đơng, do đó, tình
hình tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh chiếm số lượng lớn hơn và tính chất phức tạp hơn so với nhiều địa
phương khác trên cả nước. Tuy nhiên hoạt động định tội danh loại tội phạm này trên
địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh ln được bảo đảm thực hiện tốt do có sự vượt trội
về nền tảng kỹ thuật và trình độ con người. Điều này góp phần lớn cho sự ổn định
tình hình trật tự, trị an của Thành phố, góp phần cho sự phát triển của địa phương
này nói riêng và Thành phố nói chung.
1.1.3. Vai trị của việc định tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản
Định tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là cơ sở để
buộc người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự với các mức hình phạt cụ thể
theo quy định của Bộ luật Hình sự. Do đó nếu các cơ quan tiến hành tố tụng và
người tiến hành tố tụng thực hiện hoạt động định tội danh đúng quy định của pháp
luật thì việc người phạm tội bị phán quyết phải chịu mức hình phạt tương ứng cho
mức độ nguy hiểm của hành vì là khách quan, có căn cứ, đúng trình tự, đúng pháp luật.
Việc xác định đúng tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản sẽ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức. Khoản 3 Điều 51
Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định: “Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức đầu
tư, sản xuất, kinh doanh được pháp luật bảo hộ”. Hoạt động định tội danh đúng bảo
vệ quyền sở hữu hợp pháp của các chủ thể đối với tài sản của mình. Việc bảo vệ
đúng đắn, kịp thời, nghiêm trị các hành vi xâm phạm quyền sở hữu tài sản sẽ tạo ra
động lực cho con người sử dụng tài sản của mình cho hoạt động sản xuất, tiêu dùng,
tạo ra của cải vật chất cho xã hội và nâng cao đời sống cho con người.
Việc định tội danh đúng thể hiện trách nhiệm, đạo đức công vụ của các cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, thể hiện sự nhận thức đúng đắn
trong việc định tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Chỉ khi
14
việc định tội danh đúng đắn thì mới áp dụng đúng đắn các quy định của pháp luật
hình sự. Việc định tội danh đúng thể hiện tính hiệu quả, hiệu lực trong việc áp dụng
pháp luật hình sự của các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền.
Việc định tội danh đúng sẽ loại trừ các trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng quy trách nhiệm hình sự và hình phạt cho người khơng có
hành vi tội phạm, góp phần bảo vệ quyền con người.
Bên cạnh việc định tội danh đúng thì việc các cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng định tội danh sai đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản sẽ gây ra những hậu quả vô cùng to lớn, cụ thể: thể hiện quá trình định tội
danh không khách quan và đúng quy định, không đúng trình tự thủ tục dẫn đến việc
kết tội oan cho người không thực hiện hành vi phạm tội hoặc bỏ lọt tội phạm, xâm
phạm quyền con người, ảnh hưởng đến tính hiệu lực, hiệu quả của các cơ quan có
thẩm quyền trong hoạt động định tội danh, gây sa sút niềm tin của nhân dân đối với
hoạt động định tội danh. Việc định tội danh sai, áp dụng trách nhiệm hình sự sai có
thể gây nên tình trạng oan sai, dẫn đến trách nhiệm bồi thường của cơ quan thực
hiện hoạt động định tội danh, gây tốn kém tiền bạc của nhà nước, thiệt hại nghiêm
trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của con người. Thực tiễn đã cho thấy khơng ít
vụ án oan sai do việc đánh giá các tài liệu chứng cứ nhằm xác định tội phạm và
người phạm tội chưa cẩn trọng, nóng vội, khơng khách quan mà mang tính chủ
quan, định kiến có tội.
Định tội danh sai đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản sẽ ảnh
hưởng đến tính nghiêm minh và đúng đắn của các quyết định áp dụng pháp luật,
làm giảm hiệu quả giáo dục người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội, nâng
cao ý thức chấp hành pháp luật của người phạm tội, giảm hiệu quả ngăn ngừa người
phạm tội phạm tội mới. Việc định tội danh sai cũng làm giảm tính hiệu quả trong
cơng tác giáo dục người dân tôn trọng pháp luật, trong công tác đấu tranh phịng
ngừa và chống tội phạm nói chung và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nói
riêng, nhiều trường hợp gây ra dư luận xã hội, thái độ bức xúc của người dân, ảnh
hưởng đến tình hình trật tự, ổn định của địa phương.
