Tải bản đầy đủ (.docx) (43 trang)

Đề cương ôn thi quan hệ kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (247.38 KB, 43 trang )

Câu hỏi tự luận chương 1: Những vấn đề chung về quan hệ
kinh tế quốc tế
Câu 1: Nêu khái niệm quan hệ kinh tế quốc tế và nền kinh tế
thế giới
1.Khái niệm quan hệ kinh tế quốc tế

Để phản ánh sự phụ thuộc giữa các nền kinh tế của các quốc gia trên thế giới với nhau
trong quá trình tồn tại và phát triển, thuật ngữ quan hệ kinh tế quốc tế đã được sử dụng.
Quan hệ kinh tế quốc tế là khái niệm dùng để chỉ mối quan hệ về kinh tế giữa từ hai
quốc gia trên thế giới với nhau. Không một quốc gia nào trên thế giới tồn tại, phát triển
có hiệu quả mà khơng có mối quan hệ nào với các quốc gia khác trên thế giới, đặc biệt
trong lĩnh vực kinh tế.
Quan hệ kinh tế quốc tế là yếu tố cơ bản giúp hình thành và phát triển nền kinh tế thế
giới. Quan hệ kinh tế quốc tế phản ánh yêu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng
sản xuất trong nền kinh tế thế giới. Quan hệ kinh tế quốc tế là những mối quan hệ tất
yếu phát sinh trong quá trình tác động qua lại lẫn nhau giữa các chủ thể của quan hệ
kinh tế quốc tế.
Dấu hiệu để nhận biết và phân biệt quan hệ kinh tế quốc tế với nhiều loại quan hệ khác
giữa các quốc gia: Quan hệ kinh tế quốc tế là quan hệ chứa đựng đồng thời cả quan hệ
kinh tế và quan hệ quốc tế. Theo đó:
– Quan hệ kinh tế được hiểu là quan hệ phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh, tổ
chức – quản lý sản xuất kinh doanh, sử dụng lao động, phân phối sản phẩm, dịch vụ
trong xã hội và các quan hệ khác phát sinh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Các
quan hệ kinh tế chịu sự chi phối và tác động của các quy luật kinh tế khách quan như:
quy luật cung cầu, quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật lợi ích cận biên giảm
dần, quy luật lưu thông tiền tệ…
Mỗi quốc gia trên thế giới, để tồn tại và phát triển đều cần có các mối quan hệ với các
quốc gia khác, như quan hệ liên quan đến an ninh quốc gia, biên giới lãnh thổ, văn hóa
– xã hội, kinh tế, chính trị, qn sự, mơi trường… Trong khn khổ môn học này, chúng
ta không nghiên cứu các mối quan hệ giữa các quốc gia, mà chỉ tập trung nghiên cứu về
quan hệ kinh tế giữa các quốc gia.


– Quan hệ quốc tế được hiểu là quan hệ có yếu tố nước ngồi, hoặc chúng có phạm vi
vượt q biên giới một quốc gia.
Trong thực tiễn hoạt động kinh tế có các quan hệ kinh tế chỉ diễn ra trong phạm vi một
quốc gia, tuy nhiên cũng có rất nhiều hoạt động kinh tế diễn ra trên phạm vi vượt quá
biên giới một quốc gia hoặc có liên quan đến yếu tố nước ngồi. Trong khn khổ mơn
học này, chúng ta chỉ xem xét các hoạt động kinh tế có phạm vi vượt quá biên giới một
quốc gia hoặc có liên quan đến yếu tố nước ngồi.
Các ví dụ điển hình thể hiện mối quan hệ về kinh tế giữa các quốc gia trên thế giới có
thể kể tới: quan hệ xuất, nhập khẩu hàng hóa, đầu tư nước ngồi, chuyển giao khoa học
– công nghệ, xuất, nhập khẩu sức lao động, thanh toán quốc tế…


về nguồn luật điều chỉnh các quan hệ kinh tế quốc tế: với sự đan xen và thể hiện rất
phong phú của các quan hệ kinh tế quốc tế, trên thực tế, quan hệ kinh tế quốc tế là đối
tượng điều chỉnh của cả pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế.
2. Khái niệm nền kinh tế thế giới

Nền kinh tế thế giới là tổng thể các nền kinh tế của các quốc gia trên thế giới, có mối
quan hệ phụ thuộc và tác động qua lại lẫn nhau thơng qua các quan hệ kinh tế quốc tế.
Nhờ có các quan hệ kinh tế quốc tế mà nền kinh tế các quốc gia có thể liên kết với nhau,
hình thành một chỉnh thể có tính thống nhất.
Quan hệ kinh tế quốc tế và nền kinh tế thế giới là hai khái niệm có mối quan hệ biện
chứng với nhau. Nền kinh tế thế giới hình thành và phát triển do một số nguyên nhân
chủ yếu sau:
– Nền kinh tế thế giới chỉ xuất hiện khi sự phân công lao động xã hội vượt khỏi biên
giới quốc gia, tức mang tính quốc tế.
– Các nước cơng nghiệp phát triển, việc tổ chức sản xuất các sản phẩm thường có
quy mơ rất lớn, vượt xa khả năng tiêu dùng trong nội bộ một quốc gia. Do đó có nhu cầu
đầu tư vốn, khoa học – công nghệ sang các nước đang và kém phát triển với mong
muốn thu được lợi nhuận cao hơn và giảm chi phí sản xuất (khi tận dụng được nguồn

nhân công, tài nguyên rẻ tại các nước này).
– Các nước đang và kém phát triển ngày càng có nhu cầu mở rộng quan hệ kinh tế
quốc tế để tiếp nhận kĩ thuật, công nghệ, vốn, kinh nghiệm quản lý từ các nước công
nghiệp phát triển trên thế giới nhằm bù đắp vào những thiếu hụt tại quốc gia mình.

Các điều kiện về giao thơng, liên lạc, tài chính…, đặc biệt là giao dịch trực tuyến
thơng qua internet ngày càng phát triển.
– Pháp luật và thông lệ quốc tế frong hoạt động kinh tế ngày càng được các quốc gia
trên thế giới chấp nhận và sử dụng rộng rãi.

Câu 2: Vai trò của các chủ thể của quan hệ kinh tế quốc tế?
Các chủ thể của quan hệ kinh tế quốc tế bao gồm:


Quốc gia



Các tổ chức và liên kết kinh tế quốc tế



Cơng ty xun quốc gia (TNCs)



Cá nhân




Các chủ thể khác (Các tổ chức phi chính phủ – NGOs; các lãnh thổ hải quan)

1, Quốc gia
Quốc gia có thể phân chia thành nước kém phát triển, nước đang phát triển, nước phát
triển hoặc nước có thu nhập trung bình thấp, trung bình cao, nước có thu nhập cao…Dù
nước có phạm vi nhỏ, dân cư ít nếu tham gia vào quan hệ kinh tế quốc tế sẽ đều giúp


nền kinh tế thế giới phát triển nhờ gia tăng sự trao đổi hàng hóa xuất nhập khẩu, giao
dịch tài chính, thu ngoại tệ, đầu tư nước ngồi…

2, Các tổ chức và liên kết kinh tế quốc tế
Chủ thể này được hình thành và phát triển do quá trình quốc tế hóa đời sống kinh tế,
đặc biệt trong q trình tồn cầu hóa kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ như hiện nay. Các
chủ thể này có thể là tổ chức mang tính khu vực như: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam
Á (ASEAN), NAFTA, EU…; liên kết kinh tế liên khu vực như: Diễn đàn Hợp tác kinh tế
châu Á – Thái Bình Dương (APEC), ASEM… hoặc tổ chức, liên kết kinh tế toàn cầu như
WB, IMF, WTO, FAO…
Các chủ thể này ngày càng có vai ưị quan trọng trong quan hệ kinh tế quốc tế, như: Tổ
chức và phối hợp hoạt động của các quốc gia trong việc điều chỉnh các quan hệ kinh tế
quốc tế; Tạo cơ sở cho các cuộc đối thoại về kinh tế giữa những nước giàu và nước
nghèo; Quan tâm giải quyết các vấn đề kinh tế toàn cầu như năng lượng, lương thực,
mơi trường sinh thái; Góp phần tạo thuận lợi cho sự xích lại gần nhau giữa các dân tộc,
góp phần xây dựng thế giới hịa bình và an ninh; Các tổ chức kinh tế quốc tế có vai trị
lớn trong việc xây dựng một hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ kinh tế quốc tế.

3.Công ty xuyên quốc gia
Công ti xuyên quốc gia là khái niệm dùng để chỉ các công ti sản xuất hay cung cấp dịch
vụ ở ít nhất hai quốc gia, hoạt động theo một hệ thống, có định hướng chiến lược phát
triển chung. Có thể hiểu, TNCs là một tập đoàn tư bản bao gồm hai bộ phận chính:

+ Cơng ti mẹ (đóng tại một nước)
+ Các công ti con (các chi nhánh ở nước ngoài).
TNCs thúc đẩy thương mại thế giới phát triển, đặc biệt là các nước có nền kinh tế
hướng về xuất khẩu vì các TNCs giúp khai thác một cách có hiệu quả nguồn lực sản
xuất của các quốc gia này. Các TNCs giúp phát triển nguồn nhân lực, tạo điều kiện
chuyển giao khoa học – công nghệ cho nước nhận đầu tư. Các cơng ti xun quốc gia
đóng vai trị quan trọng trong chuyển giao cơng nghệ, dây chuyền sản xuất tiên tiến, đào
tạo lực lượng lao động tay nghề cao. Đơi khi, một TNCs có sức mạnh kinh tế lớn hơn cả
các quốc gia tiếp nhận đầu tư. Ví dụ, năm 2018, Tập đồn tài chính City Group của Mỹ,
có tổng giá trị tài sản lên tới 1.917 tỉ USD vời 219 chi nhánh, trong đó có 80 chi nhánh tại
nước ngoài và hoạt động đầu tư tại 27 quốc gia.

4,Cá nhân
Cá nhân là chủ thể có thể tham gia một cách linh hoạt vào nhiều loại quan hệ kinh tế
quốc tế, như:
+ Tham gia vào quan hệ xuất khẩu lao động. Ví dụ: người Việt Nam đi xuất khẩu lao
động ở Malaysia, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan (Trung Quốc), Trung Đông;
+ Tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa quốc tế với vai trị là thương nhân;
+ Tham gia cung ứng dịch vụ giáo dục, đào tạo cho nước ngồi. Ví dụ: các giáo sư của
các trường đại học đi giảng dạy ở nước ngồi;
+ Tham gia đầu tư trên thị trường chứng khốn nước ngoài;


+ Tham gia vào hoạt động chuyển giao công nghệ hay chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ
cho cá nhân, tổ chức nước ngoài.

5,Chủ thể khác
5.1 Các tổ chức phỉ Chỉnh phủ (NGOs)
Tên gọi NGOs được đưa vào sử dụng khi thành lập UN năm 1945, đây là loại hình tổ
chức được thành lập một cách tự nguyện và hợp pháp, khơng thuộc bộ máy hành chính

nhà nước và khơng nhằm mục đích lợi nhuận. Các NGOs ra đời với nhiều mục đích
khác nhau, thơng thường nhằm đẩy mạnh các mục tiêu chính trị, xã hội như bảo vệ mơi
trường thiên nhiên (ví dụ: tổ chức Greenpeace), khuyến khích việc tơn trọng quyền con
người (ví dụ: tổ chức Amnesty International), cải thiện mức phúc lợi cho những người bị
thiệt thòi, hoặc đại diện cho một nghị trình đồn thể.
Xu thế hiện nay khối lượng viện trợ của NGOs cho các nước đang phát triển ngày càng
tăng và lĩnh vực hoạt động của NGOs chuyển theo hướng giảm viện trợ nhân đạo và
tăng viện ượ phát triển. Các NGOs ngày càng đóng vai trị quan trọng trong đời sống
kinh tế xã hội, nhân đạo, giáo dục, tôn giáo, môi trường,… trên thế giới.
Trong quan hệ kinh tế quốc tế, mặc dù khơng lớn như các nguồn đầu tư trực tiếp nước
ngồi (FDI) hay hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), viện trợ từ các NGOs là viện trợ
khơng hồn lại, mang tính nhân đạo và phát triển, khơng chỉ là vật chất mà cả chuyển
giao kinh nghiệm, cơng nghệ, bí quyết cần cho xây dựng kinh tế, nâng cao dân trí…
5.2 Các lãnh thổ hải quan
Các lãnh thổ hải quan có quyền độc lập trong quan hệ thương mại và đối ngoại có thể
trở thành thành viên của WTO (Điều XII Hiệp định thành lập WTO). Trong quan hệ kinh
tế quốc tế, các lãnh thổ hải quan có quyền độc lập này có khả năng và đã tham gia vào
các quan hệ thương mại, đầu tư, thanh toán… tương tự như các quốc gia.
Ví dụ: Hiện tại, EU, Ma Cao (Trung Quốc), Hồng Kông (Trung Quốc) là thành viên của
WTO. Đây chính là các lãnh thổ hải quan – chủ thể của quan hệ kinh tế quốc tế.

