Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

Tiểu luận quản lý văn hóa Phong tục cưới hỏi của dân tộc ê đê

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 38 trang )

ĐỀ TÀI: TÌM HIỂU PHONG TỤC CƯỚI XIN CỦA DÂN TỘC Ê ĐÊ Ở
ĐĂK LĂK
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hôn nhân là một trong những thiết chế xã hội phản ánh rõ nét đặc trưng văn
hóa tộc người. Trong hôn nhân luôn tuân thủ các nghi lễ và tập quán truyền
thống của của dân tộc và đôi khi trở thành những chuẩn mực trong quan hệ xã
hội. Tuy nhiên, hôn nhân không phải lúc nào cũng bất biến mà nó ln ln biến
đổi và thích nghi với điều kiện mới. Trong q trình hội nhập và tồn cầu hóa
đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay, văn hóa tộc người, trong đó có lĩnh vực hơn
nhân đã và đang có sự biến đổi khơng ngừng để thích ứng xu với thế của thời
đại.
Đối với nhiều dân tộc thiểu số ở Việt Nam, trong hệ thống lễ nghi vòng đời
người, lễ cưới là lễ hội quan trọng nhất. Lễ cưới tuy diễn ra trong khn khổ hai
gia đình nhưng có sự đóng góp to lớn của cả cộng đồng. Lễ cưới các dân tộc
thiểu số chứa đựng nhiều giá trị văn hoá truyền thống nổi bật, nhất là nghi lễ, tập
tục hay, lạ, các hình thức sinh hoạt văn nghệ, vui chơi và đặc biệt là trang phục,
trang sức của cô dâu trong lễ cưới. Mỗi dân tộc có những phong tục cưới hỏi
riêng song đều góp phần vào bản sắc văn hóa chung của các dân tộc Việt Nam.
Trong đó có thể kể đến dân tộc Ê Đê, với nghi lễ cưới hỏi độc đáo, đặc trưng cho
chế độ mẫu hệ.
Là một sinh viên theo học quản lý văn hóa, việc nghiên cứu là cơng việc có
ích, tích lũy chun môn phục vụ cho công việc sau này nên tôi chọn đề tài “Tìm
hiểu phong tục cưới xin của dân tộc Ê Đê ở Đắk Lắk”.


2. Đối tượng nghiên cứu
Dân tộc Ê Đê , cụ thể là phong tục cưới xin của dân tộc Ê Đê ở Đắk Lắk
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu những nét văn hóa truyền thống đặc sắc trong phong tục cưới xin
của dân tộc Ê Đê ở Đắk Lắk, từ đó đánh giá những biến đổi và đưa ra phương


hướng, giải pháp bảo tồn.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi thời gian : Nghiên cứu nguồn gốc lịch sử của dân tộc Ê Đê,
phong tục cưới xin của dân tộc Ê Đê từ xưa tới nay.
- Phạm vi nội dung : Đặc điểm dân cư, lịch sử, văn hóa , phong tục cưới xin
của dân tộc Ê Đê.
- Phạm vi không gian: Người Ê Đê ở Đắk Lắk
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp tổng hợp: nghiên cứu, lấy thông tin từ các nguồn khác nhau
như sách tham khảo, hay các tin tức được lưu trữ trên hệ thống mạng
Internet.
- Phương pháp phân tích: đi sâu vào phân tích một số đặc điểm, những biến
đổi, đưa ra phuương hướng, giải pháp.

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ DÂN TỘC Ê ĐÊ Ở ĐĂK LĂK


1.1 Tên gọi, dân số và sự phân bố
Ê Đê, Đêgar, Êđêgar
Tổng dân số
331.194 người (ước tính năm 2009).
Khu vực đông người sinh sống
Tập trung ở tỉnh Đắk Lắk , phía nam
tỉnh Gia Lai và miền tây hai tỉnh Khánh
Hịa, Phú n.
Ngơn ngữ
Ê đê, Việt
Tín ngưỡng
Kito giáo, Phật giáo tiểu thừa , vật linh

Nhóm ngơn ngữ
Mala - Pơlinêxia (ngữ hệ Nam Ðảo).

Người Ê Đê hay Đêgar, cịn có các tên gọi khác là Rađê.


Dân tộc Ê Đê ở Tây Nguyên
Dân tộc Ê Đê bao gồm khoảng gần một nửa triệu (~490.000 người) đang sinh
sống ở các nước trên thế giới như Campuchia, Việt Nam, Thái Lan, Hoa
Kỳ, Canada, Pháp, Phần Lan, Thụy Điển... Trong đó miền trung cao nguyên
của Việt Nam là quê hương bản địa lâu đời của người Ê Đê. Đây là nhóm dân tộc
có nguồn gốc từ nhóm tộc người nói tiếng Mã Lai từ các hải đảo Thái Bình
Dương đã có mặt lâu đời ở Đơng Dương; truyền thống dân tộc vẫn mang đậm
nét mẫu hệ thể hiện dấu vết hải đảo của nhóm tộc người nói tiếng MalayPolynesia. Các nhóm địa phương bao gồm các nhóm:


Ê đê Kpă (tự nhận là chính dịng Đê). Cư trú quanh thành phố Buôn Ma
Thuột, Krong Ana, Krong Păc,Cư mgar. Ngôn Ngữ Ê-đê Kpă có thanh giọng
ngơn ngữ người Chăm Campuchia và Bắc Malaysia. Là ngơn ngữ chuẩn có
chữ viết của người Ê-đê.




Ê đê Adham xuất phát từ chữ Ân-Độ là Adaham có nghĩa là vùng trũng
đệm, pha tạp.Êđê Adham cư trú tại huyện Krong Buk, Cu Mgar, Thị xã Buôn
Hồ, Krong Năng và một phần Êa Hleo của tỉnh Đak Lak




Ê đê Mdhur xuất phát từ chữ Ân-Đơ là Madahura có nghĩa là vùng cằn
cỗi, vùng đất thấp. Ê đê Mdhur cư trú tại huyện Mdrak của phía đơng tỉnh
Đak Lak, Sơng Hinh của tỉnh Phú n.



Ê đê Bih là nhóm Rang Đê cổ nhất bảo lưu nhiều dấu vết cổ qua ngơn
ngữ, Ê Đê Bih có truyền thống làm gốm, dệt chiếu, trồng lúa nước. Họ Cư trú
ven sông Krong Ana, sông Krong Kno của tỉnh Đak Nông.



