Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

Báo cáo Phân tích tác động của Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên thái bình dương (CPTPP) đến hoạt động kinh tế quốc tế của Việt Nam năm 2019

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (397.42 KB, 68 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG CỦA HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC TOÀN DIỆN
VÀ TIẾN BỘ XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (CPTPP) ĐẾN HOẠT
ĐỘNG KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM

Thuộc lĩnh vực khoa học và công nghệ: Kinh tế



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA FTA......................................................................7
1.1. Một số vấn đề lý luận............................................................................................7
1.1.1. Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế....................................................................7
1.1.2. Khái niệm FTA và tác động của FTA..................................................................9
1.1.3. Nội dung của CPTPP........................................................................................12
1.2. Nội dung cụ thể...................................................................................................15
1.2.1. Mở cửa thị trường hàng hóa với các nước thành viên......................................15
1.2.2. Đầu tư giữa các quốc gia thành viên.................................................................17
1.2.3. Hiệu lực của CPTPP.........................................................................................19
1.2.4. Rút khỏi hoặc gia nhập CPTPP.........................................................................19
1.2.5. So sánh TPP và CPTPP.....................................................................................20
CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG TÍCH CỰC VÀ TIÊU CỰC TỚI
HOẠT ĐỘNG KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM KHI THAM GIA KÍ KẾT
HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC TOÀN DIỆN VÀ TIẾN BỘ XUYÊN THÁI BÌNH
DƯƠNG (CPTPP)......................................................................................................23
2.1. Phân tích ảnh hưởng.............................................................................................23


2.1.1. Tích cực.............................................................................................................23
2.1.2 Tiêu cực..............................................................................................................26
2.2 Phân tích thực trạng hoạt động Kinh tế quốc tế của Việt Nam khi tham gia CPTPP.........30
2.2.1 Hoạt động Thương mại quốc tế của Việt Nam khi tham gia CPTPP...................30
2.2.2 Hoạt động đầu tư quốc tế của Việt Nam khi tham gia CPTPP............................43
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ ĐƯA RA MỘT SỐ GIẢI PHÁP......................47
3.1. Định hướng...........................................................................................................47
3.2. Giải pháp và điều kiện thực hiện giải pháp...........................................................51
3.2.1 Giải pháp từ phía Nhà nước và Chính phủ..........................................................51
3.2.2 Giải pháp cho các Doanh nghiệp........................................................................56
3.3. Một số công việc cụ thể triển khai hiệp định CPTPP............................................58
KẾT LUẬN................................................................................................................63
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................65


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1:

Bảng 2.2:

Bảng 2.3:
Bảng 2.4:

Bảng 2.5:
Bảng 2.6:

Tác động kinh tế vĩ mô của các Hiệp định Tự do thương mại đối với
nền kinh tế Việt Nam tính đến 2030 mô phỏng với giả định năng suất
bình thường (% chênh lệch so với kịch bản cơ sở)..............................31
Xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường một số nước

thành viên CPTPP: Nhật Bản, Canada, Singapore, Newzeland,
Malaysia..............................................................................................31
Xuất khẩu hàng hóa theo mặt hàng tháng 1/2019................................33
Cơ cấu thị trường xuất khẩu của Việt Nam sang 4 nước thành viên:
Nhật Bản, Canada, Singapore, Malaysia, New Zealand (giai đoạn
2014- 2018 và tháng 1/2019)...............................................................36
Xuất khẩu hàng hóa theo thị trường tháng 1 năm 2019.......................39
Giá trị xuất khẩu của Việt Nam sang các thị trường lớn so với tổng giá
trị xuất khẩu của Việt Nam ra thế giới.................................................42


1
MỞ ĐẦU
1.

Tổng quan chung về đề tài .

Hội nhập là một trong những xu thế chủ yếu của quan hệ quốc tế hiện đại. Cuộc
cách mạnh khoa học kỹ thuật và công nghệ đã và đang thúc đẩy mạnh mẽ quá trình
chuyên môn hoá và hợp tác giữa các quốc gia, làm cho lực lượng sản xuất được quốc
tế hoá cao độ. Điều này đã đưa các quốc gia gắn kết lại gần nhau, dẫn tới sự hình thành
mạng lưới toàn cầu hay hội nhập kinh tế quốc tế. Vậy quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế là một quá trình điều chỉnh chính sách kinh tế, xây dựng một nền kinh tế thị trường
mạnh để thực hiện tự do hoá trong lĩnh vực thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ,
đầu tư, hợp tác tài chính, tiền tệ. Tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế làm tăng khả
năng phối hợp chính sách, giúp các quốc gia có thể vượt qua được thử thách to lớn và
giải quyết các vấn đề kinh tế mang tính toàn cầu. Mặt khác nó còn tạo khả năng phân
bổ một cách hợp lý và có hiệu quả nguồn tài nguyên, trình độ khoa học, công nghệ của
nhân loại và nguồn tài chính trên phạm vi toàn cầu góp phần đẩy mạnh tốc độ phát
triển kinh tế ở mỗi quốc gia. Quá trình hội nhập giúp các nước sẵn sàng tận dụng ưu

đãi của các thành viên khác đem lại cho mình. Cụ thể:
Thứ nhất, tạo điều kiện cho các nước giảm bớt các khoản chi về an ninh, quốc
phòng để tập trung các nguồn lực cho việc phát triển kinh tế, chính trị, xã hội. Sự ổn
định này chính là điều kiện kiên quyết để thu hút đầu tư nước ngoài.
Thứ hai, nhờ quá trình hội nhập mà mỗi quốc gia có thể học hỏi kinh nghiệm
trong việc hoạch định chính sách phát triển kinh tế của các nước đi trước, tránh được
những sai sót, từng bước điều chỉnh các chính sách và chế độ kinh tế phù hợp chuẩn
mực của các tổ chức, các định chế kinh tế quốc tế tạo ra môi trường chuyển giao các
công nghệ kỹ thuật cao, rút ngắn thời gian và khoảng cách đuổi kịp các nước trong khu
vực và quốc tế.
Thứ ba, quá trình hội nhập tạo ra mối kinh tế, chính trị đa dạng, đan xen, phụ
thuộc lẫn nhau, góp phần nâng cao vị thế quốc tế cho các quốc gia tham gia bình đẳng
trong giao lưu và quan hệ kinh tế quốc tế. Mặt khác sự giảm dần các hàng rào thuế
quan và phi thuế quan, các phân biêt đối xử chính thức và phi chính thức, kinh tế và
phi kinh tế sẽ tạo cơ hội không chỉ cho các công ty lớn, các nền kinh tế lớn mà còn cho
cả các công ty nhỏ, nền kinh tế nhỏ tham gia bình đẳng và rộng rãi vào guồng máy
kinh tế thế giới.


