Tải bản đầy đủ (.docx) (68 trang)

D m TRIT HC MAC LEIN BK k19

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (555.17 KB, 68 trang )

Câu 1: Chủ nghĩa duy vật và các hình thức của chủ nghĩa duy vật
1. 3 nội dung chính chủ nghĩa duy vật là gì ? các hình thức của chủ nghĩa duy vật, vì
sao chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa
duy vật?
a. Quan niệm về chủ nghĩa duy vật=> Là 1 trong những trường phái triết học lớn

trong lịch sử, bao gồm toàn bộ các học thuyết triết học được xây dựng trên lập
trường duy vật trong việc giải quyết các vấn đề triết học. Vật chất có trước và
quyết định ý thức vật chất là tính thứ nhất vật chất tinh thần là tính thứ 2, thừa
nhận minh chứng rằng bản chất và cơ sở một tồn tại trong giới tự nhiên và xã hội
là vật chất
Câu 1: Chủ nghĩa duy vật và các hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy vật?
- Khái niệm: Chủ nghĩa duy vật cho rằng giới vật chất, giới tự nhiên là cái có trước và


quyết định ý thức của con người, giải thích mọi hiện tượng của thế giới bằng nguyên
nhân vật chất. Chủ nghĩa duy vật có 3 hình thức cơ bản:
1. Chủ nghĩa duy vật chất phác: là kết quả nhận thức của các triết gia duy vật thời cổ

đại( tồn tại cở cả trong triết học phương đông (trong triết học Ấn Độ và Trung Quốc)và
phương tây(trong triết học hy lạp )) thừa nhận tính thứ nhất của vật chất nhưng đồng nhất
vật chất với một hay một số chất cụ thể của vật chất, coi đó là thực thể đâu tiên là bản
nguyên của vũ trụ và đưa ra những kết luận cịn mang nặng tính trực quan, ngây thơ, chất
phác.
#VD: Quan niệm của Talet xem vật chất( xem bản nguyên sự tồn tại) là nước, Hêraclit
xem vật chất là lửa, thuyết ngũ hành ở Trung Hoa, Đêmôcrit cho rằng vật chất là nguyên
tử. Trong triết học Trung Quốc là ngũ hoành ( kim mộc thủy hỏa thổ),..

Tuy còn nhiều hạn chế chủ nghĩa duy vật thời cổ đại về cơ bản là đúng vì nó lấy bản thân
vật chất của giới tự nhiên đề giải thích cho giới tự nhiên, nó khơng cậu nguyện vào vị
thần linh hay đấng sáng tạo nào để giải thích thế giới
2. Chủ nghĩa duy vật siêu hình: là hình thức cơ bản thứ 2 trong lịch sử của chủ nghĩa

duy vật, thể hiện khá rõ ở các nhà triết học tky XV đến tky XVIII mà điển hình là tky
XVII, XVIII , chúng ta lưu ý rằng đây là thời kỳ mà cơ học cổ điển và khoa học thực
nghiệm đạt đường thành công lớn ảnh hưởng sâu sắc đến nền triệt học,. Cho nên Chủ
nghĩa duy vật chịu sự tác động mạnh mẽ của tư duy siêu hình, cơ giới, nhìn thế giới như
một bộ máy khổng lồ mà mỗi bộ phận cấu tạo nên nó đều ở trạng thái biệt lập và tĩnh lại.
Tuy không phản ánh đúng hiện thực trong tồn cục, nhưng đã góp phần đẩy lùi thế giới
quan duy tâm, tôn giáo.

#VD: Thành công kỳ diệu của Newton trong nghiên cứu cấu tạo và thuộc tính của các vật
thể vật chất vĩ mô – bắt đầu tính từ nguyên tử trở lên. Bêcơn và các nhà duy vật Pháp tky
XVIII
3. Chủ nghĩa duy vật biện chứng: do C. Mác và ăngghen xây dựng vào cuối những năm
của tky XIX, sau đó được Lênin kế thừa và phát triển. Kế thừa tinh hoa từ các học thuyết
triết học trước đó và sử dụng triệt để thành tựu khoa học, chủ nghĩa duy vật biện chứng là
đỉnh cao trong phát triển chủ nghĩa duy vật, đã phản ánh hiện thực đúng như chính bản
thân nó tồn tại, là học thuyết về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển dưới hình thức
hồn bị nhất. Chủ nghĩa duy vật biện chứng là công cụ nhận thức và cải tạo thế giới.
Đây là hình thức cao nhất/ hồn hảo nhất.
? Câu hỏi có thể :



* So sánh sự giống nhau và khác nhau giữa 3 hình thức của chủ nghĩa duy vật
- Giống: Đều là chủ nghĩa duy vật và cho rằng bản nguyên của thế giới là vật chất, vật

chất là cái có trước và vật chất quyết định ý thức.

? Tại sao có thể nói chủ nghĩa duy vật biện chứng là hồn hảo nhất.

Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy
vật trong lịch sử. Với sự kế thừa tinh hoa của các học thuyết triết học trước đó và tổng kết
sử dụng thành tựu khoa học kỹ thuật đương thời để làm rõ các khái niệm phạm trù quy lật
của mình và có sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và khoa học giữa chủ nghĩa duy vật

và biện chứng, trước đó CNDV và phép biện chứng tách rời nhau. Cho niên triết học Mác
nói riêng và triết học nói chung khơng chỉ nhận thức thế giới, giải thích thế giới mà điều
quan trọng nhất là cải tạo thế giới. Cũng như CNDVBC khắc phục được hạn chế của 2
CNDV trước đó chủ là chủ nghĩa duy vật chất phát và chủ nghĩa duy vật siêu hình, phản
ánh đúng đắn hiện thực khách quan trong mối liên hệ phổ biến và sự phát triển. Toàn bộ
hệ thống quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng được xây dựng dựa trên cơ sở lý
giải một cách khoa học về vật chất, ý thức và mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý
thức. Với việc sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử C Mác đã chỉ ra được cái quy luật
hình thành, vận dộng và phát triển của xã hội và lịch sử lồi người. Chính vì vậy
Ăngghen đã khẳng định rằng giống như Đác Uyn trong khoa học tự nhiên đã tìm ra quy
luật phát triển của thế giới hữu cơ, Mác đã tìm ra được quy luật phát triển của lịch sử loài
người, Mác và Ăngghen đã chứng mình một cách khoa học rằng sự ra đời phát triển và

cũng như sự diệt vong của chủ nghĩa tư bản là tất yếu khách quan đồng thời thắng lợi của
chủ nghĩa cộng sản là 1 tât yếu khách quan.


Câu 2: Vai trò của chủ nghĩa Mác Lênin trong đời sống xã hội và trong sự nghiệp đổi mới
ở VN hiện nay.
Khái lược về triết học
Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới, về vị trí, vai
trị của con người trong thế giới ấy. Triết học nghiên cứu về các câu hỏi chung và cơ bản
về sự tồn tại, kiến thức, giá trị, lý trí, tâm trí và ngơn ngữ. Những câu hỏi như vậy thường
được đặt ra là vấn đề cần nghiên cứu hoặc giải quyết. Phương pháp triết học bao gồm đặt
câu hỏi, thảo luận phê bình, lập luận hợp lý và trình bày có hệ thống.

Nguồn gốc:
+ Ngồn gốc nhận thức: TH xuất hiện khi tư duy của con người của con người phát triển
đến 1 trình độ nhất định. Tư duy con người đạt đến trình độ khái quát hóa trừu tượng hóa
cao, chỉ khi đó con người mới rút ra được cái chung của vô vàn sự kiện riêng lẻ.
Triết học tri thức bao trùm là khoa học của mọi khoa học có
sứ mạng là mang trong mình nó mọi trí tuệ của nhân loại. Nhà triết học Talet cũng là nhà
hình học nhà tốn học, hay nhà triết học Pytago. Cho thấy rằng triết học và các khoa học
riêng lẻ có mối quan hệ chặt chẽ. Chính sự phát triển khoa học cụ thể góp phần hình
thành nên thế giới quan phương pháp luận khoa học.
+ Nguồn gốc xã hội: TH ra đời khi nền sản xuất xh có sự phân cơng lao động, xuất hiện
giai cấp có đối kháng đấu tranh giai cấp


Vai trò của triết học
Triết học Mác – Lênin là thế giới quan, phương pháp luận khoa học và cách mạng
cho con người trong nhận thức và thực tiễn
Các nguyên lý, phạm trù quy luật của Triết học Mác-Leenin giúp cho con người
định hướng trong tất cả mọi trường hợp (trong nhận thức và hoạt động thực tiễn)
Giúp con người khi bắt tay vào nghiên cứu và hoạt động cải biến sự vật bao giờ
cũng xuất phát từ một lập trường nhất định, thấy được phương hướng vận động chung
của đối tượng, xác định được sơ bộ các mốc cơ bản mà việc nghiên cứu hay hoạt động cải
biến sự vật phải trải qua, có được phương hướng đặt vấn đề và giải quyết vấn đề.
Chính ở đây thể hiện giá trị định hướng - một trong những biểu hiện cụ thể chức
năng phương pháp luận của triết học.
Thứ 2: Để có thể giải quyết hiệu quả các vấn đề cụ thể, phải luôn xuất phát từ

quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng . Cần tránh 2 thái cực sai lầm:
+ Nếu xem thường triết học thì sẽ sa vào tình thái mị mẫm tùy tiện dễ bằng lịng
với nhừng biện pháp cụ thể nhất thời, đi đến chỗ mất phương hướng, thiếu nhìn xa trơng
rộng, chủ đọng sáng tạo.
+ nếu tuyệt đối hóa vai trị của triết học thì sẽ sa vào chủ nghĩa giáo điều, áp dụng
một cách máy móc những nguyên lý, quy phạm, phạm trù chung của triết học mà khơng
căn cứ tình hình cụ thể


Thứ 3: theo tinh thần chủ nghĩa của triết học mác – leenin, mỗi nguyên lý chung
đều phải được xem xét theo quan điểm lịch sử; gắn liền với các nguyên lý khác, gắn liền
với kinh nghiệm cụ thể của lịch sử’.

#VD: Giải quyết vấn đề tôn giáo
Trong thực tế, việc giải quyết các vấn đề trong những năm đầu thời kỳ đổi mới ở
Việt Nam không nằm ở những vấn đề cụ thể, mà bắt nguồn từ những quan điểm lớn làm
cơ sở cho việc giải quyết những vấn đề cụ thể lúc bấy giờ chưa hoàn toàn rõ ràng, nhất
quán.
Đây chính là vấn đề của triết học và việc nghiên cứu, giải quyết những vấn đề về
quan điểm sẽ cung cấp cơ sở lý luận đúng đắn định hướng cho việc giải quyết một cách
có hiệu quả tất cả những vấn đề cụ thể. Đó là sự đóng góp vào việc giải quyết những vấn
đề rất thiết thực, cụ thể, bức bách của cuộc sống.
Tuy nhiên, kết luận của nghiên cứu triết học không phải là lời giải đáp trực tiếp, cụ
thể cho từng vấn đề cụ thể, mà là cơ sở cho việc xác định những lời giải đáp trực tiếp, cụ
thể ấy.

