Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

TIỂU LUẬN Trình bày nội dung chỉ thị Kháng chiến kiến quốc ngày 25111945 Liên hệ thực tiễn hoạt động lãnh đạo chống dịch như chống giặc của Đảng trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.93 KB, 19 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CƠNG NGHỆ GIAO THƠNG VẬN TẢI
KHOA CHÍNH TRỊ - QPAN – GDTC
*****

BÀI TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề tài:
Trình bày nội dung chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” ngày
25/11/1945? Liên hệ thực tiễn hoạt động lãnh đạo “chống dịch như
chống giặc” của Đảng trong giai đoạn hiện nay?

Sinh viên thực hiện
Mã sinh viên
Lớp
Giảng viên hướng dẫn

:
:
:
:

Nguyễn Thành Đạt
70DCOT31005
70DCOT31
Vũ Quỳnh Anh

Thái Nguyên, tháng 12 năm 2021
1


MỤC LỤC


PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................3
PHẦN NỘI DUNG....................................................................................................4
I/ Bối cảnh nước ta sau cách mạng tháng 8/1945......................................................4
II/ Nội dung chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương về “kháng chiến kiến quốc”
25-11-1945. ................................................................................................................ 6
III/ Triển khai chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương về “Kháng chiến kiến quốc”.
.................................................................................................................................... 7
1. Nội chính.................................................................................................................7
2. Kinh tế tài chính.....................................................................................................8
3. Văn hóa (Diệt giặc dốt)........................................................................................11
4. Qn sự - ngoại giao............................................................................................12
IV/ Kết quả, ý nghĩa, bài học kinh nghiệm.............................................................13
1. Kết quả..................................................................................................................13
2. Ý nghĩa và nguyên nhân thắng lợi.......................................................................14
3. Bài học kinh nghiệm............................................................................................14
V/ Liên hệ thực tiễn hoạt động lãnh đạo “chống dịch như chống giặc” của Đảng
trong giai đoạn hiện nay.............................................................................................14
1. Bối cảnh của Nước ta hiện nay..........................................................................14
2. Nhiệm vụ đặt ra..................................................................................................15
3. Tầm quan trọng của Đảng và sự đoàn kết của Nhân dân...................................15
PHẦN KẾT BÀI......................................................................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................16


PHẦN MỞ ĐẦU
Cách mạng Tháng Tám thành công đã đưa đến sự ra đời của nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà. Nhà nước cách mạng non trẻ vừa mới ra đời đã đứng trước những thách
thức tưởng chừng khó vượt qua: thù trong, giặc ngồi và những khó khăn về kinh tế,
chính trị, văn hố, xã hội,...do chế độ thực dân phong kiến để lại. Vận mệnh dân tộc như
"ngàn cân treo sợi tóc". Đảng ta từ một Đảng hoạt động bí mật trở thành Đảng cầm

quyền, đứng trước tình thế phức tạp, buộc Đảng lại phải rút vào hoạt động bí mật (dưới
hình thức tun bố "Tự ý giải tán" từ ngày 11-11-19451), nhưng vẫn duy trì phương
thức lãnh đạo "khơn khéo", "kín đáo". Vì vậy, các cơ quan lãnh đạo của Đảng phải có
hình thức ban hành nghị quyết phù hợp, linh hoạt, bảo đảm lãnh đạo kịp thời cơng cuộc
đấu tranh xây dựng và bảo vệ chính quyền non trẻ. Ngày 25-11-1945, Ban Thường vụ
Trung ương Đảng ra Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc. Chỉ thị phân tích những thay đổi
căn bản về tình hình quốc tế và trong nước sau chiến tranh, nhận định lực lượng hồ
bình, dân chủ thế giới đã mạnh hơn lực lượng chiến tranh. Bốn mâu thuẫn cơ bản trên
thế giới vẫn còn và ngày càng sâu sắc, nhưng mâu thuẫn giữa các dân tộc bị áp bức với
chủ nghĩa đế quốc gay go hơn hết ở Đơng Nam Á. Về tình hình trong nước, Chỉ thị nhận
định: chính quyền nhân dân đã được thành lập trên khắp đất nước nhưng đang ở trong
tình thế vơ cùng gay go, phức tạp, khơng những phải đối phó với thực dân Pháp xâm
lược mà cịn phải đối phó với qn Anh, qn Tưởng, với bọn phản cách mạng, với nạn
đói và các khó khăn về kinh tế, tài chính.
Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của đảng nước ta đã vượt qua mn vàn khó khăn của
thời kì nước ta mới ra đời. Để hiểu thêm về công cuộc xây dựng đất nước ta trong thời
kì này, chúng em xin nghiên cứu đề tài: “Chủ trương “kháng chiến – kiến quốc” của
trung ương đảng ngày 25/11/1945”.


