HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC TOÀN DIỆN VÀ TIẾN BỘ
XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG CPTPP
CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC VỚI NGÀNH
CHẾ BIẾN, XUẤT KHẨU GỖ VÀ
SẢN PHẨM GỖ CỦA VIỆT NAM
Tiểu luận Chính sách thương mại quốc tế - Nhóm 1
Hà Nội, tháng 5 năm 2020
1
MỤC LỤC
1. Tổng quan lý thuyết .................................................................................................................... 7
1.1 Đặt vấn đề............................................................................................................................. 7
1.2. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................................... 8
2. Các cam kết liên quan đến ngành chế biến xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam .......... 8
2.1. Các cam kết về thuế nhập khẩu ........................................................................................... 8
2.2. Cam kết về quy tắc xuất xứ đối với gỗ và các sản phẩm gỗ ............................................... 9
2.3. Các cam kết khác............................................................................................................... 10
3. Tình hình sản xuất, chế biến và xuất nhập khẩu gỗ và sản phẩm gỗ tại Việt Nam .................. 11
3.1. Thực trạng ngành sản xuất và chế biến gỗ của Việt Nam ................................................. 11
3.2. Thực trạng xuất nhập khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam.......................................... 14
4. Cơ hội và thách thức với ngành chế biến xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam trong bối
cảnh hội nhập quốc tế CPTPP hiện nay ........................................................................................ 18
4.1. Cơ hội đối với ngành chế biến xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam.................... 18
4.2. Thách thức đối với ngành chế biến xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam ............ 19
5. Kết luận ..................................................................................................................................... 20
Tài liệu tham khảo ........................................................................................................................ 21
5
DANH MỤC HÌNH ẢNH
Hình 1: Các dự án FDI đăng kí mới và quy mơ vốn ..................................................................... 11
Hình 2: Các thị trường chính nhập khẩu các mặt hàng gỗ của Việt Nam (đơn vị: USD) ............ 13
Hình 3: Kim ngạch nhập khẩu gỗ và sản phẩm gỗ về Việt Nam giai đoạn 2016-2019 ................ 17
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1: Diện tích rừng trồng và sản lượng khai thác gỗ tại Việt Nam theo năm trong giai đoạn
2017 - 2019 ................................................................................................................................. 133
Bảng 2: Thị trường xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ trong tháng 9 và 9 tháng đầu năm 2019 ...... 155
Bảng 3: Đánh giá thị trường xuất khẩu thuộc nhóm CPTPP năm 2019 ..................................... 166
Bảng 4: Đánh giá thị trường nhập khẩu thuộc nhóm CPTPP năm 2019 .................................... 177
6
HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC TOÀN DIỆN VÀ TIẾN BỘ XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG
CPTPP: CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI NGÀNH CHẾ BIẾN, XUẤT KHẨU GỖ
VÀ SẢN PHẨM GỖ CỦA VIỆT NAM
Tóm tắt
Hiệp định đối tác Tiến bộ và tồn diện Xun Thái Bình Dương đã chính thức có hiệu
lực với Việt Nam từ ngày 14 tháng 1 năm 2019 sau gần 1 năm kể từ lễ Lễ ký Hiệp định CPTPP
- Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương tại thành phố Santiago, Chile.
Về cơ bản, Hiệp định CPTPP đã tạo nên một khu vực kinh tế tự do khổng lồ, có phạm vi thị
trường khoảng 500 triệu người dân và chiếm 13% GDP tồn cầu, từ đó đem đến khơng chỉ
những cơ hơi vàng mà cả những thách thức cho sự phát triển cho những lĩnh vực quan trọng
của Việt Nam và đặc biệt là ngành gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam. Để có thể tận dụng được
những thời cơ và vượt qua những thử thách này, chúng ta cần phải có sự chuẩn bị tốt và tìm ra
những giải pháp phù hợp để hướng tới sự phát triển lâu dài, bền vững của Việt Nam nói chung
và ngành chế biến, xuất gỗ và sản phẩm gỗ nói riêng.
Từ khóa: Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương , CPTPP, cơ
hội, thách thức, ngành chế biến, xuất khẩu gỗ
Abstract
Comprehensive and Progressive Agreement for Trans-Pacific Partnership has officially
been effective since January, 14th 2019 after 1 year from the formal signing ceremony held in
Santiago, Chile. Basically, the CPTPP has created a giant free trade area, with a scale of 500
millions of citizens and comprised 13% of global GDP, thus providing not only golden
opportunities but also challenges in developing Vietnam’s essential aspects, especially wood
processing industry. In order to take advantages of these opportunities and overcome these
challenges, it’s vital to have careful preparation and find out suitable solutions for long-term
stable development in Vietnam and in wood processing industry in particular.
Keywords: Comprehensive and Progressive Agreement for Trans-Pacific Partnership,
CPTPP, opportunities, challenges, wood processing industry
sự tham gia của các bộ trưởng 11 nước thành
viên. Việt Nam cũng không nằm ngoại lệ khi
CPTPP được kỳ vọng là một ngọn gió mới
đem lại cả những cơ hội lẫn thách thức cho
các hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp của Việt Nam. Trong số đó, ngành gỗ
được coi là một trong những ngành có nhiều
tác động nhất. Năm 2018 ghi nhận sự tăng
trưởng của doanh nghiệp nội đạt 10,21%,
trong khi đó tăng trưởng của doanh nghiệp
FDI là 8,97%. Thậm chí theo đánh giá của
1. Tổng quan lý thuyết
1.1 Đặt vấn đề
Hiệp định Đối tác Tiến bộ và Tồn
diện Xun Thái Bình Dương hay cịn gọi là
CPTPP (Comprehensive and Progressive
Trans Pacific Partnership) là hiệp định tiếp
nối của Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình
Dương (TPP), sau khi Hoa Kỳ rút khỏi TPP.
CPTPP được chính thức ký kết ngày 08 tháng
3 năm 2018 tại thành phố Santiago, Chile với
7
nhiều chuyên gia, mục tiêu xuất khẩu ngành
gỗ cả nước là đạt giá trị 20 tỉ USD vào năm
2025 (chiếm 10% thị trường đồ gỗ toàn cầu)
là hoàn toàn khả thi. Có thể nói CPTPP là một
cơ hội vàng nhưng cũng ẩn chứa những thách
thức không hề nhỏ cho các doanh nghiệp và
chúng ta cần phải nhanh chóng tìm ra những
giải pháp và chuẩn bị cho chặng đường tương
lai.
thự nhiên và các nguyên liệu khác. Việc tham
gia hiệp định và nhận được những ưu đãi về
thuế nhập khẩu có ý nghĩa rất lớn.
Đối với các sản phẩm hàng hóa như gỗ
và sản phẩm gỗ, cam kết quan trọng nhất
trong các FTA là cam kết của mỗi nước thành
viên về thuế quan áp dụng với hàng hóa nhập
khẩu từ nước thành viên khác.
