Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên thái bình dương (CPTPP) cơ hội và thách thức cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.23 KB, 25 trang )

1
I.

GIỚI THIỆU VỀ HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC TOÀN DIỆN

VÀ TIẾN BỘ XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG – CPTPP
I.1. Lịch sử hình thành và các nước thành viên
Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương
(Comprehensive and Progressive Agreement for Trans-Pacific Partnership - CPTPP)
với tiền thân là Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) được nhận định là
một hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (FTA) với nhiều tiêu chuẩn cao và toàn
diện, bao trùm nhiều lĩnh vực không chỉ về thương mại mà còn đầu tư, sở hữu trí
tuệ và nhiều vấn đề, nguyên tắc khác.
Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) đã
được ký kết vào ngày 8/3/2018 tại Chile. Hiệp định CPTPP ra đời nhằm thay thế
Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) do Hoa Kỳ rút lui hồi tháng
1/2017. Đây là nỗ lực của 11 nước thành viên, trong đó Nhật Bản đề xuất khởi động
lại một TPP “mới” sau sự rút lui của Hoa Kỳ.
Tuy nhiên, chặng đường để đi được đến kết quả ngày hôm nay của CPTPP là
không hề dễ dàng. Dưới đây là các dấu mốc đàm phán của Hiệp định:
6/2005: Hiệp định đối tác chiến lược xuyên Thái Bình Dương (P4) giữa 4
nước: Singapore, Chile, New Zealand và Brunei được ký kết.
5/2006: P4 có hiệu lực.
9/2008: Hoa Kỳ thông báo tham gia đàm phán P4 mở rộng.
11/2008: Australia, Peru tuyên bố tham gia đàm phán, Việt Nam bày tỏ quan
tâm. P4 mở rộng được đặt lại tên là Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương
(TPP).
12/2009: Hoa Kỳ chính thức thông báo tiếp tục tham gia TPP sau 1 năm đàm
phán trì hoãn do bầu cử Tổng thống.
3/2010: Vòng đàm phán TPP đầu tiên được tổ chức tại Melbourn (Australia)
với sự tham gia của P4, Hoa Kỳ, Australia, Peru, Việt Nam.




2
6/2010: TPP được tổ chức đàm phán tại Hoa Kỳ.
10/2010: Tổ chức đàm phán ở Brunei, Malaysia tham gia đàm phán.
11/2010: Việt Nam tuyên bố tham gia đàm phán với tư cách thành viên đầy đủ.
12/2010: Tổ chức đàm phán ở New Zealand.
2/2011: Tổ chức đàm phán ở Chile.
3/2011: Tổ chức đàm phán ở Singapore.
6/2011: Tổ chức đàm phán ở Việt Nam.
12/2012: Mexico, Canada tham gia TPP.
7/2013: Nhật Bản tham gia, nâng số thành viên tham gia đàm phán TPP lên 12.
10/2015: Sơ bộ TPP cấp bộ trưởng được hoàn tất.
2/2016: 12 nước chính thức ký thoả thuận về TPP tại New Zealand.
1/2017: Tổng thống Donald Trump ký lệnh rút Hoa Kỳ khỏi TPP.
5/2017: 11 nước thành viên còn lại quyết định tái khởi động TPP.
11/2017: 11 nước thống nhất đổi tên TPP thành CPTPP – Hiệp định Đối tác
Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương.
1/2018: CPTPP hoàn tất đàm phán, dự kiến ký vào 8/3 tại Chile.
8/3/2018: CPTPP chính thức được ký kết (theo giờ Việt Nam là rạng sáng 9/3).
I.2. Các thành viên trong hiệp định
Các thành viên hiện tại của hiệp định: Gồm có 11 quốc gia là Úc, Brunei,
Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore và Việt
Nam, với quy mô kinh tế chiếm khoảng 13,5% GDP và 15,2% tổng kim ngạch
thương mại toàn cầu.
I.3. Nội dung tổng quan của Hiệp định CPTPP
Hiệp định CPTPP được xây dựng dựa trên các điều khoản của Hiệp định xuyên
Thái Bình Dương TPP. Nội dung chính của Hiệp định gồm các văn kiện:



3
- Lời văn của Hiệp định CPTPP gồm Lời mở đầu và 7 điều khoản (Điều 1 Tích hợp Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương, Điều 2 - Tạm đình chỉ thực
hiện một số điều khoản, Điều 3 - Hiệu lực, Điều 4 - Rút khỏi Hiệp định, Điều 5 Gia nhập, Điều 6 - Rà soát Hiệp định CPTPP và Điều 7 - Các lời văn xác thực).
- Phụ lục Danh mục một số điều khoản tạm đình chỉ thực hiện theo Hiệp định
CPTPP gồm 20 nhóm nghĩa vụ tạm hoãn áp dụng theo Hiệp định này (trong đó có
11 nghĩa vụ liên quan tới Chương Sở hữu trí tuệ, 2 nghĩa vụ liên quan đến Chương
Mua sắm của Chính phủ và 7 nghĩa vụ còn lại liên quan tới 7 Chương là Quản lý hải
quan và Tạo thuận lợi Thương mại, Đầu tư, Thương mại dịch vụ xuyên biên giới,
Dịch vụ Tài chính, Viễn thông, Môi trường, Minh bạch hóa và Chống tham nhũng).
Ngoài ra, Phụ lục này còn điều chỉnh lại nội dung dẫn chiếu liên quan tới thời
điểm có hiệu lực cho phù hợp hơn với Hiệp định CPTPP đối với bảo lưu về các biện
pháp không tương thích trong dịch vụ và đầu tư của Brunei và bảo lưu về doanh
nghiệp nhà nước của Malaysia.
I.4. Ý nghĩa của Hiệp định CPTPP
Mặc dù vắng Mỹ, CPTPP vẫn sẽ đóng góp nhiều cho kinh tế và thương mại
Việt Nam. Hiệp định đa phương này sẽ dẫn đến một loạt các thay đổi chính sách để
buộc nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa này phải linh hoạt hơn. Việt Nam sẽ
được tiếp cận tới những thị trường mới và mở rộng xuất khẩu tại các nước như
Canada, Mexico và Peru, những nước hiện tại chưa có thỏa thuận thương mại với
Hà Nội. Dự đoán xuất khẩu Việt Nam sẽ tăng thêm 4% nhờ CPTPP.
Về chính trị - đối ngoại, CPTPP mới sẽ là tập hợp có ý nghĩa của các nước
trong khu vực, có khả năng đem lại các lợi ích và lợi thế thiết thực, từ đó tác động
để các nước cân nhắc tham gia CPTPP, thúc đẩy xu hướng hợp tác trong khu vực
Châu Á - Thái Bình Dương.
Về kinh tế, việc tham gia CPTPP về tổng thể là có lợi cho Việt Nam. Hiệp định
sẽ góp phần vào việc thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa sang các thị trường lớn như Nhật
Bản, Australia, Canada, Mexico cũng như thu hút đầu tư nước ngoài vào các ngành,
lĩnh vực mà Việt Nam đang có nhu cầu phát triển. Phần quan trọng khác chính là