PHẦN NỘI DUNG
I/ Bối cảnh nước ta sau cách mạng tháng 8/1945.
Sau Cách mạng Tháng Tám, chính quyền nhân dân vừa mới được thành lập đã phải
đương đầu với những khó khăn, thử thách rất nghiêm trọng. Đất nước bị các thế lực đế
quốc, phản động bao vây và chống phá quyết liệt.
Cuối tháng 8 - 1945, theo thoả thuận của Đồng minh ở Hội nghị Pốtxđam
(Posdam), gần 20 vạn quân của chính phủ Tưởng Giới Thạch ồ ạt kéo vào nước ta từ vĩ
tuyến 16 trở ra làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật. Theo chúng là lực lượng tay sai
phản động trong hai tổ chức "Việt quốc" (Việt Nam quốc dân Đảng) và "Việt cách"
(Việt Nam cách mạng đồng minh hội). Vào Việt Nam, quân Tưởng Giới Thạch còn ráo

riết thực hiện âm mưu tiêu diệt Đảng ta, phá tan Việt Minh, đánh đổ chính quyền cách
mạng, lập chính quyền phản động tay sai của chúng. Đằng sau quân Tưởng là đế quốc
Mỹ đang nuôi dã tâm đặt Đông Dương dưới chế độ "uỷ trị", một trá hình của chế độ
thuộc địa kiểu mới của Mỹ.
Phía Nam vĩ tuyến 16, quân đội Anh với danh nghĩa quân Đồng minh giải giáp
quân đội Nhật đã đồng loã và tiếp tay cho thực dân Pháp quay lại Đông Dương. Ngày
23-9-1945, được quân Anh giúp sức, thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn, mở
đầu cuộc xâm lược nước ta lần thứ hai.
Trên đất nước ta lúc đó cịn có khoảng 6 vạn quân Nhật đang chờ giải giáp. Một số
quân Nhật đã thực hiện lệnh của quân Anh, cầm súng cùng với quân Anh dọn đường
cho quân Pháp mở rộng vùng chiếm đóng ở miền Nam.
Lúc này, các tổ chức phản động "Việt quốc", "Việt cách", Đại Việt ráo riết hoạt
động. Chúng dựa vào thế lực bên ngoài để chống lại cách mạng. Chúng quấy nhiễu,
phá rối, cướp của, giết người, tuyên truyền, kích động một số người đi theo chúng
chống lại
chính quyền cách mạng và địi cải tổ Chính phủ lâm thời và các bộ trưởng là đảng viên
cộng sản phải từ chức. Chúng lập chính quyền phản động ở Móng Cái, Yên Bái, Vĩnh
Yên. Chưa bao giờ trên đất nước ta có mặt nhiều thù trong, giặc ngoài như lúc này.


Trong lúc đó, ta cịn phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng về kinh tế, xã hội.
Nạn đói ở miền Bắc do Nhật, Pháp gây ra chưa được khắc phục. Ruộng đất bị bỏ
hoang. Cơng nghiệp đình đốn. Hàng hóa khan hiếm, giá cả tăng vọt, ngoại thương đình
trệ.
Tình hình tài chính rất khó khăn, kho bạc chỉ có 1,2 triệu đồng, trong đó quá nửa là tiền
rách. Ngân hàng Đơng Dương cịn nằm trong tay tư bản Pháp. Quân Tưởng tung tiền
quốc tệ và quan kim gây rối loạn thị trường. 95% số dân không biết chữ, các tệ nạn xã
hội do chế độ cũ để lại hết sức nặng nề.
Trong những năm đầu sau Cách mạng Tháng Tám, nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hồ chưa có nước nào công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ ta. Đất

nước bị bao vây bốn phía, vận mệnh dân tộc như "ngàn cân treo sợi tóc". Tổ quốc lâm
nguy!
Trước tình hình đó, Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã tỉnh táo và sáng
suốt phân tích tình thế với 2 khả năng:
+ Đành mất chính quyền quay về kiếp sống nơ lệ.
+ Củng cố và bảo vệ chính quyền non trẻ
Từ chiều hướng phát triển của các trào lưu cách mạng trên thế giới và sức mạnh
mới của dân tộc là cơ sở để vạch ra chủ trương và giải pháp đấu tranh giữ vững chính
quyền, bảo vệ nền độc lập tự do.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, uy tín và địa vị của Liên Xô được nâng cao trên
trường quốc tế. Phong trào cách mạng giải phóng dân tộc có điều kiện phát triển, trở
thành một dòng thác cách mạng. Phong trào dân chủ và hịa bình cũng đang vươn lên
mạnh mẽ. ở trong nước, chính quyền nhân dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hồ
đã được kiến lập có hệ thống từ Trung ương đến cơ sở. Nhân dân lao động đã làm chủ
vận mệnh của dân tộc. Lực lượng vũ trang nhân dân đang phát triển. Toàn dân tin tưởng
và ủng hộ Việt Minh, ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Dưới sự lãnh đạo khéo léo của
Đảng, của Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ tối cao của dân tộc, tồn dân, tồn qn đồn kết
một lịng trong mặt trận dân tộc thống nhất, quyết tâm giữ vững nền độc lập tự do của