Ê đê Krung xuất phát từ chữ Kurung trong ngôn ngữ Rang Đê cổ, Khi vua
Chế Mân, Chế Bồng Nga mộ lính đi đánh giặc họ tự gọi các thủ lĩnh đó là
Kurung hay Krung. Cư trú chủ yếu tại huyện Êa Hleo, Krong Buk của tỉnh
Đăk Lak.

Ngồi ra cịn có các nhóm địa phương nhỏ khác: Blo, Dongmak,Hwing...Nhưng
hầu như người Ê Đê khơng có sự khác biết lớn giữa các nhóm địa phương.
Người Ê Đê là nhóm dân tộc có xu hướng thống nhất ý thức tộc người, biểu hiện
rõ nét nhất là ranh giới khác biệt giữa các nhóm địa phương tồn tại trước kia thì
ngày nay đã hồn tồn bị xóa bỏ bằng việc thống nhất tơn giáo, ngơn ngữ và chữ
viết và người Ê Đê tự gọi họ là Anak Đê đọc tránh từ Anak Aê-Diê, nghĩa là
những đứa con của Yàng (Thần Linh). Theo Tổng điều tra dân số và nhà
ở năm 2009, người Ê Đê ở Việt Nam có dân số 331.194 người, cư trú tại 59 trên
tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Ê Đê cư trú tập trung tại tỉnh:


Đăk Lăk (298.534 người, chiếm 17,2% dân số toàn tỉnh và 90,1% tổng số
người Ê Đê tại Việt Nam),





Phú n (20.905 người),



Đăk Nơng (5.271 người),



Khánh Hịa (3.396 người).Tại một số quốc gia khác, như Campuchia, Hoa
Kỳ, Canada và các nước Bắc Âu cũng có một ít người Ê Đê sinh sống, song
chưa có số liệu chính thức.
Đắk Lắk là địa bàn cư trú chủ yếu của người Ê Đê, đây là một vùng rộng lớn

diện tích 19.800 km2, độ cao trung bình 500 m, bề mặt bằng phẳng hoặc lượn
sóng chứ khơng có đường dốc rõ rệt như các vùng miền núi khác. Phía bắc giáp
tỉnh Gia Lai (địa bàn cư trú chủ yếu của người Ba Na), phía đơng giáp tỉnh Phú
n, Khánh Hồ (địa bàn cư trú chủ yếu của người Kinh), phía nam giáp tỉnh
Lâm Đồng, Bình Dương (địa bàn cư trú chủ yếu của người Kinh, K’ho), phía tây
giáp nước Cămpuchia với 240 km đường biên giới. Đây là một điạ bàn có vị trí
chiến lược quan trọng đối với các nước Đơng Dương.
Địa hình Đắk Lắk có nhiều suối, sơng, hồ tự nhiên. Thời tiết và lượng mưa phụ
thuộc theo mùa. Mùa khô (từ tháng 11 đền thàng 4 năm sau) thì khơ hạn, nhiều
gió và lạnh, lượng nước xuống thấp, nhiều con suối nhỏ khơng cịn nước. Mùa
mưa (từ tháng 5 đền thàng 10) thì lượng mưa rất lớn, nhiều lúc bị ngập lụt, đi lại
khó khăn. Khí hậu tương đối ơn hoà, ánh sáng dồi dào và ổn định, nhiệt độ trung
bình hàng năm 23oc, tháng nóng nhất và tháng lạnh nhất chênh lệch khơng qúa

10oc. Đắk Lắk có diện tích đất sản xuất rất lớn, phần nhiều là đất đỏ Ba zan, một
ít đất phù sa và nhiều cánh đồng rộng lớn. Vì vậy, người Êđê có nhiều điều kiện
thuận lợi để phát triển kinh tế nương rẫy, cây công nghiệp và chăn ni. Rừng tự
nhiên có đến hơn triệu ha, trước kia chim thú rất phong phú, có lồi sống thành
từng bầy, từng đàn lớn như: trâu, bò, voi, lợn …, đó là điều kiện để phát triển
nghề săn bắt, hái lượm. Nhìn chung, điều kiện tự nhiên ở Đắk Lắk và Tây
Nguyên rất thuận lợi để phát triển kinh tế, tuy nhiên từ xưa đến nay người Êđê


chưa phát huy hết sức mạnh tiềm năng vốn có mà cuộc sống của họ vẫn ln gặp
khó khăn.
Ở Đắk Lắk, do đặc điểm cư trú từ ngàn xưa để lại, cho nên các nhóm, các dân
tộc ít người dường như hình thành lãnh thổ của những nhóm, những tộc người
nhất định. Người Ê Đê phân bố chủ yếu ở thành phố Buôn Ma Thuột (nhất là
các xã phường ngoại thị) và một số huyện thuộc nửa phía Bắc và Đông Bắc của
tỉnh Đắk Lắk.
Người Ê Đê trước đây thường sống tập trung theo những nhóm địa phương nhất
định. Sự phân chia giữa các nhóm khác nhau chẳng qua chỉ là sự khác nhau về
phương ngữ. Chẳng hạn: Phương ngữ Kpă, Krung, Adham, Ktul, Drao nghĩa là
ngôi sao;b phương ngữ Blô; phương ngữ Êpan; phương ngữ Mdhur …
Người Êđê Kpă – nhóm cư dân đơng người nhất (trong số các nhóm người Êđê)
– thường sống tập trung tại ven thành phố Buôn Ma Thuột kéo đến các huyện
tiếp giáp thị xã như Cư Mgar, Krơng Buk,… Nhóm người Adham, nhóm cư dân
đơng thứ hai sau nhóm Kpă lại cư trú ở Krông Buk, và một phần tại Krông Năng,
Êa Hleo. Nhóm người Mdhur lại sống ở huyện Ea Kar là một phần tại M’Đrăk.
Nhóm người Bih ở khá tập trung tại huyện Krơng Ana. Đại bộ phận các nhóm cư
dân nhỏ hơn kiểu như Drao (K’drao), Blô, Êpan, Êning, Hwing… thì lại cư trú
tại huyện M’Đrăk và Ea Kar. Về cơ bản là các nhóm địa phương Êđê nhỏ (có số
người ít) thường khơng được phân bố xen lẫn trong khu vực cư trú của nhóm
lớn, đơng người.

