Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Tiểu luận hệ tư tưởng ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức trong học thuyết nho giáo tới việc giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên huyện vĩnh tường tỉnh vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.32 KB, 25 trang )

TIỂU LUẬN
MÔN: HỆ TƯ TƯỞNG HỌC
Đề tài:
ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC TRONG HỌC THUYẾT NHO
GIÁO TỚI VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO THANH NIÊN
HUYỆN VĨNH TƯỜNG - TỈNH VĨNH PHÚC HIỆN NAY


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Nho giáo - hệ tư tưởng chính thống của chế độ phong kiến kéo dài cho
đến thế kỷ XIX, từng là hệ tư tưởng thống trị trong kiến trúc thượng tầng Việt
Nam. Nho giáo ảnh hưởng sâu sắc đến con người và xã hội, chính trị và văn
hố, cuộc sống và lẽ sống, hệ tư tưởng và phong tục tập quán Việt Nam. Nho
giáo đã trở thành một bộ phận của truyền thống dân tộc, dù muốn hay khơng
muốn thì Nho giáo vẫn đang chi phối đời sống xã hội ở Việt Nam ngày nay.
Những dấu ấn của Nho giáo vẫn còn đang tồn tại ở Việt Nam như: sách vở,
đền đài, miếu mạo, phong tục tập quán mang sắc thái Nho giáo vẫn còn lưu
giữ. Văn miếu với 82 tấm bia tiến sĩ đã để lại một nền văn hoá truyền thống
được người Việt Nam trân trọng và tự hào.
Trong những năm qua, công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nền cơ chế thị trường có sự
điều tiết và quản lý của nhà nước đã đẩy nhanh sự tăng trưởng về kinh tế, đem
lại bộ mặt mới cho xã hội. Tuy nhiên bên cạnh đó mặt trái của cơ chế thị
trường cũng đang tạo ra nhiều xáo trộn trong quan hệ xã hội, trong gia đình và
phẩm chất cá nhân, trong cán bộ, nhân dân đã có những biểu hiện tiêu cực,
đặc biệt là trong tầng lớp thanh niên, nó được biểu hiện trong cả nhận thức và
hành động như: tư tưởng thực dụng, chạy theo đồng tiền, làm cho một bộ
phận xa rời lý tưởng, suy thoái về phẩm chất đạo đức, nạn tham nhũng, bn
lậu, làm giàu bất chính và các tệ nạn xã hội khác. Trong công cuộc đổi mới
hiện nay đảng và nhà nước ta đã xác định Thanh niên là lực lượng rất quan


trọng và sự phát triển của thanh niên quan hệ trực tiếp đến vận mệnh, tương
lai của đất nước, của dân tộc. Vì thế, bất cứ quốc gia và chế độ xã hội nào
muốn tồn tại, phát triển bền vững và cường thịnh đều phải quan tâm tới việc
chăm lo giáo dục đạo đức cho thanh niên.
2


Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln đánh giá cao vai trị, vị trí,
khả năng của thanh niên đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.
Người cho rằng: “ Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy
nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên”.
Chính vì thế, trước lúc đi xa Người khơng qn căn dặn Đảng ta: “ Bồi dưỡng
đạo đức cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”.
Đảng ta xác định công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên
trong giai đoạn hiện nay là một trong những yêu cầu quan trọng và cấp bách
để đảm bảo xây dựng được một lớp thanh niên “vừa hồng, vừa chuyên”, đủ
sức gánh vác những nhiệm vụ lớn lao của q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
Những năm qua các cấp uỷ Đảng, chính quyền huyện Vĩnh Tưởng – tỉnh
Vĩnh Phúc đã có nhiều cố gắng trong công tác giáo dục đạo đức cách mạng
cho thanh niên. Tuy nhiên, qua đánh giá chung, vẫn cịn một số hạn chế.
Trong q trình học tập và công tác tôi càng nhận thức rõ sự cần thiết và
tầm quan trọng của vấn đề này nên tôi đã chọn đề tài “Ảnh hưởng của tư
tưởng đạo đức trong học thuyết nho giáo tới việc giáo dục đạo đức cách
mạng cho thanh niên huyện Vĩnh Tường - tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay” làm
tiểu luận cho môn học hệ tư tưởng của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Nhiều nghị quyết của đảng về giáo dục đạo đức lối
sống, nhà nước có chương trình: “Xây dựng đời sống văn
hóa cơ sở” nhằm tạo môi trường giáo dục đạo đức tốt; Chỉ

thị 03-Bộ chính trị: Đẩy mạnh cuộc vận động học tập làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; Bộ giáo dục đào tạo
có chỉ thị 50 giáo dục đạo đức, lối sống cho sinh viên; Bộ
giáo dục - đào tạo phát động phong trào thi đua “Tuổi trẻ
học tập làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; Chỉ thị