4
việc giúp ta cải cách thể chế trong nước, tạo môi trường đầu tư - kinh doanh thông
thoáng, minh bạch. Đây mới là các lợi ích mang tính lâu dài.
Hiệp định CPTPP có tính mở, khi có nước khác tham gia Hiệp định thì lợi ích
với Việt Nam cũng sẽ tăng lên. Là nước tham gia từ đầu, Việt Nam sẽ có lợi thế hơn
trong việc bảo vệ các lợi ích của mình.
Các ngành nghề sử dụng nhiều lao động như dệt may, gia công dày dép được
hưởng lợi nhiều nhất nhờ xuất khẩu tăng. Song song với đó, nhập khẩu cũng sẽ
tăng, nhưng ảnh hưởng không nhiều, bởi Việt Nam đã có thỏa thuận thương mại với
hầu hết các quốc gia trong hiệp định mới.
Thêm vào đó, tham gia vào CPTPP sẽ dẫn tới nhiều đổi mới thể chế, chẳng hạn
đổi mới luật lao động giúp Việt Nam gia nhập dễ dàng và nhanh chóng hơn vào
chuỗi cung ứng toàn cầu. Thỏa thuận này cũng sẽ giúp Việt Nam cải thiện hệ thống
pháp luật, đổi mới thủ tục hành chính và gia tăng đầu tư vào sáng tạo để tăng sức
cạnh tranh. Không có Mỹ, CPTPP cũng là một cơ hội giúp các thành viên tự lập
hơn, giảm phụ thuộc vào các nền kinh tế lớn như Mỹ và Trung Quốc.
Tuy nhiên, Việt Nam bị giảm lợi ích khi Mỹ vắng mặt và TPP trở thành
CPTPP. Theo Trung tâm Quốc gia về Thông tin và Dự báo Kinh tế – Xã hội Việt
Nam, CPTPP sẽ chỉ giúp GDP Việt Nam tăng thêm 1,32%, ít hơn nhiều so với con
số 6,7% nếu còn TPP. Xuất khẩu với CPTPP tăng thêm 4%, trong khi nếu còn TPP
là 15%. Nhập khẩu cũng bị giảm xuống, chỉ còn tăng 3,8% so với con số 10,5% do
vắng Mỹ. Lợi ích giảm thuế của Việt Nam cũng bị giảm từ 6,79% xuống còn 1,1%,
tính theo GDP.
I.5. Sự khác biệt của hiệp định này so với các hiệp định TPP
trước đây
Thứ nhất, đó là thay đổi về tên gọi. TPP cũ có tên đầy đủ là Hiệp định Đối tác
xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Partnership). Hiệp định mới lần này đã bổ
sung 2 từ "Toàn diện" (Comprehensive) và "Tiến bộ" (Progressive) vào tên gọi
chính thức. Vấn đề tên gọi đã được 11 quốc gia bàn luận nhiều lần trong các vòng
đàm phán. Sự bổ sung này đã thể hiện tính đồng thuận cao trong nội bộ các nước



5
tham gia đàm phán, khẳng định tầm vóc, chất lượng và ý nghĩa của CPTPP – một
hiệp định có tính tiêu chuẩn cao, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực. "Đây là hiệp
định rất toàn diện, bao gồm nhiều lĩnh vực không chỉ về thương mại mà còn đầu tư,
sở hữu trí tuệ và nhiều vấn đề, nguyên tắc khác. Về bản chất là cao hơn, tiến bộ hơn
so với các hiệp định đã được ký kết trước đây", Bộ trưởng Tái thiết kinh tế Nhật
Bản Toshimitsu Motegi cho biết.
Thứ hai, số lượng thành viên trong Hiệp định CPTPP mới còn 11 nước, bao
gồm Úc, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru,
Singapore và Việt Nam, với quy mô kinh tế chiếm khoảng 13,5% GDP và 15,2%
tổng kim ngạch thương mại toàn cầu, thấp hơn khá nhiều so với quy mô của TPP
khi có Mỹ (38.2% GDP và 26.5% kim ngạch thương mại toàn cầu). Chỉ cần ít nhất
6 quốc gia thành viên kí phê chuẩn thì CPTPP sẽ có hiệu lực sau 60 ngày kể từ ngày
kí.
Mặc dù Mỹ rời khỏi nhưng quy mô của CPTPP vẫn khá lớn và bao hàm một số
thị trường quan trọng với Việt Nam như Nhật Bản, Úc, Canada, Mexico … trong
khi gánh nặng thực thi các điều khoản đã giảm đáng kể so với trước. Do đó, Việt
Nam vẫn sẽ tìm được những nguồn lợi ích tương đối lớn khi tham gia Hiệp định
này. Hơn nữa, hầu hết các quốc gia tham gia đàm phán đều kỳ vọng sự quay lại của
Mỹ trong tương lai, nên CPTPP sẽ là bước đầu để thúc đẩy liên kết và hợp tác trong
khu vực. Sự kiện CPTPP chuẩn bị được ký kết và các nỗ lực gần đây của Trung
Quốc đã tạo những áp lực nhất định đối với Hoa Kỳ, buộc nước này phải bày tỏ
thông điệp muốn thương lượng lại về TPP với nhóm 5 nước là Brunei, Malaysia,
New Zealand, Nhật Bản và Việt Nam. Hiện tại, Trung Quốc đang đóng vai trò đầu
tầu trong quá trình nhất thể hóa kinh tế châu Á – Thái Bình Dương ở các Hiệp định
Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP), Hiệp định Thương mại tự do (FTA)
Trung Quốc - ASEAN hay Hiệp định thương mại tự do Trung – Nhật – Hàn…
Thứ ba, thay đổi về hiệu lực của Hiệp định. Theo quy định của TPP cũ, để

Hiệp định có hiệu lực thì tổng GDP của các nước triển khai phải bằng 85% tổng
GDP của 12 nước đã ký từ năm 2013. Như vậy, với tình huống Mỹ, quốc gia chiếm
tới 60% GDP toàn khối, rút lui khỏi TPP, thì 11 nước còn lại sẽ phải thay đổi điều


6
khoản hiệu lực để CPTPP có thể bắt đầu. Theo đó, chỉ cần ít nhất 6 quốc gia thành
viên ký phê chuẩn thì Hiệp định sẽ có hiệu lực sau 60 ngày kể từ ngày ký.
Sự thay đổi này đã tạo điều kiện thuận lợi để CPTPP có thể dễ dàng được thực
hiện trong bối cảnh hiện nay. Ngoài ra, Hiệp định mới còn bổ sung các quy định về
quy trình rút lui, gia nhập, rà soát lại CPTPP trong tương lai, tạo tính linh hoạt của
Hiệp định và có thể sẵn sàng cho những đợt kết nạp thành viên mới.
Cuối cùng, CPTPP có khoảng 20 nội dung bị tạm hoãn so với TPP cũ, chủ yếu
là các cam kết cứng rắn về sở hữu trí tuệ mà Mỹ là quốc gia đề xuất trước đây. Cụ
thể, có 11/20 điều khoản liên quan đến sở hữu trí tuệ, bảo vệ chặt chẽ quyền lợi của
người sở hữu sáng chế. CPTPP sẽ hoãn việc yêu cầu các nước thành viên thay đổi
luật và thông lệ của mình để bảo vệ các dược phẩm mới, bao gồm cả chế phẩm sinh
học, không bị cạnh tranh bởi các thuốc gốc (generic drug).
CPTPP cũng đình chỉ quy định về gia hạn thời hạn bản quyền trong những
trường hợp do sự chậm trễ cuả cơ quan cấp bằng hoặc những trì hoãn bất hợp lý
trong việc cấp bản quyền, cũng như cấp phép nhập khẩu một loại dược phẩm nào đó
vào các nước thành viên. Ngoài ra, các nước thành viên của Hiệp định mới sẽ không
cần phải gia hạn thời gian bảo hộ bản quyền từ 50 lên 70 năm …
Các điều khoản còn lại bị hoãn thuộc lĩnh vực đầu tư. Đối với cơ chế giải
quyết tranh chấp giữa Chính phủ và nhà đầu tư (ISDS), CPTPP đã thu hẹp phạm vi
cho phép nhà đầu tư nước ngoài sử dụng cơ chế này để kiện Chính phủ nước thành
viên sở tại (nước tiếp nhận đầu tư).
Theo đó, các công ty tư nhân có hợp đồng đầu tư với Chính phủ sẽ không được
phép sử dụng cơ chế ISDS nếu xảy ra tranh chấp về hợp đồng giữa hai bên. Các
công ty trong nước cũng không được sử dụng cơ chế ISDS để kiện Chính phủ nước