Về mức cam kết, trong CPTPP, các nước
thành viên đưa ra cam kết cắt giảm thuế quan
khá mạnh đối với nhóm gỗ và các sản phẩm
gỗ. Trong đó có:
Chính vì những lý do trên, việc tìm hiểu
kĩ về những cơ hội hiện đang nắm giữ cũng
như những thách thức chúng ta phải đối mặt
là một điều cần thiết để có nền tảng phát triển
sâu rộng và vững chắc hơn. Bài nghiên cứu
hướng đến việc tổng hợp những nội dung cơ
bản của hiệp định CPTPP liên quan đến
ngành gỗ, đồng thời đưa ra cái nhìn thực trạng
về hoạt động xuất nhập khẩu đồ gỗ và sản
phẩm gỗ của Việt Nam. Từ đó, nhóm đưa ra
những đánh giá về cơ hội, thách thức đối với
Việt Nam trong bối cảnh giao thương kinh tế
hiện nay và cả những biện pháp cho các
doanh nghiệp Việt Nam để có thể tận dụng
những lợi thế đang có cũng như cách để biến
khó khăn thành cơ hội để phát triển bền vững
trong tương lai.
- Xóa bỏ thuế quan ngay khi CPTPP có
hiểu lực với phần lớn các dòng thuế gỗ và các
sản phẩm gỗ ngay sau khi CPTPP có hiệu lực
- Xóa bỏ thuế quan theo lộ trình với một
số dịng thuế gỗ và các sản phẩm gỗ nhất định
(từ 4-5 năm đến 16 năm tùy sản phẩm, tùy đối
tác)
Tại thị trường Canada, sản phẩm ván
sàn, gỗ thanh sẽ khơng cịn chịu mức thuế
3,5% ngay khi hiệp định có hiệu lực. Các sản
phẩm như hàng thủ công mỹ nghệ, ván dán,
ván ghép, khung tranh, khung cửa, nhất là đồ
nội thất cũng ngay lập tức được giảm thuế về
0% từ mức 6% - 9,5%.
1.2. Phương pháp nghiên cứu
Quy luật cung cầu cùng những học
thuyết cơ bản về hoạt động xuất nhập khẩu và
thương mại quốc tế được áp dụng trong bài
nghiên cứu. Việc tiến hành thực hiện nghiên
cứu sử dụng số liệu của Tổng cục Thống kê,
Tổng cục Hải quan, Tổng cục Lâm nghiệp và
cả những nghiên cứu đã được thực hiện trước
đó liên quan đến hoạt xuất nhập khẩu của gỗ
và sản phẩm gỗ của Việt Nam vào thị trường
các nước đối tác hiệp định CPTPP.
Thị trường Australia cam kết xóa bỏ
phần lớn (124/129) các dịng thuế gỗ và các
sản phẩm gỗ của Việt Nam (từ ngày
14/1/2019 – ngày CPTPP có hiệu lực với Việt
Nam), chỉ duy trì 05 dịng thuế (gồm 04 loại
ván sợi HS. 4411.12.90, 4411.13.90,
4411.14.90, và 4411.93.00, cũng như đồ nội
thất bằng gỗ được sử dụng trong văn phòng HS 9403.30) với mức 5% đến năm thứ 4 tính
từ khi CPTPP có hiệu lực (tức là đến năm
2021), sau đó sẽ xóa bỏ hoàn toàn.
2. Các cam kết liên quan đến ngành chế
biến xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt
Nam
New Zealand cam kết xóa bỏ 166/186
dịng thuế gỗ và các sản phẩm gỗ của Việt
Nam, 20 dòng thế còn lại được cắt giảm theo
lộ trình: 05 năm với 4 dịng thuế mã HS
4412.94.09, 4412.94.29, 4412.99.09 và
4412.99.29 và 07 năm với 16 dòng thuế, bao
2.1. Các cam kết về thuế nhập khẩu
Hiện Việt Nam mới chỉ đảm bảo được
khoảng 70% nguyên liệu gỗ khai thác trong
nước, vẫn phải nhập khẩu từ nhiều nguồn gỗ
8
Việt Nam cũng đưa ra những cam kết về
thuế xuất khẩu cũng như các biện pháp hạn
chế xuất nhập khẩu như:
gồm một số loại gỗ ép khuôn, gỗ dán chỉ bao
gồm những lớp gỗ dày khơng q 6mm và có
ít nhất một lớp mặt ngoài bằng gỗ nhiệt đới,
đồ nội thất bằng gỗ...
- Cấm nhập khẩu đồ nội thất đã qua sử
dụng (bao gồm cả đồ nội thất bằng gỗ)
Mexico cũng đã đồng ý xóa bỏ thuế nhập
khẩu cho tồn bộ các sản phẩm gỗ, bao gồm
cả ván dán, ván dăm, gỗ thanh, ván sàn và đồ
nội thất, ngoại thất với lộ trình tối đa là 10
năm. Hiện mức thuế nhập khẩu áp cho đồ gỗ
là khá cao từ 10-15% khiến Mexico là thị
trường còn bỏ ngỏ của doanh nghiệp Việt
Nam.
- Cấm xuất khẩu gỗ tròn, gỗ xẻ các loại từ
gỗ rừng tự nhiên trong nước
- Chỉ xuất khẩu các sản phẩm thủ công mỹ
nghệ cà các sản phẩm được sản xuất từ gỗ
rừng trồng, gỗ nhập khẩu, hoặc pallet nhân
tạo
Ở chiều ngược lại, Việt Nam cũng cam
kết cắt giảm, loại bỏ thuế quan đối với gỗ và
các sản phẩm gỗ nhập khẩu từ các nước
CPTPP: Việt Nam cam kết xóa bỏ thuế quan
ngay khi hiệp định có hiệu lực đối với tồn
bộ dịng thuế gỗ nhập khẩu từ các nước
CPTPP.
- Duy trì thuế xuất khẩu theo thời hạn và
mức thuế cụ thể với một số dòng sản phẩm
gỗ (thuộc gỗ trầm hương, gỗ nhiên liệu, gỗ từ
cây lá kim...)
2.2. Cam kết về quy tắc xuất xứ đối với gỗ
và các sản phẩm gỗ
Để được hưởng các ưu đãi thuế quan
CPTPP, gỗ và các sản phẩm gỗ của Việt Nam
phải đáp ứng được quy tắc xuất xứ của hiệp
định. Quy tắc nhằm đảm bảo hàng hóa phải
được sản xuất chủ yếu trong khu vực CPTPP.
Trong số 10 đối tác CPTPP, Việt Nam
đã có FTA đang có hiêu lực với 07 đối tác
(gồm Nhật Bản, Australia, New Zealand,
Chile, Brunei, Malaysia, Singapore). Trong
các FTA này, Việt Nam đã cam kết xóa bỏ
thuế quan (xố bỏ ngay hoặc theo lộ trình) với
gần như toàn bộ các sản phẩm gỗ.
Về quy tắc xuất xứ, cam kết về quy tắc
xuất xứ trong CPTPP đối với gỗ và các sản
phẩm gỗ được quy định tại:
Cam kết thuế quan của Việt Nam cho các
đối tác trong CPTPP chỉ có hiệu lực với các
đối tác đã phê chuẩn CPTPP, chưa có hiệu lực
với các đối tác chưa phê chuẩn.
- Lời văn Chương 3 – Quy tắc xuất xứ (các
quy tắc chung) và các thủ tục chứng nhận
xuất xứ;
- Phụ lục Chương 3 – Quy tắc xuất xứ cụ
thể từng mặt hàng.
Đối với Canada, Mexico và Peru – các
đối tác mà trước CPTPP chưa có FTA với
Việt Nam, mức thuế MFN mà Việt Nam đang
áp dụng đối với các sản phẩm gỗ và các sản
phẩm gỗ nhập khẩu từ các nước này đang khá
cao, với 5,43% đối với gỗ và các sản phẩm gỗ
và 24% đối với dồ nội thất bằng gỗ có mã HS.