Câu 3: Trình bày về xu hướng tồn cầu hóa kinh tế và khu vực
hóa kinh tế, nêu mối quan hệ của hai xu hướng này.
XU HƯỚNG TỒN CẦU HĨA KINH TẾ
Tồn cầu hóa là quá trình liên kết các quốc gia trên thế giới về nhiều mặt (Kinh tế, Văn
hóa, Khoa học… ).
Biểu hiện của tồn cầu hóa kinh tế
a,Thương mại thế giới phát triển mạnh
– Tốc độ gia tăng trao đổi hàng hóa trên thế giới nhanh hơn nhiều so với gia tăng GDP.
– Hình thành tổ chức Thương mại thế giới (WTO).

b) Đầu tư nước ngoài tăng trưởng nhanh
– Từ năm 1990 → 2000 tổng đầu tư nước ngoài tăng từ 1.774 tỷ USD lên 8.895 tỷ USD
(tăng hơn 5 lần)


– Trong đó, dịch vụ chiếm tỷ trọng ngày càng lớn, nhất là tài chính – ngân hàng – bảo
hiểm…
c) Thị trường tài chính quốc tế mở rộng
– Hình thành mạng lưới liên kết tài chính.
– Các tổ chức tài chính tồn cầu IMF, WB… đóng vai trị to lớn trong nền kinh tế – xã hội
thế giới.
d) Các công ty xun quốc gia có vai trị ngày càng lớn
– Số lượng ngày càng nhiều.
– Vai trò:
+ Hoạt động trên nhiều quốc gia.
+ Nắm nguồn của cải vật chất lớn.
+ Chi phối nhiều ngành kinh tế quan trọng.
Hệ quả của tồn cầu hóa kinh tế
a) Tích cực
– Thúc đẩy sản xuất phát triển và tăng trưởng kinh tế toàn cầu.
– Đẩy nhanh đầu tư và khai thác triệt để khoa học công nghệ, tăng cường sự hợp tác
quốc tế.
b) Tiêu cực
– Gia tăng nhanh chóng khoảng cách giàu nghèo, trong từng quốc gia và giữa các nước
trên thế giới.

XU HƯỚNG KHU VỰC HÓA KINH TẾ
Các tổ chức liên kết kinh tế khu vực được hình thành
– Nguyên nhân: Do sự phát triển không đều và sức ép cạnh tranh trong các khu vực trên
thế giới, nên các quốc gia có những nét tương đồng về văn hóa, xã hội, địa lí hoặc có

chung mục tiêu, lợi ích… đã liên kết lại với nhau.
– Ví dụ: EU, APEC, ASEAN, NAFTA …
Hệ quả của khu vực hóa kinh tế
a) Tạo ra cơ hội
– Thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế.


– Tăng cường tự do hóa thương mại, đầu tư dịch vụ.
– Mở rộng thị trường, đẩy nhanh quá trình tồn cầu hóa kinh tế thế giới.
b) Tạo ra thách thức
– Đặt ra nhiều vấn đề như đảm bảo quyền độc lập, tự chủ về kinh tế và chính trị…

Câu 4: Giá cả quốc tế là gì? Nêu khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa
của việc nghiên cứu giá quốc tế.
Định nghĩa
Giá quốc tế là biểu hiện bằng tiền giá trị quốc tế của hàng hóa, dịch vụ trên thị trường
thế giới.
Đặc điểm

a) Giá cả quốc tế của hàng hóa có xu hướng biến động rất phức tạp vì giá quốc tế
phải chịu tác động của rất nhiều những nhóm yếu tố:
i) Những yếu tố ảnh hưởng tới giá trị của hàng hóa. Như sự tăng lên của năng suất lao
động, do áp dụng những tiến bộ khoa học công nghệ (vd: màn hình AUCIDI trước đây 1
năm có giá 1000$ nhưng hiện nay giá chỉ 300$, trong khi đó tính năng lại tiến bộ hơn
nhiều).
ii) Những yếu tố ảnh hưởng tới quan hệ cung cầu. Như thu nhập của người dân (tăng
lên ảnh hưởng tới cầu – sức mua tăng hoặc giảm xuống), sự thay đổi điều kiện tự nhiên
ảnh hưởng tới cung hàng hóa (sản xuất cà phê gặp hạn hán – dẫn tới cung giảm), các
yếu tố chính trị xã hội (dầu mỏ lên xuống rất phức tạp, khơng theo một quy luật nào,
chính sách pháp luật của mỗi nước thay đổi) v.v…

iii) Những yếu tố ảnh hưởng tới giá trị quốc tế của đồng tiền. Như lạm phát, thay đổi tỷ
giá hối đoái, khủng hoảng tài chính tiền tệ.
b) Có hiện tượng nhiều giá đối với một mặt hàng. Khi điều tra, tìm hiểu thì ta thấy
cùng một loại hàng hóa trên thị trường sẽ có rất nhiều mức giá khác nhau.
Nguyên nhân bắt nguồn là từ:
i) Phương thức mua bán khác nhau. Nếu mua bán trực tiếp thì giá quốc tế của hàng hóa
sẽ khác khi mua qua trung gian, qua đại lý, môi giới, hoặc mua bán trao đổi hàng – tiền
bình thường sẽ khác hơn là mua bán hàng – hàng, hoặc các giao dịch tạm nhập tái xuất,
mua bán theo hình thức hội chợ, triễn lãm, đấu thầu v.v…
ii) Phương thức thanh tốn khác nhau. Nếu trả tiền ngay thì giá sẽ khác hơn là trả tiền
sau, trong buôn bán quốc tế thì người bán và người mua ở hai nước khác nhau do vậy
việc việc thanh toán rất phức tạp – nếu thanh tốn qua ngân hàng có thể chọn nhiều
hình thức như chuyển tiền, thư tín dụng, trả tiền thơng qua LC, nhờ thu v.v… – khi sử
dụng ngân hàng để thực hiện các dịch vụ chuyển tiền theo các hình thức khác nhau thì
ngân hàng phải tính phí do vậy giá cả hàng hóa có sự thay đổi.
iii) Phương thức vận chuyển khác nhau. Khi lựa chọn phương thức vận chuyển khác
nhau thì giá quốc tế sẽ phải khác nhau. Các phương thức vận chuyển như đường bộ,
đường thủy (đường biển mặc dù chi phí rẻ nhất nhưng mức độ rủi ro lại cao nhất),


đường hàng khơng (có chi phí cao nhưng bù lại rất nhanh), đường sắt, đường ống
(xăng, dầu).
iv) Điều kiện cơ sở giao hàng khác nhau. Giá FOB (mức giá chưa tính phí bảo hiểm).
Mức giá giao tại chân cơng trình sẽ rất khác so với giao hàng tại xưởng. Quyền lợi và
nghĩa vụ của người bán và người mua trong các trường hợp khác nhau thì trách nhiệm,
rủi ro sẽ ảnh hưởng tới giá của hàng hóa.
c) Có hiện tượng “giá cánh kéo” đối với giá cả hàng hóa trên thị trường.

Câu 5: Điều kiện xác định giá quốc tế và các hình thức biểu
hiện của giá quốc tế

Điều kiện xác định giá quốc tế

Một là, giá quốc tế phải là giá có tính chất đại diện cho đối tượng trao đổi trên thị trường
thế giới và phải là giá của các giao dịch thông thường.
Để thỏa mãn điều này, người ta thường lấy giá của nước xuất khẩu với khối lượng lớn
nhất sản phẩm đó trên thị trường thế giới hoặc giá của nước nhập khẩu lớn nhất sản
phẩm đó trên thị trường thế giới là giá quốc tế.
Ví dụ: Lấy giá xuất khẩu gạo tại Thái Lan là giá gạo quốc tế; lấy giá xuất khẩu cà phê tại
Brazin là giá cà phê quốc tế…
Hai là, giá đó phải được tính bằng đồng tiền mạnh có khả năng tự do chuyển đổi.
Đồng tiền được coi là mạnh là tiền có khả năng chuyển đổi và phải giữ vị trí quan trọng
trong hệ thống tiến tệ quốc tế.
Một số đồng tiền mạnh hiện nay như: Đô la Mĩ (USD); Euro (EUR); Yên Nhật Bản (JPY);
Bảng Anh (GBP)…
Các hình thức biểu hiện giá quốc tế

– Theo mức độ tin cậy của giá cả, có các loại giá sau đây: giá tham khảo, giá chào hàng,
giá yết bảng ở các sở giao dịch, giá thực tế trong các hợp đồng đã kí kết, giá bán đấu
giá và đấu thầu…
– Theo điều kiện mua bán hàng hóa, có hai hệ thống giá là giá FOB và giá CIF.
– Theo điều kiện thanh tốn quốc tế, có giá thanh tốn ngay và giá thanh toán sau.

Câu 6: Tỉ lệ trao đổi trong thương mại quốc tế là gì? Các yếu tố
ảnh hưởng đến tỉ lệ trao đổi trong thương mại quốc tế?
Khái niệm
Tỉ lệ trao đổi trong tiếng Anh là Terms of trade, viết tắt là TOT.
Tỉ lệ trao đổi (TOT) thể hiện tỉ lệ giữa giá xuất khẩu của một quốc gia và giá nhập khẩu
của quốc gia đó. Có bao nhiêu đơn vị xuất khẩu được yêu cầu để mua một đơn vị nhập
khẩu? Tỉ lệ này được tính bằng cách chia giá xuất khẩu cho giá nhập khẩu và nhân kết
quả với 100.



Khi nguồn vốn chảy ra khỏi đất nước do nhập khẩu nhiều hơn thì TOT của quốc gia đó
sẽ nhỏ hơn 100%. Khi TOT lớn hơn 100%, quốc gia này đang tích lũy nhiều vốn từ xuất
khẩu hơn là chi cho nhập khẩu.
Các yếu tố ảnh hưởng đến tỉ lệ trao đổi

TOT phụ thuộc ở một mức nào đó vào tỉ giá hối đoái và tỉ giá lạm phát hoặc giá cả. Một
loạt các yếu tố khác cũng ảnh hưởng đến TOT, và một số có ảnh hưởng riêng tới từng
ngành và khu vực cụ thể.
Sự khan hiếm: Số lượng hàng hóa có sẵn để giao dịch là một trong những yếu tố như
vậy. Càng nhiều hàng hóa mà một nhà cung cấp có sẵn để bán, thì càng có nhiều hàng
hóa được bán và nhà cung cấp có thể mua được càng nhiều hàng hóa bằng cách sử
dụng vốn thu được từ việc bán hàng.
Quy mô và chất lượng hàng hóa cũng ảnh hưởng đến TOT. Hàng hóa lớn hơn và chất
lượng cao hơn có thể sẽ có giá cao hơn. Nếu hàng hóa bán với giá cao hơn, một người
bán sẽ có thêm vốn để mua thêm hàng hóa.
Tỉ lệ trao đổi biến động

Một quốc gia có thể mua thêm hàng hóa nhập khẩu cho mỗi đơn vị xuất khẩu mà họ đã
bán khi TOT của họ tốt lên. Do đó, việc tăng TOT có thể có lợi vì quốc gia cần xuất khẩu
ít hơn để mua vào một số lượng nhập khẩu nhất định.
Khi TOT tăng có thể có tác động tích cực đến lạm phát do chi phí đẩy ở trong nước, vì
mức tăng này cho thấy giá nhập khẩu giảm so với giá xuất khẩu. Tuy nhiên, khối lượng
xuất khẩu của quốc gia có thể giảm xuống mức bất lợi cho cán cân thanh toán (BOP).
Quốc gia phải xuất khẩu một số lượng lớn hơn đơn vị mà họ đã mua cùng một số lượng
nhập khẩu khi TOT có dấu hiệu đi xuống. Giả thuyết Prebisch-Singer nói rằng một số thị
trường mới nổi và các nước đang phát triển đã phải trải qua tình trạng TOT giảm vì giá
hàng hóa giảm so với giá của hàng hóa sản xuất.