đó nhưng có thể sử dụng để khởi kiện Chính phủ một nước thành viên khác trong
khối.
Ngoài ra, về việc thành lập Ban trọng tài của ISDS, CPTPP quy định Ban trọng
tài có ba thành viên bao gồm một đại diện do Chính phủ cử ra, một đại diện do


7
nguyên đơn lựa chọn và một trọng tài chủ tọa cùng do Chính phủ và nguyên đơn
thống nhất lựa chọn.


8
II.

NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CHO VIỆT

NAM KHI GIA NHẬP HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC TOÀN
DIỆN VÀ TIẾN BỘ XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG –
CPTPP
II.1. Những cơ hội cho Việt Nam khi gia nhập CPTPP
II.1.1. Nhóm lợi ích khai thác từ thị trường nước ngoài
Thứ nhất, CPTPP giúp Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu. Theo nhiều nhà phân
tích kinh tế, mặt hàng tiềm năng nhất có thể giúp Việt Nam hội nhập CPTPP chính
là nông sản – mặt hàng chủ lực và thế mạnh của nước ta trong nhiều năm liền.
Nhiều năm gần đây, ngông sản Việt phần lớn được xuất sang Trung Quốc và một số
nước Âu, Mỹ nhưng với tỉ lệ thấp vì không đáp ứng được yêu cầu chất lượng cao
hoặc một số mặt hàng bị áp thuế cao như: cá tra, cá ba sa của Việt Nam bị Mỹ áp
thuế chống bán phá giá lên đến 2,39 $/kg. Điều đó khiến nông sản Việt vẫn chưa có
chỗ đứng vững chắc trên thị trường thế giới.
Hình 2.1:Cơ cấu xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam sang

các nước ASEAN năm 2015
Đơn vị:%

Nguồn: Tổng cục hải quan, 2015
Nhưng với các điều khoản của CPTPP, Nhật Bản – nền kinh tế thứ 3 thế
giới có thể trở thành đối tác tiềm năng nhất nhập khẩu nông sản của Việt Nam. Vì
với TPP, Nhật đã ước tính nông sản nhập khẩu sẽ đáp ứng tới 86% nhu cầu nông sản
trong nước. Trong mấy năm gần đây, Nhật đã mở rộng hợp tác kinh tế với ta trong
sản xuất nông nghiệp. Bước đầu chúng ta đã tạo được sự tin cậy từ phía họ, họ đã
mở cửa thị trường cho nhiều mặt hàng nông sản của ta hơn.


9
Chính vì vậy mà theo báo cáo gần đây của Chính phủ, sau khi gia nhập
CPTPP kim ngạch xuất khẩu Việt Nam đến năm 2035 có thể tăng 4,04% và thâm
hụt thương mại cũng có thể cải thiện đáng kể. Không chỉ vậy mở rộng thị trường
xuất khẩu các mặt hàng chủ lực như nông sản còn giúp chúng ta bớt phụ thuộc vào
Trung Quốc, giảm thiểu rất nhiều rủi ro cho nông dân việt.
Thứ hai, Mở rộng thị trường nhập khẩu. Xưa nay ta nhập khẩu loanh quanh
từ “ao” ASEAN và vài nước lân cận, trong khi thị trường xuất khẩu chính là Âu,
Mỹ và Trung Quốc. Với CPTPP chúng ta có thể mở rộng nhập khẩu từ 10 nước
thành viên CPTPP, trong đó có một số nền kinh tế phát triển với trình độ công nghệ
và chất lượng sản phẩm cao hơn hẳn.
Có thể ta vẫn nhập siêu nhưng chất lượng nhập khẩu tốt hơn sẽ có giá trị
hơn nhiều trong việc cải thiện năng lực của các ngành trong nước so với hiện nay.
Đặc biệt là việc nhập khẩu các sản phẩm liên quan đến một số lĩnh vực trọng điểm
mà ta mong muốn phát triển cũng có triển vọng tốt, như các sản phẩm công nghệ
cao hoặc các dây chuyền công nghệ hiện đại trong sản xuất nông nghiệp vốn là thế
mạnh vượt trội của Nhật Bản hay Canada, Úc, New Zealand.
Thứ ba, tham gia CPTPP giúp Việt Nam cải tiến khoa học kĩ thuật phục vụ

cho quá trình Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chuyên gia kinh tế Phạm
Chi Lan đã nhận định, Việt Nam sẽ có vị thế tốt hơn để đón nhận dòng vốn đầu tư
từ các nước phát triển cao trong và ngoài CPTPP. Đi theo đó chúng ta có thể có
phương thức quản lý, công nghệ tân tiến và khả năng tham gia các chuỗi giá trị toàn
cầu mới. Chất lượng đầu tư sẽ cải thiện so với các dòng đầu tư “truyền thống” lâu
nay. Ngoài ra, một số công ty, tập đoàn lớn của Việt Nam cũng có thể thông qua hội
nhập CPTPP mà có thể vươn tầm ra thế giới bằng việc đầu tư nhiều hơn để phát
triển chi nhánh và sản phẩm ở thị trường các quốc gia khác trong khối.Điều này
đóng góp một phần quan trọng để phát triển hoạt động đầu tư tài chính cũng như
nhận đầu tư nước ngoài của nền kinh tế Việt Nam.
Thứ tư, tăng cường vai trò và vị thế của Việt Nam cả khu vực và quốc tế
bởi đây là minh chứng cụ thể, là bước tiến mới trong quá trình thực hiện đường lối


10
đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ của Việt Nam.
CPTPP có ý nghĩa chiến lược cao, nhất là trong bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến
phức tạp, nhiều thị trường lớn có xu hướng bảo hộ mậu dịch, dựng ra rào cản mới.
Thậm chí, có nước còn bàn đến chiến tranh thương mại. Đây là phản ứng tiêu cực
và nếu xảy ra, tất cả đều thua. Bởi vậy, 11 nước CPTPP quyết định có phản ứng tích
cực hơn đó là tập hợp nhau lại để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế trên nguyên tắc
thống nhất ủng hộ.
II.1.2. Nhóm lợi ích khai thác từ thị trường nội địa (Việt
Nam)
Trong việc thực thi các hiệp định thương mại tự do, thị trường nội địa
thường chịu những tác động bất lợi khi các nước tiến hành cắt giảm và xóa bỏ hàng
rào thuế quan cũng như phi thuế quan. Tuy nhiên, khi Việt Nam tham gia CPTPP,
các chuyên gia nhấn mạnh rằng chúng ta có thể “thu lợi” ngay tại thị trường nội
địa, nơi vốn được xem là “chỉ chịu thiệt” từ các hiệp định thương mại tự do nói
chung.