dân tộc.


Sau ngày tuyên bố độc lập, Chính phủ lâm thời đã nêu ra những việc cấp bách
nhằm thực hiện ba nhiệm vụ lớn: diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm.
Ngày
25-11-1945, Ban Chấp hành Trung ương ra Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc. Chỉ thị nhận
định tình hình thế giới và trong nước, chỉ rõ những thuận lợi cơ bản và những thử thách
lớn lao của cách mạng nước ta. Trung ương Đảng xác định: Tính chất của "cuộc cách
mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng"(1). Cuộc cách

mạng ấy chưa hồn thành vì nước ta chưa hồn tồn độc lập. Khẩu hiệu của ta lúc này
vẫn là "Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết". Phân tích âm mưu của các đế quốc đối với
Đông Dương, Trung ương nêu rõ "kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm
lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng"(2). Vì vậy phải "lập Mặt trận dân tộc
thống nhất chống thực dân Pháp xâm lược"(3). Mở rộng Mặt trận Việt Minh nhằm thu
hút mọi tầng lớp nhân dân; thống nhất Mặt trận Việt - Miên - Lào; kiên quyết giành độc
lập - tự do - hạnh phúc cho dân tộc.
Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc nêu ra 4 nhiệm vụ chủ yếu của nhân dân cả nước ta
lúc nay là "củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải
thiện đời sống cho nhân dân"(4).
II/ Nội dung chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương về “kháng chiến kiến quốc”
25-11-1945.
Về chỉ đạo chiến lược: Đảng xác định mục tiêu phải nêu cao của cách mạng Việt
Nam lúc này vẫn là dân tộc giải phóng, khẩu hiệu lúc này là: “dân tộc trên hết, tổ quốc
trên hết”, nhưng không phải là giành độc lập mà giữ vững độc lập.
Về xác định kẻ thù: Đảng phân tích âm mưu của các nước đế quốc đối với Đông
Dương và chỉ rõ “ kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung
ngọn lửa đấu tranh vào chúng”.
Về phương hướng nhiệm vụ: Đảng nêu lên bốn nhiệm vụ chủ yếu và cấp bách cần
khẩn trương thực hiện là: “ củng cố chính quyền, chống thực dân pháp xâm lược, bài trừ
nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân”. Đảng chủ trương kiên kì nguyên tắc thêm


bạn bớt thù, thực hiện khẩu hiệu “ Hoa -Việt thân thiện” đối với quân đội Tưởng Giới
Thạch và “độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế” đối với Pháp.
III/ Triển khai chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương về “Kháng chiến kiến
quốc”.
1. Nội chính
+ Tổng tuyển cử bầu quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Ngày 6 tháng 1 năm 1946, báo chí xuất bản hơm đó đều dành vị trí trang trọng nhất,