Câu 7: Nêu một số nét về thương mại quốc tế hiện đại
1.Khái niệm
Cho đến nay chưa có một định nghĩa hay một cách hiểu thống nhất về hoạt động
thương mại quốc tế. Người ta mới chỉ thống nhất ở điểm: thương mại quốc tế là tổng
hợp các hoạt động, giao dịch hàng hóa và dịch vụ trong quan hệ thương mại quốc tế.
Điểm chưa thống nhất là ở chỗ tham gia vào các quan hệ thương mại quốc tế thì đối
tượng tham gia gồm nhiều chủ thể khác nhau. Có quan hệ thương mại quốc tế phát sinh
giữa các quốc gia (kể cả các nước, vũng lãnh thổ) nhưng cũng có quan hệ thương mại
quốc tế phát sinh giữa các doanh nghiệp, các công ty thương mại của các nước khác
nhau với nhau. Quan hệ thương mại quốc tế cũng có thể có sự tham gia của các tổ
chức quốc tế như Tổ chức Thương mại thể giới (WTO) hoặc của cơ quan chuyên môn
của Liên Hợp Quốc như Uỷ ban pháp luật thương mại quốc tế của Liên Hợp Quốc
(UNCITRAL)…

2.Sự phát triển của thương mại quốc tế hiện đại
Sự phát triển của thương mại quốc tế tùy thuộc vào sự phát triển của các mối quan hệ
thương mại phát sinh ở phạm vi quốc tế. Thương mại quốc tế, về quy mô, phát triển từ
cấp độ song phương rồi đến cấp độ khu vực và sau cùng là ở quy mơ tồn cầu. Về nội
dung, thương mại quốc tế lúc mới hình thành chỉ bao gồm các giao dịch về thương mại
hàng hóa. Cùng với sự phát triển của quan hệ thương mại quốc tế, nội dung của hoạt


động thương mại quốc tế đã mở rộng sang cả lĩnh vực thương mại dịch vụ, đầu tư, tài
chính, sở hữu trí tuệ,… Về mặt tính chất, hoạt động thương mại quốc tế, khi mới hình
thành, mang tính ‘đóng’ do vì dựa chủ yếu trên nguyên tắc bảo hộ mậu dịch, và ở một số
nhóm nước hay một số khu vực, hoạt động thương mại quốc tế bảo vệ các quan hệ dựa
trên nguyên tắc độc quyền của Nhà nước về thương mại quốc tế nói chung và về ngoại
thương nói riêng.

Câu 8: Bình luận về sự trỗi dậy của xu hướng bảo hộ mậu dịch

tại nhiều nước trên thế giới sau khủng hoảng kinh tế toàn cầu
2008.
Chủ nghĩa bảo hộ (protectionism) là thuật ngữ nói đến những chính sách kinh tế được
dùng để kiềm chế thương mại giữa các nước bằng nhiều biện pháp, như đánh thuế
hàng nhập khẩu, thu hẹp hạn ngạch hay nâng cao tiêu chuẩn về chất lượng, xuất xứ và
vệ sinh dịch tễ. Mấu chốt của bất kì loại hình bảo hộ nào nằm ở chỗ chính phủ mong
muốn “bảo vệ” những sản phẩm nội địa khỏi đối thủ cạnh tranh từ nước ngoài, vốn có
thể bán cùng một sản phẩm nhưng ở mức giá thấp hơn.
Coface (tập đồn chun về bảo hiểm tín dụng của Pháp) công bố số lượng các biện
pháp bảo hộ thương mại thực hiện trên toàn cầu hiện nay đã tăng gấp 2,5 lần so với
năm 2010. Trong số các biện pháp bảo hộ thương mại, thì cơng cụ thuế quan (nhập
khẩu) được sử dụng với tỉ trọng ngày càng tăng, tỉ trọng này đã tăng gấp 2 lần sau 9
năm (8% năm 2009, 16% năm 2018). Đơn cử, từ năm 2016 đến 2018, thuế nhập khẩu
của Mỹ đã tăng mạnh, từ 5,4% đến 12,5%.
Báo cáo thường niên của Hội nghị Thương mại và phát triển Liên hợp quốc (UNCTAD)
công bố cuối tháng 9/2018 nhận định, 10 năm sau cuộc khủng hoảng tài chính (2008 –
2018), nền kinh tế tồn cầu vẫn còn bất ổn, đặc biệt sự leo thang không ngừng của hàng
rào thuế quan thương mại thời gian gần đây là một mối quan ngại lớn hơn, bởi vì nó sẽ
làm nhiễu loạn hệ thống thương mại quốc tế, làm gia tăng tính bất ổn của thị trường và
thu hẹp đầu tư, từ đó tác động khơng tốt đến sự phát triển kinh tế trung hạn trên toàn
cầu. Báo cáo cảnh báo rằng sau khi bùng phát cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008,
các nước trên thế giới khơng những khơng xây dựng chính sách tốt để ngăn chặn cuộc
khủng hoảng tái diễn, ngược lại còn cho phép các cơ quan tài chính lớn tăng trưởng
thiếu kiểm sốt, nợ chính phủ cũng tiếp tục phình ra trong thời gian gần đây, hình thành
nên những rủi ro mới. Báo cáo chỉ rõ quy mô của các ngân hàng trên toàn cầu và các
ngân hàng ngầm đã tăng lên 160.000 tỉ USD, gấp đôi so với quy mô của nền kinh tế
toàn cầu hiện nay; khối lượng nợ toàn cầu đã tăng lên gần 250.000 tỉ USD, hơn một nửa
so với cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008.
Những hạn chế về mặt thương mại gây ra bởi chủ nghĩa bảo hộ là con đường 2 chiều.
Mọi hành động mang tính bảo hộ đều có thể hứng chịu “sự trả đũa” bởi các hình thức

tương tự, qua đó dễ dẫn đến chiến tranh thương mại. Đơn cử, cuộc chiến thương mại
do chính quyền Mỹ khơi mào năm 2018 nếu tiếp tục leo thang có thể sẽ khiến kinh tế
tồn cầu, vốn vừa có dấu hiệu phục hồi sẽ mất đà tăng trưởng và có thể suy giảm trở
lại. Đây là lời dự đoán được đưa ra trong báo cáo thường niên về Thương mại và Phát
triển năm 2018 do UNCTAD công bố. Cụ thể, nếu các biện pháp trừng phạt về thuế lẫn
nhau giữa Mỹ với các nước Trung Quốc, EU, Nhật Bản, Canada, Mexico, Hàn Quốc dẫn
tới cuộc chiến thương mại thì ước tính trong khoảng thời gian 5 năm (từ 2019 – 2023),
nhịp độ tăng trưởng sẽ giảm đi đáng kể so với trường hợp không xảy ra cuộc chiến
thương mại. Báo cáo trên cho rằng tình trạng này sẽ khiến các nước có xuất siêu
thương mại bị thu hẹp lại, như Trung Quốc, Nhật Bản, sẽ hạ tỉ giá hối đối tiền tệ nhằm
duy trì sức cạnh tranh. Ngoài ra, việc các doanh nghiệp cắt giảm mức lương công nhân
sẽ dẫn đến sự suy giảm nhu cầu và đầu tư trong nước.


Theo báo cáo của ủy ban Kinh tế và xã hội của Liên hợp quốc tại châu Á – Thái Bình
Dương (UNESCAP), thương mại tồn cầu đã thúc đẩy nhiều lĩnh vực trong thời gian
qua và chủ nghĩa bảo hộ gia tăng sẽ khiến cho tốc độ tăng trưởng kinh tế, đặc biệt ở các
nước đang phát triển bị chậm lại, cụ thể là mức 1,2%. Khu vực châu Á – Thái Bình
Dương sẽ là nơi chịu ảnh hưởng nặng nề của chủ nghĩa bảo hộ. Khu vực này trung bình
xuất khẩu xấp xỉ 15% sản phẩm của mình sang thị trường Hoa Kỳ – nơi mà làn sóng
bảo hộ đang dấy lên mạnh mẽ. Đối với một so quốc gia khác thì con số này cịn nhiều
hơn, như lượng xuất khẩu của Trung Quốc sang Hoa Kỳ chiếm khoảng 20% tổng xuất
khẩu của Trung Quốc tính theo giá frị gia tăng, tương đương 3,7% GDP. Bên cạnh đó,
Mỹ với dân số 323 triệu người, là thị trường lớn đối với nhiều nền kinh tế châu Á. Cho
nên, nếu chủ nghĩa bảo hộ được thực hiện tại quốc gia này, nhiều nhà sản xuất châu Á
có nguy cơ rơi vào tình trạng khó khăn khi thực hiện hoạt động xuất khẩu hàng hóa.

Câu 9: Phân tích tác động của cuộc cách mạng công nghiệp
lần thứ bốn tới sự phát triển của nềkinh tế thế giới.
Về mặt kinh tế, cuộc cách mạng cơng nghiệp lần thứ tư có tác động đến tiêu dùng,

sản xuất và giá cả. Từ góc độ tiêu dùng và giá cả, mọi người dân đều được hưởng lợi
nhờ tiếp cận được với nhiều sản phẩm và dịch vụ mới có chất lượng với chi phí thấp
hơn.
Cuộc cách mạng cơng nghiệp lần thứ tư cũng tác động tích cực đến lạm phát toàn cầu.
Nhờ những đột phá về công nghệ trong các lĩnh vực năng lượng (cả sản xuất cũng như
sử dụng), vật liệu, Internet vạn vật, người máy, ứng dụng cơng nghệ in 3D (hay cịn
được gọi là cơng nghệ chế tạo đắp dần, có ưu việt là giúp tiết kiệm nguyên vật liệu và
chi phí lưu kho hơn nhiều so với công nghệ chế tạo cắt gọt truyền thốngv.v… đã
giúp giảm mạnh áp lực chi phí đẩy đến lạm phát toàn cầu nhờ chuyển đổi sang một
thế giới hiệu quả, thông minh và sử dụng nguồn lực tiết kiệm hơn.
Từ góc độ sản xuất, trong dài hạn, cuộc cách mạng công nghiệp lần này sẽ tác
động hết sức tích cực. Kinh tế thế giới đang bước vào giai đoạn tăng trưởng chủ yếu
dựa vào động lực khơng có trần giới hạn là cơng nghệ và đổi mới sáng tạo, thay cho
tăng trưởng chủ yếu dựa vào các yếu tố đầu vào ln có trần giới hạn.
Tuy nhiên cuộc cách mạng công nghệ này đang tạo ra những thách thức liên quan
đến những chi phí điều chỉnh trong ngắn đến trung hạn do tác động không đồng đều
đến các ngành khác nhau: có những ngành sẽ tăng trưởng mạnh mẽ và có những
ngành sẽ phải thu hẹp đáng kể. Trong từng ngành, kể cả các ngành tăng trưởng, tác
động cũng có sự khác biệt giữa các doanh nghiệp, với sự xuất hiện và tăng trưởng
nhanh của nhiều doanh nghiệp tạo ra những công nghệ mới và sự thu hẹp, kể cả đào
thải của các doanh nghiệp lạc nhịp về cơng nghệ.
Chính vì vậy mà Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang vẽ lại bản đồ kinh tế
trên thế giới, với sự suy giảm quyền lực của các quốc gia dựa chủ yếu vào khai thác tài
nguyên và sự gia tăng sức mạnh của các quốc gia dựa chủ yếu vào công nghệ và đổi
mới sáng tạo:
* Nhiều quốc gia phát triển song chủ yếu dựa vào tài nguyên như Úc, Canada, Na Uy
v.v… đang phải trải qua một quá trình tái cơ cấu nền kinh tế nhiều thách thức. A rập Xê
út gần đây đã chính thức tuyên bố về kế hoạch tái cơ cấu nền kinh tế và chuyển đổi mơ
hình tăng trưởng để giảm mạnh sự phụ thuộc vào dầu mỏ. Trừ Ấn Độ, các nước cịn lại
trong nhóm BRICS đang gặp nhiều thách thức do có nền kinh tế dựa nhiều vào tài

nguyên khoáng sản.