2
Thứ tư, các quốc gia có môi trường quan trọng để có thể tổ chức chấn chỉnh
quản lý sản xuất, đổi mới công nghệ, nắm vững thông tin, tăng cường khả năng cạnh
tranh không những trên thị trường quốc tế mà cả trên thị trường nội địa.
Thứ năm, nhờ quá trình này còn tạo điều kiện để mở rộng thị trường thương
mại dịch vụ và đầu tư do được hưởng những ưu đãi cho các nước đang phát triển và
chậm phát triển. Các quốc gia được hưởng quy chế tối huệ quốc (MFN), đãi ngộ quốc
gia (NT) và mức thuế quan thấp cho các nước đối tác.
Chính vì thế mà tham gia hội nhập kinh tế là một tất yếu, khách quan, là đòi hỏi
cấp thiết đối với mỗi quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng.
Xu thế hội nhập xuất hiện từ những năm 1950, đã và đang phát triển mạnh mẽ

cho tới ngày nay với sự ra đời của hơn 40 tổ chức trong một khu vực và trên thế giới.
Nhận thức được xu thế của thời đại và để động viên được mọi nguồn lực cho sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước, trong đại hội IX của Đảng đã đề ra chủ trương “ Tiếp tục
mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá, chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với điều kiện của nước ta và đảm bảo
thực hiện những cam kết trong quan hệ song phương và đa phương như AFTA, APEC,
Hiệp định thương mại Việt- Mỹ, tiến tới gia nhập WTO”. Mặt khác “ Tiếp tục chính
sách mở cửa và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển, tích cực để chuẩn bị
các điều kiện về kinh tế, thể chế, cán bộ để thực hiện thành công quá trình hội nhập
trên cơ sở phát huy nội lực, đảm bảo độc lập, tự chủ, bình đẳng và cùng có lợi ”. Cùng
với phương châm “Việt Nam sẵn sàng làm bạn của tất cả các nước trong cộng đồng
quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” trong suốt quá trình phát triển
kinh tế, Việt Nam đã ký kết rất nhiều Hiệp định Thương mại. Việt Nam đã tham gia và
kí kết 12 FTA, trong đó có 7 FTA kí kết trong khuôn khổ ASEAN và các đối tác hoặc
kí kết với tư cách độc lập với Nhật Bản, Chile, Hàn Quốc, Liên minh kinh tế Á - Âu
cũng như EVFTA… FTA sớm nhất của Việt Nam chính là AFTA vào năm 1996, một
năm sau khi gia nhập ASEAN – nay đã được thay thế bằng Cộng đồng kinh tế ASEAN
(AEC). Tiếp đến, năm 2007, Việt Nam gia nhập trở thành thành viên của Tổ chức
thương mại Thế giới (WTO) và chính thức bắt tay vào công cuộc tăng cường hội nhập
kinh tế quốc tế.
Năm 2010, Việt Nam tham gia vòng đàm phán chính thức đầu tiên của Hiệp
định TPP, được khởi động tại thành phố Melbourne, Australia. Đến tháng 2/2016, Việt


3
Nam cùng các nước thành viên ký kết Hiệp định TPP tại New Zealand. Đầu năm 2017
khi tổng thống Donald Trump lên nắm quyền, Hoa Kỳ tuyên bố rút khỏi Hiệp định
TPP. Hiệp định TPP 12 đã được các quốc gia tham gia đàm phán và xây dựng với tiêu
chuẩn rất cao trên các lĩnh vực và khi đạt được sự đồng thuận này thì tất cả các quốc
gia đều hài lòng vì nó không những là một dự thảo Hiệp định với tiêu chuẩn chất

lượng cao mà còn đạt được điểm cân bằng chung của các quốc gia tham gia Hiệp định
này. Vì vậy khi Hoa Kỳ, một quốc gia có sức nặng kinh tế, với vai trò của mình rút ra
khỏi Hiệp định TPP thì cũng tạo ra những khó khăn nhất định cho các quốc gia trong
quan điểm tiếp tục duy trì Hiệp định TPP với tiêu chuẩn chất lượng cao như vậy. Mặc
dù trong bối cảnh đó nhưng tất cả các quốc gia đều khẳng định quyết tâm và mong
muốn của mình tiếp tục con đường này. Chính vì vậy mà CPTPP ra đời. CPTPP là
Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương được ký kết ngày
08/03/2018, với sự tham gia của 11 quốc gia thành viên (bao gồm các thành viên tham
gia TPP, trừ Hoa Kỳ): Australia, New Zealand, Canada, Mexico, Chile, Peru, Brunei,
Nhật Bản, Malaysia, Singapore và Việt Nam. Cũng như TPP, CPTPP được coi là hiệp
định thương mại tự do (FTA) tiêu chuẩn cao, không chỉ đề cập đến các lĩnh vực truyền
thống như cắt giảm thuế quan đối với hàng hóa, mở cửa thị trường dịch vụ, sở hữu trí
tuệ, hàng rào kỹ thuật liên quan đến thương mại… mà còn xử lý những vấn đề mới,
phi truyền thống như lao động, ,môi trường, mua sắm của Chính phủ, doanh nghiệp
Nhà nước.
Dưới những vấn đề trên cùng với xuất phát điểm là sinh viên chuyên ngành
Kinh tế quốc tế trường Đại học Kinh tế quốc dân vấn đề ảnh hưởng của CPTPP đến
kinh tế quốc tế của Việt Nam đã thu hút chúng tôi. Bằng sự hướng dẫn tận tình của tiến
sĩ Nguyễn Thị Thúy Hồng – giảng viên bộ môn Kinh tế quốc tế, Trường đại học Kinh
Tế Quốc Dân, nhóm nghiên cứu đã đi sâu vào nghiên cứu, phân tích tác động của Hiệp
định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương( CPTPP) đến hoạt động
kinh tế quốc tế của Việt Nam.
2. Tổng quan về các công trình nghiên cứu có chủ đề liên quan
Khi xem xét về hiệp định Đối tác toàn diên và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương
(CPTPP) đã có một số học giả nghiên cứu như sau:
Trong bài viết “ Tác động kinh tế và phân bổ thu nhập của Hiệp định Đối tác
Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương: Trường hợp của Việt Nam” của Ngân


4

hàng thế giới tháng 3 năm 2018 đã nhận định rằng dù không còn sự tham gia của Mỹ
nhưng CPTPP vẫn có khả năng gia tăng FDI và tiếp tục mở rộng các ngành dịch vụ.
Trong trường hợp Việt Nam lợi ích thu được sẽ tập trung chủ yếu vào một số ngành.
Ngành may mặc, ngành dệt may, ngành thực phẩm, đồ uống, thuốc lá sẽ có sản lượng
và kim ngạch xuất khẩu cao nhất trong CPTPP. Mặc dù sẽ ít hấp dẫn hơn so với TPP
tuy nhiên CPTPP sẽ dẫn tới mức độ đa dạng hóa xuất khẩu lớn hơn nếu tính trên thị
trường xuất khẩu. Ngoài các vấn đề “thương mại” trong Hiệp định, CPTPP có thể
khuyến khích và thúc đẩy cải cách trong nước ở nhiều lĩnh vực như cạnh tranh, dịch
vụ (bao gồm dịch vụ tài chính, viễn thông, gia nhập tạm thời của các nhà cung cấp
dịch vụ), hải quan, thương mại điện tử, môi trường, mua sắm chính phủ, sở hữu trí tuệ,
đầu tư, tiêu chuẩn lao động, các vấn đề pháp lý, tiếp cận thị trường cho hàng hoá, quy
tắc xuất xứ, các biện pháp phi thuế quan (bao gồm các biện pháp SPS và TBT), các
biện pháp khắc phục thương mại v.v.. CPTPP sẽ góp phần thúc đẩy sự minh bạch và hỗ
trợ việc hình thành các thể chế hiện đại ở Việt Nam.
Bài viết “ Đánh giá tác động của CPTPP đến một số ngành kinh tế của Việt
Nam” của khối nghiên cứu chiến lược và quan hệ kinh doanh quốc tế - Ngân hàng
TMCP Bưu Điện Liên Việt tháng 4 năm 2018 đã chỉ ra những tích cực và tiêu cực của
Việt Nam khi tham gia hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương
(CPTPP) chẳng hạn như việc giảm các hàng rào thuế quan đối với các nước thành
viên. Nhưng bên cạnh đó các cam kết tự do hóa thương mại của Việt Nam đối với các
mặt hàng nhập khẩu từ các nước thành viên có thể ảnh hưởng tiêu cực đến một số
ngành sản xuất trong nước như ngành thức ăn chăn nuôi; lương thực, thực phẩm, đồ
uống, thuốc lá…
Trong bài viết “Tác động của Hiệp định CPTPP tới các Ngành kinh tế” của
Công ty cổ phần Chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam (BSC) tháng
3 năm 2018 đã đưa ra những lý thuyết chung về hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ
xuyên Thái Bình Dương CPTPP và so sánh những lợi ích của Việt Nam đạt được khi
tham gia TPP-12 và CPTPP.
Bài viết “CPTPP – Cơ hội lớn, thách thức nhiều” của tác giả Lê Thúy của thời
báo kinh doanh đã chỉ ra những cơ hội và thách thức cùng với đó là những cách ứng

phó của Việt Nam khi CPTPP được thực thi.