Từ sau 1975, do sự phân cơng lại lao động trên tồn quốc, sự thâm nhập của
người Kinh ở các tỉnh khác đến những vùng kinh tế mới của Đắk Lắk đã làm cho
sự phân bố các nhóm người Ê Đê có phần bị xáo trộn. Nhiều nhóm người Ê Đê
sống xen kẽ với người Kinh. Đồng thời, lãnh thổ cư trú riêng biệt trước đây của
từng nhóm cũng bị chia cắt, dẫn đến những quan hệ tiếp xúc, ảnh hưởng lẫn
nhau giữa các nhóm địa phương Ê Đê cũng như với các dân tộc khác trong địa
vực cư trú.


Về phương diện dân tộc học, do xu thế hòa hợp giữa các cộng đồng tộc người,
nhóm người Êđê Mdhur cư trú ở tỉnh Gia Lai do tiếp xúc, cộng cư và ảnh hưởng
của người Jarai, nên nhóm người này lại tự nhận mình thuộc dân tộc Jarai, và các
nhà dân tộc học gọi là nhóm Jrai Mdhur. Mặc dù vậy, về phương diện ngơn ngữ
học, tiếng nói của nhóm người Mdhur này vẫn là tiếng Ê Đê. Tiếng Ê Đê – tiếng
nói của người Ê Đê.
Người Ê Đê cư trú thành từng bn, mỗi bn xưa kia có từ 30 đến 40 mươi
nóc nhà nay thì ngày càng nhiều hơn. Gắn liền với mỗi đơn vị bn thường có
bến nước, nghĩa địa, rừng hoặc ao hồ, đầm lầy. Bến nước để có nước sinh hoạt;
nghĩa địa để có nơi chơn cất người chết; rừng để có đất canh tác, có thú để săn
bắt; ao hồ đầm lầy để làm lúa nước hoặc đánh bắt cá.
Cấu trúc mỗi buôn xưa kia thường có một nhà cộng đồng ở vị trí trung tâm của
buôn, xung quanh là những nhà dài của các đại gia đình mẫu hệ. Nhà cộng cộng
đồng có chức năng là nơi sinh hoạt chung của cộng động buôn làng trong những
ngày lễ hội. Mặt khác, do điều kiện xa cách giữa các buôn cho nên cuộc sống
thường khép kín đối với mỗi bn, với lối sống tự cung tự cấp là chủ yếu và tự
quản theo từng buôn.
Ngày nay buôn của người Ê Đê thường được mở rộng quy mơ về diện tích và số
hộ. Bn ít cũng từ 100 đến 150 hộ, buôn nhiều cũng từ 200 hộ 250 hộ. Ở mỗi
bn thường có sự sống đan xen với các tộc người khác, chủ yếu là người Kinh.
Người Kinh thường ở đầu bn cịn người Ê Đê thường ở giữa và cuối buôn.

Nếu như trước kia từ buôn này đến buôn kia cách xa hàng chục cây số thì ngày
nay có khi hai bn gần kề nhau, có chung một bến nước, hoặc chung một nhà
văn hóa cộng đồng. Đây là điều kiện để phát huy mạnh mẽ hơn nữa tính bền
vững cộng đồng.
Ngồi ra, trong những năm gần đây đã hình thành một số bn ở ven những
trục lộ chính, các bn này thường được Nhà nước quy hoạch hạ tầng cơ sở như:
đường xá, trường học, trạm y tế, nhà văn hóa cộng đồng… làm cho bộ mặt của


các bn này phát triển có thêm nhiều nét mới.Trong những năm qua, Đảng và
Nhà nước ta rất quan tâm đến công tác quy hoạch thôn buôn vùng đồng bào dân
tộc thiếu số ở Tây Nguyên, nhất là chính sách định canh định cư đã hình thành
nhiều bn làng mới, khắc phục được tình trạng sống thiếu tập trung hoặc hình
thức sống nửa năm ở bn và nửa năm ở nhà rẫy.
1.2 Nguồn gốc lịch sử
Truyền thuyết của người Ê Đê kể lại rằng: Một người thủ lĩnh (Krung) từ Ấn
Độ tên là Kudaya (Đê) đến xứ sở của công chúa mẹ Xứ Sở tên là Nagar (Gar).
Kudaya đã chinh phuc được xứ sở của Nagar sau đó kết hơn với công Chúa mẹ
Xứ sở Nagar đựoc phong làm Krung. Con cháu hâu duệ của họ đựơc gọi là Anak
Kudaya Nagar sau này rút gọn âm lại thành Anak Đê-Gar có nghia là con cháu
của thủ lĩnh Ấn Độ Kudaya (Đê) với Công Chúa xứ sở Nagar (Gar). Đây là
truyền thuyết khá phổ biến ở cư dân bản địa Đông Nam Á để giải thích nguồn
gốc cội nguồn.
Vào đầu cơng nguyên, xuất hiện hai vương quốc của người Malayo - Polynesia
lớn trên bán đảo Ðông Dương: Phù Nam và Chiêm Thành. Lãnh thổ Phù Nam
rộng từ Vịnh Thái Lan đến Biển Hồ nhưng ảnh hưởng tỏa lên Thượng Lào và
Bắc Miến Ðiện. Chiêm Thành gồm nhiều vương quốc nhỏ sinh hoạt độc lập với
nhau dọc các đồng bằng eo hẹp miền Trung đến chân dãy Trường Sơn về phía
Tây: Lâm


Ấp hay Indrapura (Bình

Nam), Vijaya (Bình

Định),Aryaru (Phú

Trị

Thiên), Amaravati (Quảng

n), Kauthara (Khánh

Hịa)

và Panduranga (Phan Rang). Sinh hoạt chính của người Malayo - Polynesia là
trồng lúa nước và bn bán. Ðể tìm thêm nguồn hàng q hiếm trao đổi với các
thuyền bn, người Malayo - Polynesia mở rộng tầm kiểm soát lên các vùng
rừng núi đồng thời khuất phục ln các nhóm dân cư bản địa đã có mặt từ trước,
điển hình điển hình nhóm Bih ven krong A-na mà ngày nay được gọi là Ê Đê Bih
với kỹ năng dệt, trang sức, làm gốm, trồng lúa nước. Nhóm Bih là nhóm Malayo