15
1.2. Cơ sở pháp lý và quy trình định tội danh đối với tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam
1.2.1. Cơ sở pháp lý của việc định tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản theo quy định của Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng hình sự
1.2.1.1. Dấu hiệu pháp lý của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Về mặt khoa học hình sự thì cấu thành tội phạm được coi là cơ sở pháp lý
của định tội danh [32]. Để làm cơ sở định tội danh, cần nghiên cứu, nắm vững cấu
thành tội phạm. Cấu thành tội phạm là tổng hợp những dấu hiệu chung có tính đặc
trưng cho mỗi loại tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật Hình sự. Các dấu
hiệu chung có tính đặc trưng cho mỗi loại tội phạm cụ thể luôn được phản ánh trong
bốn yếu tố:
- Mặt khách quan của tội phạm: Là những biểu hiện bên ngoài của tội phạm
gồm có hành vi gây nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan
hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả cũng như các biểu hiện khác như công cụ,
phương tiện, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh... phạm tội.
- Mặt chủ quan của tội phạm: Là những biểu hiện tâm lý bên trong tội phạm
là lỗi, mục đích và động cơ phạm tội.
- Khách thể của tội phạm: Quan hệ xã hội bị xâm hại.
- Chủ thể của tội phạm: Là con người cụ thể, có năng lực trách nhiệm hình sự
và đạt độ tuổi mà pháp luật quy định chịu trách nhiệm hình sự.
Cấu thành tội phạm có thể được phân loại theo nhiều tiêu chí, cụ thể như:
- Phân loại tội phạm theo mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội thì có cấu
thành tội phạm cơ bản, cấu thành tội phạm tăng nặng, cấu thành tội phạm giảm nhẹ.
Trong đó, cấu thành tội phạm cơ bản là cấu thành tội phạm chỉ có dấu hiệu định tội,
dấu hiệu này mơ tả tội phạm và cho phép phân biệt tội này với tội khác. Cấu thành
tội phạm tăng nặng là cấu thành tội phạm mà ngồi dấu hiệu định tội cịn có thêm
dấu hiệu phản ánh tội phạm có mức độ tính chất nguy hiểm tăng hơn bình thường.
Cấu thành tội phạm giảm nhẹ là cấu thành tội phạm mà ngoài dấu hiệu định tội cịn
có thêm dấu hiệu phản ánh tội phạm có mức độ tính chất nguy hiểm giảm xuống so
16
với bình thường. Trong các loại cấu thành tội phạm nói trên thì chỉ có cấu thành tội
phạm cơ bản có ý nghĩa trong việc định tội danh.
- Phân loại tội phạm theo đặc điểm cấu trúc của cấu thành tội phạm thì có
cấu thành tội phạm vật chất và cấu thành tội phạm hình thức. Theo đó, cấu thành tội
phạm vật chất là cấu thành tội phạm có mặt khách quan của tội phạm là hành vi,
hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả. Cấu thành tội phạm hình
thức là cấu thành có mặt khách quan của tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội
Tuy nhiên việc phân loại này cũng không mang lại ý nghĩa trong việc định tội danh,
việc phân loại này chỉ có ý nghĩa phân biệt loại tội theo nhóm, hiểu sâu thêm về tính
chất của từng nhóm tội phạm. Nhiều trường hợp nhiều tội danh được quy định trong
Bộ luật Hình sự khơng thể phân biệt được tội đó là dạng tội có cấu thành hình thức
hay vật chất ví dụ như tội xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo...
Đối chiếu với quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung
năm 2017 thì cấu thành tội phạm đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
được xác định như sau:
Thứ nhất, mặt khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản bao
gồm các dấu hiệu sau đây:
- Về hành vi: Có một trong các hành vi sau đây:
+ Có hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác. Chiếm đoạt tài sản là “hành
vi cố ý chuyển biến một cách trái pháp luật tài sản của người khác thành tài sản của
mình” [3] sau khi vay, mượn, thuê hay nhận được tài sản của người khác bằng các
hình thức hợp đồng rồi bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt hoặc đến thời hạn trả lại
tài sản, mặc dù có điều kiện và khả năng trả tài sản nhưng cố tình khơng trả.