9403.30-60.
Về cơ bản, đối với gỗ và các sản phẩm
gỗ, quy tắc xuất xứ trong CPTPP bao gồm 02
loại sau:
- Đối với gỗ và các sản phẩm gỗ thuộc
chương 44: Quy tắc CTC chuyển đổi Nhóm chuyển đổi mã HS (CTC) ở cấp 4 số (Nhóm)
– theo đó, mã HS cấp 4 số của thành phẩm
phải khác mã HS của ngun liệu khơng có
xuất xứ CPTPP;
Từ đó có thể thấy, CPTPP sẽ làm thay
đổi tương đối thuế nhập khẩu đối với gỗ và
các sản phẩm gỗ từ các nước CPTPP vào Việt
Nam theo hướng giảm mạnh mức thuế cho
các sản phẩm đáp ứng quy tắc xuất xứ
CPTPP.
9
- Đối với các sản phẩm đồ nội thất từ gỗ
thuộc chương 94: Kết hợp quy tắc CTC
chuyển đổi Nhóm và quy tắc RVC tối thiểu,
hàng hóa phải đạt một ngưỡng tỷ lệ tối thiểu
giá trị nguyên liệu có xuất xứ CPTPP. Những
quy tắc xuất xứ cụ thể đối với gỗ và những
sản phẩm gỗ trong CPTPP, người đọc có thể
tìm hiểu thêm bằng cách tra theo mã HS ở
chương thứ 44 của Hiệp định.
Đối với cam kết về lao động, sản xuất chế
biến gỗ là ngành có một số đặc thù về lao
động và điều kiện lao động, trong đó được
yêu cầu:
- Thành phần lao động tương đối phức tạp,
có thể có lao động trẻ em, lao động mùa vụ
- Mơi trường lao động có một số yếu tố
nguy hại tới sức khỏe (tiếng ồn, bụi mùn
cưa…)
Về thủ tục chứng nhận xuất xứ, Hiệp
định CPTPP đã cho phép người xuất khẩu,
người sản xuất và người nhập khẩu được tự
chứng nhận xuất xứ. Đây là điểm rất mới so
với các FTA truyền thống trước đây mà Việt
Nam đã ký kết. Do hình thức tự chứng nhận
xuất xứ cịn khá mới mẻ, chưa được triển khai
toàn diện và đại trà nên Việt Nam được áp
dụng một số thời gian chuyển đổi nhằm mục
đích tạo cơ hội cho các doanh nghiệp và cơ
quan quản lý nhà nước quen dần với hình
thức này.
- Điều kiện làm việc đặc thù (tư thế lao
động gò bó, các loại máy móc sử dụng có đặc
thù về độ rung, độ ồn có thể ảnh hưởng trực
tiếp tới sức khỏe…)
CPTPP yêu cầu các nước thành viên đảm
bảo cam kết về nguyên tắc, điều kiện lao động
như sau:
- Xóa bỏ lao động cưỡng bức, lao động bắt
buộc;
- Quyền tự do liên kết và thương lượng tập
thể của người lao động và người sử dụng lao
động
2.3. Các cam kết khác
Bên cạnh những cam kết về thuế quan
cũng như quy tắc xuất xử, Việt Nam cũng cần
phải tuân theo những cam kết khác liên quan
đến mặt hàng này.
-
Cấm sử dụng lao động trẻ em
- Xóa bỏ phân biệt đối xử về việc làm và
nghề nghiệp
Đối với cam kết CPTPP về các biện pháp
an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực
vật (SPS), các biện pháp an toàn thực phẩm
và kiểm dịch động thực vật (SPS) là tất cả các
quy định, điều kiện, yêu cầu bắt buộc về an
toàn thực phẩm, ngăn chặn dịch bệnh mà
nước nhập khẩu áp dụng đối với hàng hóa
nhập khẩu.
- Đảm bảo các điều kiện về lương tối
thiểu, giờ làm việc, an toàn lao động và sức
khỏe của người lao động
Đối với cam kết về môi trường và bảo vệ
thực vật hoang dã, CPTPP yêu cầu các nước
Thành viên phải bảo đảm những điều sau:
- Thực thi đầy đủ các nghĩa vụ theo Công
ước quốc tế về bn bán các lồi động thực
vật hoang dã đang bị đe dọa (CITES);
Là sản phẩm có nguồn gốc thực vật, gỗ
và các sản phẩm gỗ phải tuân thủ các yêu cầu
SPS có liên quan của từng thị trường xuất
khẩu. Tuy nhiên CPTPP khơng có cam kết
nào cụ thể dành riêng cho gỗ và các sản phẩm
gỗ mà chỉ gồm các nguyên tắc liên quan đến
SPS áp dụng chung cho tất cả các sản phẩm.
- Tăng cường bảo tồn, chống lại việc khai
thác và thương mại trái phép động, thực vật
hoang dã;
- Củng cố năng lực và thể chế để tăng
cường quản lý bền vững tài nguyên rừng và
bảo tồn động, thực vật hoang dã.
10
trường trong nước, đồng thời có xuất khẩu
một phần ra nước ngồi (chủ yếu là các thị
trường dễ tính như Trung Quốc, ASEAN…).
3. Tình hình sản xuất, chế biến và xuất
nhập khẩu gỗ và sản phẩm gỗ tại Việt Nam
3.1. Thực trạng ngành sản xuất và chế biến
gỗ của Việt Nam
Mặc dù số lượng các doanh nghiệp FDI
chiếm tỷ lệ nhỏ, giá trị kim ngạch xuất khẩu
của các doanh nghiệp này rất lớn, chiếm
khoảng 50% tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ và
các sản phẩm gỗ của cả nước. Cụ thể, kim
ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI
trong năm 2019 đạt 4,95 tỷ USD, tăng 25%
so với kim ngạch mà nhóm này đạt được năm
2018, chiếm 48% trong tổng kim ngạch xuất
khẩu của cả ngành (10,3 tỷ USD). Mặc dù
kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp
nội địa (chiếm 52% trong tổng kim ngạch
xuất khẩu) lớn hơn các doanh nghiệp FDI, tốc
độ tăng trưởng về kim ngạch của các doanh
nghiệp FDI năm 2019 lại lớn hơn nhiều so với
tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp nội địa
(25% của nhóm FDI so với 19% của nhóm
nội địa). Các dự án FDI mới trong ngành gỗ
tăng nhanh trong thời gian gần đây, đặc biệt
trong các tháng đầu của năm 2019. Trong 5
tháng đầu năm 2019, số dự án FDI mới đầu
tư vào ngành là 49, tương đương 73% số dự
án FDI của cả năm 2018.
Trong tổng thể, ngành chế biến gỗ ở Việt
Nam đã chứng kiến sự phát triển rất ấn tượng
trong hơn một thập kỷ qua ở tất cả các khía
cạnh từ quy mô sản xuất, số lượng các tổ chức
cá nhân tham gia, lực lượng lao động cũng
như tổng giá trị sản phẩm. Đây cũng là ngành
đứng trong top đầu các ngành mũi nhọn xuất
khẩu, đóng góp quan trọng vào xuất khẩu
nơng lâm thủy sản nói chung, mang lại nguồn
thu nhập ổn định cho hàng triệu người sản
xuất, người lao động và các cộng đồng dân cư
trồng rừng.