Triết học Mác – Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận khoa học và
cách mạng để phân tích xu hướng phát triển của xã hội trong điều kiện cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ hiện đại phát triển mạnh mẽ
Bản chất của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại là sự cải biến về
chất các lực lượng sản xuất trên cơ sở tri thức khoa học ngày càng trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp. Kết quả của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã đưa
loài người bước vào thế kỉ XXI với những vấn đề nhận thức mới rất cơ bản và sâu sắc.
Triết học Mác- Lê nin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận khoa học cách
mạng để phân tích xu hướng vận động, phát triển của thế giới trong bối cảnh tồn cầu
hóa.Thấy được mối liên hệ phổ biến, sự vận động, phát triển của thế giới mang tính quy
luật khách quan…
Chủ nghĩa Mac Lenin nói chung và triết học Mác lenin nói riêng là lý luận khoa

học và cách mạng soi đường cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong cuộc đấu
trinh giai cấp và đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng nhân loại.
Bước vào tky XXI, Triết học Mác – Lênin đóng vai trị rất qua trọng, là cơ sở lý
luận – phương pháp luận cho các phát minh khoa học, cho sự tích hợp và truyền bá tri
thức của khoa học hiện đại. Dù tự giác hay tự phát khoa học hiện đại phát triển phải dựa
trên TGQ và PPLDVBC
Cuộc CMKH và công nghệ hiện đại, xu thế quốc tế hóa, tồn cầu hóa cùng với
những vấn đề tồn cầu đang làm cho tính chỉnh thể của TG tăng lên, hợp tác và đấu tranh
trong xu thế cùng tồn tại hịa bình.
Tky XXI, trên TG vẫn tồn tại và phát triển trong mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn
giữa lợi ích của giai cấp tư sản với lợi ích của tuyệt đại đa số loài người đang hướng đến
mục tiêu hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Để thực hiện mục tiêu cao

cả đó, lồi người phải có lý luận khoa học và cách mạng soi đường. Lý luận đó chính là
chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung và triết học Mác-Lênin nói riêng.
Triết học Mác – Lênin là cơ sở lý luận khoa học của công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội trên thế giới và sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam.


Thứ 1: Đảng cộng sản luôn xuất phát từ thế giới quan phương pháp luận của triết
học Mác Leenin để thực hiện đổi mới ở VN. Nếu không trung thành và trên cơ sở của chủ
nghĩa Mác-Lênin để đổi mới tư duy, nhất là tư duy lý luận thì sẽ khơng có sự nghiệp đổi
mới thành cơng.
Thứ 2: Thế giới quan triết học Mác- Lenin giúp đảng cộng sản VN nhìn nhận rõ

con đường đi lên xá hội chủ nghĩa xã hội trong giai dodnaj mới, đánh giá đúng đắn bối
cảnh thế giới, các mối quan hệ quốc tế, xu hướng thời đại , thực trạng tình hình đất nước
và cocn đường phát triển trong tương lai.
Thứ 3: Triết học cung cấp phương pháp luận để giải quyết đúng đắn những vấn đề
đặt ra và phát sinh trong thực tiễn đổi mới ở VN hiện nay. Đòi hỏi Đảng phải ln qn
triệt ngun tắc khách quan tồn diện , lịch sử cụ thể, phát triển,… trong quá trình đổi
mới.
Trong bối cảnh CNXH hiện thực lâm vào thoái trào cần phải có 1 cơ sở TGQ,
PPLKH, CM để lý giải, phân tích sự khủng hoảng, xu thế phát triển của CNXH thế giới
và phương hướng khắc phục để phát triển.
Sự nghiệp đổi mới toàn diện ở VN tất yếu phải dựa trên cơ sở lý luận KH, trong đó
hạt nhân là phép BCDV. Cơng cuộc đổi mới tồn diện XH theo định hướng XHCN được

mở đường bằng đường lối tư duy lý luận, trong đó có vai trị của TH Mác – Lênin. TH
phải góp phần tìm được lời giải đáp về con đường đi lên CNXH ở VN, đồng thời qua
thực tiễn để bổ sung phát triển tư duy lý luận về CNXH.
Vai trò TGQ, PPL của triết học Mác – Lênin thể hiện đặc biệt rõ đối với sự nghiệp
đổi mới ở Việt Nam đó là đổi mới tư duy. Một trong những điểm nhấn của TGQ, PPL
triết học Mác – Lênin chính là vấn đề thực tiễn, đó là phương pháp biện chứng. Đó chính
là những yếu tố đã góp phần xây dựng lý luận về đổi mới, về con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội, về thời kỳ quá độ, về xây dựng kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa,
về mơ hình chủ nghĩa xã hội, về các bước, cách thức đi lên chủ nghĩa xã hội… đó chính
là thế giới quan mới của sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam.
Thế giới quan triết học Mác – Lênin đã giúp chúng ta đánh giá bối cảnh mới, đánh
giá cục diện thế giới mới, các mối quan hệ quốc tế, xu hướng thời đại, thực trạng tình

hình đất nước và con đường phát triển trong tương lai. Thế giới quan triết học Mác –
Lênin đã chỉ ra logic tất yếu của sự phát triển xã hội loài người là chủ nghĩa xã hội; chủ
nghĩa tư bản trước sau cũng sẽ được thay thế bởi một chế độ tốt hơn, công bằng hơn; con
người được phát triển toàn diện. Thế giới quan triết học Mác – Lênin đã giúp xác định
tính đúng đắn của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Nếu như thế giới quan triết học Mác – Lênin giúp chúng ta xác định con đường,
bước đi, thì phương pháp luận của triết học Mác- Lênin giúp chúng ta giải quyết những
vấn đề đặt ra trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực tiễn đổi mới hơn 30 năm
qua.
Bước vào thế kỷ XXI, những điều kiện lịch sử đã quy định vai trị của triết học
Mác– Lênin ngày càng tang. Điều đó đòi hỏi phải bảo vệ phát triển triết học Mác –
Lênin để phát huy tác dụng và sức sống của nó đối với thời đại và đất nước

Vì sao nói sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học?
Khái quát hiện thực xã hội, kinh nghiệm của phong trào công nhân và những thành tựu
của khoa học tự nhiên, nghiên cứu có phê phán những tư tưởng triết học trước đó, Mác và


Ăngghen đã sáng tạo ra triết học của mình, thực hiện một bước ngoặt cách mạng trong
lịch sử triết học. Điều đó thể hiện ở những nội dung sau đây:
- Triết học Mác ra đời lần đầu tiên đem lại cho giai cấp vô sản một hệ tư tưởng; một lý
luận dẫn đường thực hiện bước giải phóng giai cấp vô sản về mặt tinh thần. Mác cho
rằng, nếu trái tim của sự giải phóng nhân loại là giai cấp vơ sản, thì khối óc sự giải phóng
đó là triết học của giai cấp vô sản, là thế giới quan của nó. Triết học Mác là vũ khí lý luận
chung cấp cho giai cấp vô sản những công cụ nhận thức và cải tạo thế giới, cho nên Mác

viết: “giống như triết học tìm thấy ở giai cấp vơ sản là một vũ khí vật chất, giai cấp vơ
sản tìm thấy ở triết học là một vũ khí tinh thần”. Như vậy, với sự ra đời ở triết học Mác,
phong trào vơ sản đã có một bước ngoặt, từ chỗ là một phong trào tự phát, chưa có lý
luận, bị lệ thuộc vào tư tưởng, nó trở thành một phong trào tự giác, có lý luận và độc lập
về tư tưởng.
- Với sự ra đời của triết học Mác, lần đầu tiên thực tiễn trở thành phạm trù trung tâm của
triết học. Điều đó làm biến đổi tận gốc vai trò xã hội của triết học và khắc phục được
những thiếu sót căn bản của triết học trước kia. Trung tâm chú ý của triết học Mác không
chỉ là giải thích, mà cịn và chủ yếu là vạch ra con đường, những phương tiện cải tạo thế
giới bằng thực tiễn cách mạng. Đối với triết học Mác thì thực tiễn có vai trị quyết định
mọi sự phát triển xã hội, khoa học và cả triết học. Không một nhà triết học nào trước Mác
hiểu được vai trò quyết định của thực tiễn đối với lý luận và đối với toàn bộ lịch sử nhân

loại. Vì hạn chế đó, các nhà duy vật trước Mác đã rơi vào quan điểm duy tâm siêu hình
khi đề cập đến những vấn đề xã hội. Chủ nghĩa duy tâm phản ánh lợi ích của giai cấp
thống trị bảo thủ, cho nên nó xa rời thực tiễn, tách khỏi hiện thực, làm cho quần chúng
không thấy được những cơ sở vật chất của các quan hệ bóc lột.
Chỉ ra vai trị quyết định của thực tiễn, Mác và Ăngghen cũng ln nhấn mạng vai trị to
lớn của hoạt động tinh thần, của lý luận. Vì vậy hai ông đã phát triển học thuyết cân đối
về mối liên hệ giữa lý luận cách mạng và thực tiễn cách mạng. Lý luận cách mạng có vai
trị chỉ đạo thực tiễn, làm cho thực tiễn từ tự phát thành thực tiễn cách mạng, tự giác. Khi
lý luận cách mạng thâm nhập vào quần chúng sẽ đem lại cho họ những hiểu biết quy luật
của đời sống xã hội, hướng dẫn họ thực hiện một cách tự giác những nhiệm vụ của cuộc
đấu tranh thực tiễn, lúc đó trở thành sức mạnh vật chất.
Là thế giới quan và phương pháp luận của giai cấp vô sản, triết học Mác có sự thống nhất

sâu sắc giữa tính Đảng, tính cách mạng và tính khoa học. Triết học Mác là sự phản ánh
lợi ích của giai cấp vơ sản và nhân dân lao động; đồng thời nó là lý luận cho cuộc đấu
tranh của họ nhằm xóa bỏ mọi chế độ người bóc lột người, đưa nhân loại lên chủ nghĩa
cộng sản. Đó là tính Đảng, tính cách mạng của triết học Mác khơng đối lập với tính khoa
học của nó. Khi phản ánh lợi ích của giai cấp vơ sản và phục vụ cho cuộc đấu tranh vì
chủ nghĩa cộng sản, triết học Mác phản ánh đúng yêu cầu và những quy luật khách quan
của lịch sử.
Sự ra đời của triết học Mác cũng là sự sáng lập chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép
biện chứng duy vật. Đây là những hình thức cao của chủ nghĩa duy vật và phép biện
chứng, khắc phục những thiếu sót căn bản của triết học trước kia. Trước Mác chủ nghĩa
duy vật thì siêu hình, cịn phép biện chứng thì lại gắn với lập trường duy tâm, như vậy
chúng tách rời, thậm chí đối lập nhau, chỉ khi triết học Mác ra đời mới có sự thống nhất

giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng, tạo ra một triết học phát triển cao hơn về chất
so với trước đó.


- Sự ra đời triết học Mác cũng là sự sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đây là biểu
hiện rõ rệt nhất của cuộc cách mạng triết học do Mác và Ăngghen thực hiện. Chỉ khi chủ
nghĩa duy vật lịch sử xuất hiện thì chủ nghĩa duy vật nói chung mới trở thành triệt để. Nó
khơng chỉ khắc phục lập trường duy tâm về xã hội trong triết học trước đó, mà cịn là cơ
sở lý luận về phương pháp luận khoa học cho toàn bộ xã hội học, cho hoạt động thực tiễn
cách mạng của giai cấp cơng nhân và đảng của nó.
- Sự ra đời triết học Mác làm thay đổi căn bản tính chất của triết học, đối tượng và mối
quan hệ của nó với các khoa học khác. Truyền thống trước đó, triết học được coi là khoa

học của mọi khoa học, hòa lẫn hoặc tách rời với các khoa học cụ thể khác. Triết học Mác
khơng hịa lẫn vào các khoa học cụ thể mà cũng không tách rời chúng. Trong sự hình
thành và phát triển của mình, triết học Mác khơng chỉ dựa trên sự khái quát thực tiễn xã
hội, mà còn dựa trên sự khái quát của những thành tựu khoa học cụ thể (cả tự nhiên và xã
hội). Khoa học cụ thể cung cấp những tài liệu hết sức phong phú cho triết học Mác
nghiên cứu các quy luật chung nhất của hiện thực khách quan. Đồng thời triết học Mác
cung cấp những hiểu biết về các quy luật chung nhất của hiện thực khách quan sẽ giúp
cho các khoa học cụ thể nghiên cứu có hiệu quả các quy luật đặc thù.