5
Tuy nhiên những bài viết trên được viết vào khoảng thời gian trước khi CPTPP
được thực thi, hơn nữa chỉ nghiên cứu những vấn đề khái quát ở một góc độ riêng
chưa thực sự đi sâu vào nghiên cứu những ảnh hưởng tích cực, tiêu cực đối với từng
mặt hàng và từng thị trường.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
a) Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu ảnh hưởng tích cực, tiêu cực của việc tham gia hiệp định Đối tác
Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP ) đến hoạt động kinh tế quốc tế
của Việt Nam
b) Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục tiêu tổng quát trên, đề tài đi sâu nghiên cứu một số nhiệm vụ tổng quát
sau:
Một là, phân tích và làm rõ một số vấn đề lý luận chung về hội nhập kinh tế
quôc tế và tác động của các FTA
Hai là, phân tích ảnh hưởng tích cực, tiêu cực của việc tham gia hiệp định Đối
tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP ) đến hoạt động kinh tế
quốc tế của Việt Nam.
Ba là, định hướng một số đề xuất nhằm giúp Việt Nam tận dụng tốt ảnh hưởng
trên.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a) Đối tượng nghiên cứu
Ảnh hưởng của hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương
(CPTPP) trên phương diện tích cực và tiêu cực đến hoạt động kinh tế quốc tế của Việt
Nam.
b) Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: Lựa chọn các mặt hàng, thị trường của các nước thành viên

Nhật Bản, Canada, New Zealand, Singapore, Malaysia khi đẩy mạnh quan hệ với
nhau.
-

Thời gian : 2014-2019
Chủ thể: Quản lý nhà nước

5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp chung


6
Đề tài sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Sử
dụng các phương pháp thông kê toán, phương pháp đối chiếu so sánh, phương pháp
biểu đồ hình vẽ.
5.2. Phương pháp cụ thể
5.2.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá, khái quát hoá
những tài liệu lý thuyết liên quan, nhằm xây dựng cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu
ảnh hưởng của CPTPP đến kinh tế quốc tế của Việt Nam
5.2.2. Nhóm phương pháp thu thập số liệu
Số liệu được nhóm tác giả thu thập từ báo cáo về tình hình xuất nhập khẩu từ
năm 2014-2018 của Tổng cục Thống Kê
5.2.3. Phương pháp xử lý số liệu
Các kết quả thu được sẽ được thống kê và tổng hợp bằng phần mềm Excel
6. Kết cấu
Chương 1: Vấn đề lý luận chung về hội nhập kinh tế quốc tế và tác động của
FTA
Chương 2: Phân tích ảnh hưởng khi việc tham gia hiệp định Đối tác Toàn diện
và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP ) đến hoạt động kinh tế quốc tế của Việt

Nam.
Chương 3: Định hướng và đưa ra một số giải pháp


7
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỘI NHẬP KINH
TẾ QUỐC TẾ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA FTA
1.1.

Một số vấn đề lý luận

1.1.1. Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế
Cùng với công cuộc đổi mới bên trong, nước ta đã và đang hội nhập ngày càng
sâu rộng với nền kinh tế quốc tế theo các thang bậc: Từ hẹp đến rộng về đối tác và lĩnh
vực cam kết, từ thấp tới cao về mức độ cam kết. Trên thực tế, nước ta đã hội nhập vào
Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA), tiếp đến là các diễn đàn Á – Âu (ASEM),
châu Á – Thái Bình Dương (APEC) rồi Tổ chức thương mại thế giới (WTO) là tổ chức
toàn cầu. Ngày nay nước ta tham gia đàm phán, ký kết các thỏa thuận về FTA rộng
hơn, theo tiêu chuẩn cao hơn với EU, Liên minh Á – Âu, Hiệp định đối tác toàn diện
và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (TPP), Khu vực thương mại tự do châu Âu (EFTA)
… Bởi thế, hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành cụm từ khá quen thuộc. Trên giảng
đường hay trong công sở, người ta sử dụng nó một cách thông dụng. Tuy vậy, không
phải ai cũng thực sự hiểu một cách đầy đủ về khái niệm này. Hiện nay vẫn còn có
những tranh cãi khác nhau giữa những nhà học thuật về nhiều khía cạnh của hội nhập
kinh tế quốc tế. Trong bối cảnh nước ta đang “tích cực, chủ động hội nhập quốc tế”
theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI vừa qua, việc xác định đúng ý
nghĩa, bản chất, nội hàm, xu hướng vận động cũng như hệ lụy của hội nhập quốc tế là
rất cần thiết và có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng chiến lược, chính sách và
các biện pháp cụ thể của nước ta trong quá trình hội nhập.
Thuật ngữ “hội nhập quốc” tế trong tiếng Việt có nguồn gốc dịch từ tiếng nước

ngoài (tiếng Anh là “international integration”). Đây là một khái niệm được sử dụng
chủ yếu trong các lĩnh vực chính trị học quốc tế và kinh tế quốc tế, ra đời từ khoảng
giữa thế kỷ trước ở châu Âu, trong bối cảnh những người theo trường phái thể chế chủ
trương thúc đẩy sự hợp tác và liên kết giữa các cựu thù (Đức-Pháp) nhằm tránh nguy
cơ tái diễn chiến tranh thế giới thông qua việc xây dựng Cộng đồng châu Âu.
Trên thực tế cho đến nay, có nhiều cách hiểu và định nghĩa khác nhau về khái
niệm “hội nhập quốc tế”. Tựu chung, có ba cách tiếp cận chủ yếu sau:
Cách tiếp cận thứ nhất, thuộc về trường phái theo chủ nghĩa liên bang, cho rằng
hội nhập (integration) là một sản phẩm cuối cùng hơn là một quá trình. Sản phẩm đó là
sự hình thành một Nhà nước liên bang kiểu như Hoa Kỳ hay Thụy Sỹ. Để đánh giá sự


8
liên kết, những người theo trường phái này quan tâm chủ yếu tới các khía cạnh luật
định và thể chế.
Cách tiếp cận thứ hai, với Karl W. Deutsch là trụ cột, xem hội nhập trước hết là
sự liên kết các quốc gia thông qua phát triển các luồng giao lưu như thương mại, đầu
tư, thư tín, thông tin, du lịch, di trú, văn hóa… từ đó hình thành dần các cộng đồng an
ninh (security community). Theo Deutsch, có hai loại cộng đồng an ninh: loại cộng
đồng an ninh hợp nhất như kiểu Hoa Kỳ, và loại cộng đồng an ninh đa nguyên như
kiểu Tây Âu. Như vậy, cách tiếp cận thứ hai này xem xét hội nhập vừa là một quá trình
vừa là một sản phẩm cuối cùng.
Cách tiếp cận thứ ba xem xét hội nhập dưới góc độ là hiện tượng/hành vi các
nước mở rộng và làm sâu sắc hóa quan hệ hợp tác với nhau trên cơ sở phân công lao
động quốc tế có chủ đích, dựa vào lợi thế của mỗi nước và mục tiêu theo đuổi.
Cách tiếp cận thứ nhất có nhiều hạn chế vì nó không đặt hiện tượng hội nhập
trong quá trình phát triển mà chỉ nhìn nhận hiện tượng này (chủ yếu về khía cạnh luật
định và thể chế) trong trạng thái tĩnh cuối cùng gắn với mô hình Nhà nước liên bang.
Cách tiếp cận này khó áp dụng để phân tích và giải thích thực tiễn của quá trình hội
nhập diễn ra với nhiều hình thức và mức độ khác nhau như hiện nay trên thế giới.