3


27/CT/TW về thực hiện nếp sống mới trong cưới, hỏi, ma
chay.
Trong thời gian qua, nhiều sách, nhiều hội thảo hay cơng
trình khoa học bàn về vấn đề này, góp phần khá tích cực vào
việc giáo dục đạo đức của thanh niên trong điều kiện như hiện
nay. Ví dụ như đề tài nghiên cứu KHXH_04.03: “Xây dựng lối
sống, đạo đức và chuẩn mực giá trị xã hội mới trong điều kiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa” do Huỳnh Khái Vinh làm
chủ nhiệm (Hà Nội, 2000); Nhiều bài báo nêu các tấm gương
đạo đức và phê phán những biểu hiện vi phạm đạo đức, phát
động phong trào làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
- Cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên Việt Nam hiện nay,
PGS.TS Trần Thị Anh Đào, HXB Chính trị Quốc gia, 2010, tác giả đề cập đến
cơng tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho sinh viên
- Giáo dục ý tưởng xã hội chủ nghĩa cho sinh viên Việt Nam hiện nay,
luận văn thạc sĩ triết học, 2006. Đã đề cập đến nội dung cơng tác giáo dục
chính trị - tư tưởng cho sinh viên.
- Giáo trình ngun lý cơng tác tư tưởng tập một, PGS.TS Lương Khắc
Hiếu ( chủ biên). NXB Chính trị hành chính quốc gia, 2008. Đề cập đến nội
dung cơng tác giáo dục chính trị - tư tưởng để hình thành văn hóa chính trị.

- Lê Duẩn, Thanh niên với cách mạng xã hội chủ nghĩa, Nxb Thanh niên,
Hà Nội, 1978.
Tuy nhiên, đạo đức của thanh niên vẫn còn nhiều đáng lo ngại và hạn
chế. Vĩnh Phúc cũng chưa có nhiều bài viết, cơng trình phân tích về về đề
giáo dục đạo đức cho thanh niên hiện nay
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
3.1. Mục đích

4


Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về ảnh hưởng của đạo đức
nho giáo tới việc giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên trên địa bàn
huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc trong thời kỳ hội nhập và phát triển.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích nghiên cứu, chúng tôi xác định các nhiệm vụ cụ
thể của đề tài như sau:
- Nhiệm vụ thứ nhất: Xác định các cơ sở lý thuyết cho đề tài để tiến hành
làm rõ nội dung.
- Nhiệm vụ thứ hai: Phân tích đánh giá những ảnh hưởng của tư tưởng
đạo đức Nho giáo đối với việc giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên
huyện Vĩnh tường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
hiện nay.
- Nhiệm vụ thứ ba: Trên cơ sở phân tích những ảnh hưởng đó, nghiên cứu
sẽ đề ra phương hướng, giải pháp có tính khả thi để phát huy những mặt tích
cực và hạn chế những mặt khơng tích cực của tư tưởng đạo đức Nho giáo đối
với việc giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên huyện Vĩnh Tường hiện
nay.
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Đây là vấn đề lý luận về đạo đức Nho giáo được nhiều tài liệu đề cập

đến, lịch sử nghiên cứu lâu đời. Do đó để làm sáng tỏ và đầy đủ một cách hệ
thống và tồn diện, sâu sắc vấn đề này địi hỏi phải có trình độ nhận thức cao,
thời gian nghiên cứu lâu dài. Vì vậy với thời gian và kiến thức cho phép em
chỉ chú ý đi sâu phân tích “Ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo tới việc giáo
dục đạo đức cách mạng cho thanh niên huyện Vĩnh Tường hiện nay”
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp nghiên cứu, trong đó chủ
yếu là các phương pháp: phân tích - tổng hợp, lơgic - lịch sử và một số
phương pháp xã hội học như: thu thập thông tin, nghiên cứu tài liệu, quan sát,
điều tra, thống kê, so sánh,...
5


6. kết cấu tiểu luận.
Tiểu luận Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo
gồm 2 chương và 4 tiết.

6


NỘI DUNG
Chương 1:
ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ
PHÁT TRIỂN
1.1. Quá trình hình thành về tư tưởng, đạo đức của Nho giáo
Từ thế kỷ XI đến thế kỷ VIII trước Công nguyên. Các yếu tố đầu tiên
của hệ tư tưởng Trung Quốc đã xuất hiện. Nổi rõ nhất của tư tưởng Trung
Quốc vào thời Xuân Thu - Chiến quốc gắn liền với trường phái Nho gia, Mặc
gia, Pháp gia, Đạo gia, Âm dương gia, Nơng gia, Tung hồnh gia, Tạp gia.
Trong đó Nho gia và Đạo gia có ảnh hưởng lớn trong sự hình thành và