Thị trường Việt Nam được hưởng lợi trong một số khía cạnh như sau:
Thứ nhất, lợi ích từ việc giảm thuế hàng nhập khẩu của Việt Nam đối với
các nước CPTPP cũng như thuế nhập khẩu mà các nước CPTPP đang áp dụng cho
Việt Nam. Việc dần xóa bỏ các rào cản thuế quan tác động trực tiếp tới giá thành sản
phẩm. Người tiêu dùng Việt Nam với xu hướng chuộng hàng ngoại và các ngành
sản xuất sử dụng nguyên liệu đầu vào nhập khẩu từ các nước CPTPP sẽ được hưởng
lợi nhờ giá hàng hóa, nguyên liệu rẻ, giúp giảm chi phí sinh hoạt và sản xuất, nâng
cao năng lực cạnh tranh của các ngành này. Với CPTPP, 42,9% số dòng thuế đánh
lên các mặt hàng dệt may Việt Nam nhập vào Canada sẽ được xóa bỏ ngay khi Hiệp
định có hiệu lực. Và đến năm thứ 4 thì 100% hàng dệt may Việt Nam bán cho
Canada sẽ được miễn thuế hoàn toàn. Nhật Bản thì cam kết xóa ngay 99% dòng
thuế… Tương tự, ở mặt hàng giày dép, 67% dòng thuế nhập khẩu được Canada xóa
bỏ ngay lập tức, 12% còn lại sẽ được xóa vào năm thứ 7, còn lại sẽ cắt giảm vào


11
năm thứ 12. Cũng tại CPTPP, Nhật Bản đã cam kết sẽ xóa 80% dòng thuế với hàng
giày dép vào năm thứ 10…
Bên cạnh đó, khi triển khai hiệu quả, Hiệp định còn có lợi ích khác như lợi
ích từ phi thuế quan. Dù chưa có công cụ chỉ ra lợi ích từ việc phi thuế quan mang
lại khi tham gia CPTTP, nhưng trên thực tế ta thấy khi các nước có hiệp định
thương mại tự do (FTA), tức chấp nhận luật chơi chung, có chất lượng quản lý,
thương mại thì có sự tin tưởng nhau hơn. Vì vậy, nhiều trường hợp, rào cản phi thuế
quan giữa các nước giảm đi nhiều. Ví dụ, thời gian trung bình để 1 nước công nhận
1 mặt hàng tuân thủ quy định an toàn thực phẩm vào nước họ đối với nước có FTA
giảm được 3 lần so với nước không có FTA. Ví dụ, Việt Nam phải mất nhiều năm
để thuyết phục các nước quả thanh long an toàn. Nhưng nếu đã có hệ thống thông
qua tiêu chuẩn của FTA để người ta tin tưởng hàng hóa Việt Nam tuân thủ quy định
quốc tế thì thị trường nước ngoài sẽ tin tưởng hơn, giúp xuất khẩu của ta thuận lợi
hơn. Đây là lợi ích các FTA trong quá khứ đã cho thấy nhưng để lượng hóa ngay khi

FTA vừa ký là khó.
Thứ hai, lợi ích từ những khoản đầu tư đến từ các đối tác CPTPP: CPTPP
tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư qua biên giới, việc tham gia vào hiệp định này
giúp Việt Nam có điều kiện tốt hơn để thu hút FDI từ các nước thành viên khác.
Điều này tạo ra môi trường kinh doanh cạnh tranh, mang lại hàng hóa dịch vụ với
giá rẻ hơn và chất lượng tốt hơn cho người tiêu dùng, công nghệ và kinh nghiệm
quản lý cho các doanh nghiệp cùng một sức ép trong việc cải tổ, nâng cao năng suất
lao động cho các doanh nghiệp nội địa. Theo tính toán của World Bank, tăng trưởng
kinh tế của Việt Nam với sự trợ giúp của CPTPP đến năm 2030 sẽ tăng ít nhất là
1,1% so với năm 2010. “Còn nếu trong điều kiện kích thích năng suất thì tăng
trưởng kinh tế đến năm 2030 của Việt Nam có thể tăng tới 3,5%.”, ông Ousmane
Dione, giám đốc World Bank tại Việt Nam nói. Bên cạnh đó, kim ngạch xuất khẩu
của Việt Nam cũng tăng lên tới 4,2%, (tương đương 4,09 tỷ USD) so với không
tham gia vào CPTPP.


12
Hình 2.2: Tăng trưởng kinh tế vĩ mô của CPTPP đối với
nền kinh tế Việt Nam tính đến năm 2030
Đơn vị tính: %

Nguồn: World Bank 5/3/2018
Trong dài hạn, lợi ích đạt được từ CPTPP không chỉ là tăng xuất khẩu mà
còn bao gồm tăng hàm lượng công nghệ của hàng xuất khẩu. Đầu tư tăng nhờ các
lợi ích tiềm năng của CPTPP có thể làm cho xuất khẩu ít phụ thuộc vào nguyên liệu
nhập khẩu hơn, thay vào đó sẽ dựa nhiều hơn vào chuỗi cung ứng trong nước để
khắc phục các hạn chế của quy tắc xuất xứ.
Ngoài ra, ông Peter Petri, trưởng khoa Tài chính quốc tế, Đại học Kinh
doanh quốc tế Brandeis, cho biết CPTPP có thể mang lại lợi ích đáng kể cho các
nước thành viên. Cụ thể, cơ quan nghiên cứu của giáo sư Petri đưa ra tính toán

CPTPP giúp các nước thành viên thu được khoảng 147 tỷ USD nhờ hoạt động
thương mại và đầu tư.
Không chỉ trên phương diện kinh tế, gia nhập CPTPP sẽ giúp cải thiện tình
hình xã hội của Việt Nam. "Hiệp định thương mại tạo ra nhiều cơ hội nhất ở những
ngành mà người nghèo hiện làm việc nhiều nhất sẽ dẫn đến mức tăng lợi ích tương
đối lớn nhất cho người nghèo", World Bank nhận định. Theo cơ quan này, kết quả
giảm nghèo sẽ tích cực, dù ở mức khiêm tốn. "Tính đến các năm 2025 và 2030,
CPTPP sẽ giúp thoát nghèo với mức chuẩn nghèo 5,5 USD/ngày tương ứng cho 0,9
và 0,6 triệu người", World Bank phân tích. Nhìn chung, mọi nhóm thu nhập sẽ được
hưởng lợi, nhưng mức lợi ích đạt được sẽ cao hơn ở nhóm lao động trình độ cao
(CPTPP tạo ra nhiều cơ hội kinh tế hơn cho lao động có kỹ năng).