- Polynesia định cư và chạy nạn sớm vào sâu nhất trong lục địa, họ đem theo kỹ
thuật trồng lúa nước ven sông,dệt vải thô, trang sức hạt, và kỹ nghệ làm gốm thô.
Theo chiều lịch sử, danh tự Ê Đê có nguồn gốc từ cách đọc âm của
người Champa, bia kýChampa cổ nhất tại tháp Po Nagar vào khoảng thế kỷ VIII
đã ghi chép về tộc danh Rang Đê vùng sông Nha Trang, sông Jing, sông Hing.
Những bia ký sớm nhất của Champa thế kỷ VIII - đã có nhắc đến nhóm Rangde
ven sơng Ea trang (Nha Trang). Trong Bia Po Nagar được dựng năm 965 tại tháp
Po Nagar (Nha Trang, Khánh Hòa): Nội dung bia như sau: Vào khoảng năm 703

- 706 lịch saka (781 - 784 Công lịch), vua Satyavarman cho dựng một linga (linh
vật) thờ thần Siva và lập cháu mình lên làm vua Vikrantavarman(vì theo chế độ
mẫu hệ nên cậu truyền ngôi cho cháu theo dịng mẹ)... và đức Vua có thu phục
được người Randaya (Rang Đê).Rất có thể từ Rang Đê sau này bị biến âm thành
Ra đê, Rađêy hay Ê đê. Ngoài ra, người Ê đê cịn tự nhận là nhóm tộc Đêgar,
Êđê Êga Anak Đêgar - người trên Cao Nguyên. Đêgar là từ tiếng Ấn
Độ srakrit Deccan, và bản thân nó lại có nguồn gốc từ tiếng Phạn Đêkṣarṇa,
nghĩa là "cao nguyên phía nam".
Ðến cuối thế kỷ 7, quân Java của Indonesia từ Biển Ðông lại tràn vào đánh phá
Ea ryu (Phú Yên) và Kauthara- Ea a Trang (Khánh Hòa), một phần lớn dân
chúng Chiêm Thành đã chạy lên cao nguyên M'Đrak tị nạn mang theo những văn
hóa tập tục mẫu hệ, kiến trúc, trồng trọt và ngôn ngữ Chiêm Thành giai đoạn sơ
khai có yếu tố Ấn Độ hóa hơn mà tạo thành các nhóm Rhangdé. Người Rang Đê
được cho là tổ tiên của người Eđê và Jarai,đã được ghi chép khá nhiều trong các
bia ký Champa. Vào năm 1283, quân Mơng Cổ tràn xuống xâm lăng Champa.
Trước đồn qn hùng mạnh của Mông Cổ, vua Champa quyết định rút quân lên
vùng Tây nguyên để ẩn náu. Theo ông Marco Polo, một nhà du hành Âu Châu,
vua Champa chịu bỏ trống tồn bộ lãnh thổ đồng bằng cho qn Mơng Cổ chiếm
đóng. Trong suốt hai năm chờ đợi khơng giao chiến, vì thiếu lương thực, qn
Mơng Cổ tự rút lui ra khỏiChampa. Rất có thể là trước sự xâm lược của đế quốc


Mông Cổ, sau này là cuộc Nam Tiến của người Việt xuống đất Champa tạo ra
các làn sóng người Champa vùng ven biển Trung, Nam Trung Bộ liên tục chuyển
cư lên vùng bình nguyên Cheo Reo hỗn dung với cộng đồng Ê đê có trước, từ đó
tạo ra nhóm tộc người mới Anak Jarai lấy từ tên Pô Kurung Garai với hàm ý là
những người Rang Đê theo Vua Chế Mân chống xâm lược Mơng Cổ. Trích diễn
biến lịch sử như sau:
Tại Đại Việt, sau khi ổn định triều chính, năm 1252 Trần Thái Tông dẫn đại quân
đi đánh Chiêm Thành. Cuộc tiến công kéo dài gần một năm, thành Vijaya thắt

thủ, vương phi Bố Gia La cùng nhiều cung phi, tù binh và quan chức triều
đình Champa bị bắt mang về Đại Việt. Jaya Paramesvaravarman II bị tử trận năm
1254, em là hoàng tử Sakan Vijaya lên thay, hiệu Jaya Indravarman VI. Jaya
Indravarman VI duy trì giao hảo với Đại Việt, triều cống đều đặn.
Năm 1257, nhà Trần rút qn về nước, lúc đó đang bị qn Ngun (Mơng Cổ)
đe dọa. Năm 1257, Jaya Indravarman VI bị ám sát, hồng tử Pulyan Sri
Yuvaraja, con người chị (cơng chúa Suryadevi) lên thay, hiệu Jaya Sinhavarman
VI. Năm 1266, hoàng tử ChayNuk, con Jaya Paramesvaravarman II, lên kế vị,
hiệu Indravarman V. Indravarman V tiếp tục giao hảo tốt với Đại Việt.
Năm 1278, Indravarman V sai hai sứ giả (Bồ Tinh và Bồ Đột) sang Đại Việt xin
bảo hộ và thành lập một liên minh chống lại quân Mông Cổ. Hay tin này, năm
1281, vua Nguyên (Hốt Tất Liệt) cử hữu thống chế Toa Đô (Sogatu) và tả thống
chế Lưu Thâm cùng tham chính A Lý và Ơ Mã Nhi mang 10 vạn thủy binh từ
Quảng Châu sang Chiêm Thành buộc Indravarman V phải đích thân về Trung
Quốc triều cống. Khơng chống nổi quân Mông Cổ, Indravarman V chịu
đặt Chiêm Thành dưới sự bảo hộ của nhà Nguyên (Trung Quốc) năm 1282. Toa
Đô được nhà Nguyên phong làm thống đốc toàn quyền cai trị xứ Chiêm Thành,
tiểu vương Champa nào chịu theo quân Ngun đều được phong làm phó vương.
Hồng tử Harijit Pơ Đêwađa Svor (hay Pơ Đêpitathơr) hay cịn gọi là Pơ Đê con