phát triển tư tưởng ở Trung Quốc đạo Nho xuất hiện sớm nhất (thế kỷ VI
trước Công nguyên).
Người sáng lập ra đạo nho là Khổng Tử (551 - 479 TCN) người kế tục
nổi tiếng của Khổng Tử là Mạnh Tử (372- 289 TCN) và Tuân Tử (298-238
TCN) . “Khổng Tử hệ thống hoá những tri thức, tư tưởng đời trước cùng
những quan điểm của ông tạo thành một học thuyết đạo đức - chính trị nổi
tiếng gọi là Nho gia” .
Hệ tư tưởng chính trị Nho giáo được thể hiện một cách cơ bản, có hệ
thống trong tư tưởng của người khởi xướng - Khổng Tử, một học giả ở vào
thời Xuân Thu của Trung Quốc.
- Khổng Tử (551 - 478 TCN)
Khổng Tử tên là Khâu, tự là Trọng Ni, ông được sinh ra ở ấp Trâu,
quận Xương Bình, nước Lỗ (nay thuộc miền Sơn Đơng phía Bắc Trung
Quốc), ơng là người thuộc dòng dõi quý tộc bị sa sút ở nước Tống, do chiến
tranh mà lưu lạc sang nước Lỗ. Năm 19 tuổi Khổng Tử lấy vợ và sinh con trai
tên là Lý, tự là Bá Ngư.
Thời đại của Khổng Tử là thời đại “vương đạo” suy vi “bá đạo” nổi
lên, chế độ tông pháp nhà Chu đảo lộn, đạo lý, nhân luân suy đồi.
7


Khổng Tử đem tài sức của mình ra giúp vua, Khổng Tử từng giữ các
chức quan: làm lại nhà họ Quý, một dòng họ quý tộc lớn ở nước Lỗ. Ngồi 50
tuổi được vua Lỗ Định Cơng phong chức Tư Không rồi Đại Tư Khấu trông
coi pháp luật, suốt thời gian làm quan chăm lo chính trị, làm cho nước Lỗ ổn
định, nước Tề lập kế hoạch để vua Lỗ mải vui chơi, qn việc triều đình, ơng
can gián nhưng vua khơng nghe, bèn cùng học trị bỏ nước Lỗ mà đi đến các
nước chư hầu khác, mang lý tưởng cải tạo xã hội của mình ra giúp nước, trị
dân, cuối đời nhưng đến đâu cũng không được trọng dụng. Cuối đời nhận
thấy sự bất lực trong chính trị, Khổng Tử quay về nước Lỗ mở trường dạy học

và viết sách, ông giảng dạy kinh thư, kinh dịch, kinh lễ, soạn kinh Xuân Thu
đến ngày 18/2/479 TCN Khổng Tử mất, ông thọ

73 tuổi.

“Lý thuyết Khổng Tử không được người đương thời chấp nhận, nên
ông đã than rằng “Biết là không thể mà vẫn làm” nhưng đến đời Hán, giai
cấp phong kiến đã lấy Nho giáo làm hệ tư tưởng thống trị, đặc biệt đến đời
Đổng Trọng Thư Nho giáo đã trở thành cơ sở của đạo đức phong kiến ở
Trung Quốc”
Trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc, đạo đức rất được các nhà tư tưởng
coi trọng, Khổng Tử là nhà tư tưởng đầu tiên bàn đến những vấn đề nhân
sinh, vấn đề đạo đức.
Khổng Tử đưa ra 4 mẫu người cần được đào tạo là :
Một là kẻ sĩ: học để thi đỗ ra làm quan.
Hai là: bậc đại học - học để tu nhân tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.
Ba là: kẻ trượng phụ, là người thấy việc nghĩa thì dũng cảm lên, giàu
sang khơng thể khắc phục, nghèo khó khơng thể chuyển lay.
Bốn là: người qn tử, một mẫu người lý tưởng của giai cấp thống trị
mà ơng nhấn mạnh phải có đủ: nhân, lễ, trí, dũng
Sau khi Khổng Tử mất, học thuyết của ông ở giai đoạn đầu Tần được
hai học trò phát triển: Mạnh Tử phát triển theo hướng duy tâm, Tuân Tử phát
triển theo hướng duy vật.
8


1.2. Tư tưởng cơ bản về đạo đức của con người trong Nho giáo
Nho giáo quan niệm đạo đức là sự biểu hiện cá tính, của thiên tính, của
“đạo” nó chẳng những là tính riêng của con người mà cịn là tính chung cho
cả trời và đất, đạo đức cho Nho giáo là phương châm, phương hướng lớn để

trị nước, an dân. Nhìn chung tư tưởng về đạo đức của Khổng Tử được phân
chia thành hai mảng tương đối rõ nét: đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân.
- Thứ nhất là đạo đức về xã hội (chính danh)
Khổng Tử cho rằng nguồn gốc của mọi sự tai hoạ trong xã hội là do
“danh khơng chính, ngơn khơng thuận” theo ông: mỗi sự vật, mỗi con người
sinh ra đã có một vị trí xác định, một cơng dụng nhất định và tương ứng với
mỗi vị trí cơng dụng ấy là một “cái danh”, “chính danh” hiểu theo ngữ chung
nhất là danh vị của mỗi người trong xã hội.
“Chính danh” cịn có nghĩa là làm mọi việc ngay thẳng, người nào có
danh vị, chức phận gì thì phải làm theo bổn phận của người ấy. Thật sự nhờ
đó mà vẹn tồn, lịng người nhờ đó mà hội tụ đất nước nhờ đó mà thịnh trị.
Khổng Tử đã chỉ ra mối liên hệ giữa “chính danh” và chính trị và
người cầm quyền phải biết theo điều ngay chính để làm điều nhân thì việc gì
cũng thành. Bởi vì “mình ngay chính thì khơng sai khiến người ta cũng làm,
mình khơng ngay chính tuy có sai khiến cũng khơng ai theo” .
Theo Nho giáo con người sống phải có quan hệ với nhau thì mới thành
xã hội. Trong cuộc sống có nhiều mối quan hệ khác nhau nhưng mối quan hệ
quan trọng hơn cả đó là mối quan hệ con người với con người. Cho nên Nho
giáo hình thành tiêu chí đạo đức con người như sau:
Xã hội có hai mối quan hệ cơ bản:
Quan hệ vua - tôi
Quan hệ cha - con
Sau này Mạnh Tử phát triển lên thành quan hệ Ngũ luân:
Vua - tôi, cha - con , chồng - vợ, anh - em, bạn bè
Đến thời kỳ nhà Hán, Đổng Trọng Cư đã đưa ra khái niệm khác đó là
tam cương và ngũ thường.
9