Câu 3: Nguồn gốc, bản chất và kết cấu của ý thức a.
Nguồn gốc của ý thức:
Quan điểm CNDT: Ý thức là bản thể đầu tiên tồn tại vĩnh viễn, là nguyên nhân

sinh thành, chi phối sự tồn tại, biến đổi của toàn bộ TGQVC
- Quan điểm CNDVSH: Xuất phát từ TG hiện thực để lý giải nguồn gốc của YT; coi YT
cũng chỉ là một dạng VC đặc biệt, do VC sản sinh ra. Các nhà duy vật tầm thường thế kỷ
XVIII (Phôgtơ, ..) lại cho rằng “Óc tiết ra ý thức như gan tiết ra mật”.
-

- Quan điểm CNDBC: YT xuất hiện là kết quả của q tình tiến hóa lâu dài của giới TN,

của lịch sử TĐ, đồng thời là kết quả trực tiếp của thực tiễn XH – lịch sử của con ng
+ Ý thức có 2 nguồn gốc:

Nguồn gốc tự nhiên: có nguồn gốc từ bộ não con người và TGQ

Dựa trên những thành tựu mới của khoa học tự nhiên, các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác – Lênin đã khẳng định rằng, ý thức chỉ là thuộc tính của vật chất; nhưng
không phải của mọi dạng vật chất, mà là thuộc tính của một dạng vật chất sống và có tổ
chức cao nhất là bộ óc con người.
Bộ não người có cấu trúc đặc biệt phát triển,rất tinh vi phức tạp gồm 14 đến 15 tỷ
tế bào thần kinh, điều khiển các giác quan qua dây thần kinh để thực hiện các hoạt động
và quan hệ với thế giới bên ngồi. Và có bộ não người con người có ý thức chưa, phải có


thế giới khách quan tác động vaò bộ não người, con người tồn tại phải liên hệ thế giới,
thông quan thế giới, cho nên thế giới tác động vao não người. Thế giới khách quan tác
động lên các giác quan và truyền bộ não phân tich xử lý ở đó thơng qua q trình đó bộ

não ta mới có chât liệu phản ánh. Phanranhr là sự tái tạo những đăc điểm của dạng vật
chất này ở dạng vật chất khác trong quá trình tác động qua lại giữa chúng . Phản ánh
không chỉ cong người mà là của tất cả các dạng vật chất thể hiện ở nhiều trình độ khác
nhau: phản ánh vật lý hóa học là trình độ phản ánh thấp nhất rồi đến phản ánh sinh học
rồi đến phản ánh tâm lý và hình thức phản ánh cao nhất chỉ có ở con người là sự phản ánh
năng đống sáng tạo là
Như vậy, bộ óc phải có hoạt động chức năng sinh lý, thần kinh bình thường có khả
năng phản ánh thế giới khách quan khi con người tác động với thế giới. Thơng qua các
hình thức phản ánh của thế giới vật chất như phản ánh (vật lý, hóa học, sinh học, tâm lý,
sáng tạo). Ý thức là hình thức phản ánh đặc trưng cao nhất của thế giới vật chất chỉ có ở
con người. Đó là sự phản ánh sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc của con người.
Tóm lại, sự xuất hiện của con người và hình thành bộ óc của con người có năng

lực phản ánh thế giới khách quan là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Nguồn gốc xã hội: từ lao động và ngôn ngữ
Điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức là nguồn gốc xã hội, thể hiện ở vai
trị của lao động, ngơn ngữ và các quan hệ xã hội.
Trong quá trình lao động, con người tác động vào TGKQ, nghiên cứu những thuộc
tính, những quy luật vận động của nó, từ đó hình thành dần tri thức nói riêng và Ý thức
nói chung. Ý thức được biểu hiện thông qua ngôn ngữ
Ph. Ăngghen viết: “Đem so sánh con người với các loài vật người ta sẽ thấy rõ
rằng ngôn ngữ bắt nguồn từ lao động và cùng phát triển với lao động, đó là cách giải
thích duy nhất đúng về nguồn gốc của ngôn ngữ”. Ngôn ngữ là phương thức để ý thức
tồn tại với tư cách là sản phầm xã hội – lịch sử.
=> Lao động và ngôn ngữ là 2 yếu tố kích thích chủ yếu, làm chuyển biến dần bộ óc của

loài vượn người thành bộ óc con người và tâm lý động vật thành ý thức con người
b. Bản chất cuả ý thức
YT là sự phản ánh năng động, sáng tạo TGKQ vào bộ óc con người, là hình ảnh
chủ quan của TGKQ. YT thức là sự phản ánh sáng tạo, nội dung của YT do TGKQ quyết
định. YT phản ánh tương đối đúng đắn TGKQ và YT mang bản chất xã hội.
+ Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách: Ý thức là cái vật chất ở bên ngoài “di

chuyển” vào trong đầu của con người và được cải biến ở trong đó.
+ YT có đặc tính tích cực, sáng tạo gắn bó chặt chẽ với thực tiễn xã hội.
+ Sự phản ánh ý thức là q trình thống nhất trong việc trao đổi thơng tin giữa chủ thể và

đối tượng phản ánh cùng với mơ hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh

thần và chuyển hóa mơ hình từ tư duy ra hiện thực khách quan thông qua hoại động thực
tiễn để biến các ý tưởng phi vật chất trong tư duy thành các dạng vật chất ngoài hiện
thực.
+ Ý thức là hình thức phản ánh cao nhất riêng có của con người về hiện thực khách quan

trên cơ sở thực tiễn xã hội - lịch sử.
c.Kết cấu của ý thức


Các lớp cấu trúc của ý thức bao gồm tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí...
+ Tri thức là toàn bộ sự hiểu biết của con người thu nhận được thông qua hoạt động nhận


thức, là kết quả của quá trình con người nhận thức thể giới.Tri thức là phương thức tồn tại
của ý thức.
+ Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự nhản ánh tồn tại, là những cung bậc cảm xúc,

rung động của con người khi tác động với thế giới xung quanh.
+ Ý chí là những cố gắng, nỗ lực, khả nắng huy động mọi tiềm năng trong mỗi con người

vào hoạt động để có thể vượt qua mọi trở ngại đạt được mục đích đề ra
- Các cấp độ của ý thức bao gồm tự ý thức, tiềm thức và vô thức.
+ Tự ý thức là ý thức của chính bản thân con người về mối quan hệ của con người với thể

giới.

+ Tiềm thức là những hoạt động tâm lý diễn ra bên ngồi sự kiểm sốt của ý thức.
+ Vơ thức là những hiện tượng tâm lý không phải do lý trí điều khiển, nằm ngồi phạm vi

của lý trí mà ý thức khơng kiểm sốt được trong một lúc nào đó.
?

Liên hệ tính sáng tạo của ý thức trong hoạt động thực tiễn

Vấn đề "trí tuệ nhân tạo AI” (tiếng Anh: Artfficial lIrtelligence)
Cùng với sự phát triển của khoa học, ý thức của con người ngày cản xâm nhập vảo
tầng sâu của thể giới hiện thực bằng cách phát triển các sản phẩm trí tuệ nhân tạo AI, gần
nhận thức với cải tạo thế giới. Một trong những sáng tạo đó là con người ngày cảng sáng

tạo ra các thế hệ "người máy thông minh" cao cấp hơn giúp cho con người khắc phục
được nhiều mặt hạn chế của mình, Từ đó, khẳng định vai trị quan trọng của ý thức của
con người trong đời sống hiện thực. Để con người ln làm chủ trí tuệ nhân tạo cần có
chiến lược quan tâm, chăm lo phát triển con người toàn diện cả về thể chất và tinh thân.
Đặc biệt, quan tâm bồi dưỡng thể hệ trẻ có kiến thức, nắm vững khoa học - cơng nghệ
hiện đại, có tình cảm cách mạng trong sáng, ý chí vươn lên xây dựng đất nước giàu
mạnh.

Vận dụng ý thức:
Ý thức là sự phản ánh năng động sáng tạo của thế giới khách quan vào bộ não người,là
hình ảnh chủ quan của TGKQ, những hình ảnh trong não của chúng ta là hình ảnh khách
quan, bên ngoại là một bơng hoa thì bên khi phán ánh trong não chúng ta là khái niệm

bông hoa. Phản ánh năng động sáng tạo không phải là phản ánh một cách y nguyên như
hình ảnh vật lý hay như chụp hình soi gương. Mỗi người có điều kiện hồn cảnh khác
nhau,năng lực trình độ khác nhau, nhu cầu sở thích khác nhau, tâm lý tình cảm khác
nhau, nhiều khía cạnh như vậy khi sự vật đã được phản ánh vào não người , mỗi người
có một series những điều khác nhau nên nó được cải biến qua lăng kính chủ quan nên
hình ảnh đó là hình ảnh sáng tạo. Cuộc sống này ta thấy hiện thức như nhau nhưng cách
nhìn nhận của mỗi người , cách phản ánh của mỗi người, , cách nhận thức của mỗi người,
cách phản ánh của mỗi người khác nhau, cho nên tại sao có người thích văn học, có
người lại thích tốn học, có kẻ lại thích hóa học,…Sự vật hiện tượng bên ngoài tác động


vào nó, phản ánh năng động sáng tạo chứ khơng phải phản ánh y nguyên. Hiện nay có

nhiều khó khăn, khó khăn là tình trạng chung, mỗi thời kỳ khác nhau, nhưng trong khó
khăn lại có kẻ thành cơng, lại có kẻ giàu nhưng lại có kẻ nghèo , thất bại, mặc dù mỗi
người có thời gian như nhau mỗi người đều có 24h mỗi ngày, quan trọng trong thời gian
đó chúng ta suy nghĩ sắp xếp thời gian như thế nào để đạt được thành công. Rõ ràng hiện
thực như nhau phản ánh ở mỗi người ra ở mõi người rất khác nhay. Ví dụ một người bạn
của sinh viên năm 3 trường Nông Lâm bạn ấy rớt rất nhiều môn nhưng bạn ấy bắt đầu
kinh doanh làm khoai kén đến nhà hàng mời khơng người ăn xin đóng góp của những
người đó, xong đó bạn đó nghiên cưu phải làm món đó thêm gia vị gì, cắt hình khoai
lang sao cho đẹp,.. từ đó bạn ấy bắt đầu làm ăn kinh doanh, bạn ấy đã thành lập công ty,
lợi nhuận kinh doanh của bạn ấy đem lại lợi nhuận lên tới vài tỷ, tạo rất nhiều điều kiện
công ăn việc làm cho người dân, kiến thức quan trọng nhưng chưa phải là ưu tiên số một,
mặc dù điều kiện khó khăn nhưng bạn ấy dám nghĩ dám làm và bạn ấy để thành công.

Vậy tại cũng là sinh viên như nhau nhưng bạn ấy làm được nhiều điều thành cơng như
vậy . Thực tế khó khăn nhưng chúng ta có trí tuệ có sáng tạo thì có thể khó với người
khác nhưng có khi chính cái khó đó mới ló ra được cái khơng,. Cho nên chúng ta không
năng động sáng tạo, chúng ta suy nghĩ học để làm gì ăn chơi là chuyện chính chỉ học cho
cố cái bằng. Nhiều bạn như thế đi học đại học về bức ép nhờ cậy cha mẹ để đi kiếm việc
làm dùm cho mình, chúng ta đi học đại học 4 năm tiếp xúc với cái gọi là văn minh tiền
bộ nhất, vậy mà chúng ta học về lại ép cha mẹ đi xin việc làm cho mình, cha mẹ có gì đâu
họ quan hệ khơng có, năng động sáng tạo khơng có, chỉ một chút kinh nghiệm. Đó chính
vì chúng ta sai, chúng ta trì trệ quá, chúng ta học xong chỉ muốn lấy cái bằng, tại sao
chúng ta kiểm điểm bản thân đã làm được gì, khơng làm được gì cả vì vậy chúng ta phải
năng động sáng tạo.
Ý thức mang bản chất xã hội, là sản phẩm của xã hội chừng nào con người cịn tồn tại.