3.1.1. Về các chủ thể kinh doanh trong ngành
chế biến gỗ
Theo số liệu từ Tổng cục Lâm nghiệp
(2019), cả nước có 5.424 doanh nghiệp chế
biến gỗ và lâm sản, trong đó có 612 doanh
nghiệp FDI, chiếm 11,3% tổng số doanh
nghiệp, và 4812 doanh nghiệp trong nước,
chiếm 88,7% tổng số doanh nghiệp. Bên cạnh
đó, Việt Nam hiện có khoảng 300 làng nghề
gỗ, chủ yếu sản xuất để cung cấp cho thị
Hình 1: Các dự án FDI đăng kí mới và quy mơ vốn
Nguồn: Tơ Xuân Phúc, Trần Lê Huy, Cao Thị Cẩm (Cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung: Cơ hội
và rủi ro cho cho ngành gỗ Việt Nam, 2019)
11
3.1.2. Về năng suất và chất lượng lao động
3.1.3. Về nguồn cung gỗ nguyên liệu
Theo một báo cáo của VCCI, hiện ngành
chế biến gỗ đang thu hút khoảng 500.000 lao
động, trong đó lao động được đào tạo, có việc
làm ổn định chiếm 50-60%, còn lại là lao
động theo mùa vụ, được tuyển dụng khi có
các đơn hàng lớn.
- Về tổng thể, nguyên liệu phục vụ cho
ngành chế biến gỗ Việt Nam chủ yếu từ hai
nguồn cơ bản: nguồn nguyên liệu gỗ trong
nước (gỗ tự nhiên và gỗ rừng trồng) và nguồn
gỗ nguyên liệu nhập khẩu.
- Về nguồn gỗ trong nước, theo số liệu từ
Niên giám thống kê của Tổng cục thống kê
thì năm 2018, tổng diện tích rừng là 14,49
triệu ha, gồm 10,25 triệu ha rừng tự nhiên và
4,23 triệu ha rừng trồng. Tổng diện tích rừng
tự nhiên là rừng sản xuất (cho phép khai thác)
khoảng 4 triệu ha, với tổng sản lượng khai
thác tối đa hàng năm khoảng 400.000 m3 gỗ,
chủ yếu sử dụng ở trong nước. Tuy nhiên,
theo quyết định của Chính phủ thì từ năm
2008, sản lượng khai thác từ rừng tự nhiên tối
đa không quá 150.000 m3/năm và kể từ năm
2014 đóng cửa rừng tự nhiên. Do đó, hiện trữ
lượng gỗ nguyên liệu từ rừng tự nhiên coi như
khơng được tính đến, và nguồn ngun liệu
gỗ nội địa hiện chỉ cịn trơng chờ vào gỗ rừng
trồng.
Mặc dù lao động ngành gỗ Việt Nam
được đánh giá là có kỹ thuật cá nhân tương
đối tốt nhưng năng suất lao động trong ngành
gỗ chưa cao: chỉ có khoảng 1-2% lượng lao
động trong tổng số là lao động có trình độ đại
học, 20-30% trong tổng lao động được đào
tạo bài bản, cịn lại 70-80% là lao động phổ
thơng. Điều này dẫn đến chất lượng và năng
suất lao động của ngành gỗ tương đối thấp.
Chênh lệch về năng suất lao động cũng thể
hiện rõ giữa các loại hình doanh nghiệp chế
biến cùng hoạt động tại Việt Nam. Cụ thể,
năng suất lao động của các doanh nghiệp có
vốn sở hữu tư nhân chỉ bằng khoảng 50%
năng suất của các cơ sở FDI xuất phát từ việc
giá nhân công rẻ, các ưu đãi chưa thỏa đáng,
nên chưa phát huy được tối ưu tiềm năng con
người trong quá trình sản xuất (Tổng cục
Lâm nghiệp, 2019). Đây có thể là một trong
những nguyên nhân dẫn đến năng suất lao
động trong ngành gỗ đặc biệt trong các cơ sở
có vốn sở hữu tư nhân cịn thấp. Điều này
cũng là một trong những nguyên nhân chính
dẫn đến sự chênh lệch rất lớn về kim ngạch
xuất khẩu giữa các công ty FDI và công ty tư
nhân.
- Về nguồn gỗ nhập khẩu, gỗ tròn, gỗ xẻ,
các loại ván và đồ nội thất là những nhóm mặt
hàng nhập khẩu chính của Việt Nam. Trung
Quốc, các nước thuộc Châu Phi, Mỹ, EU và
Thái Lan là các nguồn cung lớn của Việt
Nam. Nguồn nhập khẩu gỗ nguyên liệu của
Việt Nam cũng khá đa dạng: Châu Phi hiện
đang là nguồn cung cho khoảng ¼ gỗ tròn và
gỗ xẻ nhập khẩu của Việt Nam – nguồn gỗ
này chủ yếu phục vụ sản xuất đồ gỗ tiêu thụ
trong nước; Lào từng là nguồn cung gỗ nhiệt
đới lớn nhất của Việt Nam nhưng đã giảm
mạnh sau khi Lào áp dụng chính sách cấm
xuất khẩu gỗ chưa qua chế biến sâu;
Campuchia cũng là nguồn cung gỗ chủ yếu,
nhưng khơng ổn định và có nhiều rủi ro từ
góc độ pháp lý (gỗ bất hợp pháp) và còn lại
là gỗ nhập khẩu từ nhiều nguồn khác nhau
(Nga, Mỹ, EU, Chile, Brazil….)
Tuy nhiên theo đánh giá chung của các
cơ quan Chính phủ thì nhìn chung, lực lượng
lao động trong ngành chế biến gỗ đang được
cải thiện dần theo thời gian thơng qua các
chương trình dạy nghề của Chính phủ, của
doanh nghiệp, đội ngũ làm công tác kỹ thuật
được đào tạo bài bản từ các trường Đại học
Nông lâm cũng được tăng cường.
12
Bảng 1: Diện tích rừng trồng và sản lượng khai thác gỗ tại Việt Nam theo năm trong giai
đoạn 2017 - 2019
Diện tích rừng trồng (ha)
Sản lượng khai thác gỗ (m3)
2017
241,3 nghìn ha
11,5 triệu
2018
238,6 nghìn ha
12,8 triệu
2019
273,6 nghìn
16,1 triệu
Nguồn: Tổng cục thống kê (2018)
Hình 2: Các thị trường chính nhập khẩu các mặt hàng gỗ của Việt Nam (đơn vị: USD)
Nguồn: Phịng Thương mại và Cơng nghiệp Việt Nam (2014)
Hiện tại Việt Nam đã chủ động được
khoảng 70-80% gỗ nguyên liệu, còn lại nhập
khẩu khoảng 30%. Đây là kết quả tích cực
của nhiều nỗ lực tái cơ cấu ngành lâm nghiệp
và trồng rừng. Mặc dù vậy, gỗ khai thác từ
rừng trồng trong nước chủ yếu là các loại gỗ
có đường kính khơng lớn, năng suất, chất
lượng cịn tương đối thấp, khó đáp ứng các
đơn hàng xuất khẩu.