Cốt lõi của Nho giáo là học thuyết Chính trị nhằm bình ổn xã hội. Để tổ chức

xã hội có hiệu quả điều cốt lõi là đào tạo những người cai trị kiểu mẫu đó là người
qn tử. Khơng chủ trương dùng pháp luật cai trị xã hội, Khổng Tử đã thấy được
sức mạnh đạo đức, dùng sức mạnh đạo đức để bình ổn xã hội. Học thuyết đạo đức
của Nho giáo đặt ra nhằm đào tạo mẫu người quân tử. Vì vậy, Nho giáo cịn gọi là
Đạo của sỹ quân tử.
Để trở thành người quân tử trước hết phải Tu thân. Tiêu chuẩn của việc tu
thân là đạt đạo ( thực hiện năm đạo là quân-thần, phụ-tử, phu-phụ, huynh-đệ, bằnghữu cịn gọi là ngũ ln); đạt đức ( có 3 điều Trí, Nhân, Dũng); biết thi - thư - lễ nhạc. Bổn phận của người quân tử là phải hành đạo đem hiểu biết của mình ra cai
trị đất nước. Quá trình hành đạo bắt đầu từ Tu thân, Te gia, Trị quốc, Bình thiên hạ.
Phương trâm của người cai trị là dùng Nhân trị và Chính danh.

- Thứ hai đạo đức cá nhân (tức là nhân, nghĩa, lễ, tín)
Nhân - nghĩa:
Khổng Tử cho rằng do sự chi phối của “thiên lý” của “đạo” các sự vật
hiện tượng trong vũ trụ ln biến hố khơng ngừng, sự sinh thành biến hoá
của vũ trụ bao giờ cũng nhờ sự “trung hoà” giữa âm dương, trời đất, con
người là kết quả bẩm thụ tinh khí của âm dương mà trời đất hình thành tn
theo “thiên lý” hợp với đạo “trung hồ” đạo sống của con người phải là
“trung duy”, “trung thứ”, nghĩa là sống đúng với mình, đúng với người đó là
nhân. Nhân bao hàm cả “thân” và “ái” như vậy nhân là đức tính hồn thiện,
là cái gốc đạo đức của con người nhân chính là đạo làm người.
Nghĩa: Khi nói đến “nhân” Khổng Tử ln chú trọng đến hành vi, coi
“nhân” là chuẩn mực của hành vi. Mạnh Tử nói “nhân” thì quan tâm đến thái
độ trong nội tâm “nhân” là thái độ phải có trong nội tâm của con người.
“Nghĩa” là chuẩn mực mà hành vi của con người phải tn theo. Theo Mạnh
Tử: điều khơng đúng thì khơng làm, điều đúng thì làm, đó chính là “nghĩa”.
- Lễ : để làm người có nhân thì phải tự sửa mình theo lễ.
Lễ trước hết là hiểu được những lễ nghi , những vi phạm đạo đức quy
định quan hệ giữa người với người. Lễ được xem như là một lẽ phải, là bổn
10



phận mà mọi người có nghĩa vụ phải tuân theo. Nhưng quan trọng hơn cả là
xét trên lĩnh vực chính trị, lễ đó là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nhà
nước phong kiến
“ Quân sử thần dĩ lễ
Thần sử qn dĩ trung”
- Trí: Là trước nói mà sau làm cho xứng đáng. Phàm người ta lấy hết trí
tuệ cho hành vi mình muốn hay khơng muốn trước khi làm.
Trong Nho giáo rất chú trọng dạy đạo làm người. Phải nói đạo làm
người của Khổng Tử dạy là đạo làm người trong xã hội phong kiến. Chúng ta
đều biết trong xã hội có giai cấp thì những ngun tắc để đánh giá hành vi của
con người, phẩm hạnh của con người trong mối quan hệ với người khác và
trong mối quan hệ với nhà nước, Tổ quốc… đều mang tính giai cấp rõ rệt và
có tính chất lịch sử. Những quan niệm về đạo đức điều thiện, điều ác “thay
đổi rất nhiều từ dân tộc này tới dân tộc khác, từ thời đại này đến thời đại khác
đến nỗi thường thường trái ngược hẳn nhau” (Enghen).
Những quan niệm đạo đức mà Khổng Tử đề ra không phải là vĩnh cửu,
nhưng có nhiều phương châm xử thế, tiếp vật đã giúp ơng sống giữa bầy lang
sói mà vẫn giữ được tâm hồn cao thượng, nhân cách trong sáng. Duy đến
cùng đạo làm người ấy bao gồm 2 chữ nhân nghĩa.
Khổng Tử giảng chữ Nhân cho học trị khơng lúc nào giống lúc nào,
nhưng xét cho kỹ, cốt tuỷ của chữ Nhân là lịng thương người và cũng chính
là Khổng Tử nói “đối với người như đối với mình, khơng thi hành với người
những điều mà bản thân không muốn ai thi hành với mình cả. Hơn nữa, cái
mình muốn lập cho mình thì phải lập cho người, cái gì mình muốn đạt tới thì
cũng phải làm cho đạt tới, phải giúp cho người trở thành tốt hơn mà không
làm cho người xấu đi” (luận ngữ). “Nghĩa” là lẽ phải, đường hay, việc đúng.
Mạnh Tử nói “nhân là lịng người, nghĩa là đường đi của người” (Cáo Tử
Thượng); “Nhân là cáo nhà của người, nghĩa là đường đi ngay thẳng của
người” (Lâu Ly Thượng); “Ở với đạo nhân, nói theo đường nghĩa, tất cả mọi