Mơi trường hoàn cảnh tạo nên chúng ta , nơi em sinh ra là vùng nông thôn ở tỉnh Phú
Yên , em quen với cuộc sống gắn với ruộng đồng, và bây giờ em học tập cuộc sống
thành phố . Sự chuyển đổi về mỗi trường hoàn cảnh làm cho bản thân em cũng thay đổi
cho nên em khi mới lên thành phố em cũng có phần hơi tự ti, khơng dám thể hiện mình,
em thu mình lại khổng dám giao lưu, phát biểu bài vì lúc đó em nghĩ hồn cảnh em
không giống như các bạn thành phố, họ ăn mặc sinh đẹp, giàu mình khơng xứng, bây giờ
đã là sinh viên 3 em nghĩ lại là em đã sai lầm, em hối hận, vì lên đại học rồi thì các bạn
như nhau phải khơng ạ, nhưng mình vẫn cịn chặng đường dài phía nên em sẽ cố găng
tích cực hơn. Nhiều đứa bạn em, không phải là em chê trách gì, nhưng các bạn ấy ở quê
thì rất là ngoan thành tích cao, nhưng khi lên thành phố các bạn ấy sa đà vào các cuộc vui
nhiều hơn, các bạn ấy không lo học hành, theo đuổi các bạn ấy chỉ muốn thỏa mãn bản
thân, khơng giữ được mình tham gia cờ bạc banh bóng, tham gia vào vũ trường,…nói

một cách tế nhị là ánh sáng phồn hoa đơ thị làm khơng ít người lóa mắt, mơi trường thay
đổi chóng vánh nhưng chúng ta khơng có tri thức khơng có sự hiểu biết đúng đắn, khơng
xác định được mục tiêu. Là một người sinh viên , là tương lai của đất nước chúng ta phải
thực sự học tập rèn luyện bản thân, không phải cứ ngồi chơi game từ đêm này đến đêm
khác, hay suốt ngày chỉ có suy nghĩ đến tình u, vì chỉ có như vậy chúng ta mới có tri
thức có tình cảm đúng đắng, có ý chí nghị lực vượt qua những mục tiêu , ý tưởng của bản
thân, chúng ta sống mà khơng có hồi bão thì có phải là con người trong xã hội hiện đại,
có phải là con người bình thường hay khơng. Khi mơi trường hồn cảnh thay đổi, chúng
ta phải làm gì để khơng đánh mất mình, đồng ý là chúng ta có học có chơi, như các nhà
triết học cổ điển như Mac cũng có nhiều khi uống rượu cũng ăn chơi đây chứ , vì họ
cũng là con người, chúng ta phải biết đâu là ưu tiên số 1 của mình, nếu chúng ta xác định
sai thì cũng ta sẽ thất bại, Chúng ta xuất thân từ nông thơn, có thể là xuất phát điểm của

chúng ta là thấp nhưng như vậy đừng lấy đó là lý do cho sự yếu kém của mình vì mơi
trường đại học là nơi cân bằng các bạn đều xuất phát điểm như nhau, chúng ta cần phải


bứt phát trong tương lai. Mỗi người đều có hồn cảnh khác nhau, năng lực khác nhau, sở
thích sở trường khác nhau, như vậy chúng ta đừng lấy ý chí chủ quan của mình áp đặt
lên người khác vì ý thức là sự phản ánh năng động sáng tạo, là hình ảnh chủ quan của
TGKQ, nói như vậy nhiều người mắc phải điều này như trong gia đình, bố mẹ áp đặt cho
chúng làm những điều mà họ nghĩ là tốt nhưng trong thời đại mới thì điều đó chưa chắc
là đúng vì chúng ta khơng nên áp đặt người khác. Bà Bác em làm kênh youtube về ẩm
thực rất hay rất thú vị và bà nổi tiếng,và câu hỏi đặt tại sao tầng lớp trẻ như chúng ta là
những người có ước mơ hồi bão, tiếp cận với thứ xu hướng mới nhất của thế giới tại sao

bà ấy làm được mà chúng ta không. Bản thân mỗi người đều có đam mê rất nhiều, lý
tưởng rất nhiều, hồi bão rất nhiều, em rất ham mê chơi game như sau nhiều trận thắng
trận thua trên game như thế, em nhìn lại suy ngẫm liệu việc chơi game như vậy có đem
lại kiến thức có liên quan đến nghề nghiệp chun mơn của mình sau này khơng, em
kiểm điểm và quyết định từ bỏ ham muốn của bản thân. Trong điều kiện hay nay có thể
có thể kiếm được tiền tỉ nhờ việc đánh game rất xuất chúng đỉnh cao, nhưng em nhìn
nhận mình cao nhất chỉ có thể hạng tầm trung là ghê rồi, cho nên em tập trung vào ưu
tiên, và ưu tiên số 1 là ngành nghề của em.
Ý thức chỉ đạo con người trong hoạt động thực tiễn
Tại sao chúng ta đăng ký vào ngành ấy của trường ấy , chứ không phải ngành này của
trường khác, tại sao không phải là ngành khác? Ý thức chỉ đạo, trước khi đăng ký chúng
ta tìm hiểu thơng tin trường ấy như thế nào, ngành ấy như thế nào, tìm hiều những người

đã được đào tạo, tìm hiểu từ những người có kinh nghiệm như thầy cơ giáo, sau khi xem
xét đầy đủ, em xem những nghành em rất thích nhưng nhu cầu thị trường có cần hay
khơng, mình chưa học mà đã biết mình cầm tấm bằng thấp nghiệp vậy có vấn đề hay
khơng, nhu cầu của chúng ta vào nganh đấy nhưng nhu cầu của xã hội khơng có , cuối
cùng chúng ta khơng có cơ hội việc làm khơng có cơ hội phát triển, vậy thì chúng ta có
nên học hay khơng chúng ta có nên điều chỉnh nhu cầu nguyện vọng của chúng ta hay
khơng,… Sau khi xem xét hết rồi, phân tích nhu cầu, trình độ , sở thích , năng lực của
mình thì em đăng ký ngành Tự đọng hóa của trường Bách Khoa, .. Sau khi vào trường
em nhìn thấy cơng ăn việc làm rất khắc nghiệp, các sinh viên như chúng ta học ở trên lớp
là bạn bè, nhưng khi xin việc chúng ta là đối thủ của nhau,… Sinh viên của chúng ta là đi
kiếm công ăn việc làm, chứ không phải là tạo ra công ăn việc làm cho kẻ khác đến xin
mình, đấy cho nên phong trào khởi nghiệp ý nghĩa như vậy. Cho nên khi vào trường

chúng ta biết phía sau nó khốc liệt như vậy, thì chúng ta phải óc như thế nào, có nhiều
bạn nghĩ rằng chỉ tập trung vào chuyên môn cơ sở ngành thôi, mấy môn phụ không quan
trọng , nhận thức như vậy là sai ngay từ điểm xuất phát , có bạn thì nghĩ rằng học là phụ
chơi là chính , cần gì phải học , thằng học xong xin được việc làm có tốt đâu, thằng học
kém sau này trở thành thằng thành đạt, suy nghĩ như vậy là sai rồi, có vấn đề. Chúng ta
biết rằng cuộc cạnh tranh sau này nó rất khốc liệt trong tương lai vậy chúng ta phải học
như thế nào, chúng ta đâu thể tập trung vào kiến thức chuyên môn hay chuyên ngành, các
kiến thức cơ bản rất quan trọng vì nó trang bị cho chúng ta những kiến thức kỹ năng cần
thiết. Trong điều kiện hiện nay chúng ta chỉ có kiến thức chun mơn thì đủ chưa, chúng
ta khơng chuẩn bị cơng cụ ngoại ngữ cho mình , chúng ta khơng tập trung kỹ năng mềm
cho mình, như kỹ năng giao tiếp , ứng xử như nào, thuyết trình như nao, liệu chúng ta có
cơng ăn việc làm tốt cho tương lai hay khơng thì mới thấy rằng mấy bạn nghĩ học đại

học nhàn hơn học ở phổ thông mới là đứa nói bậy , rất la sai, bởi vì học đại học chủ yếu
là do mình, tự học là chính, học ở trường là cái phụ thơi, học ở nhà là không chỉ tập
trung vào chuyên môn mà tập trung vào các kỹ năng mềm, hãy trải nghiệm đi. Ra trường
ielt 6.0 7.0 , kỹ năng rất tốt , chun mơn cao, thì cơng việc chúng ta dễ dàng như thế
nào. Chính vì vậy ý thức chỉ đạo hướng dẫn chúng ta trong hoạt động thực tiễn là như


vậy, chúng ta phải xác định duợc hiện tại như vậy, tương lai ra sao, thông qua hoạt động
thực tiễn thể hiện sự tác động cảu ý thức đối với vật chất.
Ý thức có tác động tiêu cực hay tiêu cực. Ý thức đúng , nếu chúng ta xác định học tập
đúng, không chỉ là kiến thucwsc chuyên môn mà còn là kiến thức xã hội , hành động của
chúng ta dành cho học tập không chỉ là học tập trên lớp, ở nhà như thế nào, hoạt động

thực tiễn như thế nào, chúng ta sẽ có tương lai rộng mở nếu có ielts , kỹ năng. Nhưng mà
ý thức sai , chúng ta nghĩ rặng học là phụ thôi , yêu đương là chính, nhiều bộ phận sinh
viên lại tranh thủ đi làm thêm , thời gian đi làm cịn nhiều hơn đi học, nhận thức như vậy
có sai hay không, chắc chắn là sai ý thức sai hành động sai, và cuối cùng ra trường có
tấm bằng nhưng chúng ta cso phát triển được tấm bằng hay không , tri thức năng lực có
bằng tấm bằng hay khơng. Cố thủ tướng Lý Quang Diệu có 1 câu rất hay “ hỡi thanh niên
hãy bán cho tôi một năm tuổi trẻ tôi sẽ trả cho bạn một tỷ đô xanh” chúng ta bán những
năm tuổi trẻ nhưng đáng tiếc nhất đó lại là những năm tuổi thanh xuân đẹp nhất , tuyệt
vời nhất trong thời kỳ sinh viên, chúng ta bán rẻ nó để kiếm một vài triệu một tháng
trong lúc đi học, em khơng nói những trường hợp cá biệt, gia đình khó khăn khơng có
tiền, phải đi làm thêm vừa học vừa làm, em nói những bạn được bố mẹ chu cấp tiền
nhưng vẫn đi làm thêm, thời gian làm thêm nhiều hơn thời gian học , cacs bạn đánh rơi

mất, lãng phí nhất những năm đẹp nhất của cuộc đời, đáng lẽ chúng ta phải phát triển trí
não trí tuệ, phải có não 6 múi, cho nên chúng ta thấy đây ý thức sai, dẫn đến hành động
sai và cuối cùng thất bại. Cho nên hãy hành động cho đúng đừng bán rẻ nhưng năm
tháng học tập. Từ chỗ suy nghĩ đúng hành động đúng nó dẫn đến thành công, thành công
là ở tương lai, nhưng chắc chắn thành cơng đó nó được tạo trên nền tảng của hiện tại và
quá khứ. Ý thức mà sai hành động sai, chúng ta làm thêm , chơi game, lô đề cờ bạc nhất
định chúng ta sẽ thất bại.
Phân tích sự khác nhau giữa trí tuệ con người với trí tuệ nhân tạo
Liên hệ đến bản thân vận dụng ý thức vào học tập của sinh:
Thực trạng sinh viên hiện nay
Vận dụng ý thức đúng và sai
Sinh viên là thế hệ tương lai của đất nước, là người được học trong môi trường giáo dục

bậc cao, được tiếp cận với văn minh của nhân loại, nắm bắt xu thế của thế giới . Trong
cuộc cách mạng mới 4.0 của nhân loại, sinh viên chúng ta là người đừng đầu, phải nắm
bắt xu hướng nắm, bắt cơ hội, nổ lực tích cực năng động sáng tạo. Thế nhưng thực sinh
viên hiện nay, các bạn đa phần đều thụ động tức là tiếp thu kiện thức thụ động ở trên
trường không học hỏi thêm từ bên ngoài như là sách vở, kiến thức đợi sống,các bạn ủy
nại, không giảm khẳng định mình, cịn tệ hơn nữa nhiền bạn suốt ngày chơi game từ ngày
này qua ngày khác, một số thì say đắm vào niềm vui của bản thân như những cuộc nhậu,
cờ bạc, tình yêu trai gái,.. các bạn chìm đắm vào nó khơng thốt ra được. Bản thân em là
một sinh viên xuất thân từ vùng nông thôn, nơi mà cuộc sống khá n bình, ban đêm thì
khơng có đèn, khi lúc đầu vơ sài gịn bắt đầu học ở ngôi trường Bách Khoa thân yêu này,
em thực sự mà nói rất chồng ngợp cuộc sống trên này rất khác, môi trường thay đổi, như
thành phố không ngủ, tiếp xúc với nhiều người, nhiều khi em nhìn bản thân em khá là tự