Indravarman V, cùng mẹ là hồng hậu Gaurendraksmi, khơng chấp nhận sự đô
hộ của Mông Cổ rút vào rừng núi về Ea Hleo theo đoàn quân hộ tống Rang Đê,
tổ chức kháng chiến. Harijit mộ được khoảng 20.000 người Rang Đê sinh sống
trên cao nguyên Ya Heou (Eâ Hleo), tấn công quân Nguyên trên khắp lãnh thổ
Bắc ChiêmThành.
Năm 1283, Toa Đơ dẫn đầu một đồn qn gồm 5.000 người, 100 tàu và 250
thuyền đi dọc theo bờ biển Ea ryu (Tuy Hịa-Phú n ngày nay) và vào cửa sơng
Krơng Ea Drăng (Sông Đà Rằng,Sông Ba,Iapa, Ea Pa, Krong Pa) đổ bộ lên cao
nguyên Madrak, Ea H'Leo (Tây Nguyên) nhưng bị đánh bại. Quân Mông Cổ một phần bị bệnh tật, khơng chịu đựng nổi khí hậu nóng nực của miền nhiệt đới,

một phần vì đói kém, thiếu tiếp liệu từ lục địa - phải rút về trấn giữ đồng bằng.
Năm 1288 Indravarman V mất, hồng tử Harijit lên ngơi, hiệu Jaya Sinhavarman
III (Chế Mân), đặt kinh đô tại Vijaya. Mặc dù không triều cống nhà Trần, bang
giao giữa Đại Việt và Chiêm Thành rất là thắm thiết. Chỉ một thời gian ngắn
sau Chiêm Thành hùng mạnh trở lại, các vương quốc lân bang, trong có Đại Việt
cử người sang thơng hiếu đều đặn. Nhiều đền đài được xây cất cả tại đồng bằng
lẫn trên cao nguyên. Chế Mân cho xây một tháp trên đồi Chư Hala, gọi là đồi
Trầu, để dân chúng đến tế lễ, sau này là tháp Pô Kurung Garai (Tháp Chàm Phan
Rang). Chế Mân cho xây một đền thờ tại Yang Prong gần sông Êâ H'leo (Eâ supTây Bắc Đăk Lăk ngày này) để đón nhận phẩm vật dâng cúng vua của
người Rang Đê trên Tây Nguyên.
Vào năm 1471 Đại Việt sử ký tồn thư có ghi chép về sự kiện người Chămpa đầu
hàng quân Đại Việt của Vua Lê Thánh Tông như sau: Một lúc sau, đứng xa trơng
thấy tốn qn đi trước đã trèo lên được chỗ tường thấp trên mặt thành, bèn bắn
luôn ba tiếng pháo để tiếp ứng, lại hạ lệnh cho vệ quân thần võ phá cửa đông
thành tiến vào. Thành Chà Bàn bị phá vỡ. Quân Đại Việt bắt được hơn ba vạn tù
binh và chém được hơn bốn vạn thủ cấp. Ngô Nhạn dẫn tướng đầu hàng là bác


ruột Trà Tồn tên là Bơ Sản Ha Ma. Lê Thánh Tông sai trưng bày những thứ
người Chiêm dùng làm lễ vật đem đến xin hàng mà ở Đại Việt khơng có, sai viên
quan đơ úy Đỗ Hồn chỉ tên từng thứ một. Có cái hộp bạc, hình như thanh kiếm,
vua hỏi vật gì. Hồn trả lời rằng đó là đồ của nước Chiêm từ xưa, người làm
quốc vương phải có vật đó để truyền cho con cháu. Quân Thuận Hóa bắt sống
Trà Tồn dẫn đến trước vua Lê Thánh Tơng, nhà vua cho Trà Tồn được sống.
Hơm ấy là ngày mồng 1 tháng 3 âm Lịch (1471).
Cuộc Nam Tiến của người Việt xuống đất Champa tạo ra các làn sóng
người Champa vùng ven biển Trung, Nam Trung Bộ liên tục chuyển cư lên vùng
bình nguyên Cheo Reo hỗn dung với cộng đồng Rang đê có trước, từ đó hình
thành ra nhóm tộc người mới Anak Jarai.Nhóm Rang Đê vùng thung lũng sơng
Ba tự gọi mình là Ană Garai. Ană Pơ Garai chính là cụm danh xưng Ană Pơ

Kurung Garai (Pô Krung Grai là cách gọi tôn xưng thái tử Champa là Harijit
(Rochom Mal) lãnh đạo người Rang Đê đánh đuổi Mông Cổ .
Kurung hay Krung trong ngôn ngữ Rang Đê và Malay cổ có nghĩa là thủ lĩnh.
Dần dần, Pô Krung Garai hay Pô KLong Garai phiên âm thành Jarai. Jarai tách
khỏi khối bộ tộc Rang Đê để tự nhận mình là Anăk Jarai với ý nghĩa là những
đứa con của Vua Chế Mân (Pô Krung Grai, Pô Klong Grai hay anak Jarai,DRai)
Tiểu quốc Jarai (tên gọi khác: Ala Car Pơtao Đêgar/ Dhung Vijaya/Nam Vijaya /
Nam Bàn / Nam Phan / Nam Phiên/Chămpa Thượng) là một tiểu quốc cổ của các
bộ tộc Nam Đảo ở Tây Nguyên, Việt Nam với bộ tộc nòng cốt là người Gia Rai
và người Ê Đê hình thành từ khoảng cuối thế kỷ 15 và chấm dứt sự tồn tại sau
khi phân rã ra thành các bộ tộc độc lập vào khoảng cuối thế kỷ 19.Tiểu quốc này
được cai trị bởi các vị tiểu vương mà người Việt gọi là Thủy Xá - Hỏa Xá tức là
Pơtao Apui - Pơtao Êa. Theo tương truyền các vị Vua là hiện thân của Thần
Gươm Y Thih (nhân vật trong các truyền thuyết của người người Ê đê và Jarai.
Một tài liệu khác ghi là 20 "đời vua" tiểu quốc Jrai, là người kế tục giữ gươm


thần do chàng Y Thih để lại. Có kiến khác cho rằng gươm thần của các Pơ tao
thực ra là các bảo vật truyền ngơi của hồng gia Chăm Pă sau khi Lê Thánh Tông
tiêu diệt thành Vijaya (Đồ bàn, Bình Định). Xét về hình thái tộc người Rhade (Ê
Đê) lui về phía nam và cùng các nhóm Jarai thực ra la một dân tộc Rang Đê], hai
nhóm tộc người này bị phân li do nguyên nhân lịch sử mà trong tiếng Jarai gọi là
thời kỳ tiah Phara. Nghĩa là cuộc phân ly anh em.
Hiện nay, các nhóm cư dân Ê đê nhận tự thân là Anak Aê diê, đọc chệch
thành Anak Ê Đê - những người con do trời sinh ra, vì cho rằng vị thần tối cao
của họ là A.Ê - D.I.Ê nghĩa là Thượng đế theo truyền thuyết của người Ê Đê
được lưu truyền đến ngày nay.
1.3 Đặc điểm kinh tế xã hội
Người Ê Đê làm rẫy là chính, riêng nhóm Bíh làm ruộng nước theo lối cổ sơ,
dùng trâu dẫm đất thay việc cày, cuốc đất. Ngồi trồng trọt cịn chăn ni, săn