3.1.4. Về cơng nghệ
Các doanh nghiệp Việt Nam hiện đang
phân nhóm theo 04 cấp độ:
- Nhóm các doanh nghiệp FDI và các
doanh nghiệp lớn và vừa sản xuất sản phẩm
xuất khẩu: sử dụng công nghệ hiện đại với
thiết bị nhập khẩu chủ yếu từ EU, Đài Loan;
13
- Nhóm các doanh nghiệp sản xuất ván
nhân tạo (MDF, ván thanh, ván dán...): sử
dụng công nghệ chế biến của châu Âu với quy
mô công suất từ 60.000 m3 đến 300.000 m3
sản phẩm/năm;
nhắc tới khá nhiều trong chu trình sản xuất
của doanh nghiệp chế biến gỗ quy mô nhỏ,
siêu nhỏ của Việt Nam, đó là cơng tác tổ chức
sắp xếp quy trình sản xuất. Theo đánh giá của
nhiều chuyên gia thì hạn chế trong cơng tác
này là một trong những tồn tại cơ bản làm
giảm hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp gỗ
Việt Nam, ảnh hưởng trực tiếp tới chi phí sản
xuất và năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp.
- Nhóm các doanh nghiệp chế biến đồ gỗ
tiêu thụ nội địa: sử dụng chủ yếu công nghệ
của Đài Loan và Trung Quốc với quy mô
công suất nhỏ từ 1000 - 10.000 m3 sản
phẩm/năm;
3.2. Thực trạng xuất nhập khẩu gỗ và sản
phẩm gỗ của Việt Nam
- Nhóm các doanh nghiệp chế biến đồ gỗ
mỹ nghệ: chủ yếu sản xuất theo công nghệ
thủ công với công cụ truyền thống như xẻ tay,
đục, chạm khắc bằng tay.
3.2.1. Xuất khẩu
- Về kim ngạch: Trong những năm trở lại
đây, xuất khẩu gỗ có tốc độ tăng trưởng ấn
tượng trong ngành nông lâm sản Việt Nam.
Năm 2014, kim ngạch xuất khẩu gỗ tăng gấp
6 lần, đạt 6,2 tỷ USD, hoàn thành mục tiêu
kim ngạch Việt Nam đề ra đến năm 2020.
Tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này
trong năm 2019 lập mức kỷ lục mới, đạt
10,647 tỷ USD, tăng 19,5% so với năm 2018,
riêng sản phẩm gỗ xuất khẩu đạt 6,93 triệu
USD, chiếm 72,7% trong tổng kim ngạch
xuất khẩu nhóm hàng này, tăng 22,5% so với
cùng kỳ năm 2018, đưa ngành gỗ vươn lên
đứng thứ 6 về kim ngạch xuất khẩu mặt hàng/
nhóm mặt hàng trong năm 2019 (Tổng cục
Hải quan, 2019)
Nhìn chung thời gian qua các doanh
nghiệp chế biến gỗ đã có một số nỗ lực trong
cải tiến công nghệ sử dụng trong chế biến đồ
gỗ. Nhiều công nghệ giúp sử dụng nguyên
liệu gỗ rừng trồng như công nghệ xẻ, sấy và
tạo các sản phẩm ván nhân tạo như ván dăm,
ván ghép thanh, ván dán từ gỗ rừng trồng đã
được phát triển (tạo thành những tiểu ngành
như ngành dăm gỗ, ngành xẻ gỗ trong ngành
chế biến gỗ nói chung). Các thiết bị cũng
được cải tiến để phù hợp với đặc trưng
nguyên liệu sử dụng (ví dụ cải tiến các cơng
nghệ xẻ, băm dăm, lị sấy... phù hợp với đối
tượng gỗ rừng trồng đường kính nhỏ). Một số
công nghệ mới, hiện đại như công nghệ xử lý
biến tính gỗ, tạo các vật liệu composite gỗ
(cho phép khắc phục các nhược điểm của gỗ
rừng trồng và nâng cao hiệu quả sử dụng gỗ)
cũng đã bắt đầu phát triển ở Việt Nam. Nhờ
các công nghệ này mà tỷ lệ sử dụng gỗ rừng
trồng đang tăng cao, một số cơ sở chế biến
ván nhân tạo (nhất là ván sợi, MDF) quy mơ
lớn cũng đã được hình thành.
- Về cơ cấu sản phẩm: Cơ cấu sản phẩm
gỗ Việt Nam có sự chuyển biến tích cực từ
chỗ trước đây xuất khẩu sản phẩm thô là chủ
yếu (dăm gỗ, gỗ ván sàn, gỗ xẻ...) thì nay đã
chuyển sang các mặt hàng yêu cầu yếu tố kỹ
- mỹ thuật cao hơn trong đó đồ nội thất chiếm
45% thị phần xuất khẩu. Theo Cục Xuất nhập
khẩu Bộ Công Thương (2019), xuất khẩu đồ
nội thất bằng gỗ của Việt Nam ước đạt 6,95
tỷ USD, tăng 24,3% so với năm 2018. Các
sản phầm về ghế ngồi và dăm gỗ xếp thứ hai
và thứ ba, lần lượt chiếm 19% và 16% trong
phân khúc xuất khẩu của Việt Nam năm
2019.
Tuy vậy, trong tổng thể việc đổi mới
công nghệ và thiết bị sản xuất, chế biến gỗ
trong nhiều trường hợp là thách thức với
nhiều doanh nghiệp này do đòi hỏi những
khoản đầu tư tương đối lớn, vượt quá khả
năng chịu đựng của họ. Ngồi vấn đề trang
thiết bị và cơng nghệ, một vấn đề khác ít tốn
kém hơn nhưng lại có tác động lớn, được
14
- Về thị trường: Trong năm 2019, Hoa Kỳ
tiếp tục là thị trường xuất khẩu gỗ và sản
phẩm gỗ lớn nhất của Việt Nam, đạt gần 2,25
tỷ USD, tăng tới 32,61% so với cùng kỳ năm
ngoái và chiếm tới 47% tổng kim ngạch xuất
khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của cả nước. Ngoài
ra, kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ
sang hầu hết các thị trường chủ lực khác cũng
tăng khá mạnh: Nhật Bản tăng 15,69%,
Trung Quốc tăng 8,43%, Canada tăng
15,84%,...
Nhập khẩu đồ nội thất bằng gỗ của EU
có tốc độ tăng trưởng bình quân trong giai
đoạn năm 2016 - 2018 đạt 7,0%. Mỹ với tốc
độ tăng trưởng bình quân trong nhập khẩu đồ
nội thất bằng gỗ đạt 9,2%. Nhật Bản nhập
khẩu đồ nội thất bằng gỗ với tốc độ tăng
trưởng bình quân đạt 1,7%. Đây đều là thị
trường tiềm năng cho xuất khẩu gỗ của Việt
Nam.
.
Bảng 2: Thị trường xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ trong tháng 9 và 9 tháng đầu năm 2019
Thị trường
Tháng
9/2019
So với
tháng
9/2018
9 tháng năm
2019
(Nghìn USD)
(%)
(Nghìn USD)
So với 9
tháng năm
2018 (%)
Tỷ trọng (%)
2019
2018
Hoa Kỳ
464294
38.1
3648679
17.9
48.5
42.8
Nhật Bản
99427
-2.2
971376
33.6
12.9
13
Trung Quốc
99655
27.3
842482
17.5
11.2
12.7
Hàn Quốc
61740
-7.7
599532
4
8
11
Anh
22541
7.8
235644
-14.3
3.1
3.3
Canada
15217
25.5
128587
12.5
1.7
1.8
Úc
14307
-8.8
108976
11.1
1.4
2.1
Pháp
8734
-2.9
90035
-20.4
1.2
1.4
Đức
7646
8.4
80661
-0.3
1.1
1.1
Đài Loan
5761
33.1
58214
13.4
0.8
0.7
Khác
62923
1.2
758802
26.1
10.1
10.1
Tổng
862247
20.7
7522989
17.5
100
100
Nguồn: Bộ Công thương/Tổng cục hải quan (2019)
15
- Xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ đến các
nước CPTPP: Hiện nay, thương mại gỗ và
sản phẩm gỗ giữa Việt Nam với các quốc gia
CPTPP tăng trưởng cao. Năm 2019, tổng giá
trị xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam
sang các thị trường trong khối đạt trên 1,82 tỷ
USD, tăng khoảng 9,1% so với năm 2018,
chiếm 17,15% tổng giá trị xuất khẩu của cả
nước.
năm 2017. Năm 2019, xuất khẩu gỗ và sản
phẩm gỗ lập mức kỷ lục mới, đạt gần 1,34 tỷ
USD, tăng 15,69% so với năm 2018. Tiếp
theo là Canada với giá trị đạt 192 triệu USD,
tăng 15,64%. Australia xếp vị trí thứ ba với
151,4 triệu USD. Đặc biệt giá trị xuất khẩu
gỗ và sản phẩm gỗ sang Mexico tăng 30,12%.