* Nước Mỹ – đầu tàu thế giới về công nghệ và dẫn dắt cuộc cách mạng công nghiệp lần
thứ tư đang khơi phục vị thế hàng đầu của mình trên bản đồ kinh tế thế giới.Các nước
Đông Bắc Á (Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan) cũng tham gia mạnh mẽ vào quá trình này,
đặc biệt là trong lĩnh vực cơng nghiệp chế tạo. Trung Quốc cũng là nước có thể sẽ được
hưởng lợi nhiều do sau nhiều năm xây dựng và củng cố khả năng áp dụng và hấp thụ
công nghệ thông qua tăng trưởng xuất khẩu (kể cả bắt chước và sao chép) đã bắt đầu
bước vào giai đoạn tạo ra công nghệ với sự xuất hiện mạnh mẽ của một số tập đồn
phát triển cơng nghệ hàng đầu thế giới. Điều này giúp Trung Quốc giảm nhẹ được tác
động của quá trình điều chỉnh đang diễn ra sau giai đoạn tăng trưởng nóng của thập
niên trước.
* Tại châu Âu, một số nước như Đức, Na Uy có thể tham gia và tận dụng được nhiều cơ
hội từ cuộc cách mạng công nghiệp mới. Tuy nhiên, nhiều nền kinh tế châu Âu khác tỏ
ra hụt hơi trong cuộc đua này cho dù có hệ thống nguồn nhân lực tốt, được lý giải một
phần là do tinh thần và môi trường khởi nghiệp để thúc đẩy phát triển công nghệ mới
không bằng so với Mỹ và các nước Đông Bắc Á.
Bản đồ sức mạnh của các doanh nghiệp cũng đang được vẽ lại: các tập đồn lớn
vang bóng một thời và thống lĩnh thị trường trong một giai đoạn dài đang bị các doanh
nghiệp trẻ khởi nghiệp trong giai đoạn gần đây trong lĩnh vực công nghệ vượt mặt.Một
số ví dụ điển hình là:
(i)
Trong lĩnh vực cơng nghệ thơng tin, các công ty như Google, Facebook v.v… đang
tăng trưởng nhanh, trong khi các công ty tiếng tăm khác như IBM, Microsoft, Cisco, Intel,
hay một loạt các tập đoàn điện tử lớn của Nhật Bản đang phải trải qua một q trình tái
cơ cấu đầy khó khăn. Sự sụp đổ của các “ơng lớn” như Nokia, hay trước đó là Kodak
cho thấy nguy cơ “sai một ly đi một dặm” mà các công ty phải đối mặt trong cuộc cạnh
tranh đã khốc liệt lại càng khốc liệt hơn trong thời đại của cuộc cách mạng công nghiệp
lần thứ tư đang diễn ra với tốc độ của “lũ quét”.

(ii) Trong lĩnh vực chế tạo, các công ty ô tô truyền thốngđang chịu sức ép cạnh tranh
quyết liệt từ các công ty mới nổi lên nhờ cách tiếp cận mới như Tesla đang đẩy mạnh
sản xuất ô tô điện và tự lái, cũng như Google và Uber.
(iii) Trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, quá trình tái cơ cấu đang diễn ra trên diện rộng
ảnh hưởng đến việc làm của hàng triệu nhân viên trong 10 năm tới do ứng dụng ngân
hàng trực tuyến di động, và sự cạnh tranh quyết liệt từ các doanh nghiệp khởi nghiệp từ
Silicon Valley cung cấp các dịch vụ tài chính rẻ hơn nhiều cho khách hàng nhờ ứng
dụng điện toán đám mây. Ngành bảo hiểm cũng đang chịu sức ép tái cơ cấu dưới tác
động của việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo, và tương lai sụt giảm nhu cầu bảo hiểm xe cộ
khi xe tự lái trở nên phổ biến trên thị trường
(iv) Cuộc cạnh tranh toàn cầu lại càng thêm khốc liệt với sự nhập cuộc của nhiều công ty
đa quốc gia siêu nhỏ, đang trở thành một xu hướng rõ nét nhờ hạ tầng thông tin Internet
cho hiện thực và thương mại hóa một ý tưởng mới trên tồn cầu một cách nhanh chóng
do chi phí giao dịch giảm mạnh, giúp giảm đáng kể chi phí và qui mơ nhập cuộc.

Câu 10: Phân tích về chiến lược kinh tế đối ngoại của Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng năm 1986 (Đại hội VI) – Đại hội được ví
là “Đại hội của sự đổi mới”, cột mốc quan trọng đánh dấu sự thay đổi trong quá trình
phát triển kinh tế đối ngoại của Việt Nam. Mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế là chủ
trương lớn được Đảng ta đề cập xuyên suốt trong các kì Đại hội, từ Đại hội VI đến Đại


hội XII nhằm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, đưa Việt Nam từng bước, chủ động
hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Cụ thể:
Đại hội VI, mở đầu cho thời kì đổi mới đất nước đã đưa ra chủ trương tranh thủ những
điều kiện thuận lợi về hợp tác kinh tế và khoa học kĩ thuật, tham gia ngày càng rộng rãi
vào việc phân công và hợp tác quốc tế trong “Hội đồng tương trợ kinh tế và mở rộng với
các nước khác”.
Đại hội VII, định hướng “đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ với các quốc gia, các tổ

chức kinh tế quốc tế”.
Đại hội VIII, mở ra chủ trương “Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và
thế giới”.
Đại hội IX, nhấn mạnh “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát
huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả họp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định
hướng xã hội chủ nghĩa”. Ngày 27/11/2001, Bộ Chính trị khóa IX đã ban hành Nghị
quyết số 07-NQ/TW “về hội nhập kinh tế quốc tế”.
Đại hội X, nhấn mạnh chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng
thời mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực khác”. Ngày 05/02/2007, Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa X đã ban hành Nghị quyết so 08-NQ/TW “về một số chủ trương, chính
sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ
chức Thương mại thế giới”.
Đại hội XI, đã đề ra đường lối đối ngoại của Việt Nam trong thời kì phát triển mới, trong
đó có chủ trương rất quan trọng là “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”. Từ “hội nhập
kinh tế quốc tế” của các kì đại hội trước, chuyển sang “hội nhập quốc tế” một cách toàn
diện là một phát triển quan trọng về tư duy đối ngoại của Đảng ta. Ngày 10/4/2013, Bộ
Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TW “về hội nhập quốc tế”. Đây là văn kiện
quan trọng, có ý nghĩa chiến lược, làm rõ và thống nhất nhận thức trong tồn Đảng, tồn
dân về hội nhập quốc tế trong tình hình mới. Nghị quyết đã xác định rõ hội nhập quốc tế
sẽ được triển khai sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt, hội nhập kinh tế phải gắn với
yêu cầu đổi mới mơ hình tăng trưởng và tái cơ cấu nền kinh tế.
Đại hội XII, với chủ trương “Chủ động hội nhập, nâng cao vị thế Việt Nam trên trường
quốc tế”, Việt Nam đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại đa phương với phương châm
chuyển mạnh từ “tham gia tích cực” lên “chủ động đóng góp xây dựng”, qua đó góp
phần quan trọng vào việc nâng cao vị thế quốc tế của đất nước.
Thực hiện chủ trương mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng, Việt Nam đã hội nhập
ngày càng sâu rộng, tham gia hầu hết các tổ chức, định chế quốc tế và khu vực chủ yếu
trên thế giới.
– Một số mốc son trong quả trình mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam có thể
kể đến như:

Gia nhập ASEAN vào tháng 7/1995. Sự kiện này được coi là một bước đột phá về hành
động trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Ngày 22/11/2015, các nhà
lãnh đạo ASEAN đã kí Tuyên bố Kuala Lumpur chính thức thành lập Cộng đồng ASEAN,
trong đó có Cộng đồng Kinh tế ASEAN vào ngày 31/12/2015. Việc tham gia ASEAN và
thực hiện các cam kết nhằm xây dựng Cộng đồng ASEAN sẽ đóng góp thiết thực cho
việc góp phần tạo mơi trường hịa bình, ổn định cải thiện mơi trường luật pháp trong


nước, tạo thuận lợi cho sản xuất kinh doanh và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài,
cũng như làm cơ sở, tiền đề giúp Việt Nam tham gia các khuôn khổ hợp tác song
phương và đa phương khác.
Trở thành thành viên sáng lập và là một thành viên tích cực của Diễn đàn Họp tác Á-Âu
(ASEM) năm 1996.
Được kết nạp vào Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC) vào năm
1998. Việt Nam đã được đánh giá là một trong những thành viên năng động, đã có nhiều
sáng kiến hợp tác và đóng góp tích cực cho các diễn đàn hợp tác quốc tế quan trọng
này.
Gia nhập Tổ chức thương mại lớn nhất hành tinh – WTO vào tháng 01/2007, đánh dấu
sự hội nhập toàn diện của Việt Nam vào kinh tế thế giới. Với việc gia nhập WTO, Việt
Nam đã tiến hành nhiều cải cách chính sách kinh tế, thương mại, đầu tư đồng bộ, theo
hướng minh bạch và tự do hóa hơn.
Hịa cùng với xu hướng thiết lập các khu vực thương mại tự do trên thế giới, tính đến
tháng 7/2019, Việt Nam đã tham gia đàm phán, kí kết 16 FTA (trong đó 13 FTA đã kí kết
– Các FTA đã kí kết gồm: ASEAN – Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC); ASEAN – Ắn Độ;
ASEAN – Hàn Quốc; ASEAN – Hồng Kông (Trung Quốc); ASEAN – Nhật Bản; ASEAN –
Trung Quốc; ASEAN – Australia, New Zealand; CPTPP (TPP 11); Việt Nam – Chi Lê;
Việt Nam – Hàn Quốc; Việt Nam – Liên minh kinh tế Á – Âu; Việt Nam – Nhật Bản; Hiệp
định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) và 3 FTA chưa kí kết – Các FTA chưa kí
kết gồm: Hiệp định Đối tác kinh tê toàn diện khu vực (RCEP) bắt đầu đàm phán từ ngày
09/5/2013; Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Khối EFTA bắt đầu khởi động