việc của đại nhân là thế đó” (Tồn tâm thương).
11


Nghĩa thường đối lập với lợi. Theo lợi có khi không làm cái việc phải
làm nhưng trái lại, theo nghĩa có khi lại rất lợi. Có cái nghĩa đối với người
xung quanh có cái nghĩa đối với quốc gia xã hội.
Đến đời Hán Nho, Đổng Trọng Thư đưa nhân nghĩa vào ngũ thường.
Tam cương ngũ thường trở thành giềng mối trụ cột của lễ giáo phong kiến.
Sang Tống nho, hai chữ nhân nghĩa càng bị trừu tượng hoá. Các nhà Tống
nho căn cứ vào thuyết “thiện nhân hợp nhất” khoác cho hai chữ “nhân nghĩa”
một màu sắc thần lá siêu hình. Trời có “lý” người có “tính” bẩm thụ ở trời.
Đức của trời có 4 điều: nguyên, hạnh, lợi, trinh; đức của người có nhân,
nghĩa, lễ, trí. Bốn đức của người tương cảm với bốn đức của trời.
Hệ thống hoá lại một cách tóm tắt hai chữ “nhân nghĩa” ở một số thời
điểm phát triển của Nho giáo như trên, ta có thể kết luận hai chữ “nhân nghĩa”
của Nho giáo là khái niệm thuộc phạm trù đạo lý, nội dung từng thời kì có
thêm bớt những căn bản vẫn là những lễ giáo phong kiến khơng ngồi mục
đích duy nhất là ràng buộc con người vào khuôn khổ pháp lý Nho giáo phục
vụ quyền lợi của giai cấp phong kiến. Trong q trình phát triển càng ngày nó
càng bị trừu tượng hố trên quan điểm siêu hình.
Tuy nhiên quan niệm đạo đức của Nho giáo quả là có rất nhiều điểm tích
cực. Một trong những đặc điểm đó là đặt rõ vấn đề người quân tử, tức là
người lãnh đạo chính trị phải có đạo đức cao cả; dù ngun tắc ấy khơng được
thực hiện trong thực tế nó vẫn là một điểm làm chỗ dựa cho những sĩ phu đấu
tranh. Nho giáo đã tạo ra cho kẻ sĩ một tinh thần trách nhiệm cao cả với xã
hội. Truyền thống hiếu học, truyền thống khí tiết của kẻ sĩ khơng thể bảo là di
sản của Nho giáo chỉ có tiêu cực.

12



Chương 2
ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO TỚI VIỆC GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO THANH NIÊN HUYỆN VĨNH TƯỜNG
HIỆN NAY
2.1. Ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức Nho giáo ở nước ta hiện
nay
Nho giáo được du nhập vào nước ta và đã tồn tại trong suốt thời kỳ
phong kiến. Trong khoảng thời gian khơng ngắn đó, lịch sử tư tưởng Việt
Nam đã tiếp thu nhiều tư tưởng khác như Phật giáo, Đạo giáo.... Đã có thời kỳ
Phật giáo giữ vai trị chính yếu, nhưng nhìn chung càng về sau Nho giáo càng
chiếm ưu thế và trở thành công cụ tư tưởng cho các triều đại phong kiến Việt
Nam. Do có thời gian tồn tại lâu dài, do được các triều đại phong kiến tiếp thu
và sử dụng có mục đích, cho nên Nho giáo có ảnh hưởng sâu rộng ở nhiều
lĩnh vực. Đặc biệt, tư tưởng đạo đức Nho giáo đã trở thành cơ sở cho đạo đức
thời phong kiến Việt Nam và ngày nay ảnh hưởng của nó vẫn cịn.
Đức Nhân, Nghĩa của Nho giáo đã làm cho con người có sự đối xử
nhân ái, khoan dung, độ lượng với nhau. Đức lễ, với hệ thống các qui định
chặt chẽ đã giúp con người có thái độ và hành vi ứng xử với nhau theo thứ
bậc, theo khn phép. Xét theo phương diện pháp luật thì lễ của Nho giáo có
tác dụng tích cực trong việc duy trì trật tự, kỷ cương của xã hội, ngày nay
chúng ta có thể kế thừa. Nho giáo quan niệm trong nước cần phải có pháp lễ
(luật pháp) thì nước mới nghiêm; trong gia đình phải có gia pháp thì mới có
trên có dưới. Điều này đã tạo cho con người nếp sống trên kính dưới nhường.
Tư tưởng chính danh giúp cho con người xác định được nghĩa vụ và trách
nhiệm của mình để từ đó suy nghĩ và xử thế đúng trong các quan hệ xã hội.
Nét đặc sắc của Nho giáo là chú trọng đến vấn đề tu dưỡng đạo đức cá
nhân, đặc biệt là chú ý đến đạo đức người cầm quyền (những người có chức,
quyền). G.S. Vũ Khiêu đã nhận xét: Ở đây Nho giáo đã nhận thức được một