Ngược lại, kim ngạch xuất khẩu gỗ và
sản phẩm gỗ sang một số thị trường Australia
và Maylaysia lại giảm khá mạnh, lần lượt
giảm 21,6% và giảm 30,99% so với năm
2018. Ngồi ra có thể thấy, Việt Nam hầu như
chưa len chân được vào các thị trường Peru,
Chile và Brunei.
Trong khối CPTPP, Nhật Bản là thị
trường xuất khẩu có kim ngạch lớn nhất Việt
Nam với 73% trong năm 2019, tiếp đến là
Canada (11%), Australia (9%) và Malaysia
(4%). Năm 2018, xuất khẩu sang Nhật Bản
đạt mức 1,119 tỷ USD, tăng 12,16% so với
Bảng 3: Đánh giá thị trường xuất khẩu thuộc nhóm CPTPP năm 2019
Thị trường
Năm 2019
Năm 2018
So sánh (%)
Chiếm % tổng
kim ngạch XK
năm 2019
Nhật Bản
1327189
1147206
15.69
12.46
Canada
192194
166203
15.64
1.81
Australia
151408
193124
-21.6
1.42
Malaysia
70508
102170
-30.99
0.66
Singapore
24526
24305
0.91
0.23
Newzealand
24292
26533
-8.45
0.23
Mexico
19126
14699
30.12
0.18
Chile
16939
*
*
0.16
Nguồn: Trademap (2020)
năm 2019 đạt 2,542 tỷ USD, tăng 9,8% so với
năm 2018. Như vậy, trong năm 2019, Việt
Nam đã xuất siêu tới 8,104 tỷ USD trong hoạt
động xuất nhập khẩu gỗ và sản phẩm gỗ,
(năm 2018 xuất siêu 6,59 tỷ USD).
3.2.2. Nhập khẩu
- Về kim ngạch: Theo số liệu thống kê của
Tổng cục Hải quan (2019), kim ngạch nhập
khẩu gỗ và sản phẩm gỗ về Việt Nam trong
16
- Về sản phẩm và thị trường nhập khẩu:
Việt Nam chủ yếu nhập khẩu gỗ tròn, gỗ xẻ
và ván nhận tạo từ các quốc gia CPTPP.
Malaysia, Chile, New Zealand là ba quốc gia
cung cấp nguyên liệu lớn, nằm trong top 10
các quốc gia Việt Nam nhập khẩu nguyên
liệu. Năm 2018, giá trị nhập khẩu từ Chile đạt
trị giá 80,4 triệu USD, Malaysia đạt trên 66,2
triệu USD, và New Zeland đạt 68,9 triệu
USD. Trong số đó, Malaysia là nước cung
cấp các loại ván gỗ nhiều nhất cho Việt Nam.
Ván sản xuất tại Malaysia đáp ứng yêu cầu về
chất lượng, giá cả cạnh tranh nên được khách
hàng Việt Nam ưa chuộng.
Việt Nam nhập khẩu gỗ nguyên liệu từ
Nhật Bản, Úc, Singapore, Peru, Mexico với
giá trị không đáng kể. Các doanh nghiệp Nhật
Bản đang xúc tiến tiêu thụ gỗ nguyên liệu ở
thị trường Việt Nam. Với thị trường Brunei,
tới thời điểm hiện tại Việt Nam chưa nhập
khẩu gỗ và sản phẩm gỗ từ thị trường này.
Hình 3: Kim ngạch nhập khẩu gỗ và sản phẩm gỗ về Việt Nam giai đoạn 2016-2019
Nguồn: Tổng cục Hải quan (2020)
Bảng 4: Đánh giá thị trường nhập khẩu thuộc nhóm CPTPP năm 2019
Thị trường
Năm 2019
Năm 2018
So sánh (%)
Chiếm % tổng kim
ngạch NK năm
2019
Chile
80411
81212
-0.99
3.16
New Zealand
68907
64003
7.66
2.71
Malaysia
66258
90928
-27.13
2.61
Canada
25197
27076
-6.94
0.99
Australia
9893
4810
105.67
0.39
Nhật Bản
8186
9173
-10.76
0.32
Nguồn: Tổng cục Hải quan (2020)
17
đối với toàn bộ gỗ và các sản phẩm gỗ tiêu
thụ nội địa và xuất khẩu.
4. Cơ hội và thách thức với ngành chế biến
xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam
trong bối cảnh hội nhập quốc tế CPTPP
hiện nay
Ngồi ra, trong CPTPP Việt Nam cũng
có các cam kết loại bỏ thuế quan đối với phần
lớn các máy móc thiết bị, trong đó có máy
móc thiết bị ngành gỗ. Đây là cơ hội để ngành
gỗ nhập khẩu máy móc, thiết bị cơng nghệ
hiện đại với giá cả hợp lý từ các nguồn
CPTPP.
4.1. Cơ hội đối với ngành chế biến xuất
khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam
Với việc CPTPP có hiệu lực, ngành chế
biến xuất khẩu gỗ Việt Nam đang có những
cơ hội quan trọng để phát triển, gia tăng xuất
khẩu sang thị trường CPTPP, đặc biệt là:
4.1.3. Cơ hội từ môi trường kinh doanh được
cải thiện
4.1.1. Cơ hội tiếp cận các thị trường xuất
khẩu CPTPP
CPTPP cùng với các cam kết về quy tắc,
thể chế, đặc biệt là trong các thủ tục xuất nhập
khẩu và môi trường kinh doanh sẽ góp phần
cải thiện mơi trường kinh doanh của Việt
Nam nói chung, qua đó giúp giảm chi phí cho
doanh nghiệp.
Các cam kết cắt giảm thuế quan mạnh
của các đối tác CPTPP đối với gỗ và các sản
phẩm gỗ sẽ giúp nhóm hàng hóa này có thêm
nhiêu cơ hội tiếp cận các thị trường này. Điều
này đặc biệt có ý nghĩa trong bối cảnh một số
nước CPTPP (điển hình như Nhật Bản,
Canada) nằm trong top thị trường xuất khẩu
lớn nhất của đồ gỗ Việt Nam đồng thời lại có
mức cam kết xóa bỏ thuế quan mạnh cho gỗ
và các sản phẩm gỗ trong CPTPP so với các
FTA đã có trước đây (điển hình như Nhật
Bản) hoặc so với thuế MFN đang duy trì (điển
hình như Canada) và gỗ và các sản phẩm gỗ
từ Việt Nam mới chiếm một tỷ trọng rất nhỏ
trong kim ngạch nhập khẩu các hàng hóa này
của các nước CPTPP.