Không phải bất cứ sự hội nhập nào cũng dẫn đến một Nhà nước liên bang. Cách tiếp
cận thứ hai có điểm mạnh là nhìn nhận hiện tượng hội nhập vừa trong quá trình tiến
triển vừa trong trạng thái tĩnh cuối cùng, đồng thời đưa ra được những nội dung khá cụ
thể và sát thực tiễn của quá trình hội nhập, góp phần phân tích và giải thích nhiều vấn
đề của hiện tượng này. Cách tiếp cận thứ ba tập trung vào hành vi của hiện tượng,
không quan tâm xem xét góc độ thể chế cũng như kết quả cuối cùng của hội nhập, do
vậy, thiếu tính toàn diện và hạn chế trong khả năng giải thích bản chất của quá trình
hội nhập.
Mặc dầu vậy, cho đến nay vẫn không có một định nghĩa nào về khái niệm “hội
nhập quốc tế” giành được sự nhất trí hoàn toàn trong giới học thuật và cả giới làm
chính sách ở Việt Nam. Từ các định nghĩa khác nhau nổi lên hai cách hiểu chính. Thứ
nhất, cách hiểu hẹp coi “hội nhập quốc tế” là sự tham gia vào các tổ chức quốc tế và
khu vực. Thứ hai, cách hiểu rộng, coi “hội nhập quốc tế” là sự mở cửa và tham gia vào
mọi mặt của đời sống quốc tế, đối lập với tình trạng đóng cửa, cô lập hoặc ít giao lưu
quốc tế. Với tư duy theo cách này, không ít người thậm chí đã đánh đồng hội nhập với


9
hợp tác quốc tế. Cả hai cách hiểu trên về khái niệm “hội nhập quốc tế” đều không đầy
đủ và thiếu chính xác.
Từ lý luận và thực tiễn nêu trên, chúng ta cần xác định một cách tiếp cận phù
hợp đối với khái niệm “hội nhập quốc tế” để làm nền tảng xây dựng chiến lược hội
nhập quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn mới. Chúng tôi cho rằng cách tiếp cận phù
hợp nhất là xem xét hội nhập như là một quá trình xã hội có nội hàm toàn diện và
thường xuyên vận động hướng tới mục tiêu nhất định. Theo đó, hội nhập quốc tế được
hiểu như là quá trình các nước tiến hành các hoạt động tăng cường sự gắn kết họ với
nhau dựa trên sự chia sẻ về lợi ích, mục tiêu, giá trị, nguồn lực, quyền lực (thẩm quyền
định đoạt chính sách) và tuân thủ các luật chơi chung trong khuôn khổ các định chế
hoặc tổ chức quốc tế. Như vậy, khác với hợp tác quốc tế (hành vi các chủ thể quốc tế
đáp ứng lợi ích hay nguyện vọng của nhau, không chống đối nhau), hội nhập quốc tế

vượt lên trên sự hợp tác quốc tế thông thường: nó đòi hỏi sự chia sẻ và tính kỷ luật cao
của các chủ thể tham gia. Nhìn ở góc độ thể chế, quá trình hội nhập hình thành nên và
củng cố các định chế/tổ chức quốc tế, thậm chí là các chủ thế mới của quan hệ quốc tế.
Những chủ thể quốc tế mới này có thể dưới dạng: (i) hoặc là một tổ chức liên chính
phủ (các thành viên vẫn giữ chủ quyền quốc gia trong việc định đoạt chính sách, chẳng
hạn như tổ chức Liên hiệp quốc, ASEAN…), (ii) hoặc là một tổ chức siêu quốc gia
(các thành viên trao toàn bộ chủ quyền quốc gia cho một cơ cấu siêu quốc gia, hình
thái này có thể giống như mô hình nhà nước liên bang, chẳng hạn như Hoa Kỳ,
Canada…), (iii) hoặc là một tổ chức lai ghép giữa hai hình thái trên (các thành viên
trao một phần chủ quyền quốc gia cho một cơ cấu siêu quốc gia và vẫn giữ một phần
chủ quyền cho riêng mình, chẳng hạn như trường hợp EU hiện nay).
Chủ thể của hội nhập quốc tế trước hết là các quốc gia, chủ thể chính của quan
hệ quốc tế có đủ thẩm quyền và năng lực đàm phán, ký kết và thực hiện các cam kết
quốc tế. Bên cạnh chủ thể chính này, các chủ thể khác cùng hợp thành lực lượng tổng
hợp tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế.
1.1.2.

Khái niệm FTA và tác động của FTA

1.1.2.1. Khái niệm FTA
Hiệp định thương mại tự do (FTA) là một Hiệp ước thương mại giữa hai hoặc
nhiều quốc gia. Theo đó, các nước sẽ tiến hành theo lộ trình việc cắt giảm và xóa bỏ
hàng rào thuế quan cũng như phi thuế quan nhằm tiến tới việc thành lập một khu vực
mậu dịch tự do. Theo thống kê của Tổ chức thương mại thế giới có hơn 200 Hiệp định


10
thương mại tự do có hiệu lực. Các Hiệp định thương mại tự do có thể được thực hiện
giữa hai nước riêng lẻ hoặc có thể đạt được giữa một khối thương mại và một quốc gia
như Hiệp định thương mại tự do Liên minh châu Âu-Chi Lê, hoặc Hiệp định thương

mại tự do ASEAN-Trung Quốc.
FTA có thể là song phương (được ký kết giữa 2 nước) hoặc đa phương (ký giữa
nhiều nước). Tuy nhiên, dù là song phương hay đa phương, FTA thường đem lại lợi ích
rất lớn cho các nước thành viên trong việc thúc đẩy thương mại, tận dụng những lợi
thế so sánh của nhau. Không những thế, do có phạm vi hợp tác rộng, FTA còn xúc tiến
tự do hóa đầu tư, hợp tác chuyển giao công nghệ, hiệu suất hóa thủ tục hải quan và
nhiều dịch vụ khác.
FTA ngày càng trở nên phổ biến bởi những lợi ích kinh tế mà nó mang lại, nhất
là trong bối cảnh bế tắc của các vòng đàm phán do WTO chủ trương, khiến các nước
đã phải chuyển hướng sang hợp tác song phương và liên kết khu vực nhằm tìm giải
pháp cho phát triển thương mại hàng hóa và dịch vụ. Điều này lại tiếp tục dẫn tới việc
những nước không tham gia FTA hoặc tham gia chậm sẽ bị gạt khỏi cuộc chơi, nên
dường như FTA trở thành một xu hướng chung. Ngoài ra, tham gia FTA còn tạo cho
các nước một sự “yên tâm” hơn khi có những bất ổn trong kinh tế, thương mại toàn
cầu, cũng như đem lại lợi ích chính trị cho các nước tham gia qua việc nâng cao vị thế
của họ trong đàm phán.
Nhìn chung mục đích ký kết FTA của Việt Nam cũng giống như các nước khác
là mong muốn tăng cường xuất khẩu, tạo sức hấp dẫn để thu hút vốn đầu tư nước
ngoài, tăng cường vị thế và gây dựng hình ảnh đất nước trên trường quốc tế. FTA còn
có tác dụng gia tăng các sức ép để đổi mới, nâng cao năng lực cạnh tranh. Tuy nhiên,
sự đa dạng và phức tạp của quy tắc xuất xứ trong các FTA có thể sẽ gây nhiều khó
khăn cho các doanh nghiệp trong quá trình thực hiện FTA. Sự tương đồng về lợi thế
cạnh tranh, cũng như chênh lệch về trình độ phát triển của các nước tham gia cũng dễ
dẫn đến sự cạnh tranh gay gắt hoặc là có các rào cản lớn để các bên đàm phán được
một FTA toàn diện.
1.1.2.2. Một số tác động của FTA
1.1.2.2.1. Mở rộng thị trường
Việc dỡ bỏ các hàng rào thuế quan là cơ hội để các nhà sản xuất thâm nhập thị
trường các nước thành viên FTA. Mở rộng thị trường cũng đồng nghĩa với việc doanh
nghiệp có thể tiếp cận nhiều hơn với cơ hội mở rộng sản xuất, gia tăng lợi nhuận. Đây