giới thiệu cuộc tổng tuyển cử đầu tiên trong lịch sử dân tộc. Báo Sự Thật ghi lên đầu
trang nhất dòng chữ đậm nét: "Tất cả hãy đến thùng phiếu". Báo Quốc hội in hình Hồ
Chủ tịch với lời khuyên của Người: "Khuyên đồng bào nam nữ 18 tuổi trở lên, hôm nay
tất
cả đều đi bỏ phiếu để bầu những đại biểu xứng đáng vào hội đầu tiên của nước ta . Chỉ
hơn 4 tháng sau ngày Độc Lập, tồn thể nhân dân ta đón chào ngày hội lớn - ngày Tổng
tuyển cử. Dưới ách thống trị tàn bạo của đế quốc và phong kiến, người dân Việt Nam bị
tước đoạt mọi quyền dân chủ. Cách mạng tháng Tám đã thổi một luồng gió mới vào mọi
mặt của đời sống xã hội, đem lại quyền làm chủ cho mỗi công dân. Lần đầu tiên, mọi
người được tự do thảo luận, bàn bạc và chọn lựa những đại biểu xứng đáng vào Quốc
hội của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa. Ngày 6 tháng 1 năm 1946, báo chí xuất bản
hơm đó đều dành vị trí trang trọng nhất, giới thiệu cuộc tổng tuyển cử đầu tiên trong
lịch sử dân tộc. Báo Sự Thật ghi lên đầu trang nhất dòng chữ đậm nét: "Tất cả hãy đến
thùng phiếu". Báo Quốc hội in hình Hồ Chủ tịch với lời khuyên của Người: "Khuyên
đồng bào nam nữ 18 tuổi trở lên, hôm nay tất cả đều đi bỏ phiếu để bầu những đại biểu
xứng đáng vào hội đầu tiên của nước ta. Chỉ hơn 4 tháng sau ngày Độc Lập, toàn thể
nhân dân ta đón chào ngày hội lớn - ngày Tổng tuyển cử. Dưới ách thống trị tàn bạo của
đế quốc và phong kiến, người dân Việt Nam bị tước đoạt mọi quyền dân chủ. Cách
mạng tháng
Tám đã thổi một luồng gió mới vào mọi mặt của đời sống xã hội, đem lại quyền làm chủ


cho mỗi công dân. Lần đầu tiên, mọi người được tự do thảo luận, bàn bạc và chọn lựa
những đại biểu xứng đáng vào Quốc hội của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.


+ Ra hiến pháp 9/11/1946: ghi lấy những thành tích vẻ vang của Cách mạng và
xây dựng trên những nguyên tắc dưới đây:
- Đồn kết tồn dân, khơng phân biệt giống nịi, gái trai, giai cấp, tơn giáo.
- Đảm bảo các quyền tự do dân chủ.

- Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân.
2. Kinh tế tài chính:
+ Diệt giặc đói:
“Tơi xin các cụ phụ lão thi đua đốc thúc con cháu hăng hái tham gia mọi công
việc, các cháu nhi đồng thi đua học hành và giúp việc người lớn, đồng bào phú hào thi
đua mở mang doanh nghiệp, đồng bào công nông thi đua sản xuất, đồng bào trí thức
và chun mơn thi đua sáng tác, phát minh, nhân viên chính phủ thi đua tận tụy làm
việc, phụng sự nhân dân, bộ đội thi đua giết giặc”. “Tơi đề nghị với Chính phủ là phát
động một chiến dịch tăng gia sản xuất… Tôi đề nghị mở một cuộc lạc quyên. Mười
ngày một lần, tất cả đồng bào chúng ta nhịn ăn một bữa. Gạo tiết kiệm được sẽ góp lại
và phát
cho người
nghèo”. Hồ Chí
Minh
Người đã khởi xướng, đề xuất và gương mẫu thực hiện phong trào hũ gạo cứu đói,
với nghĩa cử cao đẹp mỗi tuần nhịn ăn một bữa, cùng với phong trào ''Tuần lễ vàng''.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, ở khắp các địa phương trên cả nước, Mặt trận
Việt Minh và các đoàn thể cứu quốc vận động nhân dân hưởng ứng lời kêu gọi. Một
phong trào quyên góp, tổ chức “ngày đồng tâm”, “hũ gạo cứu đói”... được phát động
mạnh mẽ. Trên tinh thần “tình làng nghĩa xóm”, hoạn nạn có nhau, chỉ sau một thời gian
ngắn số lương thực cứu đói thu được khá nhiều, giải quyết kịp thời nhu cầu bức thiết
của đời sống nhân dân.
Song song với cơng tác lạc qun cứu đói, chính quyền cách mạng còn phát động
phong trào tăng gia sản xuất để giải quyết nạn đói tận gốc. Đối với Bác, dù trong bất cứ


hoàn cảnh nào, Bác đều đặt vấn đề đẩy mạnh phong trào tăng gia sản xuất như là một


nhu cầu nội tại của quốc gia, của cách mạng. Trong bài viết “Gửi nông gia Việt Nam” in