đàm phán từ tháng 5/2012; Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Israel bắt đầu khởi
động đàm phán từ tháng 12/2015) với 56 quốc gia và nền kinh tế trên thế giới, trong đó
6 FTA do ta chủ động tham gia ngồi khn khổ nội khối ASEAN hoặc với nước đối tác
của ASEAN. Điều này giúp Việt Nam nắm bắt và tận dụng tốt hơn các cơ hội do quá
trình hội nhập kinh tế khu vực đem lại, đồng thời Việt Nam có thêm điều kiện, tranh thủ
họp tác quốc tế để phục vụ chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, triển khai chiến lược
hội nhập quốc tế nói chung và chiến lược đối ngoại ở khu vực châu Á – Thái Bình
Dương nói riêng.
– Một số thành tựu đạt được của nền kinh tế Việt Nam sau hơn 30 năm đối mới, mở cửa
và hội nhập kinh tế quốc tế:
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hơn 30 năm qua đã mở ra không gian phát triển mới
cho nền kinh tế Việt Nam, mở rộng quan hệ hợp tác sâu, rộng với các quốc gia trong
khu vực và thế giới, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Điều này, tác
động mạnh đến sự tăng trưởng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao
năng lực sản xuất, mở rộng thị trường trong một số lĩnh vực cụ thể như: công nghiệp,
thương mại, các ngành dịch vụ…; thúc đẩy tái cấu trúc nền kinh tế, đặc biệt là chuyển
dịch cơ cấu sản xuất theo hướng tích cực, phù hợp với chủ trương cơng nghiệp hóa
theo hướng hiện đại, theo đó tập trung nhiều hơn vào các mặt hàng chế biến, chế tạo có
giá trị và hàm lượng cơng nghệ và giá trị gia tăng cao hơn; thúc đẩy thương mại, tăng
thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) và mở rộng quan hệ hợp tác phát triển (ODA).
Góp phàn tạo thêm việc làm, các ngành có tốc độ tăng việc làm cao nhất cũng là những
ngành mở cửa nhanh hơn hoặc những ngành áp dụng công nghệ mới để cạnh tranh,
tạo tài sản sản xuất và hạ tầng như công nghệ chế tạo, xây dựng, tài chính ngân hàng,
khoa học cơng nghệ; tác động tích cực tới tiền lương và thu nhập của mọi tầng lóp cư


dân, tăng năng suất lao động, nâng cao năng lực cạnh tranh (quốc gia, doanh nghiệp và
sản phẩm).
Tiếp thu được khoa học – công nghệ mới và kĩ năng quản lý tiên tiến trên nhiều lĩnh vực:
Công nghiệp, nông nghiệp, kĩ thuật, văn hóa – xã hội… góp phần đào tạo cho Việt Nam

có được đội ngũ nguồn nhân lực có trình độ và năng lực cả về chun mơn lẫn quản lý.
Góp phần hồn thiện thể chế trong nước trên góc độ: pháp luật và tổ chức bộ máy, cùng
với nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Tạo hiệu ứng tích cực thúc đẩy cải cách và
hồn thiện thể chế kinh tế thị trường đầy đủ, hồn thiện mơi trường kinh doanh, góp
phần nâng cao năng lực cạnh tranh cho nền kinh tế nước ta trong dài hạn, tạo ra mơi
trường kinh doanh ngày càng bình đẳng, minh bạch, dễ dự đoán hơn và ngày càng phù
hợp với chuẩn mực và thông lệ quốc tế…
Các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội tham gia chuỗi giá trị và mạng lưới sản xuất khu
vực, chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng tích cực, tập trung nhiều hơn vào các mặt
hàng chế biến, chế tạo có giá trị và hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng cao hơn.
Năm 2019 được coi là năm đạt nhiều kết quả ấn tượng. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế
7,02% (năm thứ hai liên tiếp tăng trưởng trên 7% kể từ năm 2017), quy mô nền kinh tế
(GDP) đạt 262 tỉ USD, tổng giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu cán mốc 516,96 tỉ USD
trong đó xuất siêu 9,9 tỉ USD, tổng số vốn FDI đăng kí cấp mới và vốn tăng thêm đạt 38
tỉ USD (với 3.883 dự án cấp mới), số lượng khách du lịch quốc tế đạt mức 18 triệu lượt
(cao nhất từ trước tới nay).
– Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong thời gian tới:
Trong thời gian tới, tình hình thế giới và khu vực cịn nhiều diễn biến phức tạp, q trình
tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh. Các quốc gia tham gia ngày
càng sâu vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Xuất hiện nhiều hình thức liên kết
kinh tế mới, các định chế tài chính quốc tế, khu vực, các hiệp định song phương, đa
phương thế hệ mới. Trong khi đó, Việt Nam sẽ phải thực hiện đầy đủ các cam kết trong
Cộng đồng Kinh tế ASEAN và WTO, tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ
mới, hội nhập quốc tế với tầm mức sâu rộng hơn rất nhiều so với giai đoạn trước.
Nhằm phát huy những thành tựu đã đạt được trong hơn 30 năm tiến hành công cuộc đổi
mới và vươn tới mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội
dân chủ, công bằng, văn minh, Đảng và Nhà nước Việt Nam tiếp tục kiên trì thực hiện
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ
quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế với phương châm “Việt Nam sẵn sàng là bạn và là
đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hịa bình, độc

lập và phát triển”?.
Trong cuộc đối thoại giữa Việt Nam và WEF tháng 12 năm 2021, Thủ tướng Chính
phủ Phạm Minh Chính chia sẻ thẳng thắn quan điểm về sự phối hợp, hợp tác giữa
Chính phủ, các tỉnh thành của Việt Nam với các nhà đầu tư và kinh doanh khu vực và
toàn cầu. Thủ tướng nhắc lại những thông điệp Thủ tướng đã từng chia sẻ với các
doanh nghiệp, đó là tinh thần “Đồng cam cộng khổ”, “Lợi ích hài hịa, Rủi ro chia sẻ”,
“Hợp tác cùng thắng” (Win-win) giữa Chính phủ và doanh nghiệp trong giai đoạn hiện
nay. Đặc biệt, Thủ tướng đã đưa ra thơng điệp chính sách hết sức quan trọng, bao gồm
các biện pháp ngắn hạn và dài hạn, thể hiện cam kết và quyết tâm của Chính phủ Việt
Nam trong việc cải cách, chuyển đổi nền kinh tế và kiến tạo các cơ hội mới cho nền kinh


tế Việt Nam, cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước phát triển theo hướng bền
vững, bao trùm và sáng tạo.

Câu 11: Hãy chỉ ra các lợi thế phát triển quan hệ kinh tế quốc tế
của Việt Nam và những giải pháp khai thác.
(ĐCSVN)- Tại Hội thảo khoa học “Nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác, sử dụng và phát
huy các nguồn lực của nền kinh tế” tổ chức chiều 13/12, đại diện cho Viện, các tập đoàn
kinh tế, doanh nghiệp… đã có nhiều ý kiến đóng góp, đề xuất nhiều giải pháp thiết thực
nhằm khai thác tối đa các nguồn lực để thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội nhanh và bền
vững…
Dữ liệu – yếu tố quan trọng nâng cao hiệu quả các nguồn lực kinh tế
để chuẩn bị tốt dữ liệu phục vụ phát triển kinh tế, cần hệ thống các giải pháp đồng bộ,
trong đó trước mắt cần tập trung vào những giải pháp cơ bản như:Tham luận tại hội
thảo, đồng chí Trần Minh Tân, chuyên gia cao cấp, Ban Công nghệ Thông tin, Viện
Chiến lược Thông tin và Truyền thông nhấn mạnh: Trong mọi giai đoạn phát triển của
mỗi quốc gia, việc quản lý, khai thác, sử dụng và phát huy các nguồn lực của nền kinh tế
đều cần phải có dữ liệu. Phạm vi dữ liệu phục vụ cho phát triển kinh tế không chỉ đơn
thuần là những số liệu thống kê, mà quan trọng hơn, còn là các dữ liệu phục vụ cho việc

phân tích, dự báo, xây dựng các kế hoạch phát triển đất nước. Thời điểm hiện tại, thành
tựu của Cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0), chuyển đổi số đang dần được áp
dụng trên tất cả các lĩnh vực của cuộc sống và tác động sâu sắc tới hệ thống chính trị,
xã hội và kinh tế của các nước. Ở trọng tâm của quá trình chuyển đổi số, dữ liệu tiếp tục
là đòn bẩy quan trọng, tạo động lực cho tăng trưởng và quản lý kinh tế của mỗi quốc gia.
Thứ nhất: Kiến tạo thể chế, chính sách về dữ liệu.
Thứ hai, khai thác, sử dụng và tận dụng dữ liệu để kiến tạo phát triển kinh tế.
Thứ ba, thúc đẩy phát triển kinh tế dữ liệu và các doanh nghiệp dữ liệu.
Thứ tư, hợp tác quốc tế, trao đổi kinh nghiệm và đào tạo nguồn nhân lực.
Ứng dụng cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong ngành ngân hàng
Khai thác hiệu quả tối đa nguồn nhân lực lao động
Với thực tế của Việt Nam hiện nay, chúng ta khó hình thành những sản phẩm đột phá về
cơng nghệ so với thế giới nhưng chúng ta lại đang ở thời kỳ dân số vàng. Vì vậy, khơng
thể coi nhẹ ngành công nghiệp dệt may mà phải coi đây là ngành quan trọng trong vịng
vài chục năm tới vì sử dụng được số lượng lớn lực lượng lao động tay nghề đào tạo
ngắn hạn (dưới 3 tháng) nhưng lại có thu nhập cao hơn 2-3 lần lao động nơng nghiệp.
Vấn đề là phải tập trung đầu tư xây dựng công nghiệp dệt may đáp ứng được yêu cầu
cao của các hiệp định thương mại tự do mới là đi từ sợi để từng bước tham gia được cả
vào 4 công đoạn: thiết kế – sản xuất nguyên liệu – gia công – phân phối của ngành công
nghiệp dệt – may trong vòng 20-30 năm tới, giúp giải quyết được việc làm cho một số
lượng lớn lao động nông nghiệp chuyển đổi nghề. Do vậy, phải gắn phát triển công
nghiệp dệt – may với q trình cơng nghiệp hóa nơng nghiệp nơng thơn, gắn với q
trình đơ thị hóa nơng thơn Việt Nam.Đồng chí Lê Tiến Trường, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn
Dệt May Việt Nam cho rằng, với lĩnh vực Dệt May, quan niệm cho đây là một ngành giá
trị gia tăng thấp, sử dụng nhiều lao động nhưng thu nhập cũng thấp là chưa chính xác.


Nó mới chỉ xuất phát từ cách làm của chúng ta, chứ không phải là bức tranh chung của
dệt may thế giới. Vì trên thực tế hiện nay ngành dệt may vẫn tồn tại tại các nước phát
triển thu nhập gấp 10-15 lần Việt Nam như Pháp, Ý, Đức…cho các phân khúc cao cấp,

hàng hiệu. Nhưng tương đồng với Việt Nam là các quốc gia sản xuất quy mô lớn như
Trung Quốc, Ấn Độ thì dệt may vẫn được xác định là ngành kinh tế trọng điểm…
Dệt may cùng các ngành thâm dụng lao động đảm bảo hài hòa phát triển kinh tế xã hội
theo mơ hình tam giác phát triển: kinh tế – môi trường sống – an sinh phúc lợi xã hội.
Trong đó chú trọng việc quy hoạch hạ tầng cho lao động sống ổn định cả về văn hố –
tinh thần – giáo dục.
Trong q trình phát triển kinh tế, tất yếu là chúng ta phải có tác động vào hệ cân bằng
sinh thái – môi trường sống của con người. Vấn đề là sau đó chúng ta ứng xử thế nào.
Với dệt may, hiện nay vấn đề các địa phương lo ngại là nước thải khi sản xuất vải, tuy
nhiên không thể tiếp cận theo hướng có rủi ro thì khơng cho làm, mà nên quản trị rủi ro
theo pháp luật. Có quy định, có đánh giá cấp phép hoạt động và sẵn sàng đóng cửa nếu
vi phạm về mô trường. Đảm bảo công bằng trong cạnh tranh giữa doanh nghiệp tuân
thủ và doanh nghiệp vi phạm.
Phát huy vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong thực hiện Nghị quyết 39NQ/TW
Theo KS Lê Minh Chuẩn, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng Thành viên Tập đồn Cơng
nghiệp Than – Khống sản Việt Nam, Tập đồn Cơng nghiệp Than – Khống sản Việt
Nam (TKV), với đặc thù là doanh nghiệp Nhà nước có nhiệm vụ khai thác nguồn lực tài
nguyên, khoáng sản của đất nước và vai trò là một trong các trụ cột đảm bảo an ninh
năng lượng quốc gia, là công cụ để điều hành kinh tế vĩ mơ của Nhà nước càng có ý
nghĩa quan trọng hơn. Với tinh thần đó, Đảng uỷ TKV đã bám sát các mục tiêu và các
giải pháp Nghị quyết 39 đã đề ra, xây dựng kế hoạch, chương trình hành động và từng
bước triển khai hiệu quả, vừa khắc phục những tồn tại mà Nghị quyết đưa ra, vừa phát
triển sản xuất kinh doanh, bảo toàn và phát triển vốn Nhà nước, góp phần đảm bảo an
ninh năng lượng quốc gia.
Trong những năm qua, Đảng uỷ TKV đã chủ động xây dựng nhiều Nghị quyết, Chương
trình hành động tập trung lãnh chỉ đạo đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, quản lý, khai thác,
sử dụng và phát huy nguồn lực về tài ngun khống sản, trong đó nổi bật là các
chương trình trọng tâm như: Chương trình tái cơ cấu lại các doanh nghiệp; Chương
trình cơ giới hóa, tự động hố, tin học hố; Chương trình nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh; Chương trình tái cơ cấu lực lượng lao động, xây dựng đội ngũ cán bộ… và

đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Tính trong các năm gần đây, tốc độ tăng
trưởng tổng doanh thu bình quân 7,9%/năm; Năng suất lao động tăng 12%/năm; Thu
nhập bình quân của người lao động tăng 9,2%/năm…

Câu hỏi tự luận chương 2: Các học thuyết và
nguyên tắc cơ bản trong quan hệ kinh tế quốc tế
Câu 12: Hãy nêu và đánh giá ưu, nhược điểm của các học
thuyết cổ điển về thương mại quốc tế.
1.