ti vì lục đó em có vẻ ngồi khơng được như các bạn, và trong học tập vì học ở môi trường
xưa em bị ảnh nặng nề tư tưởng dạy đâu học đó tức là em khơng có sự chủ động, học
xong thì em cũng chỉ ngồi chơi game và sau kỳ 1 năm nhất em nhận được thất bại, em rớt
4 tín chỉ, lúc đó thật sự em rất buồn, xuất thân của em cũng không phải là một gia đình
khá giả về tiền chỉ có tình cảm dồi dào mà bố mẹ dành cho em,’Ráng học nha con’. Sau


khi học khoảng một hai năm, em dắt đầu mới nhận ra nhận thức của mình lúc đó thật là
thiển cận, khơng có cái nhìn đúng đắn, em bắt đầu thay đổi chiến lược, nguyên tắc và
cách thức học tập và em đã tự tin hơn, chủ động, tích cực giao lưu với các bạn mới, nhìn
nhận mọi thứ một cách khách quan và trong học tập em đã cố gắng sắp xếp thời gian hợp
lý, học tập một có chủ đích, ngồi việc học ở trường em cũng bắt đầm tìm hiểu thêm

những kiến thức phụ cho nghề nghiệp tương lai của mình, dĩ nhiên là em thành tích học
tập của bản thân em đã tốt hơn. Trong thời đại cách mạng hóa 4.0, em sẽ cố gắng hết
mình tích cực sáng tạo trở thành một người có ích cho xã hội đóng góp vào q trình
cơng nghiệp hóa hiện đại hóa của đất nước. Đó là những chía sẽ về ý thức tác động đến
thực tiễn đời sống của em. Hiện nay, em có thấy nhiều người bạn của em từ quê lên thành
phố bị ánh sáng phôn hoa đơ thi làm khơng ít người lóa mắt. Các bạn chỉ nghĩ rằng học
tập trên Đại Học cho có để lấy cái bằng, cịn ăn chời là chuyện chính, suy nghĩ như thế
thật sự rất sai lầm, chắc chắn sau này các bạn ấy sẽ thất bại, các bạn ấy không lo học tập
rèn luyện, khi tốt nghiệp rồi thì lại khơng có việc quay qua trách bố mẹ “ngày xưa bắt con
ăn học làm gì, lấy chồng cho rồi” , “giờ con khơng có việc làm ,bố mẹ tìm việc làm cho
con đi”,… Eo ơi thật sự sai lầm, sai lầm ở đây chính ở ngay giảng đường đại học này các
bạn không lo học tập suốt ngày vui chơi đàm đúng. Chính mơi trường đại học này chính

là cơ hội để các bạn phát triển, phát triển nhận thức, phát triển tư duy sáng tạo, phát triển
khả năng giải quyết vấn đề,…đó chính mơi trường này là thời gian quý giá nhất của các
bạn, đừng để sàu này phải hồi tiết. Mỗi sinh viên chúng nên nhìn nhận ,ý thức được bản
thân đang ở đâu trên xã hội này, biết được khả năng của bản thân và phát triển bản thân,
đừng để bị thụt lùi, đất nước này đang chờ các bạn , những con người làm chủ ddataast
nước trong tương lai. Chúng nên xây dựng kế hoạch học tập phù hợp với khả năng của
mình ,rèn luyện sức khỏe, ý thức được việc tự học là chính phải tích cực năng động kiến
thức chuyên ngành , học thêm về Anh Văn,.. và đừng để thời gian ăn chơi nhiều quá,
nhiều bạn sinh viên hiện nay đi làm thêm, nhưng thời gian làm thêm nhiều hơn cả thời
gian học trên trường lớp, đồng ý là các bạn muốn kiếm thêm tiền nhưng các bạn phải biết
đâu là ưu tiên số 1, em khơng nói đến các bạn có hồn cảnh gia đình cực kỳ khó khăn,
khơng chu cấp được việc học của mình, các bạn nên xác định rõ việc học tập trên Đại học

để làm gì, đừng để thời gian trôi qua mà sau này hối hận, chỉ 4 năm cuộc đời thơi, nhưng
nó quyết định đến phần đời còn lại của các ban.Thế nên đừng dừng lại hãy tiếp tục sáng
tạo tư duy, hiện nay có phần lớn sinh viên việt nam thiếu khả năng sáng tạo, mỗi Một
kết quả nghiên cứu gần đây về tính sáng tạo của sinh viên ở một trường đại học lớn của
Việt Nam cho biết trong một mẫu điều tra khá lớn gồm hàng ngàn sinh viên, chí có
khoảng 20% sinh viên đặt hoặc vượt mức sáng tạo trung bình của tụ giới. Như vậy có tới
80% sinh viên có tính sáng tạo thấp hơn mức trung bình. Đây là một thông tin sét đánh,
buộc các nhà giáo dục học phải nghiêm túc xem lại phương pháp, chương trình, cách tổ
chức dạy và học trong các trường đại học của Việt Nam. Không chỉ ở phần hết là do trên
trường đâu, là do sinh viên chúng ta khơng tích cực chủ động sáng tạo trong học tập, áp
dụng những gì học được trên trường đưa ra thực tiễn. Sáng tạo là một bản chất quan trọng
của ý thực, chúng ta làm chủ trí tuệ nhân tạo nhờ việc sáng tạo ra đó. Sáng tạo thúc đẩy

đất nước chúng ta phát triển, như anh Nguyễn Nam Trung phát triển ra game Axie làm
thế giời khuynh đảo bởi sự sáng tạo của anh trong việc xây dựng tiền ảo trong game, và
anh đã là tỷ phủ công nghệ đầu tiên ở tuổi 30. Đó chính là sáng tạo của tri thức, đỉnh cao
của ý thức. Thế nên, chúng ta nên học tập, tích cực, chủ động, sáng tạo, theo đuổi mục
tiêu , ước vọng khát vọng của mình và nhất định chúng ta sẽ thành công trong cuộc sống


Câu 4: Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập (quy luật mâu thuẫn)
Quy luật chỉ ra nguồn gốc vận động, phát triển chung của sự vật hiện tượng trong
thế giới, là hạt nhân của phép biện chứng duy vật, đối với quy luật này chúng ta phải nắm
được 1 loạt các khải niệm, phạm trù.
Mặt đối lập là những măt, những yếu tố,... có khuynh hướng, tính chất trái ngược

nhau. (VD đen trắng, lên xuống) đồng thời là điều kiện tiền đề tồn tại của nhau.
Hai mặt đối lập liên hệ với nhau thì tạo thành một mâu thuẫn biện chứng. (VD:
Nguyên tử, thầy trò) Mối liên hệ này sự thống nhất , đấu tranh và chuyển hóa giữa các
mặt đối lập hoặc sự vật hiện tượng với nhau
Ví dụ : mối liên hệ thóng nhất đấu tranh và chuyển giữa q trình đồng hóa và dị hóa.
Q trình đồng hóa là q trình nạp năng lượng là quá trình tổng hợp chất sống đặc trừng
của cơ thể đồng thời tích lũy năng lượng, cịn dị hóa là q trình phân hủy một phần các
chất sống trong cơ thể thành các sản phẩm đơn giản đồng thời và giải phịng năng lượng
như q trình oxihoa, chuyển hóa các chất hữu cơ phức tạp để sinh ra năng lượng cung
cấp cho tất cả hoạt động sống của cơ thể, đồng hóa và dị hóa thống nhất với nhau , nó đấu
tranh với nhau nó chuyển hóa lẫn nhau trong q trình hóa chuyển hóa vật chất trong cơ
thể. Trong mỗi tế bào, chúng luôn luôn xảy ra đồng thời và liên quan mật thiết với nhau,

nghĩa là trong tế bào vừa có qusa trình tổng hợp xây dựng cấu trúc tế bào, vừa có q
trình phân giải các chất cung cấp năng lượng cho hoạt động sống của tế bào, năng lượng
giải phongstrong quá trình dị hóa đuợc sử dụng trong q trình tổng hợp, khơng có đồng
hóa cũng khơng có dị hóa và ngược lại khơng có dị hóa cũng khơng có năng lượng để
tổng hợp trong q trình đồng hóa.
VÍ dụ: bị bóc lột và bóc lột, cái mới và cái cũ, trong tư duy và phân tích, lực phản lực , vi
phân tích phân.
Sự thống nhất giữa các mặt đối lập chính là phạm trù triết học để chỉ sự liên hệ
gắn bó, ràng buộc nhau không tách rời nhau, quy định lẫn nhau giữa các mặt đối lập.
Sự đấu tranh của hai mặt đối lập chính là sự tác động qua lại theo xu
hướng bài trừ nhau phủ định lẫn nhau giữa các mặt đối lập.
Sự vật nào cũng là thể thống nhất giữa các mặt đối lập

Các mặt đối lập trong mỗi sự vật vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau
Đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc đọc lực của sự phát triển
Vd: chúng ta quan niệm thời kỳ q độ lên CNXH chúng ta khơng cịn
mâu thuẫn khơng cịn đấu tranh thì điều đó là khơng đúng bởi vì nếu chúng ta
nghiên cứu về học thuyết về giai cấp và đấu tranh giai cấp của triết học mác lê
nin thì chúng ta mới rút ra một điều là đấu tranh giai cấp là một trong những
nguồn gốc động lực thúc đẩy sự phát triển và vận động của xã hội để xã hội
tiến triển theo chiều hướng đi lên, như tư bản thay phóng hay cộng sản thay
xhcn thì có phải nó là đấu tranh hay không, thông qua đấu tranh giữa các mặt
đối lập giữa llsx tiên tiến và qhsx lỗi thời , giữa gc bị trị và gc thống trị hay



khơng, thơng qua cuộc đấu tranh đó , cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập đó,
mà làm cho xã hội vận động phát triển từ thấp đến cao, cho nên đấu tranh giữa
các mặt đối lập là nguồn gốc vận động của sự phát triển.
Vd:Trong cuộc sống của chúng ta phải giải quyết rất nhiều mâu thuẫn
thông ra việc giải quyết mâu thuẩn, và thông qua việc giải tuyết mâu thuẫn
như vậy làm cho chúng ta phát triển, cho nên chúng ta gặp trở ngại đừng kêu
than vội, chính trwor ngại đó là thử thách rèn luyện chúng ta để chúng ta có
bản lĩnh hơn để chúng ta có thể vượt qua được những thử thách còn lớn hơn,
cho nên sau nay khi mà sếp phân công việc quá sức mình thì đừng có kêu than,
như thế là hỏng, sếp nhìn thấy năng lực của mình đặt ra tiêu chí cao hơn kẻ
khác, nhưng đó chính là nếu chúng ta vượt qua thử thách đó chúng ta càng
phát triển, năng lực của chúng ta tiến bộ hơn, kỹ năng của chúng ta tiến bộ

hơn, quan hệ ứng xử của chúng ta tuyệt vời hơn , thái độ của chúng ta nhìn
nhận tốt hơn, đừng than vội, chúng ta hay than quá, rõ ràng sếp nhìn được
nhân tố ta, tại sao chúng ta kêu than, hãy đóng góp đã, cống hiễn rồi hãy nghĩ
đến điều khác trong đó có hưởng thụ. Chúng tay hãy thay đổi mình, nếu ta
khơng tự thay đổi thì chúng ta tự làm khó mình.
*Tính chất của mâu thuẫn
Mâu thuẫn có tính khách quan phổ biến và đa dạng. Vì mâu thuẫn có tính đa dạng
nên chia mâu thuẫn thành bên trong - bên ngoài, cơ bản – không cơ bản, chủ yếu – thứ
yếu, đối kháng – không đối kháng.
+ Đối kháng là giữa những tập đồn người mà lợi ích bị xâm phạm cịn khơng đối kháng

là khơng xâm phạm về lợi ích.