13
II.2. Những thách thức cho Việt Nam khi gia nhập CPTPP
Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)
mang lại nhiều lợi ích nhưng đồng thời cũng có không ít khó khăn, thách thức đặt ra
cho nền kinh tế nói chung và đối với các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng.
II.2.1. Những thách thức đối với thị trường nội địa
Thứ nhất, những đòi hỏi khắt khe quy tắc xuất xứ, vấn đề bán phá giá, trợ
cấp, vệ sinh, môi trường, lao động và quy trình công nghệ và sử dụng các công cụ
phòng vệ thương mại cũng là trở ngại lớn đặt ra cho các doanh nghiệp Việt Nam
trong việc tiếp cận thị trường vì CPTPP là một hiệp định thương mại tự do tiêu
chuẩn cao nên Hiệp định CPTPP không chỉ đề cập tới các lĩnh vực truyền thống như
cắt giảm thuế quan đối với hàng hóa, mở cửa thị trường dịch vụ, sở hữu trí tuệ, hàng
rào kỹ thuật liên quan đến thương mại, ... mà còn xử lý những vấn đề mới, phi
truyền thống như lao động, môi trường, mua sắm của chính phủ, doanh nghiệp nhà
nước.
Thứ hai, Hiệp định còn đặt ra các yêu cầu và tiêu chuẩn cao về minh bạch
hóa, các quy định về bảo hộ sở hữu trí tuệ cũng như đưa ra cơ chế giải quyết tranh

chấp có tính ràng buộc và chặt chẽ. Điều đó cũng là một thách thức không nhỏ đối
với các doanh nghiệp Việt Nam.
Thứ ba, doanh nghiệp Việt Nam phải cạnh tranh gay gắt hơn ngay trên
“sân nhà”. Theo quy định của CPTPP, mức thuế suất xuất nhập khẩu bình quân áp
dụng cho các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang các thị trường CPTPP sẽ giảm
từ 1,7% xuống 0,2%. Tuy nhiên, cùng với những thuận lợi về tài chính, trình độ
quản trị, chuỗi phân phối toàn cầu thì các doanh nghiệp nước ngoài sẽ “nhanh chân”
hơn doanh nghiệp Việt Nam trong việc hưởng lợi từ các ưu đãi thuế quan từ CPTPP.
Hơn nữa, tiềm lực của các doanh nghiệp Việt Nam còn rất yếu, sự liên kết với nhau
kém thì sức ép cạnh tranh trên thị trường nước ngoài cũng là thách thức lớn đối với
các doanh nghiệp này. Điều này sẽ gây nên không ít áp lực cho hàng hóa Việt Nam
trong việc cạnh tranh với các quốc gia khác ngay tại thị trường trong nước. Hơn
nữa, khả năng thích nghi của doanh nghiệp Việt Nam với kinh tế thị trường còn kém
nên nguy cơ thất bại của các doanh nghiệp trên chính thị trường nội địa cũng vì thế
gia tăng. Ví dụ như, với ngành Thực phẩm, áp lực cạnh tranh sẽ gia tăng khi CPTPP


14
có hiệu lực bởi thuế nhập thịt lợn, thịt bò, thịt gà, trứng… sẽ giảm xuống 0%. Thực
tế cho thấy, nhiều quốc gia đối tác trong CPTPP có nền chăn nuôi phát triển, quy
mô lớn, chất lượng sản phẩm cao, giá thành rẻ cùng với việc được giảm thuế cũng
sẽ gây nên không ít lo ngại cho các doanh nghiệp chăn nuôi Việt Nam. Trong khi
đó, chăn nuôi ở Việt Nam chủ yếu là kiểu nông hộ, giá thành cao, mức độ an toàn
thực phẩm thấp. Do đó, sức ép cạnh tranh trên thị trường nội địa càng trở nên gay
gắt.
Thứ tư, khả năng tiếp nhận và thu hút dòng vốn FDI. Theo Tổ chức ngân
hàng thế giới (World Bank), kinh nghiệm sau khi gia nhập CPTPP cho thấy, Việt
Nam không thể tận dụng ngay lập tức lợi ích của việc gia nhập FDI để thu hút và
tiếp nhận dòng vốn FDI lớn do thiếu năng lực để tạo điều kiện cho các công ty có
liên kết toàn cầu tham gia chuỗi giá trị cao do chi phí hậu cần cao và cơ sở hạ tầng

đường xá, điện, cảng biển, dịch vụ hậu cần còn yếu kém cũng như các vấn đề phía
sau biên giới.
Thứ năm, khả năng truyền tải, hướng dẫn những quy định trong các hiệp
định thương mại của các cơ quan nhà nước đến các doanh nghiệp còn hạn chế đặc
biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Công tác thông tin, hướng dẫn thực hiện nghị định
vẫn còn nhiều hạn chế, đặc biệt tại các cấp cơ sở như cấp tỉnh thành, huyện,
phường, xã. Vì vậy mà vấn đề tạo nên một chuỗi giá trị liên kết trong nội khối với
quy mô 500 triệu dân , các doanh nghiệp Việt phải chủ động tiếp cận nguồn thông
tin đặc biệt là thị trường CPTPP thì mới có thể lớn mạnh và đủ tầm để cạnh tranh
một cách công bằng và sòng phẳng.
Thứ sáu, khả năng tiếp cận thông tin của doanh nghiệp trong nước còn hạn
chế. Để tận dụng được cơ hội CPTPP đòi hỏi doanh nghiệp phải nâng cao năng lực
thâm nhập hàng hóa, phát triển kinh doanh ra bên ngoài bằng việc cải tiến công
nghệ, quản lý chất lượng sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế với giá cả cạnh tranh, tích
hợp vào chuỗi cung ứng toàn cầu; đồng thời phải nâng cao năng lực phòng vệ trước
sự thâm nhập hàng hóa, sự cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài thông qua
đẩy mạnh liên kết sản xuất, xây dựng mạng lưới phân phối nội địa vững chắc.
Thứ bảy, để phù hợp với các cam kết của CPTPP thì Việt Nam phải sửa đổi
tới bảy Luật và bộ luật như luật lao động, bộ luật hình sự, luật phòng chống tham
nhũng, luật sở hữu trí tuệ…Bên cạnh việc thúc đẩy xuất khẩu, thu hút vốn đầu tư
nước ngoài thì doanh nghiệp Việt Nam không tránh khỏi những thách thức và một


15
trong những thách thức cơ bản ở đây là sự thay đổi trong hệ thống pháp luật. Sự
thay đổi này sẽ gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong nước khi mà trình độ tiếp
cận quy định pháp lý của một số doanh nghiệp nhỏ lẻ còn hạn chế chưa thích ứng
được với sự thay đổi cơ chế thị trường. Điều này ít nhiều sẽ gây ra sự xáo trộn, lung
túng trong cơ chế quản lý và kinh doanh của nhiều doanh nghiệp lớn nhỏ trong
nước.