11
là cơ sở để đạt được sự nhất trí từ phía các doanh nghiệp, lực lượng thị trường đóng
vai trò quan trọng trong việc hội nhập có hiệu quả của một quốc gia.
1.1.2.2.2. Nâng cao tính cạnh tranh
Cạnh tranh được coi là động lực phát triển và đó cũng là tác động lớn nhất
mang tính động của FTA. Khi một FTA được hình thành, các hàng rào thuế quan nội
khối sẽ bị hạ thấp hoặc xoá bỏ, điều đó có nghĩa là các doanh nghiệp không còn nhận
được sự bảo hộ từ các công cụ chính sách thương mại của nhà nước. Họ sẽ phải đối
mặt với sự cạnh tranh khốc liệt hơn từ các sản phẩm của các nước thành viên FTA.
Các tác động mang tính động tạo ra sức ép để các nhà sản xuất trong nước phải
vận động nhằm thoát ra khỏi tình trạng trì trệ, ỉ lại, thúc đẩy họ nắm lấy cơ hội đổi mới
hoạt động kinh doanh, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, đổi mới công nghệ,
hạ giá thành sản phẩm. Không nâng cao tính cạnh tranh đồng nghĩa với khả năng thất
bại của doanh nghiệp, đặc biệt là đối với những ngành công nghiệp được bảo hộ trước
đó.
Bên cạnh đó khi gia tăng cạnh tranh các doanh nghiệp sẽ phải giảm chi phí sản
xuất từ đó làm giảm giá thành sản phẩm. Người tiêu dùng sẽ thu được nhiều lợi ích
hơn và có nhiều lựa chọn hơn.
1.1.2.2.3. Thúc đẩy đầu tư
Hội nhập kinh tế của bất cứ quốc gia nào, dù ở bất kỳ hình thức nào cũng có thể
gia tăng làn sóng đầu tư vốn cũng như công nghệ từ trong và ngoài nước. Sự phát triển
của các DN nội địa trước các cơ hội thị trường mở rộng sẽ đòi hỏi tốc độ đổi mới công
nghệ ngày càng cao, cần những khoản đầu tư không nhỏ. Ngoài yếu tố chủ quan đó thì
việc tham gia FTA cũng sẽ là cơ hội thu hút vốn đầu tư từ các thành viên của FTA nói
riêng và các nhà đầu tư ngoài FTA nói chung, lẽ đương nhiên khi các nước thiết lập
FTA quy mô thị trường khu vực sẽ lớn hơn, tạo điều kiện thu hút các nhà đầu tư tìm
kiếm cơ hội đầu tư vào các ngành công nghiệp có tiềm năng.



12
1.1.2.2.4. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Khi hội nhập kinh tế quốc tế được diễn ra thì nhiều mặt hàng sẽ không còn
được nhà nước bảo hộ. Từ đó thúc đấy chuyển dịch cơ cấu sản xuất và xuất khẩu để
phù hợp với hoàn cảnh.
1.1.3. Nội dung của CPTPP
Năm 2010, Việt Nam chính thức bước vào vòng đàm phán của Hiệp định TPP.
TPP là Hiệp định thương mại tự do (FTA) được đàm phán từ tháng 3/2010, bao gồm
12 nước thành viên là Hoa Kỳ, Canada, Mexico, Peru, Chile, New Zealand, Úc, Nhật
Bản, Singapore, Brunei, Malaysia và Việt Nam. TPP được chính thức ký ngày
4/2/2016 và được dự kiến sẽ có hiệu lực từ 2018. Tuy nhiên, đến tháng 1/2017, Hoa
Kỳ tuyên bố rút khỏi TPP, khiến TPP không thể đáp ứng điều kiện có hiệu lực như dự
kiến ban đầu. 11 nước còn lại bao gồm Australia, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản,
Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore và Việt Nam thông báo tiếp tục
hướng tới thực thi thỏa thuận mà không có Mỹ, đổi tên Hiệp định TPP thành CPTPP
(Comprehensive and Progressive Agreement for Trans-Pacific Partnership). Trong
cuộc họp báo được tổ chức vào ngày 11/11/2017 bên lề Tuần lễ cấp cao APEC tại
Thành phố Đà Nẵng, Việt Nam. Trong cuộc họp này, Bộ trưởng 11 nước tham gia đã
tuyên bố Hiệp định CPTPP cần đảm bảo quyền cơ bản của các quốc gia thành viên
trong việc điều hành chính sách; linh hoạt trong việc thiết lập các ưu tiên về mặt pháp
luật và chính sách; mỗi nước thành viên có quyền bảo tồn, phát triển và thực thi chính
sách về văn hóa của nước mình. CPTPP được chính thức ký kết vào tháng 3/2018 Như
vậy, CPTPP đã bổ sung 2 từ "Toàn diện" (Comprehensive) và "Tiến bộ" (Progressive).
Sự bổ sung này khẳng định tầm vóc, chất lượng và ý nghĩa của CPTPP – một hiệp định
có tính tiêu chuẩn cao, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực. Hiệp định Đối tác toàn diện
và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương có hiệu lực sau 60 ngày kể từ khi được phê chuẩn
bởi ít nhất 50% số quốc gia tham gia Hiệp định. Quốc gia thứ sáu phê chuẩn Hiệp định
này là Úc vào ngày 31/10/2018. Vào ngày 2/11/2018, Hiệp định CPTPP và các tài liệu
liên quan đã được trình lên Quốc hội Việt Nam để phê chuẩn. Quốc hội Việt Nam đã

thông qua Nghị quyết phê chuẩn CPTPP vào ngày 12/11/2018 và việc phê chuẩn này
được thông báo tới các nước thành viên còn lại vào ngày 15/11/2018. Các Bên tham
gia Hiệp định này, quyết tâm:


13
KHẲNG ĐỊNH LẠI các vấn đề đã được thể hiện trong lời mở đầu Hiệp định
Đối tác xuyên Thái Bình Dương, được ký tại Auckland ngày 4 tháng 02 năm 2016 (sau
đây gọi là “Hiệp định TPP”);
HIỆN THỰC HÓA nhanh chóng các lợi ích của Hiệp định TPP thông qua Hiệp
định này và tầm quan trọng về kinh tế và chiến lược của các lợi ích đó; ĐÓNG GÓP
nhằm duy trì mở cửa thị trường, thúc đẩy thương mại thế giới và tạo ra những cơ hội
kinh tế mới cho người dân thuộc mọi mức thu nhập và hoàn cảnh kinh tế;
THÚC ĐẨY hơn nữa hội nhập và hợp tác kinh tế khu vực giữa các Bên;
TĂNG CƯỜNG cơ hội thúc đẩy tự do hóa thương mại và đầu tư khu vực;
KHẲNG ĐỊNH LẠI tầm quan trọng của việc thúc đẩy trách nhiệm xã hội của
doanh nghiệp, bản sắc và sự đa dạng văn hóa, bảo vệ và bảo tồn môi trường, bình đẳng
giới, quyền lợi của người bản địa, quyền lao động, thương mại, phát triển bền vững, tri
thức truyền thống, cũng như tầm quan trọng của việc bảo lưu quyền quản lý của mình
vì các lợi ích công cộng;
HOAN NGHÊNH các quốc gia hoặc các lãnh thổ hải quan riêng biệt tham gia
Hiệp định này;
Hiệp định CPTPP gồm 07 Điều và 01 Phụ lục. Cụ thể:
(i)
(ii)
(iii)
(iv)
(v)
(vi)
(vii)


Tích hợp Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương;
Tạm đình chỉ một số điều khoản;
Hiệu lực;
Rút khỏi Hiệp định;
Gia nhập;
Rà soát Hiệp định CPTPP;
Các lời văn xác thực;

Phụ lục Danh mục một số điều khoản tạm đình chỉ thực hiện theo Hiệp định
CPTPP bao gồm 20 nhóm nghĩa vụ tạm hoãn áp dụng theo Hiệp định CPTPP.
Phụ lục về 7 điều liên quan đến những điểm kỹ thuật của hiệp định CPTPP.
Về cơ bản, Hiệp định CPTPP giữ nguyên nội dung của Hiệp định TPP (gồm 30
chương và 9 phụ lục) nhưng cho phép các nước thành viên tạm hoãn 20 nhóm nghĩa
vụ để bảo đảm sự cân bằng về quyền lợi và nghĩa vụ của các nước thành viên trong bối
cảnh Hoa Kỳ rút khỏi Hiệp định TPP. 20 nhóm nghĩa vụ tạm hoãn này bao gồm 11
nghĩa vụ liên quan tới Chương Sở hữu trí tuệ, hai nghĩa vụ liên quan đến Chương Mua
sắm của Chính phủ và 7 nghĩa vụ còn lại liên quan tới 7 Chương là Quản lý hải quan
và Tạo thuận lợi Thương mại, Đầu tư, Thương mại dịch vụ xuyên biên giới, Dịch vụ


14
Tài chính, Viễn thông, Môi trường, Minh bạch hóa và Chống tham nhũng. Tuy nhiên,
toàn bộ các cam kết về mở cửa thị trường trong Hiệp định TPP vẫn được giữ nguyên
trong Hiệp định CPTPP.
Hiệp định CPTPP được coi là một hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, tiêu
chuẩn cao và toàn diện, không chỉ đề cập các lĩnh vực truyền thống, như cắt giảm thuế
quan đối với hàng hóa, mở cửa thị trường dịch vụ, sở hữu trí tuệ, hàng rào kỹ thuật
liên quan thương mại,... mà còn xử lý những vấn đề mới, phi truyền thống như lao
động, môi trường, mua sắm của Chính phủ, doanh nghiệp nhà nước,… Hiệp định này

đặt ra các yêu cầu và tiêu chuẩn cao về minh bạch hóa cũng như đưa ra cơ chế giải
quyết tranh chấp có tính ràng buộc và chặt chẽ.
Về mở cửa thị trường, các nước tham gia Hiệp định thống nhất xóa bỏ cho nhau
gần như toàn bộ thuế nhập khẩu theo lộ trình; Tự do hóa dịch vụ và đầu tư trên cơ sở
tuân thủ pháp luật của nước sở tại, bảo đảm sự quản lý của Nhà nước. Theo đó, CPTPP
vừa tạo sự gắn kết giữa các quốc gia vừa bảo đảm lợi ích của tất cả các bên, bảo đảm
quyền bảo vệ, phát triển và thực thi các chính sách văn hóa riêng của từng thành viên.
Với sự rút lui của Mỹ, quy mô thị trường của CPTPP bị thu hẹp đáng kể, từ chỗ
chiếm 40% xuống còn 13,5% GDP toàn cầu so với TPP. Dù vậy, giới chuyên gia cho
rằng, đây vẫn là hiệp định hết sức quan trọng, mở ra thị trường rộng lớn với tổng dân
số 500 triệu người.
CPTPP về cơ bản kế thừa toàn bộ nội dung của Hiệp định TPP nhưng cho phép
các nước thành viên tạm hoãn khoảng 20 nghĩa vụ so với TPP để bảo đảm sự cân bằng
trong bối cảnh mới. Trong đó, có 11/20 điều khoản liên quan đến sở hữu trí tuệ mà Mỹ
là quốc gia đề xuất trước đây. Trong số các nghĩa vụ được tạm hoãn, các nước đồng ý
để Việt Nam miễn thực thi một số cam kết liên quan đến sở hữu trí tuệ, đầu tư, mua
sắm của Chính phủ, dịch vụ tài chính, viễn thông...
Hiệp định còn bổ sung các quy định về quy trình rút lui, gia nhập, rà soát lại
CPTPP trong tương lai, tạo tính linh hoạt của Hiệp định và có thể sẵn sàng cho những
đợt kết nạp thành viên mới.


15
Nguyên tắc hoạt động của hiệp định CPTPP
Nguyên tắc hoạt động của CPTPP là phải duy trì được tiêu chuẩn cao, có sự cân
bằng tổng thể và đảm bảo tính toàn vẹn của Hiệp định, trong khi đó vẫn đảm bảo lợi
ích về không chỉ thương mại, mà cả các lợi ích khác của tất cả các nước tham gia.
1.2. Nội dung cụ thể
1.2.1. Mở cửa thị trường hàng hóa với các nước thành viên
Cam kết về thuế quan

Các cam kết về thuế quan trong CPTPP bao gồm 02 nhóm: cam kết về thuế
nhập khẩu và cam kết về thuế xuất khẩu. Trong CPTPP, các cam kết về thuế quan được
thể hiện chi tiết theo từng dòng thuế trong Biểu thuế và mỗi nước CPTPP sẽ có một
Biểu cam kết thuế quan riêng áp dụng cho từng đối tác hoặc cho tất cả các đối tác
CPTPP. Các Biểu cam kết thuế quan ưu đãi trong CPTPP - Có 07 nước CPTPP đưa ra
Biểu thuế quan áp dụng chung cho tất cả các đối tác CPTPP khác, bao gồm: Úc,
Brunei, Malaysia, New Zealand, Peru, Singapore, Việt Nam; - Có 04 nước CPTPP đưa
ra Biểu thuế quan áp dụng riêng cho từng đối tác CPTPP khác, bao gồm: Canada,
Chile, Nhật Bản, Mexico.
Các cam kết dành ưu đãi thuế quan trong CPTPP thường là theo 03 hình thức:
- Cam kết loại bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định CPTPP chính thức có hiệu lực:
Đối với các trường hợp này, thuế quan sẽ là 0% vào thời điểm CPTPP có hiệu lực;
- Cam kết loại bỏ thuế quan theo lộ trình: Thuế quan sẽ được đưa về 0% nhưng
không phải ngay khi Hiệp định CPTPP có hiệu lực mà là sau một khoảng thời gian
nhất định (lộ trình). Trong CPTPP phần lớn là lộ trình 3-7 năm, tuy nhiên cũng nhiều
trường hợp lộ trình là 10, 15 năm, cá biệt có những trường hợp lộ trình trên 20 năm;
- Cam kết hạn ngạch thuế quan: Đối với các trường hợp này thuế quan chỉ
giảm hoặc loại bỏ với một số lượng, khối lượng hàng hóa…nhất định (gọi là mức hạn
ngạch); còn vượt ra khỏi mức hạn ngạch thì thuế quan sẽ cao hơn (hoặc thuế quan
không được ưu đãi).
Thuế quan đối với các sản phẩm công nghệ thông tin. Đối với các sản phẩm
công nghệ thông tin, các nước CPTPP cam kết sẽ trở thành thành viên và thực thi Hiệp
định Công nghệ Thông tin của WTO (ITA). Việt Nam đã là thành viên của ITA và hiện
cũng đang cùng với các nước CPTPP khác đàm phán trong khuôn khổ WTO để mở
rộng ITA (còn gọi là ITA2). Theo ITA các nước sẽ phải xóa bỏ thuế quan và các loại