*Q trình vận động của mâu thuẫn:
Sự thống nhất giữa các mặt đối lập là tương đối vì bất kỳ sự thống nhất nào cũng
sự thống nhất có điều kiện chỉ là tạm thời là thống qua thơi gắn liền với đừng im tương
đối của sự vật, còn đấu tranh giữa chúng là tuyệt đối vì nó diễn ra riêng tục trong suốt quá
trình tồn tại các mắt đối lập, gay trong thống nhất nó có sự phát triển đấu tranh, đấu tranh
gắn liền với vận động. Quá trình thống nhất và đấu tranh tất yếu dẫn đến sự chuyển hóa
giữa các mặt đối lập, :
+ Mâu thuẫn xuất hiện là sự khác biệt( xuất hiện 2 mđl)
+ Mâu thuẫn phát triển khi ( xung đột 2 mđl)
+ Mâu thuẫn giải quyết ( chuyển hóa 2 mđl)
+ Kết quả ( SV mới ra đời sinh ra mâu thuẫn mới thay thế cho mâu thuẫn cũ)


Cho nên V.I Lênin đã khẳng định: “Sự phát triển là một cuộc “đấu tranh” giữa các mặt
đối lập”. Mâu thuẫn giữa các mặt đối lập trong sự vật, hiện tượng là nguyên nhân, giải
quyết mâu thuần đó là động lực của sự vận động, phát triển.


#VD: Mâu thuẫn là nguồn gốc & động lực của sự phát triển cạnh tranh trong kinh tế dẫn
đến đầu tư phát triển nguồn nhân lực dẫn đến cạnh tranh vốn trên thị trường dẫn đến đổi
mới kỹ thuật để cạnh tranh từ đó kinh tế phát triển.
+ Ý nghĩa của phương pháp luận:
Trong các lĩnh vực khoa, trong đời sống, trong tập thể, trong học tập, để nhận thức đúng
việc đấu tiên là chúng ta phải biết phát hiện mấu thuẫn, vì mâu thuẫn là hiện tượng khách
quan phổ biến nên phải biết phát hiện mâu thuẫn, nó là điều tối quan trong, người nao

biết mình kém thì cịn hy vọng, vì kẻ đó phát hiện ra mấu thuẫn, kẻ nào nghĩ mình
number 1 số 1 thì kẻ đó không thể nào phát triển được. Muốn phát hiện ra mâu thuẫn phải
nghiên cứu được mặt đối lập và phân tích mặt đối lập, khi phát hiện ra mâu thuẫn thì
chúng ta xác định vị trí vai trị các mâu thuẫn, có thể là mâu thuẫn bên trong, mâu thuẫn
bên ngồi, có thể mâu thuẫn chủ yếu, mâu thuẫn thứ yếu,… tập trung giải quyết các mâu
thuẫn cơ bản, mâu thuẫn bên trong trước đó là nghệ thuật phân tích mâu thuẫn, Đảng ta
dẫn đầu là chủ tich Hồ Chí Minh rất giỏi trong việc phân tích mâu thuẫn, biết lời dụng
mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù. Giải quyết mâu thuẫn phải bằng con đường đấu tranh
giữa các mặt đối lập, khơng được điều hịa mâu thuẫn, nếu khơng thì sẽ khơng giải quyết
được, mâu thuẫn đó tiếp tục tích tụ phát triển ngày càng cao hơn, nghiêm trọng hơn, giải
quyết mâu thuân bằng con dudownfgd dấu tranh giữa các mặt đối lập khơng được điều
hịa mâu thuẫn.

Vd: mâu thuẫn giữa lợi ích chung là lợi ích riêng, trong đại dịch có kẻ đục khoét mua
máy nâng lên gấp 3 lần, cả nước kể cả người nghèo chia sẻ, em bé cho vào lợn tích góp
mang đi để ủng hộ, cuối cùng vật có những kẻ như vậy.phải giải quyết như thế nào, phải
đấu tranh triệt tiêu chủ nghĩa cá nhân, mỗi thành viên nhường nhịn dĩ hòa di q, mâu
thuẫn đấy khơng bao giờ được giải quyết, làm như vậy chính nhóm lợi ích đó người ta ko
cịn đọng lực phấn đấu nếu người dundgws đầu kiểu như vậy, nó chờ điều kiện phù hợp
thì nó bùng lên, cuối cùng toang. Khi giải quyết mâu thuẫn không được nóng vội chủ
quan và bảo thủ trì trệ,cho nên nó lên 1 điều khi vận dụng quy luật ta phải chống lại bệnh
tả khuynh ( tức là nóng vội) và bệnh hữu khuynh (tức là bảo thụ trì trệ)

Thứ nhất, mâu thuẫn có tính khách quan phải phân tích và giải quyết nó. Phân đơi cái
thống nhất và nhận thức các mặt đối lập của nó. Nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu

thuẫn bằng đấu tranh chứ khơng điều hịa giữa các mặt đối lập.
* Vận dụng quy luật trong thực tiễn
– Các mặt đối lập của mâu thuẫn vừa thống nhất và vừa đấu tranh với nhau
+ Sự thống nhất của các mặt đối lập chính là sự nương tựa, sự ràng buộc quy định lẫn

nhau và làm tiền đề cho nhau để cùng tồn tại; nếu khơng có sự thống nhất của các mặt đối
lập thì sẽ khơng tạo ra sự vật.
+ Có thể hiểu một cách đơn giản thì thống nhất chính là sự đồng nhất, sự phù hợp ngang

nhau của hai mặt đối lập đây là trạng thái cân bằng của mâu thuẫn.
+ Thống nhất giữa các mặt đối lập chỉ là tạm thời là tương đối có nghĩa là nó chỉ tồn tại


trong một thời gian nhất định, đó là trạng thái đứng im, ổn định tương đối của sự vật.
+ Việc đấu tranh của các mặt đối lập là một quá trình phức tạp được diễn ra từ thấp đến

cao và bao gồm nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn sẽ có những đặc điểm riêng.


– Sự đấu tranh và chuyển hóa của các mặt đối lập chính là nguồn gốc, là động lực của sự
phát triển
Việc đấu tranh của các mặt đối lập sẽ gây ra những biến đổi các mặt đối lập khi
cuộc đấu tranh của các mặt đối lập trở nên quyết liệt. Sự chuyển hóa của các mặt đối lập
chính là khi các mâu thuẫn được giải quyết thì sự vật cũ sẽ bị mất đi và sự vật mới xuất
hiện. Các mặt đối lập chuyển hóa lẫn nhau với ba hình thức sau đây:

+ Các mặt đối lập chuyển hóa lẫn nhau mặt đối lập này thành mặt đối lập kia và ngược lại

nhưng ở trình độ cao hơn về phương diện vật chất của sự vật.
+ Cả hai mặt đối lập đều mất đi và chuyển háo thành một mặt đối lập mới.
+ Các mặt đối lập thâm nhập vào nhau và cải biến lẫn nhau.

#VD: Trong mỗi mâu thuẫn thường có hai mặt đối lập liên hệ gắn bó với nhau tạo tiền đề
cho nhau cùng tồn tại, triết học gọi đó là sự thống nhất giữa các mặt đối lập.
Ví dụ như trong hoạt động kinh tế thì sản xuất và tiêu dùng phát triển theo những
chiều hướng trái ngược với nhau. Sản xuất chính là việc tạo ra của cải vật chất, sản phẩm
để có thể đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng. Còn tiêu dùng là mục đích cuối
cùng của việc sản xuất, tất cả những sản phẩm được sản xuất ra đều cần có người tiêu

dùng.
Sản xuất là việc tạo ra sản phẩm và là đối tượng có thể cung cấp cho việc tiêu
dùng. Nếu như khơng có q trình sản xuất để tạo ra sản phẩm tiêu dùng thì sẽ khơng thể
có tiêu dùng.
Sản xuất quy định phương thức tiêu dùng, tạo ra đối tượng cho tiêu dùng, đây
không phải là đối tượng nói chúng mà là đối những đối tượng nhất định do bản thân sản
xuất làm môi giới cho người tiêu dùng.
Do đó sản xuất khơng chỉ là đối tượng của tiêu dùng mà nó cịn quyết định về
phương thức tiêu dùng. Sản xuất cung cấp các sản phẩm cho tiêu dùng và tạo ra nhu cầu
cho người tiêu dùng. Điều này có nghĩa là chỉ khi sản xuất ra một loại sản phẩm nào đó
thì mới tạo ra nhu cầu tiêu dùng đối với sản phẩm đó.
Do vậy có thể thấy được rằng sản xuất và tiêu dùng chính là sự thống nhất của hai

mặt đối lập, chúng có tính chất tương đồng và có mối liên hệ mật thiết, chặt chẽ với nhau
từ đó tạo điều kiện cho nhau cùng chuyển hóa, cùng phát triển.
Phân tích nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập - ý nghĩa
phương pháp luận của việc nghiên cứu quy luật này trong hoạt động thực tiễn.
I. Nội dung quy luật:
- Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (còn gọi là quy luật mâu thuẫn) là
quy luật quan trọng nhất của phép biện chứng duy vật, là “hạt nhân của phép biện
chứng”. Bởi vì nó vạch ra nguồn gốc, động lực bên trong của sự vận động và phát triển.
- Khái quát nội dung quy luật:


Mọi sự vật, hiện tượng đều bao hàm mâu thuẫn bên trong. Mỗi sự vật, hiện tượng đều là

thống nhất của các mặt, các thuộc tính, các khuynh hướng đối lập nhau. Chính sự đấu
tranh của các mặt đối lập đó làm cho sự vật, hiện tượng vận động, phát triển.
- Phân tích nội dung quy luật:
1. Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và phổ biến.
- “Mặt đối lập”?
Mặt đối lập là những mặt có khuynh hướng thay đổi, phát triển chống đối nhau, trái
ngược nhau trong một chỉnh thể làm nên sự vật hiện tượng.
Mỗi sự vật, hiện tượng có thể có nhiều yếu tố, nhiều mặt,.. cấu thành, nhưng có hai mặt
đối lập cơ bản thống nhất với nhau quyết định kết cấu tạo thành sự vật, hiện tượng.
-“Mâu thuẫn”?
“Mâu thuẫn” là khái niệm để chỉ sự liện hệ và tác động lẫn nhau của các mặt đối lập
trong một sự vật, hiện tượng nhất định.

Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan, vì mâu thuẫn tồn tại trong bản thân sự vật, hiện
tượng.
Mâu thuẫn tồn tại phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy (mâu thuẫn trong tư duy là sự
phản ánh mâu thuẫn của hiện thực khách quan).
2. Mâu thuẫn là một chỉnh thể, trong đó hai mặt đối lập vừa thống nhất vừa đấu tranh
với nhau.
- Trong một mâu thuẫn, hai mặt đối lập vừa có quan hệ thống nhất với nhau, vừa đấu
tranh lẫn nhau.
- Khái niệm “thống nhất” trong quy luật biểu hiện: Các mặt đối lập liên hệ ràng buộc với
nhau, quy định lẫn nhau và làm tiền đề tồn tại của nhau.
Khái niệm “thống nhất” trong quy luật này còn được hiểu là sự “đồng nhất”, nghĩa là
cũng thừa nhận trạng thái ổn định của mối liên hệ của các mặt đối lập. Đồng thời cũng

thừa nhận sự chuyển hóa lẫn nhau của các mặt đối lập.
- Khái niệm “đấu tranh” của các mặt đối lập có nghĩa là các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau,
phủ định lẫn nhau. Sự đấu tranh của các mặt đối lập là một q trình phức tạp. Q trình
đó có thể chia ra nhiều giai đoạn. Mỗi giai đoạn lại có những đặc điểm riêng của nó.
(Xem S.1)
Hệ thống sự vật, hiện tượng mới
Sự vật, hiện tượng (hệ thống cũ)

S.1 Quá trình phát triển của một mâu thuẫn.


- Về mối quan hệ giữa thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, Lênin viết: “Sự thống

nhất (phù hợp, đồng nhất, tác dụng ngang nhau) của các mặt đối lập là có điều kiện, tạm
thời, thống qua, tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối,
cũng như sự phát triển sự vận động là tuyệt đối” (V.I.Lênin toàn tập, T.29, Nxb Tiến bộ,
Mátxcơva, 1981, tr.379 - 380). Sự thống nhất của các mặt đối lập có tính chất tạm thời,
thoáng qua, tương đối, cũng như trạng thái đứng im của sự vật, bởi vì mọi sự vật, hiện
tượng cụ thể đều có q trình phát sinh, phát triển và tiêu vong để nhường chỗ cho các sự
vật, hiện tượng khác cao hơn, hoàn thiện hơn, mới hơn về chất ra đời.
Đấu tranh của các mặt đối lập là tuyệt đối vì: trong mọi sự vật hiện tượng đều có mâu
thuẫn và mâu thuẫn quán xuyến từ đầu đến cuối q trình phát triển của sự vật. Tính tuyệt
đối của sự đấu tranh của các mặt đối lập nói lên sự vận động, sự biến đổi liên tục của sự
vật, hiện tượng. Đấu tranh của các mặt đối lập là điều kiện quan trọng nhất, có tính quyết
định đối với sự chuyển hóa của các mặt đối lập.

- Đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực bên trong của sự vận động và phát
triển của sự vật, hiện tượng.
3. Sự chuyển hóa của các mặt đối lập.
- Sự chuyển hóa của các mặt đối lập là kết quả của quá trình đấu tranh của các mặt đối
lập.
- Sự chuyển hóa của các mặt đối lập được thực hiện ở giai đoạn chín muồi của mâu
thuẫn. Sự chuyển hóa diễn ra dưới nhiều hình thức và tùy thuộc vào những điều kiện cụ
thể.
Hai hình thức khái quát nhất của sự chuyển hóa là:
+ Các mặt đối lập chuyển sang mặt đối lập của chính mình.
+ Các mặt đối lập cũ bị xóa bỏ và hình thành các mặt đối lập mới trong sự vật mới.
4. Phân loại mâu thuẫn

Thế giới phong phú, đa dạng và phức tạp, nhưng nhìn chung có 4 loại mâu thuẫn cơ bản:
Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài: Mâu thuẫn bên trong là mâu thuẫn giữa
các mặt, các yếu tố, các thuộc tính, các q trình cấu thành nên sự vật, hiện tượng. Mâu
thuẫn này giữ vai trò quyết định sự vận động, phát triển của sự vật hiện tượng. Mâu thuẫn
bên ngoài là mâu thuẫn giữa các sự vật hiện tượng, hoặc giữa các mặt, các yếu tố, các
thuộc tính, các q trình giữa sự vật, hiện tượng với nhau. Mâu thuẫn này khơng giữ vai
trị quyết định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Nó chỉ có tác dụng ảnh
hưởng khi liên hệ được với mâu thuẫn bên trong.
Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản: Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn phát sinh,
hình thành, tồn tại cùng sự phát sinh, hình thành, tồn tại của vật, hiện tượng và giữ vai trò



quyết định sự vận động, phát triển của sự vật hiện tượng. Mâu thuẫn không cơ bản là mâu
thuẫn phát sinh, hình thành, tồn tại cùng sự phát sinh, hình thành, tồn tại của vật, hiện
tượng và không giữ vai trò quyết định mà chỉ ảnh hưởng nhất định đến sự vận động, phát
triển của sự vật hiện tượng.
Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn không chủ yếu: Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi
lên hàng đầu và giữ vai trò quyết định sự vận động, phát triển của sự vật hiện tượng ở
mỗi giai đoạn phát triển. Mâu thuẫn không chủ yếu là mâu thuẫn phát sinh và khơng giữ
vai trị quyết định nhưng gây ảnh hưởng nhất định đến sự vận động, phát triển của sự vật
hiện tượng ở mỗi giai đoạn phát triển.
Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng (loại mâu thuẫn này chỉ có trong
lĩnh vực đời sống xã hội): Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa các giai cấp có lợi ích
cơ bản đối lập nhau. Mâu thuẫn này chỉ được giải quyết thông qua cách mạng xã hội.

Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa các giai tầng có lợi ích cơ bản khơng đối
lập nhau. Mâu thuẫn này được giải quyết bằng phương pháp hịa bình thơng qua giáo dục
và đổi mới xã hội.
II. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Quy luật mâu thuẫn đem lại phương pháp khoa học cho việc xem xét và giải quyết các
vấn đề: phương pháp phân tích và giải quyết mâu thuẫn.
- Phải thừa nhận tính khách quan của mâu thuẫn. Yêu cầu này đòi hỏi chúng ta, muốn
nắm được bản chất của sự vật, hiện tượng cần phải biết phân tích các mặt đối lập của mâu
thuẫn.
- Phải biết phân tích cụ thể một mâu thuẫn cụ thể và phải có biện pháp cụ thể để giải
quyết đối với từng loại mâu thuẫn.
- Phải nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn: Bất kỳ mâu thuẫn nào, bất kỳ giai

đoạn nào của mâu thuẫn, cũng chỉ được giải quyết bằng con đường đấu tranh giữa các
mặt đối lập, chứ không phải bằng con đường điều hịa giữa chúng.

Ví dụ minh họa các mặt đối lập để phát triển trong tự nhiên xã hội và tư duy
Quang hợp và hô hấp của giới thực vật
người sử dụng lao động và người lao động trong các hoạt động sản xuất
Quan điểm duy tâm và duy vật trong triết học
Vận dụng quy luật giải quyết mâu thuẫn cá nhân và lợi ích tập thể
Câu 5: Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
a. Phạm trù thực tiễn
Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử - xã hội của
con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội, chứ không phải hoạt động bản năng của lồi

người. Thơng qua thực tiễn cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội cải tạo chính bản thân con
người
- Đặc trưng của hoạt động thực tiễn là hoạt động vật chất, là phương thức tồn tại cơ bản,

phổ biến của con người và xã hội, là hoạt động có tính mục đích nhằm cải tạo tự nhiên và
xã hội.


- Thực tiễn là hoạt động vật chất cảm tính, đó là hoạt động mang tính tất yếu khách quan,

con người sử dụng công cụ lao động, lực lượng sản xuất vật chất để tác động vào đối
tượng vật chất ->> làm biến đổi để thỏa mãn nhu cầu sinh tồn của con người và xã hội

loài người.
VD: hoạt động lao động sản xuất nông nghiệp tạo ra lương thực thực phẩm ,..
-Thực tiễn là hoạt động có mục , nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội phục vụ con người
VD: hoạt động xây nhà ở, đấu tranh để xóa bỏ áp bức bóc lột ,.. Là hoạt động có mục
đích của con người ( con người là động vật có ý thức, có tư duy sáng tạo , chứ khơng phải
hoạt động bản năng của lồi vật)
- Thực tiễn mang tính lịch sử xã hội: hoạt động thực tiễn là hoạt động con người ,
diễn ra trong xã hội với sự tham gia của đông đảo người , trải qua giai đoạn lịch sử
nhất định, bị giới hạn bởi điều kiện lịch sử- cụ thể nhất định .
Vd: cùng là sản xuất lương thực , thực phẩm để ni sống con người nhưng mỗi
giai đoạn thời kỳ có công cụ sản xuất , phương thức cacnh tác, quản lý khác nhau,
từ đồ đá, đồng,sắt

=>> Thực tiễn là hoạt động đặc trưng bản chất của con người
- Các hình thức của thực tiễn:
+ Hoạt động sản xuất vật chất: là hoạt động mà trong đó con người sử dụng những công

cụ lao động tác động vào giới tự nhiên để tạo ra những của cải và các điều kiện thiết yếu
nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của mình và xã hội. Hoạt động sản xuất vật chất là
cở sở quan trọng quyết định các hoạt động khác
+ Hoạt động chính trị - xã hội: là hoạt động của các tổ chức cộng đồng người khác nhau
trong xã hội nhằm cải biến những mỗi quan hệ xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển. Trong
hoạt động động chính trị xã hội có nhiều hoạt động như xóa đói giảm nghèo, hoạt động
tạo cơng ăn việc,.. nhưng hoạt động đấu tranh giai cấp là cao nhất, tại sao như vậy, bởi vi
thông qua đấu tranh giai câp đỉnh cao của nó sẽ dẫn đến cách mạng xã hồi, sau đó dẫn

đến một chế độ xã hội mới tiền bộ hơn chế độ xã hội cũ, nó thay đổi tồn mặt từ kinht ế ,
chính trị , xã hội, tức là thay đổi về chất của một xã hội .
VD: ra đời chủ nghĩa Mác lenin do sự phát triển kinh tế trong chủ nghĩa tư bản đặc biệt là
sự trường thành của phong trào công nhân và tiên đề lý luận và khoa học tự triên
+ Hoạt độn thực nghiệm khoa học: nhiều bản nghĩ rằng nó là nghiên cứu khoa học, thực

chất nó khơng phải, nghiên cứu khoa học thuộc về hoạt động tinh thần, còn thực nghiệm
hoạt nó kiểm tra các kết qua của nghiên cứu khoa học rồi ứng dụng triển khái, thực
nghiệm là hoạt động được tiến hành trong những điều kiện do con người tạo ra gần
giống, giống hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác định các quy
luật biến đổi và phát triển của đối tượng nghiên cứu.


Nhận thức được hiểu theo 2 nghĩa:
+ khả năng nhận biết của con ng
+ để chỉ 1 trong những hoạt động của con người nhằm hình thành nên ý thức tri thức.
Nhận thức là quá trình phản ánh tích cực tự gaics sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc
con người trên cơ sở thực tiễn nhằm sáng tạo ra những tri thức về thế giới khách quan
Vd: hiện nay cuộc cách mang công nghệ 4.0 đang diễn ra rất mạnh mẽ, vai trò thực
nghiệm khoa rất quan trọng, cho nên cuộc cách mạng khoa học công nghệ, nghiên cứu,
cho nên những phát minh sáng chế được ứng dụng triển khai trở thành quy trình sản xuất
mới công nghệ mới công cụ mới được áp dụng các quá trình sản xuất, nhiều nước đang


chuyển sang nền kinh tế tri thức, đặc biệt là nước phát triển,muốn đạt được năng suất,

chất lượng cao thì trong quá trình sản xuất, thực tiễn đời sống phải được ứng dụng khoa
học. Những nước có nền kinh tế tri thức có hàm lượng chất xám rất cao.
???( có thể là câu hỏi thêm) Trong ba hình thức hoạt động thực tiễn cơ bản trên, mỗi
hoạt động có vai trò khác nhau, nhưng hoạt động sản xuất vật chất là cơ bản nhất, quan
trọng nhất. Vì khơng có sản xuất vật chất, con người và xã hội loài người không thể tổn
tại và phát triển. Sản xuất vật chất còn là cơ sở cho sự tồn tại của của các hình thức thực
tiễn khác cũng như tất cả các hoạt động sống khác của con người.
b. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
- Thực tiễn là cơ sở của nhận thức: Thực tiễn cung cấp những tài liệu, chất liệu cho nhận

thức của con người. qua hoạt động thức tiễn con người nhận thức được sự vật hiện tượng
hình thành nên tri thức về nó, thực tiễn hiện thực hóa các giác quan tạo ra cơng cụ hỗ trợ

cho các giác quan con người, con người muốn nối dài các giác quan phải tạo ra các
phương tiện công cụ để hỗ trợ các giác quan con người như là máy tính, kính hiển vi,….
- Thực tiễn là động lực của nhận thức: Thực tiễn luôn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ và phương

hướng phát triển của nhận thức; rèn luyện các giác quan của con người ngày càng tỉnh tế
hơn, hồn thiện hơn, cơng cụ nhận thức ngày càng tinh vi, hiện đại làm cho năng lực tư
duy ngày cảng phát triển.
VD: những nhà khoa học nông dân chế tạo ra các máy móc, như máy bốc lạc bẻ ngơ
chính thơng hoạt động thực tiễn mới biết được bẻ ngơ , bóc lạc nó lâu như thế nào, nó
đau như thế nào, và người ta muốn tìm cách để giải phóng sức lao động của con người,
người ta mới tạo ra máy móc.
Con người gặp khó khăn thực tiễn buộc phải giải đáp được nó đó là nguyên nhân thúc