Được xem là có hành vi chiếm đoạt khi có một trong các dấu hiệu sau:
Một là, có điều kiện và khả năng trả lại tài sản nhưng cố tình khơng trả. Có
điều kiện, khả năng trả được hiểu là người phạm tội có các tài sản như nhà, đất, tiền
mặt... hoặc có nguồn tài sản như được hưởng thừa kế chưa chia... Hành vi cố tình
khơng trả được hiểu là tìm mọi cách để thối thác việc trả nợ, hoặc tuyên bố không
trả nợ hoặc né tránh việc trả nợ. Nếu như có hứa trả nợ và chưa có điều kiện trả nợ
17
(chưa thể chia thừa kế, chưa thể bán tài sản nhà, đất...) thì khơng coi là cố tình
khơng trả.
Hai là, có thủ đoạn gian dối để khơng phải trả lại tài sản. Dùng thủ đoạn gian
dối là đưa ra thông tin không đúng sự thật nhưng làm cho người khác tin là thật.
Việc đưa ra các thơng tin giả có thể được thực hiện bằng lời nói, chữ viết, hành
động...Tuy nhiên cần phân biệt thủ đoạn gian dối trong cấu thành tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Cụ thể, đối với tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản thì người phạm tội đã có ý thức chiếm đoạt tài sản trước khi thực
hiện các giao dịch tài sản, còn đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì
người phạm tội khơng có ý thức chiếm đoạt tài sản trước khi thực hiện các giao dịch
về tài sản. Thời điểm xuất hiện thủ đoạn gian dối khác nhau cũng sẽ tương ứng với
loại tội phạm khác nhau. Một lưu ý khác rằng thủ đoạn gian dối phải gắn liền và có
mối quan hệ nhân quả với hành vi dùng thủ đoạn gian dối. Do đó, có một số hành vi
tuy có thủ đoạn gian dối nhưng là để chiếm giữ, sử dụng tài sản (thay vì chiếm đoạt
tài sản) thì sẽ bị truy cứu tội chiếm giữ trái phép tài sản hoặc tội sử dụng trái phép
tài sản mà khơng bị truy cứu tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Ba là, có hành vi bỏ trốn. Hành vi bỏ trốn được hiểu là hành vi trốn tránh để
không phải thực hiện nghĩa vụ trả tiền sau khi đã tham gia các giao dịch liên quan
đến tài sản như vay, mượn, thuê tài sản...Theo Từ điển Tiếng Việt thì “trốn tránh” là
“trốn để khỏi phải gặp, phải làm hoặc phải chịu điều khơng hay, khơng thích nào
đó” [31]. Một số tiêu chí xác định một người có hành vi bỏ trốn hay khơng thì cần
căn cứ vào việc họ rời bỏ nơi cư trú là lén lút hay cơng khai (có khai báo tạm vắng
hay khơng), lý do của việc rời bỏ nơi cư trú, mục đích của việc rời bỏ nơi cư trú,
việc rời bỏ nơi cư trú là tạm thời hay vô thời hạn. Nếu việc rời bỏ nơi cú trú được
thực hiện một cách lén lút, không khai báo tạm vắng tại cơ quan công an có thẩm
quyền hoặc cơng khai nhưng khơng xác định được thời hạn, lý do của việc rời bỏ
nơi cư trú khơng có lý do chính đáng thì được xác định là hành vi bỏ trốn. Hành vi
bỏ trốn là dấu hiệu khách quan của cấu thành cơ bản tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản được quy định tại Điều 140 Bộ luật Hình sự năm 1999. Tuy nhiên thực
18
tiễn áp dụng gặp nhiều khó khăn khi xác định hành vi bỏ trốn. Do đó, từ Bộ luật
năm 2015, hành vi bỏ trốn đã khơng cịn được xem là dấu hiệu khách quan của cấu
thành cơ bản tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Bốn là, có hành vi sử dụng tài sản mà mình đã có được thông qua các giao
dịch dân sự vay, thuê, mượn...vào mục đích bất hợp pháp như hối lộ, đánh bạc,
bn bán hàng giả, mua bán ma túy... dẫn đến khơng có khả năng trả lại tài sản cho
bên vay, cho mượn hoặc giao tài sản. “Dùng tài sản vào mục đích bất hợp pháp”
được hiểu rằng là việc dùng tài sản vào những việc trái pháp luật, thực tiễn thì việc
dùng tài sản với mục đích trái pháp luật ở đây chỉ là trái pháp luật hình sự như hối
lộ, đánh bạc, mua bán ma túy, bn lậu...