Học thuyết trọng thương

Ưu điểm


tư tưởng chủ đạo của chủ nghĩa trọng thương cho rằng cần phải duy trì trạng thái thặng
dư thương mại, tức là xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu để mang lại lợi ích tốt nhất cho
một nước.
Nhược điểm
Nhược điểm của chủ nghĩa trọng thương là đã nhìn nhận thương mại như một trị chơi
có tổng bằng khơng (zero-sum game – nghĩa là lợi ích mà một nước thu được chính
bằng thiệt hại mà nước khác mất đi.) Hạn chế này đã được các lý thuyết của Adam
Smith và David Ricardo ra đời sau đó chỉ rõ và khẳng định thương mại là một trị chơi có
tổng lợi ích là số dương (positive-sum game –tất cả các nước đều thu được lợi ích.)
2.

Học thuyết về lợi thế tuyệt đối của Adam Smith

Ưu điểm



Khắc phục hạn chế của lý thuyết trọng thương đó là khẳng định cơ sở tạo ra
giá trị là sản xuất chứ khơng phải là lưu thơng.



Chứng minh thương mại đem lại lợi ích cho cả hai quốc gia.

Nhược điểm

3.



Khơng giải thích được hiện tượng chỗ đứng trong phân công lao động quốc tế
và thương mại Quốc tế sẽ xảy ra như thế nào đối với những nước không có
lợi thế tuyệt đối nào.



Coi lao độnglà yếu tố sản xuất duy nhất tạo ra giá trị, là đồng nhất và được sử
dụng với tỉ lệ như nhau trong tất cả các loại hàng hố.



Dùng lợi thế tuyệt đối chỉ có thể giải thích được một phần rất nhỏ trong mậu
dịch quốc tế ngày nay ví như giữa những nước phát triển và những nước
đang phát triển. Lý thuyết này khơng thể giải thích được trong trường hợp một
nước được coi là “tốt nhất” tức là quốc gia đó có lợi thế tuyệt đối để sản xuất
tất cả các sản phẩm hoặc một nước được coi là “kém nhất” tức là quốc gia đó

khơng có một sản phẩm nào có lợi thế tuyệt đối để sản xuất trong nước. Trong
những trường hợp đó, liệu các quốc gia có cịn giao thương được với nhau
nữa khơng và lợi ích mậu dịch sẽ nằm ở chỗ nào? hay lại áp dụng chính sách
bế quan tỏa cảng?

Học thuyết lợi thế so sánh của Ricardo

Ưu điểm


Gia tăng lượng hàng sản phẩm và hai nước xuất nhập khẩu cũng thu lợi nhiều
từ thương mại



sản lượng tiềm năng của thế giới sẽ lớn hơn nhiều trong điều kiện thương mại
tự do không bị hạn chế (so với trong điều kiện hạn chế về thương mại). Lý
thuyết của Ricardo gợi ý rằng người tiêu dùng ở tất cả các quốc gia sẽ được
tiêu dùng nhiều hơn nếu như khơng có hạn chế trong thương mại giữa các
nước.




So với lý thuyết về lợi thế tuyệt đối lý thuyết về lợi thế so sánh khẳng định một
cách chắc chắn hơn nhiều rằng thương mại là một trò chơi có tổng lợi ích là
một số dương trong đó tất cả các nước tham gia đều thu được lợi ích kinh tế.
Như vậy, lý thuyết này đã cung cấp một cơ sở hợp lý cho việc khuyến khích tự
do hóa thương mại và cho đến nay, lý thuyết của Ricardo vẫn chứng tỏ sức
thuyết phục khi thường được xem là vũ khí lập luận chủ yếu cho những ai ủng

hộ cho thương mại tự do.

Nhược điểm
Kết luận về thương mại tự do mang lại lợi ích cho tất cả là một khẳng định cịn nặng tính
chủ quann khi được rút ra từ một mơ hình đơn giản như ở phần trên. Mơ hình đơn giản
đó đi kèm với nhiều giả thiết phi thực tế:

1. Giả thiết về một thế giới giản đơn trong đó chỉ có 2 quốc gia và 2 loại hàng
hóa trong khi đó trên thực tế, có rất nhiều quốc gia và vơ số hàng hóa khác
nhau.

2. Giả thiết về chi phí vận tải bằng khơng giữa các quốc gia là sự bất hợp lý rõ
ràng.

3. Giả thiết về giá cả các nguồn lực sản xuất là ngang bằng nhau tại các quốc
gia khác nhau cũng không có tính thực tiễn. Đồng thời mơ hình cũng chưa đề
cập tới tỷ giá hối đoái, chỉ đơn giản giả định rằng cacao và gạo có thể trao đổi
với nhau theo tỷ lệ 1:1.

4. Giả thiết về các nguồn lực sản xuất có thể dễ dàng di chuyển giữa các ngành
sản xuất trong phạm vi một quốc gia là không phù hợp vì trên thực tế, trường
hợp đó khơng phải lúc nào cũng diễn ra.

5. Giả thiết về hiệu suất khơng đổi theo quy mơ, có nghĩa là việc chun mơn
hóa tại Ghana và Hàn Quốc khơng ảnh hưởng tới số lượng nguồn lực cần
thiết để sản xuất ra 1 tấn cacao hay 1 tấn gạo. Tuy nhiên, trên thực tế tồn tại
cả hai trường hợp hiệu suất tăng dần và hiệu suất giảm dần theo mức độ
chun mơn hóa. Khối lượng nguồn lực đòi hỏi để sản xuất một mặt hàng có
thể tăng hoặc giảm khi một nước chuyên mơn hóa vào sản xuất mặt hàng đó.


6. Giả thiết rằng mỗi nước có một lượng nguồn lực sản xuất không đổi và
thương mại tự do không thay đổi hiệu quả sử dụng các nguồn lực của từng
nước cũng là một hạn chế. Bởi vì giả thiết mang tính tĩnh này không cho phép
những thay đổi về số lượng nguồn lực sản xuất của một nước cũng như
những thay đổi về tính hiệu quả một nước sử dụng các nguồn lực của mình
khi thương mại tự do diễn ra.

7. Mơ hình cũng đã đưa ra giả thiết cho rằng khơng có tác động của thương mại
lên sự phân phối thu nhập trong phạm vi một nước.

Câu 13: Hãy nêu và đánh giá ưu, nhược điểm của học thuyết
tân cổ điển về thương mại quốc tế.
1. Bối cảnh ra đời của học thuyết Heckscher – Ohlin (H – O)


Eli Heckscher (vào năm 1919) và Bertil Ohlin (vào năm 1933) đã đưa ra cách giải thích
khác về lợi thế so sánh, chứng tỏ lợi thế so sánh xuất phát từ những sự khác biệt trong
mức độ sẵn có các yếu tố sản xuất. Học thuyết của hai ông xây dựng được gọi là học
thuyết Heckscher – Ohlin (H – O).

2. Đánh giá ưu nhược điểm
Ưu điểm thuyết H – O
Thuyết H – O đã góp phần lý giải thêm nhiều hiện tượng của quan hệ thương mại quốc
tế và được đánh giá là một trong các học thuyết có mức độ ảnh hưởng lớn trong kinh tế
học quốc tế, góp phần quan trọng trong việc giải thích cơ chế vận hành của nền kinh tế
thị trường.
So với thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo, thuyết H – o đã chứng tỏ rằng lợi thế so
sánh của một quốc gia không chỉ dựa trên sự khác biệt về năng suất lao động, mà rộng
hơn, nó dựa trên sự khác biệt trong mức độ sẵn có các yếu tố sản xuất (lưu ý rằng, mức
độ sẵn có ở đây là tương đối, một nước không thể dồi dào ở tất cả các yếu tố sản xuất,

mà có thể chỉ là một, hai yếu tố, còn lại lại thuộc về nước khác).
Chỉ với những giả thiết đơn giản và dựa trên khái niệm về mức độ dồi dào của các yếu
tố sản xuất, thuyết này không chỉ cho phép đưa ra dự đoán về cơ cấu sản xuất và
thương mại của các quốc gia, mà còn giúp cho việc nghiên cứu một loạt các vấn đề liên
quan đến giá cả các yếu tố sản xuất, tác động của sự tăng trưởng các yếu tố sản xuất
đến quy mô sản xuất và thương mại.
Học thuyết tạo tiền đề cho các học thuyết mới sau này ra đời tiếp tục giải thích về một
nền thương mại quốc tế hiện đại.
Nhược điểm thuyết H – O
– Cho đến những năm 50 của thế kỉ XX, địa vị của thuyết H – o đã gặp phải những thách
thức nghiêm trọng, khi kết quả của các cơng trình kiểm chứng thực tế của thuyết này
thường bị bóp méo bởi các yếu tố khơng hồn hảo trên thị trường, mà điển hình là cơng
trình của nhà kinh tế Mỹ Wassily Leontief (người đạt giải Nobel kinh tế năm 1973) –
thường được biết đến với tên gọi ngịch lý Leontief.
Nội dung chính của nghịch lí Leontief:
Trong những năm 50 của thế kỉ XX, Mỹ là nước giàu và dồi dào về vốn nhất thế giới.
Nhưng nghiên cứu của Leontief đã chỉ ra rằng, các mặt hàng xuất khẩu của Mỹ ít sử
dụng về vốn horn là các mặt hàng nhập khẩu. Điều này trái ngược với dự báo của thuyết
H – o. Kết quả nghiên cứu trên được gọi là nghịch lý Leontief.
Đã có nhiều nỗ lực để giải thích nghịch lý Leontief, nhưng cho đến nay chưa có cách giải
thích hồn tồn nào được chấp nhận, do đó nghịch lý Leontief vẫn tiếp tục tồn tại và
thách đố các nhà kinh tế. Một số cách lý giải cho nghịch lý Leontief:
+ Sai lầm đo lường. Leontief chỉ xem xét đến vốn vật chất, nhưng có thể Mỹ dồi dào
nhất về vốn con người.


+ Chính sách bảo hộ thương mại. Có thể Mỹ đã áp đặt rào cản thương mại lên các mặt
hàng nhập khẩu sử dụng nhiều lao động, còn các mặt hàng sử dụng nhiều vốn thì
khơng, nên các mặt hàng thâm dụng vốn này được nhập khẩu dễ dàng hơn.
+ Năng suất lao động của cơng nhân Mỹ. Có thể cơng nhân Mỹ có năng suất lao động

cao hơn nhiều so với công nhân các nước khác, nên về thực chất Mỹ là nước dồi dào
về lao động, không phải dồi dào về vốn.
Nghịch lý có thể xảy ra nếu có sự đảo ngược mức độ sử dụng các yếu tố giữa các
nước, ví dụ như sản xuất gạo ở Mỹ sử dụng nhiều về vốn, trong khi đó lại sử dụng nhiều
lao động tại Việt Nam.
+ Thương mại giữa các nước công nghiệp phát triển. Ngày nay, già nửa thương mại
quốc tế diễn ra giữa các quốc gia công nghiệp phát triển – những nước được coi là có
mức độ trang bị các yếu tố sản xuất tương đối giống nhau. Do đó, mâu thuẫn với giả
định của lý thuyết H – o, theo đó mức độ trang bị các yếu tố sản xuất giữa các quốc gia
là khác nhau.
– Ngoài ra, một giả định quan trọng của thuyết H – o là công nghệ sản xuất tại các quốc
gia là giống nhau. Điều này không sát với thực tế hiện nay. Bởi các nước công nghiệp
phát triển thường có cơng nghệ phát triển hơn các nước đang và kém phát triển. Những
khác biệt về cơng nghệ có thể dẫn tới sự khác biệt về năng suất lao động – yếu tố quan
trọng trong trao đổi thương mại quốc tế.