Thứ tám, giảm nguồn thu từ thuế, một thách thức đối với Việt Nam khi
thực hiện hiệp định này được thể hiện ở hình thức giảm thuế quan đối với hàng hóa
từ các nước đối tác . Việt Nam hiện vẫn là thị trường với nhiều nhóm hàng còn giữ
mức thuế MFN khá cao với lộ trình mở cửa dài hơi. Chính vì vậy, việc cam kết
giảm thuế đối với phần lớn các nhóm mặt hàng từ các nước thành viên sẽ dẫn đến
việc giảm thu ngân sách nhà nước.
II.2.2. Những thách thức ở thị trường các nước khác
Thứ nhất, các mặt hàng của một số nước thành viên CPTPP có nhiều nét
tương đồng với những mặt hàng vốn được coi là lợi thế xuất khẩu của các doanh
nghiệp Việt Nam, do đó, các nước này sẽ tìm cách bảo hộ sản phẩm trong nước
bằng cách tạo ra các rào cản kỹ thuật, gây khó khăn cho hàng hóa của Việt Nam.
Đồng thời, chính hàng hóa nước họ cũng cạnh tranh trực tiếp với hàng hóa Việt
Nam khi cùng xuất khẩu tới một nước thành viên khác của CPTPP… Đây cũng là
thách thức lớn về khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong việc
tạo ra sự khác biệt hóa về sản phẩm.
Thứ hai, với sự rút lui của Hoa Kỳ khi không tham gia Hiệp định TPP. Về
khó khăn này, các chuyên gia kinh tế và lãnh đạo từ các nước thành viên còn lại đều
nhận định, đây là một sự thất bại đối với tiềm năng kinh tế. Và đương nhiên đây
cũng là một thách thức lớn cho hoạt động thương mại Việt Nam và các nước khác
trên thế giới nói chung và các nước trong khối thành viên nói riêng.Sở dĩ bởi, nếu
có Hoa Kỳ, tổng xuất khẩu của 12 nước thành viên sẽ đạt khoảng 26,6% thương
mại toàn cầu, trong đó có khoảng 11,4% đến từ thương mại nội khối giữa các nước
thành viên với nhau. Trong khi đó, không có Hoa Kỳ, tổng xuất khẩu của 11 nước
còn lại giảm còn 15,2% thương mại toàn cầu và 2,3% đến từ nội khối.


16
Thứ ba, là khoảng cách kinh tế lớn giữa Việt Nam và các nước thành viên
khác còn quá lớn. Cho nên mặc dù mục đích chung của CPTPP là hợp tác toàn diện
và tiến bộ nhưng xét về mặt bằng kinh tế chung giữa Việt Nam và 10 thành viên còn

lại của CPTPP là Australia, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico,
New Zealand, Peru và Singapore. Thì Việt Nam vẫn được xem là nước có nền kinh
tế kém phát triển hơn so với các nước còn lại. Hơn nữa, khả năng tiếp cận các quy
định về thương mại, trình độ quản lý và lao động của Việt Nam còn nhiều hạn chế
khi tham gia vào một hiệp định thương mại lớn như CPTPP thì Việt Nam cũng sẽ
không tránh khỏi những cuộc chạy đua khốc liệt đôi khi sẽ thiệt thòi, lép vế hơn so
với các nước còn lại. Và nhìn chung thì lợi thế sẽ luôn thuộc về những “ông lớn”
của nền kinh tế như Nhật Bản, Canada, …
III.

NHỮNG

HÀNH

ĐỘNG

CỦA

VIỆT

NAM

ĐỂ

CHUẨN BỊ CHO TIẾN TRÌNH GIA NHẬP CP TPP
Sau khi Hoa Kỳ chính thức rút khỏi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương
(TPP), 11 nước còn lại gồm Australia, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia,
Mexico, New Zealand, Peru, Singapore và Việt Nam đã tiếp tục thúc đẩy và đạt
được thỏa thuận về tên gọi mới của Hiệp định TPP là Hiệp định CPTPP. Cũng như
TPP, CPTPP được coi là một hiệp định thương mại tự do (FTA) tiêu chuẩn cao,

không chỉ đề cập tới các lĩnh vực truyền thống như cắt giảm thuế quan đối với hàng
hóa, mở cửa thị trường dịch vụ, sở hữu trí tuệ, hàng rào kỹ thuật liên quan đến
thương mại v.v.mà còn xử lý những vấn đề mới, phi truyền thống như lao động, môi
trường, mua sắm của Chính phủ, doanh nghiệp Nhà nước…
Đồng thời, CPTPP nhấn mạnh tính toàn diện và tiến bộ của phiên bản mới khi
bảo đảm các lợi ích, không chỉ thương mại, của tất cả các bên tham gia, bảo toàn
các quyền kiểm soát, tính linh hoạt khi đặt ra các ưu tiên về mặt pháp lý và quản lý,
cũng như bảo đảm quyền bảo vệ, phát triển và thực thi các chính sách văn hóa riêng
của từng thành viên. Điều đó thể hiện sự gắn kết của mối quan hệ đa quốc gia như
thế này không có bất kỳ trở ngại địa lý nào.
Mặc dù lợi ích tiếp cận thị trường Hoa Kỳ không còn nữa nhưng các thị trường
của các nước tham gia CPTPP vẫn có quy mô khá lớn, có tầm quan trọng với Việt
Nam. Hiệp định sẽ góp phần vào việc thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa sang các thị


17
trường lớn như Nhật Bản, Australia, Canada, Mexico… cũng như thu hút đầu tư
nước ngoài vào các ngành, lĩnh vực mà Việt Nam đang có nhu cầu phát triển. Theo
chuyên gia kinh tế Nguyễn Hoàng Dũng, Giám đốc Nghiên cứu và phát triển Viện
nghiên cứu khoa học lãnh đạo và quản trị doanh nghiệp, để tận dụng tốt cơ hội này
và tạo bước đột phá trong tăng trưởng kinh tế, Việt Nam phải có chiến lược sử
dụng lợi thế trong tương quan với các nước CPTPP.
III.1. Về phía chính phủ
Nhìn lại 23 năm từ khi Việt Nam hội nhập khu vực và thế giới từ tháng
7/1995 đến nay, doanh nghiệp Việt Nam ngày càng nhiều và mạnh hơn, do đó cách
tiếp cận khoa học là “hội nhập để phát triển”, phải coi trọng đổi mới thể chế, cải
cách nền hành chính quốc gia, đầu tư vào khoa học và công nghệ, đào tạo nhân lực
chất lượng cao, nâng cao năng lực cạnh tranh cả ba cấp độ: sản phẩm, doanh
nghiệp và quốc gia. Tham gia CPTPP cũng vậy. Nếu chúng ta chuẩn bị tốt các điều
kiện về điều hành kinh tế vĩ mô, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi cho