trên báo “Tấc đất” (12/1945), Bác nói: “Thực túc thì binh cường. Cấy nhiều thì khỏi đói.
Chúng ta thực hiện tấc đất tấc vàng thì chúng ta quyết thắng lợi trong hai việc đó. Tăng
gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa! Đó là khẩu hiệu của ta
ngày nay. Đó là cách thiết thực của chúng ta để giữ vững quyền tự do độc lập”. Hưởng
ứng lời kêu gọi của Bác, nhân dân ta đã phát huy tinh thần hăng hái lao động, đẩy mạnh
tăng gia sản xuất. Nhiều quãng đê bị vỡ đã được gia cố lại, đắp thêm một số đê mới.
Cho đến đầu năm 1946, tức là chỉ bốn tháng sau cách mạng, công tác đê điều đã hoàn
thành. Đồng thời với việc đắp đê, với khẩu hiệu “tấc đất tấc vàng”, chính quyền và nhân
dân tất cả các địa phương ra sức cải tạo đất cơng cộng cịn trống như sân bãi, vỉa hè, bờ
đê để trồng trọt, nhất là hoa màu ngắn ngày. Nhờ đó, chỉ sau một thời gian ngắn, nạn đói
đã bị đánh lui. Những thành quả của cách mạng những năm đầu sau cách mạng, nhất là
trên lĩnh vực tiêu diệt giặc đói, đẩy mạnh tăng gia sản xuất thực sự là một kỳ công của
chế độ dân chủ mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Giữa bao bộn bề, lo toan, phải
đối phó với thù trong giặc ngồi đồn kết xây dựng chính quyền đang trong thời kỳ
trứng nước, Bác Hồ đã đặc biệt quan tâm tới nông dân và mặt trận nông nghiệp.
Đất nước ta đang trên con đường hội nhập và phát triển, đẩy mạnh sự nghiệp cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, khơng vì thế mà chúng ta coi nhẹ mặt trận nơng
nghiệp. Thấm nhuần tư tưởng của Người, trong hồn cảnh thiên tai, dịch bệnh diễn biến
phức tạp những năm gần đây, vấn đề an ninh lương thực luôn được Đảng và Nhà nước
ta quan tâm đặc biệt. Những lời dạy của Bác về sản xuất nông nghiệp đến nay vẫn còn
nguyên giá trị.
+ Phát động “tuần lễ vàng”, “ tuần lễ đồng” ủng hộ quỹ độc lập.
Để khắc phục khó khăn trước mắt về tài chính, Chính phủ động viên nhân dân xây
dựng “Quỹ độc lập”, hưởng ứng “Tuần lễ vàng” và đến tháng 1-1946, phát hành tiền
Việt Nam, xây dựng nền tiền tệ độc lập. Bà Tống Minh Phương, người đã đem 200 cây


vàng của gia đình ủng hộ cho đất nước trong Tuần lễ vàng. Từ năm 1947 đến năm 1950,
bà Tống Minh Phương được tin tưởng giao trông coi kho vàng. Số vàng qun góp được
trong Tuần lễ vàng, đồng chí Nguyễn Lương Bằng giao cho bà quản lý.

Phong trào xây dựng "Quỹ độc lập" được phát động đầu tiên tại Hà Nội. Đông đảo
nhân dân Thủ đô đã hưởng ứng nhiệt liệt. Chỉ trong mấy tuần đầu tháng 9 năm 1945,
nhân dân Thủ đơ đã đóng góp được trên 50 vạn đồng. Vẫn trong khuôn khổ chủ trương
xây dựng "Quỹ độc lập", Chính phủ mở tiếp "Tuần lễ vàng", bắt đầu từ ngày 16-9-1945
với mục đích "thu góp số vàng trong nhân dân và nhất là của các nhà giàu để dùng vào
những việc khẩn cấp và việc quan trọng nhất của chúng ta lúc này, nhất là việc quốc
phòng". "Tuần lễ vàng" ở Hà Nội khai mạc ngày 16-9-1945. Ban tổ chức "Tuần lễ vàng"
ở Hà Nội có mời Chủ tịch Hồ Chí Minh đến dự lễ khai mạc, song vì bận nên Người
khơng đến được, nhưng Người có bức thư ngỏ cùng đồng bào cả nước. Thư của Chủ
tịch Hồ Chí Minh đăng trên báo Cứu quốc ngày 17-9-1945, có đoạn: "Tơi tin rằng, tồn
quốc đồng bào, nhất là các nhà giàu có, trong sự quyên giúp này sẽ xứng đáng với sức
hy sinh phấn đấu của các chiến sĩ ái quốc trên các mặt trận". Tinh thần yêu nước của
nhân dân đã thể hiện bằng hành động cụ thể trong Tuần lễ vàng. Tại Hà Nội, người
đóng góp nhiều vàng nhất là bà Vương Thị Lài, với 109,872 lạng, được Chủ tịch Hồ Chí
Minh tặng Huy chương vàng. Ở khu Đồng Xuân, trong một đám cưới "đời sống mới",
cô dâu và chú rể tuyên bố dành chiếc nhẫn cưới cho Tuần lễ vàng.
Tại thành phố Huế, chính quyền Cách Mạng và mặt trận Việt minh đã mời bà Nam
Phương (vợ vua Bảo Ðại) làm cố vấn cho ban tổ chức “Tuần Lễ vàng”, “Tuần lễ đồng”.
Bà Nam Phương đã cùng với Hội phụ nữ cứu quốc thành phố và các tổ chức xã hội khác
vận động nhiều gia đình giàu có ở thành phố và trong hịang tộc đóng góp vàng bạc của
cải cho quỹ độc lập. Chỉ trên dưới một tuần lễ,với sự nhiệt tình của quần chúng, thành
phố Huế đã thu được 945 lượng vàng, ba huyện phía Bắc đóng góp 10kg vàng, riêng
huyện Phú Vang thu được 25 lượng, ngay cả một thôn Cự Lại (Phú Vang) đóng góp trên
5 tạ đồng.