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thơng thường cũng có giai đoạn
phạm tội chưa đạt nhưng thường rất hy hữu do tài sản chiếm đoạt do người phạm
tội quản lý, nên hành vi phạm tội đồng nghĩa với việc chiếm đoạt đã hoàn thành.
Chỉ trong trường hợp người phạm tội dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản
nhưng vì lý do khách quan nên chưa thể chiếm đoạt được thì trường hợp này thuộc
giai đoạn phạm tội chưa đạt.
Ngồi ra tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cịn có một trong các dấu
hiệu khác đó là: Giá trị tài sản bị chiếm đoạt từ bốn triệu đồng trở lên; Hoặc tài sản
bị chiếm đoạt dưới bốn triệu đồng nhưng thuộc trường hợp đã bị xử phạt vi phạm
hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản hoặc các tội chiếm đoạt tài sản quy định tại các Điều 168, 169, 170,
171, 172, 173, 174, 290 chưa được xóa án tích mà cịn vi phạm; Tài sản là phương
tiện kiếm sống chính của người bị hại.
Thứ hai, khách thể tội lạm dụng chiếm đoạt tài sản: Hành vi tội phạm đã xâm
phạm đến quyền sở hữu tài sản của tổ chức, công dân. Người phạm tội lạm dụng
chiếm đoạt tài sản đã xâm phạm đến quan hệ sở hữu mà pháp luật bảo vệ. Quan hệ
sở hữu là quan hệ xã hội trong đó quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản
được tôn trọng bảo vệ [33]. Do đó, hành vi xâm phạm đến quan hệ sở hữu tức là
xâm phạm đến các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản.
19
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thuộc nhóm các tội phạm xâm
phạm quyền sở hữu. Do đó, khách thể của các tội lạm dụng chiếm đoạt tài sản cũng
giống như một số tội như tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tội cưỡng đoạt tài sản, tội
cướp tài sản...
Thứ ba, mặt chủ quan của tội lạm dụng chiếm đoạt tài sản thì người phạm tội
thực hiện tội phạm này với lỗi cố ý.
Thứ tư, chủ thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là con người cụ
thể có năng lực trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự đã thực hiện
hành vi phạm tội. Theo đó, chủ thể thực hiện tội phạm được xác định là người đủ độ
tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có đầy đủ khả năng nhận thức, khả năng điều khiển
hành vi. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 12 Bộ luật Hình sự thì chỉ những người từ
đủ 16 tuổi trở lên mới có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản.
1.2.1.2. Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong
trường hợp có đồng phạm
Trong thực tiễn xảy ra các tội phạm nói chung và tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản nói riêng thì tội phạm có thể do một chủ thể thực hiện hoặc cũng
có thể là sự phối hợp cùng tham gia của nhiều chủ thể khác nhau. Khi có nhiều chủ
thể cùng thực hiện tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì việc định tội đối
với họ là rất phức tạp. Cơ sở pháp lý của việc định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản trong trường hợp có đồng phạm đã được Bộ luật Hình sự quy
định chi tiết. Cụ thể:
Theo Khoản 1 Điều 17 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì: “Đồng phạm là trường
hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm”. Quy định trên có sự kế
thừa nguyên vện từ Điều 20 Bộ luật Hình sự năm 1999. Tuy nhiên tại Bộ luật Hình
sự năm 2015, các nhà làm luật đã bổ sung thêm quy định về “người đồng phạm” tại
Khoản 4, theo đó “Người đồng phạm bao gồm người tở chức, người thực hành,
người xúi giục, người giúp sức”.
20