doanh nghiệp, thì việc mở cửa thị trường có lợi cho cả doanh nghiệp và người dân.
Bởi vậy, để có thể tận dụng những cơ hội và lợi ích từ hiệp định CPTPP chính phủ
cần có những hành động thiết thực như:
Thứ nhất, Việt Nam phải tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, cải thiện thể
chế, nâng cao chất lượng và hiệu quả bộ máy để đáp ứng yêu cầu hội nhập, đẩy
mạnh thu hút đầu tư, hỗ trợ từ phía các doanh nghiệp nước ngoài.
Thứ hai, Chính phủ phải thành lập một tổ nghiên cứu chuyên sâu về các
lĩnh vực ngành nghề nào Việt Nam cần cải tiến, đẩy mạnh thu hút đầu tư, hỗ trợ
doanh nghiệp tham gia. Từ đó, cơ quan chức năng có những chính sách, chương
trình hành động cụ thể cho cấp nhà nước, hiệp hội ngành hàng và doanh nghiệp
tận dụng cơ hội.
Việt Nam sẽ phải mở cửa chào đón hàng hóa, dịch vụ của các nước đối tác
tại thị trường trong nước, đồng nghĩa với việc doanh nghiệp Việt Nam phải cạnh
tranh gay gắt hơn tại “sân nhà”. Trong bối cảnh khả năng thích nghi của doanh
nghiệp Việt Nam với kinh tế thị trường còn kém thì nguy cơ thất bại của các doanh
nghiệp trên chính thị trường nội địa cũng vì thế gia tăng. Bởi vậy, các doanh
nghiệp rất cần sự hỗ trợ của các cơ quan chức năng. Vì phần lớn các doanh nghiệp
của Việt Nam đều là doanh nghiệp vừa và nhỏ nên không nắm hết những nội dung


18
quy định rất cụ thể và chi tiết những quy định về tiêu chuẩn, chất lượng, lộ trình cắt
giảm các dòng thuế đối với từng ngành hàng. Do vậy, cần có một đội ngũ cán bộ
nhà nước giúp đỡ họ trong việc nâng cao nhận thức pháp luật cũng như tận dụng cơ
hội để phát triển ra thế giới.
Thứ ba, các bộ ngành chức năng phải có chương trình đào tạo lại nguồn
nhân lực để đáp ứng yêu cầu hội nhập.
Việc này, không phải bắt đầu từ đội ngũ giảng viên đại học đến dạy nghề và
thay đổi tư duy học gắn với hành. Việt Nam có thể tham khảo kinh nghiệm và
chương trình đào tạo, giáo trình của các nước trong khối CPTPP, từ chắt lọc chọn

những chương trình, phương pháp phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Theo chuyên gia Nguyễn Hoàng Dũng nói: “Trong những năm qua, Chính
phủ đã có những chính sách cải cách tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển.
Tuy nhiên, điều đó chưa đủ nếu chúng ta không có sự đột phát về nền hành chính,
công cụ, thực thi những điều đã có. Chúng ta phải tái đào tạo hệ thống công chức,
viên chức liên quan việc phục vụ, kiến tạo để hệ thống doanh nghiệp thực sự phát
triển mạnh”.
Thủ tướng Chính phủ chịu trách nhiệm phê duyệt và chỉ đạo các cơ quan, tổ
chức có liên quan ở trung ương và địa phương triển khai kế hoạch thực hiện Hiệp
định CPTPP; chú trọng đào tạo nguồn nhân lực để bảo đảm tận dụng và phát huy
các cơ hội, lợi ích mà Hiệp định CPTPP đem lại; đồng thời xây dựng, triển khai
hiệu quả các biện pháp phòng ngừa và xử lý những tác động bất lợi có thể phát sinh
trong quá trình thực hiện Hiệp định CPTPP; thông tin, tuyên truyền kịp thời, đầy đủ
nội dung Hiệp định để tạo sự thống nhất trong nhận thức và hành động của hệ thống
chính trị, doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân về việc Việt Nam tham gia Hiệp
định CPTPP.Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành có liên quan hoàn thành thủ tục phê
chuẩn Hiệp định CPTPP và thông báo thời điểm có hiệu lực đối với Việt Nam.
III.2. Về phía doanh nghiệp
Bản thân các doanh nghiệp cần chủ động hơn nữa trong việc tận dụng những
cơ hội từ CPTPP mang lại bởi đây là yếu tố là then chốt cho sự thành công của cộng
đồng doanh nghiệp và cả nền kinh tế trong quá trình hội nhập quốc tế. Sự chủ động
trong tiếp cận thị trường, bằng chính nhãn quan của các doanh nghiệp là ý nghĩa
then chốt, đảm bảo hội nhập thành công của các doanh nghiệp.


19
Một là, doanh nghiệp cần chủ động tìm hiểu thông tin về CPTPP. Để nắm
vững cam kết của Việt Nam và các thị trường đối tác, đặc biệt là các thông tin về ưu
đãi thuế quan theo Hiệp định đối với những mặt hàng nước ta đang có thế mạnh, có
tiềm năng xuất khẩu.

Trước hết, các doanh nghiệp ta cần chủ động tìm hiểu thông tin về Hiệp
định CPTPP để nắm vững cam kết của Việt Nam và các thị trường đối tác quan tâm,
đặc biệt là các thông tin về các ưu đãi thuế quan theo Hiệp định này đối với những
mặt hàng ta đang có thế mạnh hoặc có nhiều tiềm năng xuất khẩu trong thời gian
tới.
Doanh nghiệp cần có cái nhìn bao quát đối với Hiệp định, không chỉ tìm
hiểu thông tin về lĩnh vực trực tiếp liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của
mình. Hiện nay, toàn bộ văn kiện tiếng Anh và bản dịch tiếng Việt của Hiệp định
CPTPP đã được đăng tải trên trang thông tin điện tử chính thức của Bộ Công
Thương. Đây là kênh thông tin hữu ích cho tất cả các đối tượng quan tâm đến Hiệp
định CPTPP.
Hai là, doanh nghiệp cần thay đổi tư duy kinh doanh, coi sức ép cạnh tranh
là động lực để đổi mới và phát triển. CPTPP chắc chắn sẽ mang lại cơ hội cho
những doanh nghiệp chủ động xây dựng và điều chỉnh chiến lược kinh doanh trung
và dài hạn, chú trọng đầu tư nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ, nâng
trình độ nhân lực, quản trị doanh nghiệp, tận dụng tối đa hỗ trợ của Nhà nước.
Ba là, doanh nghiệp cần chủ động xúc tiến thương mại và đầu tư, lựa chọn
thị trường và đối tác để bổ sung nguồn vốn và tiếp cận công nghệ hiện đại từ các
tập đoàn kinh tế lớn, tham gia có hiệu quả vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Các doanh nghiệp cũng cần chủ động tìm hướng hợp tác với các thị trường
đối tác nêu trên để thu hút mạnh mẽ đầu tư trực tiếp vào Việt Nam nhằm tận dụng
hiệu quả nguồn vốn và việc chuyển giao công nghệ từ các tập đoàn lớn. Đồng thời,
đây cũng chính là cơ hội tốt để các doanh nghiệp của ta tham gia sâu hơn nữa vào
chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu.
Bốn là, doanh nghiệp cần chủ động nắm bắt các cơ hội và kiểm soát thách
thức từ CPTPP, đòi hỏi doanh nghiệp phải nâng cao năng lực thâm nhập và phòng
vệ. Để thực hiện được định hướng đó, cần đến sự nỗ lực của bản thân mỗi doanh