3.Văn hóa (Diệt giặc dốt).
Bình dân học vụ là phong trào xóa nạn mù chữ trong tồn dân, được Chính phủ lâm
thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phát động ngày 8 tháng 9 năm 1945 (sắc lệnh
19/SL và 20/SL) ngay sau khi Việt Nam giành được độc lập. Phong trào này nằm giải

quyết "giặc dốt" - một trong các vấn đề cấp bách nhất của Việt Nam lúc bấy giờ (chỉ sau
"giặc đói"). Trong suốt thời Pháp thuộc, hơn 90% dân Việt Nam mù chữ, đây là một
trong các quốc nạn. Tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ ngày 3 tháng 9 năm 1945 tại
Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị mở chiến dịch "Chống nạn mù chữ", vì "Một
dân tộc dốt là một dân tộc yếu". Để phục vụ chiến dịch xóa nạn mù chữ, Nha bình dân
học vụ được thành lập ngày 18 tháng 9, khố huấn luyện giáo viên Bình dân học vụ đầu
tiên mang tên Hồ Chí Minh mở tại Hà Nội. Vì nhà nước non trẻ ngân sách thiếu thốn,
phong trào dựa vào sức dân là chính. Ngân quỹ được chỉ dụng cho chương trình chỉ trả
lương được tối đa 1.000 giáo viên, trong khi số giáo viên cần thiết tối thiểu là 100.000.
Người đi học được miễn phí. Giáo viên không nhận lương. Mỗi tỉnh phải tự túc giáo
viên. Khi ngân sách cịn eo hẹp, các lớp bình dân học vụ dùng phấn hay gạch để viết
xuống đất thay cho bút và giấy. Phong trào nhanh chóng lan rộng khắp cả nước. Các lớp
học bình dân được mở khắp nơi, trong nhà dân, đình chùa, miếu mạo, chỉ cần mấy chiếc
ghế băng, ghế tựa đặt quanh bàn, quanh chiếc phản, cánh cửa, tấm ván mộc làm bảng đã
thành lớp học. Các đội Nhi đồng cứu vong khua trống ếch cổ động người dân đi học.
Tại các nơi nhiều người qua lại, như các ngõ xóm, điếm canh, cổng đình, cổng làng,
người ta treo nong, nia, mẹt, phên cốt, trên viết các chữ cái bằng vôi để ai đi qua cũng
có dịp nhẩm, ơn các chữ đã học. Các câu văn vần miêu cả các chữ cái được sử dụng để
người học dễ thuộc.
Ví dụ:
"i, t (tờ), có móc cả hai.
i ngắn có chấm, t (tờ) dài có ngang;


e, ê, l (lờ) cũng một lồi.
ê đội nón chóp, l (lờ) dài thân
hơn; o trịn như quả trứng gà.
ơ thì đội mũ, ơ thời thêm râu".
Xuất hiện nhiều ca dao, hị vè cổ động cho phong trào Bình dân học vụ. Ví dụ:
"Hơm qua anh đến chơi nhà.

Thấy mẹ dệt vải thấy cha đi
bừa. Thấy nàng mải miết xe tơ.
Thấy cháu "i - tờ" ngồi học bi
bơ. Thì ra vâng lệnh Cụ Hồ.
Cả nhà yêu nước "thi đua" học hành".
Để thúc giục người dân học chữ, một số nơi còn dựng "cổng mù" ở đầu chợ.
Người muốn vào chợ phải thử đọc chữ, ai đọc được thì được đi cổng chính, ai chưa đọc
được thì phải qua "cổng mù" để vào chợ. Tính đến cuối năm 1945, sau hơn ba tháng
phát động, theo báo cáo chưa đầy đủ của các tỉnh Bắc bộ gửi về Bộ Quốc gia giáo dục
thì đã mở được hơn 22.100 lớp học với gần 30 nghìn giáo viên và đã dạy biết chữ cho
hơn 500 nghìn học viên mà tổng chi phí xuất từ ngân sách trung ương là 815,68 đồng,
còn lại đều do các địa phương và tư nhân chi trả. Đến cuối năm 1946, Bộ Quốc gia giáo
dục báo cáo có 74.975 lớp với 95.665 giáo viên, riêng ở Bắc Bộ và Trung Bộ đã có
2.520.678 người biết đọc, biết viết.
4. Quân sự - ngoại giao.
+ Đội Việt Nam giải phóng quân thành lập ( 5 - 1945 ) được chuyển thành Vệ quốc
đoàn ( 9 - 1945 ) và thành Quân đội quốc gia ( 22 - 5 - 1946 ).
+ Cuối 1945, lực lượng tự vệ ở xã, huyện phát triển với số lượng hàng vạn người.
+ Thúc đẩy , động viên toàn dân cùng nhau tham gia kháng chiến .