đẩy con người.
VD: covid 19 đó là vấn đề thực tiễn để con người chắc chắn phải tìm ra được nguyên
nhân , tìm được phương thuốc, tìm ra được cách phịng, cách trị, nó buộc cơn người phải
phải phát triển
Thực tiễn là mục đích của nhận thức: nhận thức đề cải biến thể giới khách quan, cải biến
xã hội, vì nhu cầu của con người. Vì vậy, nhận thức từ thực tiễn mà ra, phải quay về phục
vụ thực tiễn. Tri thức chỉ có ý nghĩa khi nó được áp đụng vào đời sống thực tiễn một cách
trực tiếp hay gián tiếp để phục vụ con người.
VD nhận thức những vấn đề tiêu cục xã hội như bất bình đẳng ,tham ơ ,hối lộ,…, tệ nạn
xã hội, chúng ta nhận thức để cải tạo nó để thế giới này tốt hơn. Nhân thức để cải tạo tự
nhiên xã hội, cải tạo chính bản thân con người…
- Nhận thức để giải quyết các vấn đề bức xúc được đặt ra như dịch tả lợn châu phi,lở

mồm long móng..
- Thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý: Thực tiễn có tính tất yếu, khách quan, nên

nó đóng vai trò là tiêu chuẩn để kiểm nghiệm chân lý.Thực tiễn là thước đo giá trị của
những tri thức con người đạt được trong quá trình nhận thức, đồng thời thực tiễn không
ngững bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa phát triển và hoàn thiện nhận thức,..
- Nguyên tắc thực tiễn trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
+ Cần phải quán triệt quan điểm thực tiễn trong hoạt động của con người. Nếu rời xa thực

tiễn sẽ dẫn đến bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc, quan liêu. Bệnh giáo điều



là khuynh hướng tư tưởng và hành động cường điệu lý luận coi nhẹ thực tiễn, tách lý luận
khỏi thực tiễn, thiếu quan điểm lịch sử - cụ thể.
+ Cần tránh tuyệt đối hóa thực tiễn coi thường lý luận sẽ dẫn đến căn bệnh kinh nghiệm

chủ nghĩa, lười biếng, không chịu học tập lý luận, không phát huy được tính định hướng,
dẫn dắt, soi đường của lý luận.
+ Quan điểm thống nhất giữa lý luận và thực tiễn yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát

từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn, phải coi trọng tổng kết thực
tiễn,
để bổ sung, hoàn thiện, phát triển nhận thức, lý luận cũng như chủ trương, đường lối,
chính sách. Trong hoạt động của con người, việc nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực

tiễn, học đi đôi với hành.
#VD: Năm 1930: Bác Hồ đưa ra cương lĩnh của Đảng Cộng sản, Trần Phú lên Tổng Bí
thư khơng đi theo đường lối của Bác nên đã thất bại.
Năm 1941: Quay lại với đường lối của Bác, vì đường lối của bác đưa ra là đúng đắn gắn
liền giữa nhận thức và thực tiễn lúc bấy giờ.

Cần làm gì để nâng cao trình độ năng lực nhận thức của mình
I. Đặt vấn đề
Trong cơng cuộc hội nhập và đua tranh tồn cầu của người Việt Nam, có lẽ điều mà
chúng ta cần hội nhập đầu tiên và mạnh mẽ nhất, đó là hội nhập về tri thức. Và trong
công cuộc hội nhập về tri thức ấy, lĩnh vực cần phải hội nhập trước nhất và quyết liệt nhất
chính là lĩnh vực giáo dục.

Thực tiễn cho thấy, muốn có một nước Việt Nam mới, một nước Việt Nam thịnh vượng
và văn minh, thì phải có những con người Việt Nam mới, những con người được nuôi
dưỡng tâm hồn, được khai sáng trí tuệ và rèn luyện thể chất tốt. Điều này chỉ có thể có
được khi chúng ta có một nền giáo dục mới, một nền giáo dục hội nhập và sánh vai với
thế giới. Muốn có một nền giáo dục như vậy, phải dựa và nhiều yếu tố, một trong những
yếu tố đầu tiên và không thể thiếu đó là phải có tư duy mới, tầm nhìn mới, tri thức mới
cho giáo dục. Để đáp ứng yêu cầu cơng nghiệp hóa- hiện đại hóa trong bối cảnh cách
mạng cơng nghiệp 4.0, cần có một nguồn nhân lực phát triển ở trình độ cao, ln ln đổi
mới, cập nhật kỹ thuật cao, có phong cách sống mới: năng động, khả năng thích nghi cao
và sáng tạo. Những điều đó chỉ có thể thực hiện được trong một xã hội mà ở đó mọi
cơng dân ln được tạo điều kiện học tập thường xuyên, liên tục nhằm không ngừng nâng
cao trình độ nghề nghiệp và khả năng hội nhập với xã hội ngày càng văn minh, hiện đại.

Một trong những con đường quan trọng nhất nâng cao trình độ bản thân là con đường
phát triển nhận thức của sinh viên của chúng ta. Thực tiễn hiện nay cần có khả năng nhận
thức cao, có nhận thức đúng ta mới xác định đúng bản chất của vấn đề từ đo sphanr ánh
một cách tích cực sáng tạo, là những nhà tri thức của Đất Nước
Khơng phải ai là tồn diện cho nên hãy tự nhận thức mình, biết được điểm mạnh điểm
yếu của bản thân. Chỉ khi biết điểm mạnh sẽ cho phép bạn tận dụng và phát huy tối đa
lợi thế của mình, khám phá sức mạnh tiềm năng của bản thân, vận dụng nó vào thực tiễn
khai thác bản thân Tiếp đến, hiểu được đâu là điểm yếu sẽ là cơ hội để bạn cải thiện
những khuyết điểm đang kìm hãm bạn, người mà biết nhìn nhận, xác định khắc phục


điểm yếu của mình đo sẽ là con người thành cơng trong tương, nếu cứ nghĩ mình number

1 thì chắc chắn con người ấy sẽ thật bại đơn giản là vì khơng ai là hồn hảo, khơng ai là
tuyệt vời kể cả những nhà triết gia lỗi lạc của thời đại như Mác, ơng cũng thường hay
uống rượu đó thơi. Hiều quả của việc liệt kê điểm mạnh điểm yếu sẽ giúp bạn biết được
mình đang ở vị trí nào, tại sao bạn lại thất bại hay thành công trong cuộc sống lẫn công
việc, cũng như cho phép bản thân thay đổi và tự tin hơn trong việc thể hiện mình. Bản
thân em thì cũng có rất nhiều điểm yếu, em thiếu sự tin, thiếu mối quan, thường hay chủ
quan gây nên sơ suất,… và thế nên em cũng cố gắng hơn để khắc phục điểm yếu ấy, nó sẽ
là quá trình dài như em tham gia vào các hoạt động của trường, khơng chỉ học trên trường
mà em cịn học ngoài xã hội, cố gắng giao tiếp với người xung quanh,…Trong q trình
đánh giá bản thân đó em cố gắng nhìn nhận mọi khía cạnh mà khơng phán xét hay đưa ra
bất kỳ nhận xét mang tính chủ quan nào.
Tìm hiểu về động lực của bản thân cũng là một cách tốt để phát triển khả năng

nhận thức của bản thân. Như khi em có động lực em sẽ cố gắng tìm hiểu và nhận thức về
nó, nó giống như một dolphin thôi thúc bạn nỗ lực vượt qua mỗi khó khăn tiếp tục được
mục tiêu của mình và kiên định trên con đường em đã chọn. Động lực giúp em có nhận
thức đúng đắn, chính xác vấn đề vì nếu khơng có động lực bạn có thể như một người
sống khơng có ngun tắc, ban ngày thì ngủ tới trưa, suốt ngày cứ bấm điện thoạt, lướt
facebook làm cho viện nhận thức sai, khi đó bạn cứ nghĩ việc làm rảnh rỗi như chơi
game ngày này của mình là đúng, khơng sao cả tại đâu có việc gì làm đó là sai lầm do
việc khơng có động lực, không thúc đẩy thực hiện mục tiêu mỗi ngày, sống cứ như con
robot sống qua ngày này như này, sống một cách khơng có sáng tạo. Vì vậy động lực là
một yếu tố thúc đẩy nhận thức làm cho việc nhận thức đúng đắn theo đuổi mục tiêu của
bản thân.
Em đã từng nhìn thấy một bạn chỉ vì đánh rơi đồng xu mà gần như tức giận, em

nghĩ bạn đó có vấn đề về nhạn thức, căn bản là bạn ấy khơng biết tiết chế cảm xúc của
bản thân, đó là kết quả dài của việc không quan tâm và nuôi dưỡng đến cảm xúc cũng
như là những phản ứng tự nhiên của mình trước mọi hồn cảnh . Khi bạn chú tâm đến
cảm xúc của chính mình, bạn sẽ hiểu được tại sao mình lại cảm thấy như vậy và lần tới
mình nên làm gì để khắc phục điều này. Trên thực tế, kỹ năng kiểm soát cảm xúc sẽ giúp
bạn có cuộc sống tốt hơn chẳng hạn như trở một người giao tiếp tốt và khôn ngoan hơn
trong việc ra quyết định.
Kỹ năng tập viết nhật ký
Đây là một kỹ thuật rất đơn giản và dễ dàng mà bạn có thể luyện tập để phát triển khả
năng tự nhận thức bản thân. Viết nhật ký sẽ giúp bạn phơi bày những suy nghĩ, cảm xúc
và ý tưởng chân thật nhất lên trang giấy. Cuốn nhật ký này sẽ trở thành nơi lưu giữ những
hồi ức quan trọng, cũng như trở thanh một nhân chứng theo dõi quá trình trưởng thành

của bạn. Hãy cố gắng viết nhật ký ít nhất một lần mỗi ngày.
Và để phát triển kỹ năng nhận thức của bản thân một cách tốt chúng ta phải gắn
liền với thực tiễn. Vì thực tiễn là tồn bộ hoạt động vật chất có mục đích mang tích lịch
sử

Nhận thức là 1 quá trình từ thấp đến cao, ko có cái gì con người khơng nhận thức được
mà chỉ có những cái mà con người chưa nhận thcuws được mà thôi


- Liên hệ thực thực tiễn hiện nay ở Việt Nam.

Từ lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và từ kinh nghiệm thành

cơng, thất bại trong q trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã rút ra bài học quan trọng là: “Mọi chủ trương của Đảng phải
xuất phát từ thực tế, tôn trọng qui luật hiện thực khách quan”.
Nguyên tắc này đòi hỏi chúng ta trong nhận thức và hành động
phải xuất phát từ bản thân sự vật, từ hiện thực khách quan, phản ánh sự
vật đúng với những gì vốn có của nó, khơng lấy ý muốn chủ quan của
mình làm chính sách, khơng lấy ý chí chủ quan áp đặt cho thực tế, phải
tơn trọng sự thật, tránh thái độ chủ quan nóng vội, phiến diện, định
kiến… Yêu cầu của nguyên tác tính khách quan cịn địi hỏi phải tơn
trọng và hành động theo qui luật khách quan.
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa và
hiện đại hóa. Đảnh chủ trương: “Huy động ngày càng cao mọi nguồn lực

cả trong và ngoài nước, đ8ạ biệt là nguồn lực của dân vào cơng cuộc
phát triển đất nước”. Đó là chính sách chiến lược về con người, về phát
triển giáo dục và đào tạo...
Vì vậy, phải “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng phát huy sức mạnh tồn dân tộc, đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc
đổi mới, sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, thực hiện
mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng, dân chủa và văn
minh”.

Liên hệ thực tiễn đến bản thân trong quá trình học tập

Câu 6: Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Vận dụng quy luật quan

hệ sản xuất phù hợp trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong đổi mới kinh tế ở
việt nam hiện nay.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của lưc lượng sản xuất là quy cơ bản
nhất của lịch sử xã hội, tri phối sự vận động phát triển của xã hội
Nội dung: LLSX và QHSX nó là 2 mặt của một phương thức sản xuất, nó tác động biện
chứng lẫn nhau trong đó LLSX quyết đinh QHXZ, QHSX tác động trở lại LLSX
Các khái niệm:
Lực lượng sản xuất (con ng vs tự nhiên): là tổng hợp các yếu tố vật chất và tinh thần
tạo thành sức mạnh thực tiễn cải biến thế giới tự nhiên theo nhu cầu sinh tồn, phát triển
của con người.
Trong llsx có sự kết hợp của 2 yếu tố cơ bản là người lao động với tư liệu sản xuất
để tạo ra sức sản xuất và năng lực thực tiễn để làm biến đổi các đối tượng vật chất của



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×