16
thuế khác áp dụng đối với phần lớn các sản phẩm công nghệ thông tin, bao gồm máy
tính, thiết bị viễn thông, chất bán dẫn, các thiết bị khoa học dùng để sản xuất và thử

nghiệm chất bán dẫn… và hầu hết các bộ phận của các sản phẩm này.
Cam kết về thuế xuất khẩu đối với hàng hóa. Trong WTO, Việt Nam đã cam
kết xóa bỏ thuế xuất khẩu ngoại trừ một số sản phẩm mà Việt Nam bảo lưu quyền tiếp
tục áp thuế xuất khẩu. Trong CPTPP, Việt Nam cam kết xóa bỏ thuế xuất khẩu đối với
phần lớn các sản phẩm còn bảo lưu/giữ quyền áp dụng thuế xuất khẩu trong WTO (với
lộ trình xóa bỏ thuế là từ 5-15 năm) và chỉ giữ lại quyền áp dụng thuế xuất khẩu đối
với 70 sản phẩm. CPTPP nhắc lại các nghĩa vụ trong WTO, theo đó các nước không
được ban hành hoặc duy trì bất kỳ biện pháp cấm, hạn chế nhập khẩu hoặc xuất khẩu
nào ngoại trừ các trường hợp đã có cam kết và các ngoại lệ trong WTO. Như vậy, trừ
các trường hợp đã quy định trong cam kết, Việt Nam sẽ không thể cấm, hạn chế nhập
khẩu hay xuất khẩu hàng hóa. Bên cạnh các nghĩa vụ trong WTO, CPTPP còn yêu cầu
các nước Thành viên không được áp dụng các biện pháp có tính hạn chế xuất/nhập
khẩu sau đây:
- Các yêu cầu về giá xuất khẩu, nhập khẩu, ngoại trừ các trường hợp thực hiện
các biện pháp chống bán phá giá và chống trợ cấp;
- Các biện pháp cấp phép nhập khẩu dựa trên tiêu chí về hoạt động
(performance requirement), ví dụ yêu cầu về tỷ lệ xuất khẩu tối thiểu, yêu cầu về mức
độ nội địa hóa…;
- Chỉ cho phép tham gia nhập khẩu hoặc cho phép nhập khẩu một loại hàng hóa
nếu có quan hệ hợp đồng hoặc quan hệ khác với một nhà phân phối nội địa;
- Các hạn chế xuất khẩu tự nguyện theo yêu cầu của một nước nhập khẩu nào
đó không phù hợp với các quy định của WTO
Cấp phép nhập khẩu CPTPP không cấm các nước sử dụng giấy phép nhập
khẩu, mà chỉ yêu cầu các nước phải tuân thủ các yêu cầu về giấy phép nhập khẩu trong
Hiệp định về Thủ tục cấp phép nhập khẩu của WTO (chủ yếu là các yêu cầu để đảm
bảo thủ tục cấp phép được rõ ràng, thuận lợi). Các nước Thành viên sẽ không được áp
dụng bất kỳ thủ tục cấp phép nhập khẩu nào đối với các hàng hóa từ các thành viên
CPTPP khác nếu không thông báo cho tất cả các Thành viên khác về các thủ tục cấp
phép nhập khẩu đang tồn tại và đăng công khai các thủ tục cấp phép nhập khẩu mới
hoặc sửa đổi.



17
Trợ cấp đối với nông sản CPTPP chỉ ràng buộc các nước Thành viên về các
biện pháp đối với trợ cấp xuất khẩu cho nông sản. Cụ thể, CPTPP cấm các nước thành
viên trợ cấp xuất khẩu cho nông sản sang các nước Thành viên CPTPP khác. Ngoài ra,
các nước CPTPP cam kết sẽ cùng làm việc với nhau trong WTO để xây dựng các quy
tắc đa phương về tín dụng xuất khẩu, các chương trình bảo hiểm và bảo lãnh tín dụng
xuất khẩu. CPTPP không có cam kết về trợ cấp nội địa đối với nông sản. Vì vậy, có thể
hiểu là Việt Nam vẫn có thể tiếp tục sử dụng các biện pháp trợ cấp nội địa cho nông
sản mà WTO cho phép (ví dụ các biện pháp trợ cấp cho nông nghiệp nông thôn không
hoặc rất ít tác động bóp méo thương mại, trợ cấp trong chương trình “hỗ trợ phát triển
sản xuất” như các trợ cấp đầu tư, “đầu vào” cho sản xuất nông nghiệp cho nông dân
nghèo hoặc các vùng khó khăn, hoặc hỗ trợ các vùng chuyển đổi…). Về doanh nghiệp
nhà nước hoạt động xuất khẩu nông sản, CPTPP không có quy định cụ thể liên quan
đến các doanh nghiệp thương mại Nhà nước xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp. Tuy
nhiên, các nước CPTPP có cam kết sẽ cùng làm việc với nhau trong một Hiệp định của
WTO về vấn đề này nhằm yêu cầu
- Xóa bỏ các hạn chế gây bóp méo thương mại trong việc trao quyền xuất khẩu
các sản phẩm nông nghiệp
- Xóa bỏ bất kỳ hình thức cấp vốn đặc biệt nào mà một thành viên WTO, dù
trực tiếp hay gián tiếp, dành cho các doanh nghiệp thương mại nhà nước xuất khẩu
chiếm một tỷ lệ đáng kể trong tổng xuất khẩu một sản phẩm nông nghiệp của nước đó.
- Tăng cường minh bạch hóa sự vận hành và duy trì của các doanh nghiệp
thương mại nhà nước xuất khẩu.
1.2.2. Đầu tư giữa các quốc gia thành viên
Khoản đầu tư của nhà đầu tư CPTPP được hiểu là bất kỳ khối tài sản nào mà
nhà đầu tư CPTPP sở hữu hoặc kiểm soát một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, có tính
chất đầu tư (bao gồm các đặc tính như cam kết dành một khoản vốn, với mục đích thu
lợi nhuận và suy đoán là có rủi ro) ở Việt Nam. Khoản đầu tư này bắt buộc phải tồn tại

tại hoặc sau thời điểm CPTPP có hiệu lực với Việt Nam. Như vậy với các khoản đầu tư
của các nhà đầu tư CPTPP đã thực hiện nhưng đã kết thúc hoặc chấm dứt trước khi
CPTPP có hiệu lực với Việt Nam sẽ không được hưởng các quyền theo quy định của
CPTPP.
Các nguyên tắc về đầu tư