bắn, hái lượm, đánh cá, đan lát, dệt vải. Trên nương rẫy, ngoài cây chính là lúa
cịn có ngơ, khoai, bầu, thuốc lá, bí, hành, ớt, bông.
Đặc điểm làm rẫy của người Ê Đê là chế độ luân khoảnh, tức là bên cạnh những
khu đất đang canh tác cịn có những khu đất để hoang để phục hồi sự mầu mỡ.
Ngày nay người Ê Đê gắn mình với sản xuất nơng sản cây cơng nghiệp: cà phê,
cao su, hồ tiêu, ca cao...
Gia súc được nuôi nhiều hơn cả là lợn và trâu, gia cầm được nuôi nhiều là gà,
nhưng chăn nuôi chủ yếu chỉ để phục vụ cho tín ngưỡng. Nghề thủ cơng gia đình
phổ biến có nghề đan lát mây tre làm đồ gia dụng, nghề trồng bông dệt vải bằng
khung dệt kiểu Inđônêdiêng cổ xưa. Nghề gốm và rèn không phát triển lắm.
Trước đây việc mua bán, trao đổi bằng phương thức hàng đổi hàng.


1.4 Đặc điểm văn hóa
 Trang phục

Trang phục truyền thống của người Ê Đê
Trang phục nam
Nam để tóc ngắn quấn khăn màu đen nhiều vòng trên đầu. Y phục truyền thống
gồm áo vàkhố (Kpin),.
Áo có hai loại cơ bản:
 Loại áo dài trùm mông: Đây là loại áo khá tiêu biểu cho người Ê Đê qua
trang phục nam, có tay áo dài, thân áo cũng dài trùm mơng, có xẻ tả và
khoét cổ chui đầu. Trên nền chàm của thân và ống tay áo ở ngực, hai bên
bả vai, cửa tay, các đường viền cổ, nơi xẻ tà gấu áo được trang trí và viền


vải đỏ, trắng. Đặc biệt là khu giữa ngực áo có mảng sọc ngang trong bố
cục hình chữ nhật tạo vẻ đẹp, khỏe.lực lãm
 Loại áo dài quá gối: Đây là loại áo dài quá ngối, có khoét cổ, ống tay bình

thường khơng trang trí như loại áo dài trùm mơng nói trên,...
 Khố: Khố có nhiều loại và được phân biệt ở sự ngắn dài có trang trí hoa
văn như thế nào. Đẹp nhất là các loại ktêh, drai, đrêch, piêk, còn các loại
bong và băl là loại khố thường. Áo thường ngày ít có hoa văn, bên cạnh
các loại áo trên cịn có loại áo cộc tay đến khủy, hoặc khơng tay. Áo có giá
trị nhất là loại áo Ktêh của những người quyền quý có dải hoa văn "đại
bàng dang cánh", ở dọc hai bên nách, gấu áo phía sau lưng có đính hạt
cườm. Nam giới cũng mang hoa tai và vòng cổ.
Trang phục nữ
Phụ nữ Ê Đê để tóc dài buộc ra sau gáy. Họ mang áo váy trong trang phục
thường nhật. Xưa họ để tóc theo kiểu búi tó và đội nón dn bai. Họ mang đồ
trang sức bằng bạc hoặc đồng.Vòng tay thường đeo thành bộ kép nghe tiếng va
chạm của chúng vào nhau họ có thể nhận ra người quen, thân.
 Áo: Áo phụ nữ là loại áo ngắn dài tay, khoét cổ (loại cổ thấp hình thuyền)
mặc kiểu chui đầu. Thân áo dài đến mơng khi mặc cho ra ngồi váy. Trên
nền áo màu chàm thẫm các bộ phận được trang trí là: cổ áo lan sang hai
bên bả vai xuống giữa cánh tay, cửa tay áo, gấu áo. Đó là các đường viền
kết hợp với các dải hoa văn nhỏ bằng sợi màu đỏ, trắng, vàng. Cái khác
của trang phục áo nữ Ê Đê khác Gia rai về phong cách trang trí là khơng
có đường ở giữa thân áo. Đếch là tên gọi mảng hoa văn chính ở gấu áo.
Ngồi ra phụ nữ cịn có áo lót cộc tay (áo yếm).


 Váy: Đi cùng với áo của phụ nữ Ê đê là chiếc váy mở (tấm vải rộng làm
váy) quấn quanh thân. Cũng trên nền chàm, váy được gia công trang trí
các sọc nằm ngang ở mép trên, mép dưới và giữa thân bằng chỉ các màu
tương tự như áo. Đồ án trang trí tập trung hơn ở mép trên và dưới thân
váy. Có thể đây cũng là phong cách hơi khác với váy của dân tộc Gia Rai.
Váy có nhiều loại phân biệt ở các dải hoa văn gia cơng nhiều hay ít. Váy
loại tốt là mng đếch, rồi đến myêng đrai, myêng piêk. Loại bình thường

mặc đi làm rẫy là bong. Hiện nay nữ thanh niên thường mặc váy kín.
 Tơn giáo
Phần lớn người Ê Đê theo đạo Tin Lành thuộc dịng Tin Lành hệ Báp-tít được
các nhà truyền giáo Na Uy, Phần Lan từ Bắc Âu truyền vào những năm đầu thế
kỷ 20. Đắc Lắc nơi tập trung đơng người Ê Đê nhất cũng là nơi có tín đồ Tin
Lành nhiều nhất Việt Nam, đây được coi một trong những trung tâm đạo Tin
Lành lớn nhất khu vực Đông Dương. Họ thường đọc kinh cầu nguyện tại các nhà
riêng của mục sư, hiện tại các nhà thờ Tin lành vẫn chưa nhiều
Công giáo Rôma được truyền bá thông qua các nhà truyền giáo Tây Ban Nha,
sau này là người Pháp. Những người theo Cơng giáo Rơma thì thường đến các
nhà nhờ tại địa phương vào ngày chủ nhật. Một số ít theo Phật giáo tại các vùng
đơ thị chủ yếu là người Ê Đê kết hôn với ngươi Việt, người Hoa. Số cịn lại vẫn
theo nét tín ngưỡng cổ truyền, thờ cúng các thần hộ thân cho mình.
 Nhà ở