IV/ Kết quả, ý nghĩa, bài học kinh nghiệm.
1. Kết quả

Về chính trị xã hội: Đã xây dựng được nền móng cho một chế độ xã hội mới - chế
độ dân chủ nhân dân với đầy đủ các yếu tố cấu thành cần thiết. Quốc hội, Hội đồng nhân
dân các cấp được thành lập thông qua phổ thông bầu cử. Hiến pháp dân chủ nhân dân
được Quốc hội thông qua và ban hành. Bộ máy chính quyền từ trung ương đến các làng,
xã và các cơ quan tư pháp, tòa án, các cơng cụ chun chính như Vệ quốc đồn, Công
an nhân dân được thiết lập và tăng cường. Các đoàn thể nhân dân như Mặt trận Việt

Minh, Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam, Tổng Cơng đồn Việt Nam, Hội Liên hiệp phụ
nữ Việt Nam được xây dựng và mở rộng. Đảng Dân chủ Việt Nam, Đảng Xã hội Việt
Nam được thành lập.
Về kinh tế văn hóa: Đã phát động phong trào tăng gia sản xuất, cứu đói, xóa bỏ các
thứ thuế vô lý của chế độ cũ, ra sắc lệnh giảm tô 25%, xây dựng ngân quỹ quốc gia. Các
lĩnh vực sản xuất được phục hồi. Cuối năm 1945, nạn đói cơ bản được đẩy lùi, năm
1946 đời sống nhân dân được ổn định và có cải thiện. Tháng 11-1946, giấy bạc “Cụ Hồ”
được phát hành. Đã mở lại các trường lớp và tổ chức khai giảng năm học mới. Cuộc vận
động toàn dân xây dựng nền văn hóa mới đã bước đầu xóa bỏ được nhiều tệ nạn xã hội
và tập tục lạc hậu. Phong trào diệt dốt, bình dân học vụ được thực hiện sơi nổi. Cuối
năm 1946 cả nước có thêm 2.5 triệu người biết đọc, biết viết.
Về bảo vệ chính quyền cách mạng: Ngay từ khi thực dân Pháp nổ súng chiếm Sài
gòn và mở rộng phạm vi chiếm đóng ra các tỉnh Nam Bộ, Đảng đã kịp thời lãnh đạo
nhân dân Nam bộ đứng lên kháng chiến và phát động phong trào Nam tiến chi viện Nam
Bộ, ngăn không cho quan Pháp đánh ra Trung Bộ. Ở miền Bắc, bằng chủ trương lợi
dụng mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù, Đảng và Chính Phủ ta đã thực hiện sách lược nhân
nhượng với quân đội Tưởng và tay sai của chúng để giữ vững chính quyền, tập trung lực
lương chống Pháp ở miền Nam. Khi Pháp-Tưởng ký hiệp ước Trùng Khánh (28-21946), thỏa thuận mua bán quyền lợi với nhau, cho Pháp kéo quan ra miền Bắc, Đảng


mau lẹ chỉ đạo chon giải pháp hịa hỗn, dàn xếp với Pháp để buộc quân Tưởng phải rút
về nước. Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946, cuộc đàm phán ở Đà Lạt, ở Phôngtenơbờlô, Tạm
ước 14-9-1946 đã tạo điều kiện cho nhân dân ta có thêm thời gian để chuẩn bị cho cuộc
chiến đấu mới.
2. Ý nghĩa và nguyên nhân thắng lợi

Những thành quả nói trên đã bảo vệ được nền độc lập của đất nước, giữ vững chính
quyền cách mạng, xây dựng được nền móng đầu tiên và cơ bản cho một chế độ mới, chế
độ Việt Nam dân chủ Cộng hòa; chuẩn bị được những điều kiện cần thiết trực tiếp cho
cuộc kháng chiến tồn quốc sau đó.