Câu 14: Hãy nêu nội dung và đánh giá các học thuyết mới về
thương mại quốc tế.
Hạn chế của học thuyết H – o đã dẫn tới sự ra đời của nhiều học thuyết mới từ
những năm 50 của thế kỉ XX, nhằm giải thích thực tiễn thương mại quốc tế một
cách đầy đủ và thoả đáng hơn, phù hợp hơn với nềíi thương mại quốc tế hiện đại.
Tuỳ theo cách tiếp cận mà các học thuyết mới về thương mại quốc tế có thể chia thành
các nhóm chính: học thuyết gắn với kinh tế quy mô, học thuyết liên quan đến sự biến đổi
công nghệ, học thuyết liên quan đến cầu, học thuyết liên quan đến chi phí vận chuyển,
học thuyết lợi thế cạnh tranh quốc gia.

1. Học thuyết găn với kinh tế quy mô
Khi thương mại quốc tế diễn ra giúp mở rộng thị trường, từ đó giúp các công ti cũng như
người tiêu dùng trở thành một phần của thị trường rộng lớn hơn. Mỗi nước có thể tập
trung vào sản xuất nhiều hơn một số sản phẩm khác biệt, rồi đem trao đổi lấy những sản

phẩm khác biệt khác từ các nước bạn hàng. Kết quả là các nước tham gia bn bán đều
có lợi.
Người được ví là “cha đẻ” của trường phái “Học thuyết thương mại mới” – Paul
Krugman (sinh năm 1953, người Mỹ), năm 1979 (khi mới 26 tuổi) đã đưa ra học thuyết
mới về thương mại so với các học thuyết trước đó. Thuyết này giải thích quan hệ
thương mại nội bộ ngành dựa trên lợi thế nhờ quy mơ, theo đó việc sản xuất hên quy
mơ lớn làm giảm chi phí sản xuất, do q trình chun mơn hóa đưa lại. Trong học
thuyết của mình, Paul Krugman dựa trên giả định người tiêu dùng quan tâm tới tính đa
dạng sản phẩm.


Học thuyết của Paul Krugman giải thích tại sao trao đổi hai chiều vẫn có thể diễn ra giữa
những nước mà hàng hóa của họ khơng phải mang tính bổ trợ nhau, mà lại là những
hàng hóa tương tự nhau (thương mại nội ngành) với sự tương đồng nhau về cơng nghệ
và nhân tố sản xuất. Ví dụ, trong ngành công nghiệp sản xuất xe ô tô, cả Nhật Bản và
Mỹ đều có lợi thế về vốn và cơng nghệ, tuy nhiên, hãng Toyota của Nhật Bản tập trung
vào thị trường xe dã ngoại (như Land Cruiser), trong khi hãng Ford của Mỹ lại chuyên
sản xuất xe gia đình đi đường trường (như Escape). Cả hai sẽ có lợi hơn nếu từng bên
tập trung vào chỉ một ngách hẹp mà nó đạt được hiệu quả cao nhất về quy mơ. Và cùng
bán ra những sản phẩm tương tự nhau, nhưng đáp ứng thị hiếu của những lóp người
tiêu dùng khác nhau (thể hiện việc người tiêu dùng quan tâm tới tính đa dạng của sản
phẩm trong cùng một ngành).
Việc giảm chi phí sản xuất nhờ quy mơ, do q trình chun mơn hóa đưa lại có thể
được thể hiện cụ thể hơn thơng qua ví dụ về tổ chức sản xuất theo mạng lưới toàn cầu
của các tập đoàn lớn. Ví dụ, trong tổ chức sản xuất theo mạng lưới tồn cầu của tập
đồn Toyota (Nhật Bản), các cơng ti con của Toyota được tổ chức theo chun mơn hóa
sản xuất. Mỗi đơn vị tập trung vào sản xuất chỉ một vài linh kiện, mà nó làm hiệu quả
nhất. Như vỏ xe ơ tơ có thể được sản xuất bởi Toyota Motor Malaysia; lốp xe được cung
cấp bởi Toyota Motor Thái Lan…, tuân theo cùng một tiêu chuẩn quốc tế của tập đoàn
Toyota. Và những thiết bị này được xuất khẩu tới các công ti con khác, để rồi được ghép

gộp lại thành sản phẩm của những dòng xe Toyota bán đi trên khắp các thị trường thế
giới. Sự phối hợp như vậy hiệu quả hơn rất nhiều so với việc mỗi đơn vị của Toyota tự
sản xuất ra mọi thiết bị mà nó cần.
Học thuyết của Paul Krugman được đánh giá là điểm sáng của kinh tế học hiện đại, khi
có cách tiếp cận hồn tồn mới so với các học thuyết cổ điển và tân cổ điển. Cùng với
thời gian, sự khác biệt về trình độ cơng nghệ, vốn, kĩ thuật… của các nước công nghiệp
phát triển đang dần được thu hẹp. Lợi thế so sánh trong nội bộ ngành công nghiệp
thường không rõ rệt, do vậy, lợi thế kinh tế nhờ quy mô đã thúc đẩy quá trình thương
mại quốc tế được tiến hành dưới dạng trao đổi hai chiều trong nội bộ các ngành, quá
trình trao đổi thương mại hai chiều khơng chỉ mang tính bổ trợ nhau mà đó là những
hàng hóa tương tự nhau, nhưng lại đáp ứng được thị hiếu của những người tiêu dùng
khác nhau. Ngoài ra, thuyết này cũng đã chỉ ra, lợi thế quy mô của các công ti tổ chức
sản xuất ở phạm vi toàn cầu cũng là một trong những nhân tố thúc đẩy mạnh mẽ các
dòng đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thương mại quốc tế.
Kinh tế quy mơ có thể gắn liền với tình trạng độc quyền và độc quyền nhóm khi một
hoặc nhóm các cơng ti có thị trường tiêu thụ rộng, có khả năng mở rộng quy mô sản
xuất ở nhiều nước, họ lớn mạnh lên và có khả năng thống trị một phần thị trường. Các
công ti này, với quy mô đủ lớn của mình, có thể tác động đến mức giá trên thị trường
(thường áp đặt ở mức giá cao) và thu lại lợi nhuận kinh tế cao. Quốc gia, nơi có cơng ti
độc quyền tổ chức sản xuất, thường cũng thu được phúc lợi xã hội cao, khi giúp giải
quyết việc làm cho người dân và thu được tiền thuế từ các cơng ti này. Do đó, chính phủ
các nước thường đưa ra những chính sách có lợi nhằm thu hút và tác động đến quyết
định lựa chọn địa điểm tổ chức sản xuất của công ti độc quyền tại chính quốc gia mình.

2. Học thuyết liên quan đến sự biến đổi công nghệ
Trong học thuyết của David Ricardo (nhà kinh tế học người Anh), thưong mại hình thành
do có sự khác biệt về năng suất lao động giữa các quốc gia. Sự khác biệt về năng suất
lao động đó có thể là kết quả của sự khác biệt về cơng nghệ sản xuất. Cịn mơ hình



thương mại của H – o, công nghệ được giả định là giống nhau giữa các quốc gia, tức
công nghệ được xem xét ở trạng thái tĩnh.
về thực chất, các học thuyết thương mại liên quan đến công nghệ cũng theo đuổi cách
tiếp cận của David Ricardo, nhưng điểm khác là trong các học thuyết đó sự khác biệt về
cơng nghệ không phải là tĩnh, tồn tại mãi mãi, mà đó chỉ là hiện tượng tạm thời, gắn liền
với một quá trình động và liên tục phát triển của thương mại quốc tế.
a) Thuyết khoảng cách công nghệ
Thuyết về khoảng cách công nghệ được Posner – nhà kinh tế học nổi tiếng người Mỹ
đưa ra vào năm 1961.
Thuyết này cho rằng, cơng nghệ ln ln thay đổi dưới hình thức ra đời các phát minh
và sáng chế mới, và điều này tác động đến xuất khẩu của quốc gia. Sau khi một phát
minh ra đời, một sản phẩm mới xuất hiện và trở thành mặt hàng có lợi thế tuyệt đối tạm
thời đối với quốc gia phát minh. Ban đầu hãng phát minh có sản phẩm mới giữ vị trí độc
quyền, và sản phẩm đó được tiêu thụ trên thị trường nội địa. Sau một thời gian, nhu càu
từ phía nước ngoài xuất hiện và sản phẩm bắt đầu được xuất khẩu. Dần dần, các nhà
sản xuất nước ngoài sẽ bắt chước công nghệ và sản phẩm được sản xuất ngay tại
nước ngồi. Khi đó, lợi thế so sánh về sản xuất sản phẩm này lại thuộc về các quốc gia
khác. Nhưng ở quốc gia phát minh một sản phẩm mới khác có thể ra đời và q trình
mơ tả ở trơn được lặp lại. Lưu ý, trong mơ hình này, sản phẩm chỉ được xuất khẩu nếu
như thời gian cần thiết để sản phẩm được bắt chước ở nước ngoài dài hơn thời gian để
xuất hiện nhu cầu về sản phẩm từ thị trường nước ngồi.
Ví dụ, Mỹ là quốc gia phát triển, xuất khẩu một lượng lớn các sản phẩm kĩ thuật cao và
công nghệ chế tạo. Tuy nhiên, các nhà sản xuất nước ngoài cũng cần nhập khẩu cơng
nghệ mới để có thể cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường trong nước và nước ngoài (kể cả
Mỹ), do họ có chi phí về nhân cơng thấp. Trong lúc đó, các nhà sản xuất của Mỹ lại tung
ra thị trường những sản phẩm và phương thức sản xuất mới hơn dựa trên sự cách biệt
về trình độ cơng nghệ vừa mới hình thành.
Lý thuyết trên lý giải cho hai dạng thương mại:
Thứ nhất, nếu như cả hai đều có tiềm năng cơng nghệ như nhau, thì vẫn có thể hình
thành quan hệ thương mại, bởi vì phát minh sáng chế trong chừng mực nào đó là một

q trình ngẫu nhiên. Vai trò tiên phong của một nước trong một lĩnh vực nào đó sẽ
được đổi lại bởi vai trị tiên phong của nước kia trong lĩnh vực khác. Dạng thương mại
này thường diễn ra giữa các nước công nghiệp phát triển.
Thứ hai, thương mại diễn ra ở các nước có trình độ phát triển khác nhau, khi một nước
vượt trội hơn về công nghệ so với nước kia. Khi đó nước thứ nhất thường xuất khẩu
những mặt hàng mới và phức tạp để đổi lấy những mặt hàng đã chuẩn hóa từ nước thứ
hai. Dần dần, các mặt hàng mới này trở nên chuẩn hóa, nhưng nhờ sự ưu việt công
nghệ nên nước thứ nhất lại cho ra đời các sản phẩm mới khác.
Đã có một số lý do được đưa ra lý giải cho hiện tượng một nước có thể tiến hành hoạt
động nghiên cứu và triển khai tốt hơn các nước khác:
– Sự khác biệt về thể chế, chẳng hạn công tác nghiên cứu và phát triển của một số
nước có thể được khuyến khích bởi những bộ luật thích hợp về phát minh sáng chế,
bản quyền, thuế…