Nhà sàn của người Ê Đê
Nhà người Ê Đê thuộc loại hình nhà dài sàn thấp, thường dài từ 15 đến hơn
100 m tùy theo gia đình nhiều người hay ít người. Nhà Ê Đê có những đặc trưng
riêng khơng giống nhà của các cư dân khác ở Tây Nguyên. Là nhà của gia đình
lớn theo chế độ mẫu hệ. Bộ khung kết cấu đơn giản. Cái được coi là đặt trưng
của nhà Ê Đê là: hình thức của cầu thang, cột sàn và cách bố trí trên mặt bằng
sinh hoạt. Đặt biệt là ở hai phần. Nửa đằng cửa chính gọi là Gah là nơi tiếp
khách, sinh hoạt chung của cả nhà dài, bếp chủ, ghế khách, ghế chủ, ghế dài
(Kpan) (tới 20 m), chiếng ché... nửa còn lại gọi là Ôk là bếp đặt chỗ nấu ăn
chung và là chỗ ở của các đôi vợ chồng, chia đôi theo chiều dọc, phần về bên trái
được coi là "trên" chia thành nhiều gian nhỏ. Phần về bên phải là hàng lang để đi
lại, về phía cuối là nơi đặt bếp...
 Chế độ gia đình
Gia đình người Ê Đê, theo chế độ mẫu hệ, chủ nhà là phụ nữ, con cái mang

họ mẹ. Khi lấy vợ, người chồng về nhà ở. Con trai khơng được hưởng thừa kế.
Ngày nay tính chất mẫu hệ khơng cịn rõ nét, vai trị của người đàn ông trong gia


đình cũng như trong xã hội ngày càng được khẳng định. Tín ngưỡng của người Ê
Đê là tín ngưỡng đa thần nên thực hiện nhiều kiêng cữ và tổ chức nhiều lễ cúng
như lễ cúng bến nước, lễ chọc tỉa, lễ cúng lúa mới, lễ thổi tai cho trẻ mới sinh…
với niềm mong ước mùa màng bội thu, con người khoẻ mạnh, tránh được rủi ro,
hoạn nạn.

 Chữ viết

Kinh Thánh Tân Ước Song Ngữ Êđê - Việt
So với các dân tộc ít người khác tại Việt Nam, người Ê Đê là sắc dân có chữ
viết theo bảng chữ cái La tinh khá sớm, người Ê Đê có chữ viết từ thập niên
1920. Các nhà truyền giáo Tin Lành đã phối hợp với các chuyên viên ngôn ngữ
học tại Viện Ngôn ngữ Summer đặt chữ viết cho người Ê Đê để dịch Kinh Thánh


cho dân tộc này. Năm 1971, các chuyên viên này phối hợp với Bộ Giáo dục Việt
Nam Cộng Hòa phát hành sách dạy tiếng Ê Đê. Năm 1979, sách dạy ngữ vựng Ê
Đê được xuất bản tại Hoa Kỳ. Kinh Thánh Tân Ước song ngữ Ê Đê-Việt phát
hành năm 2001. Năm 2006, Nhà xuất bản Tơn giáo của chính phủ Việt Nam, với
sự hỗ trợ của United Bible Societies, đã phát hành 20 ngàn cuốn Kinh Thánh Tân
Ước song ngữ Ê Đê-Việt tại Việt Nam. Đây là cuốn sách có số lượng phát hành
nhiều nhất trong tiếng Ê Đê từ trước đến nay.
 Ngơn ngữ
Tiếng nói của người Ê Đê thuộc hệ ngôn ngữ Mã Lai-Polynesia. Tiếng Êđê là
một ngôn ngữ có quan hệ gần gũi với Tiếng Gia rai, Chăm, Malaysia, Indonêsia,
Philipin. Tiếng Êđê ngày nay phát triển một âm tiết đơn lập, Đây là kết quả của

sự ảnh hưởng của tiếng Mon-Khmer, Khmer,Lao, Viet,Phap. Hầu như nói và viết
đều có sự khác biệt, khi nói chữ "Kngan" nghĩa là "Tay" người Êđê chỉ phát âm
là " Ngan" o mot so vung. Đăc biệt vùng Buôn Đôn mot số người Êđê nói tiếng
Lào . Măc dù vậy trong khi lễ tôn giáo và các ngày Lễ hội họ vẫn sữ dụng Tiếng
và chữ viết Êđê Kpă (Êđê gốc), cùng với sự phat trien và vai trò to lớn của đạo
Tin lành Đêgar vốn ra đời từ phong trào Fulro "Klei mrâo mrang jăk Đêgar", sự
thống nhất càng thể hiên rõ, Tin lành Đêgar là niềm kiêu hãnh văn hóa của người
Êđê người ê đê thường sử dụng chử ối ,ái dà, ồ lé .,lớ
CHƯƠNG 2 : TÌM HIỂU PHONG TỤC CƯỚI XIN CỦA DÂN TỘC Ê ĐÊ
Ở ĐẮK LẮK
2.1 Quan niệm về đám cưới
Nghi lễ cưới xin của người Ê Đê còn gọi là Yâo Ung Mỗ