13


thực tế là những người trong bộ máy nhà nước mà mất đạo đức thì khơng thể
cai trị được nhân dân. Cho nên đạo đức là một phương tiện để tranh thủ được
lòng dân. Theo Nho giáo, đạo đức người cầm quyền có ảnh hưởng lớn đến sự
hưng vong của một triều đại. Vì vậy, Khổng Tử khuyên người cầm quyền phải
“tu thân” để làm tấm gương cho người dưới. Với việc đề cao tu thân, coi đây
là cái gốc trong rèn luyện nhân cách, Nho giáo đã tạo nên một lớp người sống
có đạo đức. Trong lịch sử dân tộc Việt nam đã có nhiều tấm gương sáng ngời
về đạo đức của các vị vua, của các anh hùng hào kiệt. Theo các nhà kinh điển
của Nho giáo, người làm quan phải có đức, phải lấy nhân nghĩa, lấy chữ tín
làm mục tiêu để cảm hóa lịng người, để cai trị. Muốn vậy, phải đặt lợi ích của
thiên hạ lên trên lợi ích của vua quan. Thiết nghĩ, ngày nay tư tưởng nêu trên
vẫn còn nguyên giá trị. Người cán bộ trong bộ máy nhà nước phải có đức, đó
là điều kiện đầu tiên để dân tin u, kính phục. Nho giáo coi những người làm
quan mà hà hiếp dân là độc ác, để dân đói rét là nhà vua có tội. Nho giáo đã
đề cao việc cai trị dân bằng đạo đức, bằng nhân nghĩa, bằng lễ giáo. Muốn
thực hiện được đường lối đức trị, người cầm quyền phải ln “tu, tề, trị,
bình”.
Bên cạnh ảnh hưởng tích cực, Nho giáo cũng có một số tác động tiêu
cực, cụ thể là:
Một số người do quá “trọng đức”, “duy tình” trong khi xử lý các công
việc và các mối quan hệ xã hội, dẫn đến buông lỏng kỷ cương phép nước và
vi phạm pháp luật. Coi trọng đạo đức là cần thiết nhưng vì tuyệt đối hóa vai
trị của đạo đức mà quên pháp luật là sai lầm. Tiếp thu truyền thống trọng đức
của phương Đông, nhấn mạnh quan hệ đạo đức “thân thân”, “thân hiền” của
Nho giáo, nhiều người khi có chức quyền đã kéo bè kéo cánh, đưa người thân,
anh em họ hàng vào cơ quan mình đang quản lý. Sắp xếp và bố trí cán bộ
khơng theo năng lực, trình độ và địi hỏi của cơng việc mà dựa vào sự thân

thuộc, gần gũi trong quan hệ tơng tộc, dịng họ. Trong cơng tác tổ chức cán
bộ, vì đề cao quan hệ thân thích dẫn đến tư tưởng cục bộ địa phương. Nhiều
14


người vì quan hệ thân thuộc mà khơng dám đấu tranh với những sai lầm của
người khác. Do quan niệm sai lệch về đức Nhân Nghĩa với nội dung đền ơn
trả nghĩa mà trong thực tế một số cán bộ có thái độ ban ơn, cố tình lợi dụng kẽ
hở của chính sách và luật pháp để trục lợi, móc ngoặc, hối lộ, cửa
quyền....Thậm chí, một số người dùng tư tưởng gia trưởng để giải quyết các
công việc chung. Một trong những phẩm chất của người lãnh đạo là tính
quyết đoán. Nhưng quyết đoán theo kiểu độc đoán, chuyên quyền là biểu hiện
của thói gia trưởng.
Việc coi trọng lễ và cách giáo dục con người theo lễ một cách cứng
nhắc, bảo thủ là cơ sở cho tư tưởng tôn ti, tư tưởng bè phái, cục bộ, đề cao địa
vị, coi thường lớp trẻ, trọng nam khinh nữ. hiện nay vẫn cịn tồn tại trong suy
nghĩ và hành động của khơng ít người. Những tư tưởng trên phản ánh cơ sở
hạ tầng của xã hội phong kiến phụ quyền gia trưởng: Đứng đầu gia đình là
người cha, người chồng gọi là gia trưởng, đứng đầu dòng họ là trưởng họ, đại
diện cho cả làng là ông lý, cả tổng là ông chánh, hệ thống quan lại là cha mẹ
dân và cao nhất là vua (thiên tử - gia trưởng của gia đình lớn - quốc gia,
nước). Vì vậy, mọi người có nghĩa vụ theo và lệ thuộc vào “gia trưởng”.
Thực chất đạo cương - thường của Nho giáo là bắt bề dưới phải phục
tùng bề trên đã tạo nên thói gia trưởng. Thói gia trưởng biểu hiện ở quan hệ
xã hội, ở tổ chức nhà nước. Trong gia đình là quyền quyết định của người cha,
người chồng :”cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”; “phu xướng phụ tòng” (chồng
đề xướng, vợ phải theo). Ở cơ quan là quyền duy nhất là của lãnh đạo. Ở đâu
vẫn cịn có cán bộ mang tư tưởng gia trưởng, bè phái thì ở đó quần chúng
nhân dân sẽ không phát huy được khả năng sáng tạo, chủ động được. Ngày
nay, trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang rất