Ngoài ra những cải cách về thể chế dưới
sức ép, đòi hỏi từ CPTPP cũng tạo điều kiện
thu hút thêm đầu tư trong nước và nước ngoài
vào hoạt động sản xuất kinh doanh, trong đó
có lĩnh vực chế biến xuất khẩu gỗ.
4.1.4. Cơ hội việc làm và thu nhập cho người
lao động ở nơng thơn, trong đó có các lao
động nữ
Ngành sản xuất chế biến gỗ là một ngành
sử dụng nhiều lao động, đặc biệt là trong các
làng nghề ở khu vực nông thôn, với tỷ lệ đáng
kể lao động nữ (đặc biệt trong các cơng đoạn
hồn thiện sản phẩm (mài, sơn phủ, trang
trí,...). Do đó, việc tăng cường cơ hội xuất
khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ Việt Nam sang
các nước CPTPP cũng là tăng cường cơ hội
việc làm và thu nhập cho người lao động
trong khu vực này, trong đó có các lao động
nữ.
4.1.2. Cơ hội nhập khẩu gỗ nguyên liệu, trang
thiết bị ngành gỗ
Với việc Việt Nam cam kết xóa bỏ ngay
khi Hiệp định có hiệu lực tồn bộ các dịng
thuế gỗ và các sản phẩm gỗ từ các nước
CPTPP, doanh nghiệp ngành gỗ sẽ có cơ hội
nhập khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ (đặc biệt là
gỗ nguyên liệu) từ các nguồn cung gỗ
CPTPP, trong đó nhiều khu vực là nguồn
cung gỗ hợp pháp. Đây là lợi thế rất đáng kể
trong bối cảnh Việt Nam đang triển khai thực
thi cơ chế quản lý chuỗi cung gỗ hợp pháp
4.1.5. Cơ hội cắt giảm chi phí sản xuất, cải
thiện năng lực cạnh tranh
Trong CPTPP, Việt Nam đưa ra khá
nhiều các cam kết trong lĩnh vực dịch vụ, thể
18
chế có thể giúp các doanh nghiệp sản xuất,
trong đó có các ngành chế biến xuất khẩu đồ
gỗ, tiết kiệm chi phí sản xuất, từ đó nâng cao
năng lực cạnh tranh, ví dụ như:
4.2.1. Sở hữu trí tuệ
Ở thời điểm hiện tại, Việt Nam đang chủ
yếu sản xuất theo các mẫu thiết kế ở nước
ngồi; muốn có thiết kế phải có thương hiệu;
muốn có thương hiệu phải có sở hữu trí tuệ;
muốn có sở hữu trí tuệ phải có nhân lực đào
tạo nhưng chúng ta vẫn chưa có đủ nguồn lực.
Hiện nay pháp luật của Việt Nam chỉ xử phạt
hành chính các hành vi vi phạm sở hữu trí tuệ,
chưa có những quy định xử lý bằng hình sự.
Tình trạng hàng giả, hàng nhái, hàng sao
chép, hàng lậu… đang được bày bán công
khai ở mọi nơi. Điều này một phần đã khiến
doanh nghiệp không mấy quan tâm đến việc
đầu tư vào thiết kế mà chủ yếu là gia công
theo đơn hàng đã có sẵn thiết kế, từ đó làm
giảm đi tính độc đáo cũng như cả về vấn đề
nâng cao trình độ của các doanh nghiệp.
- Các cam kết mở cửa các thị trường dịch
vụ phục vụ sản xuất như tài chính (bảo hiểm,
ngân hàng, chứng khốn), viễn thơng,
logistic… ở mức cao hơn WTO sẽ giúp doanh
nghiệp cạnh tranh trong các lĩnh vực này tốt
hơn, qua đó tạo điều kiện để các doanh
nghiệp sản xuất tiếp cận các dịch vụ này với
chất lượng tốt, chi phí hợp lý hơn, từ đó giảm
chi phí dịch vụ trong giá thành sản phẩm;
- Các cam kết thúc đẩy môi trường cạnh
tranh, các phương thức thương mại điện tử,
hỗ trợ doanh nghiệp (cạnh tranh, thương mại
điện tử, doanh nghiệp nhỏ và vừa...) là điều
kiện cho doanh nghiệp sản xuất, đặc biệt là
các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, cải thiện
năng lực cạnh tranh, tiếp cận tốt hơn với
khách hàng.
4.2.2. Thách thức từ các vấn đề trong năng
lực cạnh tranh
Trong quá trình hội nhập sâu rộng, để
đáp ứng yêu cầu về chứng chỉ, giấy tờ khi bán
trực tiếp sản phẩm cho người tiêu dùng nước
ngoài, các doanh nghiệp ngành gỗ buộc phải
thay đổi công nghệ cũng như thay đổi cả
người vận hành công nghệ. Như vậy, doanh
nghiệp cần có vốn để nhập khẩu cơng nghệ
mới, sau đó cần có cơ sở đào tạo để vận hành
cơng nghệ mới đó. Ví dụ, với cuộc cách mạng
cơng nghiệp 4.0, ngành gỗ phải sử dụng robot
phân loại gỗ tự động. Điều này cần thêm máy
móc cả người hướng dẫn để có thể vận hành
máy móc. Đây khơng phải là chuyện ngày
một ngày hai có thể làm được mà là những
thách thức lớn ngành gỗ cần phấn đấu trong
tương lai. Hiện tại, cơng nghệ sản xuất cịn
lạc hậu, lao động chưa có được đào tạo bài
bản phù hợp với cơng nghệ, quy trình xử lý
trong sản xuất (lao động, máy móc) bị hạn
chế, trình độ quản lý trong sản xuất gỗ cịn
thấp, tình trạng lãng phí ngun liệu cịn phổ
biến, năng lực thiết kế sản phẩm... còn là vấn
đề lớn của ngành chế biến và xuất khẩu gỗ.
4.2. Thách thức đối với ngành chế biến xuất
khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam
CPTPP mang đến những cơ hội lớn cho
Việt Nam để phát triển ngành công nghiệp
gỗ, bên cạnh đó là những thách thức khơng
hề nhỏ.
Về lý thuyết, việc mở hoàn toàn thị
trường gỗ và các sản phẩm gỗ của mình cho
các nước CPTPP có thể tạo ra thách thức cạnh
tranh ngay ở thị trường trong nước bởi thuế
MFN của Việt Nam hiện đang khá cao và sự
cạnh tranh với ngay cả những đối thủ mạnh
về xuất khẩu gỗ trong CPTPP như Malaysia
hay Canada. Tuy nhiên, sản phẩm gỗ của Việt
Nam cung ứng khác với các sản phẩm của các
đổi thủ. Cụ thể, Việt Nam chủ yếu cung ứng
sản phẩm cho phân khúc trung bình hoặc
mang tính dân tộc đặc thù. Vì vậy những
thách thức lớn chủ yếu đến từ các khía cạnh
sau:
19
Đặc biệt, khi các dòng thuế nhập khẩu sẽ bị
cắt giảm, đồ gỗ của Việt Nam sẽ phải cạnh
tranh với đồ gỗ của các quốc gia CPTPP trên
cả thị trường nội địa và xuất khẩu. Các doanh
nghiệp phải cải cách quản trị doanh nghiệp để
đáp ứng các quy định pháp lý mới từ Hiệp
định. Doanh nghiệp sẽ phải chi tiêu nhiều hơn
vào đầu tư đổi mới công nghệ và quy trình
sản xuất để cạnh tranh với sản phẩm từ các
nước thành viên CPTPP.