Ngun nhân thắng lợi: Có được những thắng lợi quan trọng đó là do Đảng đã đánh
giá đúng tình hình nước ta sau Cách màng Tháng Tám, kịp thời đề ra chủ trương kháng
chiến, kiến quốc đúng đắn; xây dựng và phát huy được sức mạnh của khối đại đoàn kết
dân tộc, lợi dụng được mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ địch.
3. Bài học kinh nghiệm

Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, dựa vào dân để xây dựng và bảo vệ chính
quyền cách mạng. Triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù, chĩa mũi nhọn vào
kẻ thù chính, coi sự nhân nhượng có ngun tắc với kẻ địch cũng là một biện pháp đấu
tranh cách mạng cần thiết trong hoàn cảnh cụ thể. Tận dụng khả năng hịa hỗn để xây
dựng lực lượng, củng cố chính quyền nhân dân, đồng thời đề cao cảnh giác, sẵn sàng
ứng phó với khả năng chiến tranh lan rộng ra cả nước khi kẻ địch bội ước.
V/ Liên hệ thực tiễn hoạt động lãnh đạo “chống dịch như chống giặc” của
Đảng trong giai đoạn hiện nay.
1. Bối cảnh của Nước ta hiện nay.
Hiện nay, khi bệnh dịch đã lan ra toàn thế giới với hơn 200 quốc gia và vùng
lãnh thổ và số người thiệt mạng do COVID – 19 ngày càng tăng, thì điều đáng
mừng là Việt Nam là một trong những nước hạn chế mức thấp nhất sự thiệt hại về
người và của.


Tuy nhiên, trong đợt bùng dịch này rất phức tạp, nhiều thách thức hơn nên
chúng ta cần phải nỗ lực nhiều hơn, kiên trì, đồn kết và đồng lịng.
2. Nhiệm vụ đặt ra.
Quyết tâm kiềm chế, dập tắt cao điểm của đợt dịch bùng phát.
Kiên định tinh thần “chống dịch như chống giặc”.
Quyết liệt hơn nữa trong triển khai chiến lược vắc – xin.
Thực hiện chủ chương 5K
Các địa phương chủ động sáng tạo triển khai các giải pháp để ổn định tình
hình kinh tế - xã hội.

3. Tầm quan trọng của Đảng và sự đoàn kết của Nhân dân.
Đất nước ta luôn phải đối mặt với vô vàn những khó khăn tới từ trong và
ngồi nước, song nhờ sự lãnh đạo của Đảng, nhờ sự ưu việt của chủ nghĩa
Mác Lê – Nin và tinh thần đoàn kết dân tộc đã trở thành biểu tượng của những
người con đất Việt.
Sự phù hợp và đúng đắn của chỉ thị “kháng chiến kiến quốc”, chỉ thị
14,15,16,... trước tình hình thực tiễn của từng giai đoạn trong quán trình đi lên chủ
nghĩa xã hội của nước ta đã giúp nhân dân phục hồi sản xuất kinh doanh và các
hoạt động kinh tế - xã hội, đồng thời chứng minh tầm quan trọng từ sự lãnh đạo của
Đảng và truyền thống đoàn kết dân tộc tốt đẹp của ta đối với sự phát triển toàn diện
về kinh tế - xã hội của Nước nhà.
PHẦN KẾT BÀI
Chủ trương “Kháng chiến-kiến quốc” đã soi sáng con đường đấu tranh,củng cố và
bảo vệ chính quyền của nhân dân ta. Nó thể hiện một quy luật cách mạng - xây dựng
chế độ mới phải luôn đi đôi với bảo vệ chế độ mới. Từ đó tạo điều kiện để nước ta phát
triển về mọi lĩnh vực từ văn hóa đến kinh tế, từ chình trị đến qn sự. Nước ta đã thốt
được khỏi nạn đói, bắt đầu phát triển một nền nông nghiệp ổn định. Tư tương của Đảng
được thấm nhuần vào suy nghĩ của từng người dân, nêu cao tinh thần đoàn kết và tinh
thần yêu nước của dân tộc Việt Nam. Có thể nói chủ trương “Kháng chiến-kiến quốc” là
một bước đi vô cùng quan trọng của Đảng, tạo tiền đề để đất nước ta tiền hành quá độ
lên chủ nghĩa xã hội sau năm 1954, xây dựng một nhà nước “của dân, do dân và vì dân”,


xây dựng một xã hội lý tưởng theo mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như tồn
thế nhân dân Việt Nam!
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2000, t.8, tr. 26-27.
2. Giáo trình lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam.

3. />4. />


×