cần những con người năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm và dám chịu
trách nhiệm.
Cũng từ việc coi trọng lễ giáo, coi trọng quan hệ gia đình thân thuộc
nên nhiều người đã đưa quan hệ gia đình vào cơ quan hình thành nên quan hệ
15


“chú cháu”, “anh em” khiến cho người cấp dưới không dám góp ý và đấu
tranh với khuyết điểm của họ vì vị nể bậc cha chú. Từ việc xem xét và giải
quyết các vấn đề của xã hội thông qua lăng kính gia đình nhiều khi dẫn đến
những quyết định thiếu khách quan, không công bằng. Tư tưởng trọng nam
khinh nữ đã dẫn đến một số người lãnh đạo không tin vào khả năng của phụ
nữ, ngại tiếp nhận nữ giới vào cơ quan hoặc cho rằng họ chỉ là người thừa
hành mà khơng được tham gia góp ý kiến...là những trở ngại cho việc đấu
tranh vì quyền bình đẳng giới. Vì quan hệ thứ bậc đã tạo nên quan niệm chạy
theo chức quyền. Trong xã hội phong kiến, địa vị luôn gắn với danh vọng và
quyền lợi. Địa vị càng cao thì quyền và lợi càng lớn. Hơn nữa, khi có chức,
khơng những bản thân được vinh hoa phú quý mà “một người làm quan cả họ
được nhờ”. Hám danh, tìm mọi cách để có danh, để thăng quan, tiến chức đã
trở thành lẽ sống của một số người. Thạm chí việc học tập theo họ cũng là
“học để làm quan”.
Sự giáo dục và tu dưỡng đạo đức của Nho giáo cịn mang tính cứng
nhắc đã tạo nên những con người sống theo khuôn mẫu, hành động một cách
thụ động. Những tàn dư tư tưởng trên đang làm cản trở và gây khó khăn cho
việc xây đựng đạo đức mới và xã hội mới ở nước ta hiện nay.
Qua những điều phân tích ở trên có thể thấy rằng, tư tưởng đạo đức
Nho giáo đã có ảnh hưởng đáng kể ở nước ta. Sự tác động, ảnh hưởng này ở
hai mặt vừa có tính tích cực, vừa có những hạn chế nhất định.
Để xây dựng đạo đức mới cho cơn người Việt Nam hiện nay chúng ta
cần kế thừa mặt tích cực, đồng thời khắc phục và xóa bỏ dần những ảnh

hưởng tiêu cực của tư tưởng đạo đức Nho giáo. Công việc này phải được tiến
hành thường xuyên, kiên trì và lâu dài.
2.2. Ảnh hưởng của đạo đức nho giáo tới giáo dục đạo đức cho thanh niên
huyện vĩnh Tường hiện nay
Thanh niên huyện Vĩnh Tường trải qua hơn 20 năm đổi mới, những
thành tựu đạt được trong mọi lĩnh vực đã tác động tích cực đến thanh niên, tạo
16


điều kiện cho họ tiến bộ về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, trình độ học
vấn, khoa học công nghệ. Thanh niên đã kế tục xứng đáng sự nghiệp cách
mạng của Đảng. Trên các lĩnh vực của đời sống xã hội đã và đang xuất hiện
những nhà quản lý, nhà doanh nghiệp, nhà khoa học, nhà hoạt động nghệ
thuật có đức, có tài trong độ tuổi thanh niên. Nét nổi bật của thanh niên nước
ta là ý chí vươn lên, tinh thần cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất, ham
mê nghiên cứu và ứng dụng khoa học cơng nghệ để thốt khỏi nghèo nàn, lạc
hậu, làm giàu cho bản thân, gia đình và xã hội.
Tuyệt đại bộ phận thanh niên cơ bản giữ vững đạo đức cách mạng, sống
trong sạch, giản dị, lành mạnh, biết vươn tới các giá trị chân, thiện, mỹ. Thanh
niên sống có hồi bão, có lý tưởng, có niềm tin ở tương lai tươi sáng của dân
tộc. Họ dám đấu tranh để bảo vệ cái đúng, bảo vệ lẽ phải, bảo vệ sự công
bằng, lên án cái xấu, cái ác như tham nhũng, lãng phí… Những tấm gương
cao đẹp hy sinh thân mình vì hạnh phúc của nhân dân ln được tuổi trẻ
ngưỡng mộ, học tập và làm theo. Điều đó cho thấy, thanh niên nước ta ngày
nay vẫn ý thức rõ trách nhiệm trước Tổ quốc và nhân dân, mong muốn được
đóng góp vào cơng việc xây dựng đất nước ta đàng hồng hơn, to đẹp hơn
như Bác Hồ kính u hằng mong ước.
Tuy nhiên, mặt trái của kinh tế thị trường, những thách thức của hội
nhập kinh tế thế giới, đặc biệt những âm mưu thủ đoạn nham hiểm của các thế
lực thù địch đang tác động mạnh mẽ đến thanh niên, khiến cho khơng ít người