18
(i) Nhóm các nguyên tắc mở cửa thị trường, xóa bỏ rào cản đầu tư
- Các nguyên tắc về không phân biệt đối xử (National Treatment – NT và Most
Favoured-Nation Treatment – MFN)
- Nguyên tắc liên quan tới “Các yêu cầu về hoạt động” (Performance
Requirements)
- Nguyên tắc liên quan tới “Nhân sự quản lý cao cấp và Ban lãnh đạo”
(ii) Nhóm các nguyên tắc nhằm đảm bảo các quyền lợi cơ bản của nhà đầu tư
- Nguyên tắc “chuẩn đối xử tối thiểu” (Minimum Standard of Treatment –
MST)
- Nguyên tắc Bảo vệ tài sản của nhà đầu tư trước các biện pháp tịch thu, cưỡng
chế, quốc hữu hóa
- Nguyên tắc Bảo đảm việc chuyển vốn tự do
(iii) Các bảo lưu và ngoại lệ được CPTPP thừa nhận trong đối xử với nhà đầu tư
nước ngoài
Trong CPTPP, các Thành viên cam kết mở cửa đầu tư theo phương thức chọnbỏ (khác với phương thức mở cửa kiểu chọn-cho trong WTO). Các Thành viên cam
kết sẽ mở cửa các lĩnh vực đầu tư theo đúng các nguyên tắc trên ngoại trừ các hạn chế
đối với một số lĩnh vực đầu tư.
Cơ chế giải quyết tranh chấp giữa Nhà nước và Nhà đầu tư nước ngoài
(ISDS)
Hiệp định này đặt ra các yêu cầu và tiêu chuẩn cao về minh bạch hóa cũng như
đưa ra cơ chế giải quyết tranh chấp có tính ràng buộc và chặt chẽ. Đối với cơ chế giải
quyết tranh chấp giữa Chính phủ và nhà đầu tư (ISDS), CPTPP đã thu hẹp phạm vi cho

phép nhà đầu tư nước ngoài sử dụng cơ chế này để kiện Chính phủ nước thành viên sở
tại (nước tiếp nhận đầu tư).
Theo đó, các công ty tư nhân có hợp đồng đầu tư với Chính phủ sẽ không được
phép sử dụng cơ chế ISDS nếu xảy ra tranh chấp về hợp đồng giữa hai bên. Các công
ty trong nước cũng không được sử dụng cơ chế ISDS để kiện Chính phủ nước đó,
nhưng có thể sử dụng để khởi kiện Chính phủ một nước thành viên khác trong khối.
Ngoài ra, về việc thành lập Ban trọng tài của ISDS, CPTPP quy định Ban trọng
tài có ba thành viên, bao gồm một đại diện do Chính phủ cử ra, một đại diện do
nguyên đơn lựa chọn và một trọng tài chủ tọa cùng do Chính phủ và nguyên đơn cùng
thống nhất lựa chọn.
1.2.3.

Hiệu lực của CPTPP


19
Theo quy định tại văn kiện Hiệp định CPTPP thì Hiệp định này sẽ chính thức có
hiệu lực sau 60 ngày kể từ ngày có ít nhất 06 thành viên hoặc một nửa số thành viên
Hiệp định (tùy số nào ít hơn) thông báo cho New Zealand (nước đóng vai trò Cơ quan
Lưu chiểu của Hiệp định) về việc đã hoàn tất các thủ tục pháp lý (phê chuẩn) nội bộ
của mình. Đối với các nước không thuộc nhóm đề cập ở trên, CPTPP sẽ có hiệu lực
với nước đó sau 60 ngày để từ ngày nước đó thông báo với New Zealand về việc hoàn
tất thủ tục phê chuẩn nội bộ của mình.
1.2.4.

Rút khỏi hoặc gia nhập CPTPP

CPTPP là một hiệp định mở, cho phép kết nạp thêm thành viên mới, cho phép
thành viên hiện tại có thể rút khỏi Hiệp định với các điều kiện tương đối đơn giản.
- Về việc kết nạp thêm thành viên mới: CPTPP cho phép bất kỳ quốc gia hoặc

khu vực lãnh thổ thuế quan nào nếu muốn đều có thể gia nhập Hiệp định, với điều kiện
duy nhất là thỏa thuận được về điều kiện và cách thức với tất cả các thành viên của
CPTPP.
- Về việc rút khỏi Hiệp định: CPTPP quy định nếu một nước Thành viên muốn
rút khỏi Hiệp định thì phải thông báo bằng văn bản cho Cơ quan lưu chiểu (New
Zealand), đồng thời thông báo cho tất cả các thành viên khác của Hiệp định về việc rút
khỏi này. Việc rút khỏi sẽ có hiệu lực sau 06 tháng kể từ ngày gửi thông báo đến New
Zealand, trừ khi các bên có thỏa thuận khác. Hiệp định sẽ vẫn tiếp tục có hiệu lực với
các thành viên còn lại.


20
1.2.5. So sánh TPP và CPTPP
TPP

CPTPP

Hiệp định Đối tác xuyên Thái
Bình

Tên gọi

Dương

(Trans-Pacific

Strategic Economic Partnership
Agreement)

Số


lượng

thành

viên
GDP
Thương mại toàn
cầu
Dân số

Nội dung

bộ

xuyên

Agreement

40%

15%

30%

15%

800 triệu

500 triệu


và các nước này phải đóng góp

Bình

Dương

for

Trans-Pacific

Partnership)
11

phê chuẩn trước tháng 02/2018

Thái

(Comprehensive and Progressive

12

Có hiệu lực nếu ít nhất 6 nước
Hiệu lực

Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến

Có hiệu lực nếu được phê chuẩn bởi
ít nhất 50% số quốc gia tham gia


Hiệp định (6 nước)
ít nhất 85% GDP trong khối
Gồm 30 chương bao quát rộng Về cơ bản giữ nguyên nội
về thương mại, thuế quan, đầu dung đã đàm phán của TPP nhưng
tư, sở hữu trí tuệ, lao động, môi có thêm 2 phụ lục:
+ Phụ lục thứ nhất về Danh mục 20
trường
nghĩa vụ tạm hoãn thực thi bao gồm
11 nghĩa vụ liên quan đến Chương
Sở hữu trí tuệ, 2 nghĩa vụ liên quan
đến Chương mua sắm của Chính
phủ, 7 nghĩa vụ liên quan đến
Chương Quản lý Hải quan và Tạo
thuận lợi thương mại, Đầu tư,
Thương mại dịch vụ xuyên biên
giới, Dịch vụ Tài chính, Viễn thông,
Môi trường, Minh bạch hóa và
Chống tham nhũng. Bên cạnh đó,


21
Phụ lục còn điều chỉnh nội dung dẫn
chiếu liên quan đến thời điểm có
hiệu lực cho phù hợp hơn với Hiệp
định CPTPP đối với bảo lưu các
biện pháp không tương thích trong
dịch vụ và đầu tư của Brunei và bảo
lưu về doanh nghiệp nhà nước của
Malaysia,


giải quyết tranh chấp

(trừng phạt Thương mại) và ngoại lệ
về văn hóa (Canada).
+ Phụ lục thứ hai về 7 điều liên
quan đến những điểm kỹ thuật của
hiệp định CPTPP.
Hiệp định còn bổ sung các
quy định về quy trình rút lui, gia
nhập, rà soát lại CPTPP trong tương
lai, tạo tính linh hoạt của Hiệp định
và có thể sẵn sàng cho những đợt
kết nạp thành viên mới.
Về lộ trình cắt giảm thuế
xuất nhập khẩu, các nước tham gia
Hiệp định CPTPP thống nhất xóa bỏ
cho nhau gần như toàn bộ thuế nhập
khẩu theo lộ trình (có lộ trình đưa
thuế xuất nhập khẩu về 0%). Điều
này giúp các nước tham gia có thời
gian chuẩn bị cho việc cắt giảm thuế
quan và hạn chế tối đa tác động đột
ngột tới ngân sách nhà nước của các
quốc gia thành viên.
Trong khi đó, theo TPP, các nước
thành viên sẽ xóa bỏ thuế suất nhập
khẩu ngay khi Hiệp định có hiệu lực



×