20

nghiệp, sự liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp nội địa thông qua vai trò của các
hiệp hội ngành nghề, cũng như những nỗ lực tạo lập môi trường kinh doanh thuận
lợi từ chính sách nhà nước, tăng cường thông tin chính sách giúp doanh nghiệp
giảm thiểu các rủi ro từ chính sách pháp luật.
Theo Tiến sĩ Huỳnh Thanh Điền – Thành viên nhóm Tư vấn chính sách phát
triển công nghiệp hỗ trợ Thành phố Hồ Chí Minh, để tận dụng được cơ hội CPTPP
đòi hỏi doanh nghiệp phải nâng cao năng lực thâm nhập hàng hóa, phát triển kinh
doanh ra bên ngoài bằng việc cải tiến công nghệ, quản lý chất lượng sản phẩm đạt
tiêu chuẩn quốc tế với giá cả cạnh tranh, tích hợp vào chuỗi cung ứng toàn cầu;
đồng thời phải nâng cao năng lực phòng vệ trước sự thâm nhập hàng hóa, sự cạnh
tranh với các doanh nghiệp nước ngoài thông qua đẩy mạnh liên kết sản xuất, xây
dựng mạng lưới phân phối nội địa vững chắc.
Do vậy, để tận dụng cơ hội từ CPTPP, khối doanh nghiệp trong nước phải
xây dựng chiến lược dài hạn, liên kết mới có thể giúp nhau tham gia vào chuỗi giá
trị, trong đó doanh nghiệp lớn dẫn dắt các doanh nghiệp nhỏ vào chuỗi giá trị của
mình. Nếu không sẽ mất cơ hội, trước khi các doanh nghiệp nước ngoài vào hưởng
lợi tại Việt Nam.
Năm là, doanh nghiệp chú trọng đăng ký sở hữu trí tuệ nếu có sáng chế,
nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, kiểu dáng công nghiệp. Các địa phương và
doanh nghiệp cần có chỉ dẫn địa lý để được bảo hộ tại các quốc gia CPTPP. Số
lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn rất lớn sẽ là khó khăn mà doanh nghiệp
trong nước gặp phải khi thực thi hiệp định này.
Nhìn thẳng vào sự thật là tiềm lực của các doanh nghiệp trong nước còn rất
yếu, liên kết với nhau rất kém. Đặc biệt với các doanh nghiệp nhỏ và vừa, chúng ta
thành lâp rất nhiều nhưng phần lớn doanh nghiệp của chúng ta gặp các khó khăn về
trình độ quản lý, trình độ khoa học công nghệ cũng như nguồn lực lao động.
Doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng cần chủ động xác định thế mạnh của mình,
lựa chọn mặt hàng phù hợp thuộc về thế mạnh của địa phương hoặc của nguồn lao
động để có điều kiện cạnh tranh phù hợp với điều kiện phát triển của doanh nghiệp.
Theo đó, bên cạnh tìm hiểu thông tin, chuẩn bị một tâm thế cạnh tranh khu

vực và quốc tế, mỗi doanh nghiệp cần tập trung đổi mới, sáng tạo và nhạy bén trong
kinh doanh, có kế hoạch xây dựng năng lực cạnh tranh, nâng cao uy tín về thương
hiệu và chất lượng sản phẩm để có chiến lược làm ăn dài hạn trong tương lai.


21
Như vậy, việc quan trọng là làm thế nào để Việt Nam tận dụng các cơ hội từ
CPTPP. Thách thức đặt ra trước hết là với cơ quan Nhà nước và với các doanh
nghiệp, trong việc hiểu các cam kết thể chế rất phức tạp này, tìm được trong đó các
xu hướng chính sách có lợi cho mình. Sau đó là phải liên kết với nhau, cùng với các
hiệp hội doanh nghiệp để vận động và tham gia vào quá trình rà soát và điều chỉnh
pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền thực thi cam kết CPTPP.
Hy vọng với việc CPTPP đã được các nước thành viên triển khai ký kết và
có hiệu lực trong thời gian tới, các doanh nghiệp và cơ quan Nhà nước của Việt
Nam sẽ tranh thủ thời gian vàng sắp tới để có được sự chuẩn bị tốt nhất cho Hiệp
định quan trọng này.


22

KẾT LUẬN
Việc kí kết thành công Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái
Bình Dương (CPTPP) đã mang lại nhiều cơ hội cũng như thách thức đối với nền
kinh tế Việt Nam. Do vậy, Việt Nam cần phải tận dụng những cơ hội để thúc đẩy
nền sản xuất trong nước, đồng thời cố gắng hạn chế thấp nhất những ảnh hưởng của
việc tham gia này. Để làm được điều đó, các doanh nghiệp trong nước cần xây dựng
những hướng đi mới trong bối cảnh hội nhập CPTPP, từ đó tạo ra lợi thế cạnh tranh
để phát triển và đổi mới. Hy vọng với sự tham gia tích cực của các bên liên quan,
Việt Nam ngày một vững mạnh, phát triển trên trường quốc tế.
Trên đây là toàn bộ tiểu luận của nhóm 6 về đề tài: “ Hiệp định đối tác

toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và những cơ hội thách
thức đối với Việt Nam”. Do kiến thức chuyên môn còn hạn chế và kinh nghiệm
thực tế chưa dày dặn nên tiểu luận còn nhiều thiếu sót. Vì vậy, chúng em rất mong
nhận được sự góp ý, bổ sung từ cô để có thể rút ra những kinh nghiệm cho các bài
tập sau này.


23

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT
1. Ngân hàng thế giới (World Bank), 03/2018, Tác động kinh tế và phân bổ thu nhập

của Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương: Trường hợp
của Việt Nam, NXB Hồng Đức, Từ trang 15 – trang 19
2. Quốc hội, 2018, Nghị quyết số 72/2018/QH14 , Phê chuẩn hiệp định đối tác toàn

diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương cùng các văn kiện liên quan
WEBSITE
1. Tên web: , Nghiên cứu trao đổi bước vào sân chơi CPTPP
Việt Nam được và mất gì, link: />
Ngày

truy

cập:

13/11/2018
2. Tên web: , Việt Nam cần chủ động trước cơ hội, link:
, ngày truy cập: 10/11/2018

3. Tên web: , Hiệp định CPTPP: Cơ hội nào cho kinh tế Việt
Nam, ngày truy cập: 13/11/2018, link: />4. Tên web: , Gia nhập CPTPP: Thách thức lớn vẫn là bài toán
thuận lợi hóa thương mại, ngày truy cập: 13/11/2018, link: />5. Tên web: http://tapchicongsan, Ký kết CPTPP - Cơ hội và thách thức đối với Việt
Nam, ngày truy cập: 13/11/2018, link: />
nhap/2018/49803/Ky-ket-CPTPP-Co-hoi-va-thach-thuc-doi-voi-

Viet.aspx
6. Tên web: , Khóa luận những cơ hội và thách thức đối với Việt Nam

khi tham gia hiệp định thương mại CPTPP, ngày truy cập 22/11/2018– link:


24
/>7. Tên web: , Lợi ích và lợi thế từ CPTPP, ngày truy cập:

20/11/2018,link: />8. Tên web: – ngày truy cập: 24/11/2018, Cptpp những màn đàm phán
không thể bỏ qua, link: />9. Tên web: , Toàn văn hiệp định CPTPP bằng tiếng Việt,

ngày truy cập: 24/11/2018 – link: />10. Tên web: ngày truy cập 13/11/2018, Hiệp định CPTPP -



hội



thách

thức


cho

doanh

nghiệp

Việt

Nam,

link:

/>

25


×