Từ thách thức nguồn nguyên liệu hợp
pháp dẫn tới chi phí sản xuất của doanh
nghiệp tăng trong giai đoạn đầu, làm ảnh
hưởng tới sức cạnh tranh của sản phẩm xuất
khẩu, đặc biệt ở các thị trường mà hiện chưa
thực thi yêu cầu gỗ hợp pháp.
4.2.4. Thách thức từ các hệ lụy của căng
thẳng thương mại
Căng thẳng thương mại Mỹ - Trung làm
gia tăng nguy cơ gian lận thương mại từ
Trung Quốc qua Việt Nam, có thể khiến
ngành gỗ Việt Nam phải đối mặt với khả năng
bị trừng phạt; đồng thời sự chuyển hướng đầu
tư từ Trung Quốc vào Việt Nam cũng tiềm ẩn
nguy cơ đầu tư trá hình, cơng nghệ lạc hậu.
4.2.3. Thách thức từ nguồn ngun liệu
Có thể thấy, Việt Nam sử dụng nguồn
cung gỗ rất lớn, vì vậy vẫn phải nhập khẩu từ
nhiều quốc gia khác nhau, đòi hỏi phải siết
chặt quản lý nguồn gỗ nhập khẩu. Với các
nước trong CPTPP, Việt Nam chủ yếu nhập
khẩu gỗ tròn, gỗ xẻ và ván nhân tạo.
Malaysia, Chile, New Zealand, là ba quốc gia
cung cấp nguyên liệu lớn, nằm trong top 10
các quốc gia Việt Nam nhập khẩu nguyên
liệu. Như vậy, còn tới 7 quốc gia mà Việt
Nam nhập khẩu ngun liệu lớn lại khơng
nằm trong CPTPP.
5. Kết luận
Ơng Nguyễn Chánh Phương, Phó chủ
tịch Hội Mỹ nghệ và Chế biến Gỗ TP Hồ Chí
Minh thơng tin, đưa ra nhận định, CPTPP
đem lại nhiều dư địa để đẩy mạnh xuất khẩu
nhưng cũng không kém phần áp lực cho
doanh nghiệp khi phải đáp ứng các yêu cầu
khá khắt khe của hiệp định. Tuy nhiên nếu
nhìn nhận xa hơn, CPTPP là bước đệm tốt để
doanh nghiệp ngành gỗ Việt Nam hướng tới
các tiêu chuẩn phát triển bền vững, từ đó
chinh phục các thị trường khác và cải thiện
năng lực cạnh tranh trực tiếp với các nước
xuất khẩu gỗ lớn như. Tiến sĩ Võ Trí Thành ngun Phó viện trưởng Viện Quản lý nghiên
cứu kinh tế trung ương cho rằng, những rủi
ro, thách thức đơi khi lại là điều cần thiết để
có cơ hội tốt cho phát triển bền vững và nhanh
hơn. Vì vậy, cần phải biến thách thức thành
cơ hội, chủ động nắm bắt thông tin về CPTPP
để nắm vững cam kết của Việt Nam và các
thị trường đối tác quan tâm, đặc biệt cần có
cái nhìn bao qt và đưa ra quyết định phù
hợp. CPTPP chắc chắn sẽ mang lại cơ hội cho
doanh nghiệp nào chủ động đáp ứng với
những thay đổi về mơi trường kinh doanh do
q trình hội nhập kinh tế quốc tế mang lại,
tạo điều kiện để các doanh nghiệp đồ gỗ và
sản phẩm gỗ của Việt Nam tham gia sâu hơn
nữa vào chuỗi cung ứng khu vực và tồn cầu.
Ngồi ra, trong hiệp định CPTPP, có
chương rất quan trọng là xuất xứ, phải đảm
bảo nguồn gốc gỗ hợp pháp. Đó là vấn đề rất
lớn. Trên thực tế, phần lớn nguyên liệu gỗ
cho sản sản xuất đồ gỗ xuất khẩu của các
doanh nghiệp Việt Nam hiện nay hoặc không
thuộc các nước trong khối CPTPP hoặc đến
từ những khu vực có rủi ro pháp lý cao. Tổng
thư ký VIFFORES cho rằng, một thách thức
mới cho ngành gỗ Việt khi gia nhập CPTPP
đó là sự hiểu biết của người dân về gỗ hợp
pháp. Trong thực thi CPTPP sẽ liên quan tới
rất nhiều đối tác không chỉ các doanh nghiệp
gỗ, mà cịn hộ gia đình trồng rừng, thương
mại gỗ, vận tải gỗ, thương lái gỗ, chế biến
gỗ… nhưng hiểu biết của họ về vấn đề này là
rất hạn chế. Về nguồn gỗ trong nước, những
cánh rừng có chứng chỉ FSC, nghĩa là gỗ sạch
mới chỉ khoảng 220 nghìn ha trên tổng số
khoảng 4-5 triệu ha. Muốn có khoảng 1-2
triệu ha gỗ sạch cũng phải phấn đấu vài chục
năm nữa.
20
Tài liệu tham khảo
Gỗ Việt (2020), “Tình hình xuất nhập khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam năm 2019”, truy cập
ngày 24 tháng 04 năm 2020
< />Gỗ Việt (2019), “Tình hình xuất nhập khâu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam trong 6 tháng năm
2019”, truy cập ngày 24 tháng 04 năm 2020
< />Minh Ngọc (2020), “Xuất khẩu đồ nội thất gỗ mang về gần 7 tỷ USD trong năm 2019”, CafeF,
truy cập ngày 20 tháng 04 năm 2020
< />Nguyễn Tôn Quyền (2019), “Ngành công nghiệp chế biến gỗ: Thách thức nguyên liệu trong
CPTPP và VPA/FLEG”, Trung tâm WTO và Hội nhập, truy cập ngày 24 tháng 04 năm 2020
< />Tô Xuân Phúc, Trần Lê Huy, Cao Thị Cẩm (2019), “Cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung: Cơ hội
và rủi ro cho ngành gỗ Việt Nam”, Gỗ Việt, truy cập này 21 tháng 04 năm 2020
< />CC%82%CC%81n%20thu%CC%9Bo%CC%9Bng%20ma%CC%A3i%20My%CC%83%20Tru
ng.pdf>
Tô Xuân Phúc, Trần Lê Huy, Cao Thị Cẩm (2020), “Báo cáo đầu tư nước ngoài trong ngành gỗ
Việt Nam 2019”, Gỗ Việt, truy cập ngày 19 tháng 04 năm 2020
< />Tổng cục Lâm nghiệp (2019), “Hội nghị đánh giá tình hình chế biến, xuất khẩu gỗ và lâm sản các
tháng đầu năm 2019”, truy cập ngày 21 tháng 04 năm 2020
< />Tổng cục thống kê (2017-2019), “Tình hình kinh tế xã hội năm 2017-2019”, truy cập ngày 20 tháng
04 năm 2020
< />Trung tâm WTO và Hội nhập (2019), “Sổ tay doanh nghiệp – CPTPP và ngành Chế biến xuất khẩu
gỗ Việt Nam”, truy cập ngày 19 tháng 04 năm 2020
< />
21