– Một số nước có thể may mắn có được những nguồn lực thích hợp cho cơng tác
nghiên cứu và phát triển, như lực lượng hùng hậu các nhà khoa học và kĩ sư, nguồn tài
chính dồi dào…
– Tồn tại thị trường thích hợp với sản phẩm mới ngay trong nước. Thị trường đó
thường có quy mơ lớn và sức mua cao vì các sản phẩm mới thường được sản xuất với
chi phí rất cao trong giai đoạn đầu.
Những lý do trên cho thấy, dường như các phát minh sáng chế thường ra đời ở các
nước phát triển giàu có, các nước đang phát triển nếu có thì thường với số lượng ít.
b) Thuyết chu kỳ sống của sản phẩm
Thuyết do Raymond Vemon đưa ra năm 1966, sau đó được nhiều học giả phát triển và
ứng dụng trong nhiều lĩnh vực của khoa học kinh tế.
về thực chất, thuyết chu kì sống của sản phẩm chính là sự mở rộng thuyết khoảng cách
cơng nghệ. Các phát minh có thể ra đời ở các nước giàu có, nhưng điều đó khơng có
nghĩa là q trình sản xuất sẽ chỉ được thực hiện ở các nước đó mà thơi. Thuyết khoảng
cách cơng nghệ chưa trả lời được câu hỏi: phải chăng các hãng phát minh sẽ tiến hành

sản xuất các mặt hàng mới tại những nước có điều kiện thích hợp nhất (tài nguyên, các
yếu tố sản xuất). Raymond Vemon đã đưa ra thuyết mói, theo đó các nhân tố cần thiết
cho việc sản xuất một sản phẩm mới sẽ thay đổi tuỳ theo chu kì sống của sản phẩm đó.
Thuyết này cho rằng rất nhiều các sản phẩm trải qua một chu kì sống, bao gồm bốn giai
đoạn: giới thiệu, phát triển, chín muồi và suy thối. Với mỗi giai đoạn trên của sản phẩm
người ta sẽ xác định nó được sản xuất ở đâu:
– Giai đoạn giới thiệu: Đây là thời kì sản phẩm mới được phát sinh, chi phí triển khai
và phát triển sản phẩm cao, còn sản xuất độc quyền nên giá cao, sản lượng tiêu thụ ít,
thưomg mại diễn ra chủ yếu ở nước công nghiệp phát minh ra sản phẩm;
– Giai đoạn phát triển: Sản phẩm được hồn thiện tại nước cơng nghiệp phát triển.
Sản lượng sản xuất và tiêu thụ tăng mạnh, nhiều nhà sản xuất cùng sản xuất sản phẩm
tưomg tự, cạnh tranh tăng; nhà sản xuất lúc đầu xuất khẩu sản phẩm, sau tìm cách di
chuyển địa điểm sản xuất sang quốc gia có cùng mức sống và gần gũi về văn hóa;
– Giai đoạn chín muồi: Sản phẩm bị cạnh tranh mạnh, giá thành giảm, thị phần giảm,
lãi giảm. Sau khi cải tiến, thay đổi về mẫu mã, kiểu dáng, nhà sản xuất tìm mọi cách giới
thiệu, phát triển thị trường, sau đó di chuyển địa điểm sản xuất sang nước kém phát
triển hơn, nơi có chi phí đầu vào thấp hơn (như giá nhân công thấp…). Sản xuất ở nước
phát minh ra sản phẩm giai đoạn này bắt đầu sụt giảm. Cạnh tranh về nhãn hiệu
(thương hiệu) được thay thế bằng cạnh tranh về giá;
– Giai đoạn suy thoái: Sản phẩm chủ yếu chỉ còn tại thị trường các nước đang phát
triển. Nhu cầu về sản phẩm trong nước phát minh được đáp ứng bởi nhập khẩu từ các
nước đang phát triển và cơng nghiệp phát triển khác, do đó trong giai đoạn này, có thể
xảy ra hiện tượng “xuất khẩu ngược” từ chính các nước bắt chước cơng nghệ sang
nước phát minh. Đây cũng chính là giai đoạn các nước công nghiệp chấm dứt sản xuất
sản phẩm cũ trong nước và tập trung phát triển công nghệ mới cùng với việc phát minh
ra sản phẩm mới.


Raymond Vemon – nhà kinh tế học người Mỹ (1913 – 1999) xây dựng thuyết của mình
trong bối cảnh phần lớn các sản phẩm mới trên thế giới được phát minh ra và bán tại

Mỹ. Một nguyên nhân cơ bản dẫn đến vị thế thống trị của các công ti Mỹ trên phạm vi
toàn cầu vào những năm 60 của thế kỉ XX là việc các ngành công nghiệp của Mỹ không
bị tàn phá trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Như vậy, thuyết này giải thích tương đối rõ
cơ cấu thương mại quốc tế khi Mỹ cịn đóng vai trị thống trị thương mại thế giới. Nhưng
hiện nay thì khả năng thống trị về kinh tế của Mỹ đã yếu đi nhiều, Mỹ khơng cịn là quốc
gia duy nhất phát minh ra các sản phẩm mới trên thế giới. Các sản phẩm mới dường
như có thể xuất hiện bất kì nơi nào, khi các cơng ti tiếp tục tồn cầu hóa các hoạt động
nghiên cứu và triển khai.
Bên cạnh đó, ngày nay các cơng ti thiết kế sản phẩm mới và thực hiện việc cải tiến sản
phẩm rất nhanh chóng. Ket quả là sản phẩm nhanh chóng bị lạc hậu và các công ti tự
làm lạc hậu các sản phẩm hiện tại của mình bằng các sản phẩm mới. Điều này buộc các
công ti phải đồng thời đưa sản phẩm của mình tới nhiều thị trường khác nhau để có thể
nhanh chóng bù đắp chi phí nghiên cứu và triển khai trước khi lượng bán bắt đầu giảm
xuống. Thuyết chu kì sống của sản phẩm khơng thể giải thích được quan hệ thương mại
trong trường họp này.
Ngoài ra, thuyết chu kì sống của sản phẩm cịn bị thách thức bởi một thực tế, đó là ngày
càng có nhiều cơng ti khởi đầu hoạt động kinh doanh của mình bằng các giao dịch trên
thị trường thế giới. Nhiều công ti nhỏ cùng liên kết với các công ti trên các thị trường
khác nhau để phát triển các sản phẩm mới hoặc công nghệ sản xuất mới. Chiến lược
này tỏ ra đặc biệt có hiệu quả đối với các cơng ti nhỏ, và đây là cách để các cơng ti này
có thể tham gia được vào quá trình sản xuất và tiêu thụ quốc tế.

3. Thuyết thương mại liên quan đến cầu
Các thuyết được đề cập đến ở trên đều nhấn mạnh tới yếu tố cung. Tuy nhiên, sự khác
biệt về cầu cũng là cơ sở quan trọng dẫn tới thương mại quốc tế, đặc biệt là nền thương
mại quốc tế hiện đại.
Có hai hướng tiếp cận được đưa ra khi giải thích thương mại quốc tế liên quan đến cầu:
Thứ nhất, quan hệ thương mại giữa các nước được giải thích khi có sự đa dạng về nhu
cầu của các loại sản phẩm. Một nước không nên và cũng không thể tự sản xuất tất cả
các sản phẩm đáp ứng nhu cầu của cuộc sống. Mà cách thức hiệu quả nhất, đó là các

nước sẽ chun mơn hóa sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm mình có lợi thế, và nhập
về những sản phẩm bất lợi hoặc ít có lợi hơn trong sản xuất. Cách tiếp cận này có thể
được giải thích bởi thuyết của David Ricardo hay thuyết H – o.
Thứ hai, quan hệ thương mại quốc tế còn diễn ra bởi thương mại nội ngành. Đây là hoạt
động xuất khẩu và nhập khẩu đồng thời các sản phẩm về cơ bản là giống nhau (tương
tự). Chẳng hạn, Nhật Bản xuất khẩu ô tô sang Mỹ, đồng thời cũng nhập khẩu ơ tơ từ Mỹ.
Đe giải thích cho thương mại quốc tế nội ngành, vào năm 1961, nhà kinh tế học Linder
người Thụy Điển đã đưa ra lý thuyết Linder.
Lý thuyết Linder
Thuyết cho rằng yếu tố quan trọng dẫn đến thương mại quốc tế nội ngành là sự tương
đồng về sở thích và mức thu nhập của các quốc gia. Thơng thường thì những nhà sản


xuất trong nước có khả năng cạnh hanh cao trên thị trường nội địa, vì đây là thị trường
quen thuộc, hơn nữa khi tổ chức sản xuất trong nước họ khơng phải trả cước phí vận
chuyển và thuế quan. Để tối đa hóa lợi nhuận, các nhà sản xuất nội địa sẽ chọn những
sản phẩm có thị phần lớn nhất, đáp ứng sở thích của người tiêu dùng trong nước. Ban
đầu sản phẩm được làm ra chỉ nhằm thỏa mãn nhu cầu của thị trường trong nước, đến
một thời điểm nhất định, nhu cầu đối với sản phẩm đó từ thị trường bên ngoài sẽ xuất
hiện và sản phẩm bắt đầu được xuất khẩu. Thị trường xuất khẩu sẽ là những quốc gia,
nơi có sở thích và mức thu nhập tương tự như ở quốc gia xuất khẩu.
Mức thu nhập giữa các quốc gia càng giống nhau thì càng có nhiều cơ hội để mở rộng
thương mại nội ngành giữa các quốc gia đó với nhau.
Thuyết của Linder chỉ được áp dụng đối với thương mại hàng chế tạo. Còn thương mại
hàng nguyên liệu thô, sơ chế vẫn chủ yếu được giải thích bởi thuyết H – o. Thuyết
Linder có thể lý giải phần lớn thương mại quốc tế mang tính nội ngành và được tiến
hành giữa các nước cơng nghiệp phát triển với nhau. Tuy nhiên, trên thực tế có thể kể ra
nhiều trường hợp ngoại lệ đối với thuyết này, chẳng hạn những nước không theo đạo
Thiên chúa như Nhật Bản, Hàn Quốc lại là những nước xuất khẩu sản phẩm cây thông
Noen nhân tạo (đây là mặt hàng không được tiêu dùng ở thị trường trong nước).


4. Thuyết thương mại liên quan đến chi phí vận chuyển
Các thuyết thương mại quốc tế được đề cập trước đây đều đưa ra giả định chi phí vận
chuyển bằng 0. Tuy nhiên, phần này sẽ tính đến chi phí vận chuyển tác động tới thương
mại quốc tế giữa các quốc gia thông qua: tác động trực tiếp đến giá của sản phẩm, và
tác động gián tiếp vào phân bổ sản xuất trên quy mơ quốc tế.
Chi phí vận chuyển ở đây được hiểu là tất cả các chi phí bỏ ra để chuyển hàng hóa từ
nước này sang nước khác. Như vậy, chi phí vận chuyển sẽ bao gồm: cước phí vận tải,
cước bốc, xếp, dỡ hàng hóa.
Khi tính đến chi phí vận chuyển, sẽ khiến cho giá bán giữa nước xuất khẩu và nước
nhập khẩu chênh nhau (cụ thể là giá bán tại nước nhập khẩu sẽ tăng lên so với giá bán
mặt hàng đó tại nước xuất khẩu); mức chênh lệch giá này phải lớn hơn chi phí vận
chuyển thì mới có thể diễn ra hoạt động trao đổi hàng hóa quốc tế. Chi phí vận chuyển
khiến người tiêu dùng nước ngồi phải mua hàng hóa với giá cao hơn mức giá ban đầu
của hàng hóa khi bán tại thị trường nội địa, và làm giảm lợi ích từ thương mại quốc tế.
Chi phí vận chuyển cũng tác động gián tiếp tới thương mại quốc tế thông qua việc phân
bổ lại vị trí sản xuất của các ngành, theo hai hướng: nguồn lực đầu vào cho quá trình
sản xuất và thị trường đầu ra cho sản phẩm.
Một số ngành cần đặt gần với nguồn nguyên liệu đầu vào đế giảm chi phí vận chuyển, ví
dụ ngành khai khống phải có các nhà máy đặt gần các khu mỏ. Những ngành định
hướng theo nguồn lực đầu vào thường là những ngành mà chi phí vận chuyển ngun
liệu thơ cho sản xuất cao hơn nhiều so với chi phí vận chuyển sản phẩm cuối cùng của
ngành tới thị trường tiêu thụ.
Tuy nhiên, đối với một số ngành khác, các doanh nghiệp trong ngành thường đặt gần thị
trường tiêu thụ sản phẩm cuối cùng của doanh nghiệp; hoặc đặt gần các sân bay, bến
cảng để thuận tiện cho quá trình vận chuyển hay xuất khẩu sản phẩm. Những ngành có


×