Theo truyền thống từ xa xưa, người có quyền lực cao nhất trong gia đình người
Êđê là phụ nữ. Cộng đồng người Ê Đê mang đậm chế độ mẫu hệ, nên người con
gái chủ động đi hỏi và cưới chồng, việc thách cưới là do nhà trai yêu cầu. Qua
thời gian, đơi trai gái tìm hiểu nhau, nếu thấy "ưng cái bụng" thì người con gái
về báo cho cha mẹ biết, để nhờ người mai mối và tiến hành lễ hỏi chồng. Đây là
nét văn hóa thể hiện rõ nét vai trị của người phụ nữ trong hơn nhân, truyền
thống độc đáo của các dân tộc Tây Nguyên nói chung và dân tộc Ê Đê nói riêng.
Theo Tiến sĩ Nguyễn Duy Thiệu, Phó Giám đốc Bảo tàng Dân tộc học, xã hội
mẫu hệ của người Êđê là xã hội do người phụ nữ làm chủ. Con cái sinh ra mang
họ mẹ chứ không mang họ bố. Tiến sĩ Nguyễn Duy Thiệu cho biết: Người phụ
nữ làm chủ trong hôn nhân. Họ thích ai, u ai thì sẽ báo cáo với mẹ, gia đình
để cưới người họ yêu. Người được cưới ấy cư trú bên nhà vợ. Khi sinh con đẻ
cái thì mang họ vợ. Chẳng may, cơ vợ anh ta bị mất thì nhà vợ hoặc dịng họ nhà
vợ thì tìm 1 người phụ nữ khác để kết hơn với anh ta. Người Kinh gọi là tục nối
dây. Người Êđê gọi là tục chuê nuê.
2.2 Các bước tiến hành lễ cưới

Lễ cưới truyền thống của người Ê Đê thường được tiến hành tuần tự theo
bốn bước. Đó là lễ Hỏi chồng (Nao huh); Lễ thoả thuận (Knăm); Lễ gọi chồng
(Yâo Ung) và lễ lại mặt (Siê Knăm). Trong hôn lễ, trao vịng cầu hơn là nghi lễ
quan trọng, đây là nghi lễ bắt buộc của các cô gái khi làm đám cưới thể hiện sự
công nhận của thần linh, gia đình, cộng đồng cho đơi trai gái được tổ chức đám
cưới để nên vợ nên chồng.
2.2.1 Lễ hỏi chồng ( Nao huh )
Lễ hỏi chồng (Nao huh) là bước đầu tiên trong hôn lễ.


Theo phong tục mẫu hệ Ê Đê, khi người con gái tìm được người con trai ưng ý
thì bảo cho bố mẹ biết. Bố mẹ cô gái nhờ người mối đưa chiếc vòng bằng chất
liệu nào là tùy gia cảnh để mở đầu cho việc giao thiệp với nhà trai. Vài ba lần khi
chàng trai đó đồng ý thì nhà gái sang nhà trai tổ chức lễ trao vòng. Trường hợp
chàng trai khơng đồng ý thì lễ hỏi phải dừng lại, chờ đến khi sợi tơ hồng cuốn
chặt.
Lễ hỏi chồng thường được tổ chức sau mùa rẫy, bởi khi đó mọi người rảnh rang,
lúa gạo đầy nhà, ủ được nhiều rượu cần, mua được nhiều vật dụng quý, có nhiều
trâu, bị, gà, heo…

Đăm đêi cầm chiếc vịng do ơng mai nhà gái đưa sang hỏi ý kiến chàng trai
(Nguồn ảnh: Internet)
Trao vịng cầu hơn được thực hiện trong nghi lễ hỏi chồng. Cô gái cùng ông mối
và người anh, em trai của mẹ cơ gái, cịn gọi là Đăm đêi mang theo một lễ hỏi
gồm một ché rượu, một vòng đồng để cúng thần tới nhà trai. Nếu người con trai
khơng cùng trong bn, người con gái cịn phải mang thêm một gói cơm nếp.


Cô gái và chàng trai cùng chạm tay vào chiếc vịng đồng, ơng cậu cầu cúng
giàng. Và họ coi đó như lời giao ước hơn thú, có sự chứng giám của thần linh, có

sự cơng nhận của cộng đồng, và sự thống nhất của cặp uyên ương. Từ sau lễ trao
vịng, hai gia đình đã chính thức kết mối thơng gia. Mỗi bên gia đình cử ra một
người đỡ đầu của gia đình mình, cịn gọi là Miết Ava. Từ đây Miết Ava khơng
chỉ thay mặt gia đình, giúp đơi trẻ trong mọi nghi lễ để thành vợ thành chồng mà
trong suốt cuộc đời cịn lại sau này, ơng ln đóng vai trị như cha mẹ, khun
răn chú rể, cơ dâu và dàn hoà mọi bất hoà giữa hai gia đình.
Nhà trai sau lễ trao vịng, cũng trao cho bên nhà gái chiếc vịng để làm tin cho
việc đính ước. Sau đó, nhà trai tổ chức bữa cơm rượu mời bên nhà gái.
Nếu trong trường hợp người con trai không đồng ý thì nhà trai làm một
nghi lễ nhỏ mời nhà gái đến dự để tỏ lịng tơn trọng và duy trì sự hịa thuận với
nhau. Theo quan niệm của người Ê Đê việc từ chối hôn lễ là từ chối hơn nhân
của một dịng họ, ảnh hưởng và gây tổn thương rất lớn đến lịng tự trọng của
khơng những một gia đình mà cịn cả một dịng họ. Do đó cần thiết phải có sự
thể hiện gắn bó đồn kết của một cộng đồng dân tộc. Đây là một trong những nét
đẹp văn hóa truyền thống của người Ê Đê.
2.2.2 Lễ thỏa thuận ( Knăm)


Nhà gái đưa lễ vật sang nhà trai làm lễ gửi dâu
Trước khi lễ cưới chính thức diễn ra, hai họ thực hiện thủ tục “gửi dâu”
(K’năm). Đại diện nhà gái (Pô eemuh) dẫn cháu gái đến ở nhà chồng chưa cưới
theo thỏa thuận giữa hai bên. Đây là thời gian thử thách lòng chung thủy, nết na
của người phụ nữ. Lễ vật “gửi dâu” gồm: Một con gà, một nắm xôi và một ché
rượu để làm lễ K’năm.


Lễ vật gửi dâu nhà gái mang sang nhà trai
Lễ vật gửi dâu của nhà gái bao gồm 1 con gà, 1 nắm xơi gói trong lá chuối và
một ché rượu để làm lễ. Nhà trai đưa ra vật thách cưới gồm 1 con heo, 7 ché
rượu, của hồi môn là 2 con trâu, 3 đến 5 con bò, voi... Nếu cơ gái khơng trả nổi

lễ vật thách cưới thì phải ở lại làm việc tại nhà chồng cho đến khi hết nợ mới có
quyền rước chồng về nhà mình. Trường hợp trả không hết nợ (thường là gái mồ
côi) thì cơ gái phải ở ln bên nhà chồng. Đơi khi vì thách cưới cao nên có
trường hợp có con rồi mới làm lễ cưới.


×