chạy theo lối sống thực dụng, sa ngã, hư hỏng, xa rời các giá trị đạo đức tốt
đẹp của dân tộc , có thái độ thờ ơ, bàng quan trước các sự kiện kinh tế, chính
trị của đất nước. Một số thanh niên mơ hồ về bản chất, âm mưu, thủ đoạn của
kẻ thù. Điều nguy hiểm hiện nay là đã xuất hiện một bộ phận thanh niên tôn
thờ chủ nghĩa cá nhân, sống ích kỷ, chạy theo lợi ích vật chất, coi đồng tiền là
trên hết. Cá biệt có một số thanh niên phạm vào các tệ nạn xã hội, vi phạm
pháp luật. Nhiều vụ án được khám phá trong thời gian gần đây cho thấy tỷ lệ
phạm tội trong thanh niên có chiều hướng gia tăng.
17


Một trong các nguyên nhân của những biểu hiện yếu kém nêu trên là do
chúng ta chưa thật sự quan tâm giáo dục đạo đức, lối sống cho thế hệ trẻ trước
những biến đổi to lớn của đất nước. Nội dung giáo dục đạo đức, lối sống còn
thiếu chiều sâu, chưa thiết thực. Hình thức giáo dục đạo đức, lối sống cịn sơ
sài, chưa có sức hấp dẫn, lơi cuốn thanh niên. Sự phối kết hợp giữa các cơ
quan chức năng, giữa nhà trường, gia đình, xã hội cịn nhiều hạn chế.
Từ thực trạng trên đây, Đảng ủy huyện Vĩnh tường đã đặc biệt chú
trọng giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên. Phát huy vai trò to lớn của
thanh niên trong sự nghiệp cách mạng là việc làm quan trọng và mang tính
cấp thiết và nhận thức rõ giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên hiện nay
là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của mỗi gia đình và tồn xã hội với
nội dung sâu rộng, hình thức phong phú đa dạng. Trước hết, tập trung thực
hiện có hiệu quả các giải pháp dưới dây:
Một là, thường xuyên chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng, lối sống
trong sạch, lành mạnh cho thanh niên.
Đây là giải pháp cơ bản nhằm xây dựng, hình thành nhân cách con
người mới xã hội chủ nghĩa cho thanh niên, vì đạo đức là “gốc của người cách
mạng”. Trước hết cần quan tâm giáo dục những vấn đề cơ bản về chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh, nhằm xây dựng

cho thanh niên thế giới quan, phương pháp luận đúng đắn để giải quyết những
vấn đề do thực tiễn đặt ra. Chú trọng giáo dục làm cho thanh niên nhận thức
đúng các giá trị chân, thiện, mỹ, những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân
tộc. Nhà trường, gia đình, các tổ chức, đồn thể, đặc biệt Đồn thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh phải thường xuyên quan tâm bồi dưỡng cho thanh
niên những tình cảm cao đẹp về tình yêu quê hương, đất nước: “mình vì mọi
người, mọi người vì mình”, “thương người như thể thương thân”, qn mình
vì nghĩa lớn… Từ đó hình thành cho họ lối sống trong sạch, lành mạnh,
những hành vi đạo đức trong sáng phù hợp với các giá trị truyền thống tốt đẹp
của dân tộc và thời đại.

18


Để việc giáo dục bồi dưỡng có hiệu quả, cần tổ chức tốt các phong trào
hành động cách mạng của thanh niên mà tiêu biểu là phong trào: “Thanh niên
lập nghiệp và tuổi trẻ giữ nước”, “Thanh niên tình nguyện”, “Chiến dịch mùa
hè xanh”…
Hai là, phải kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong
việc giáo dục, rèn luyện đạo đức, lối sống cho thanh niên.
Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp
của các tổ chức, các lực lượng cùng chăm lo giáo dục, rèn luyện đạo đức, lối
sống cho thanh niên, hình thành phẩm chất cao đẹp của con người mới
XHCN.
Trước hết gia đình là nơi lưu giữ các giá trị đạo đức truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, là mơi trường đầu tiên hình thành đạo đức cho thanh niên.
Gia đình là nơi mà tình yêu quê hương, đất nước, yêu thương con người được
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Do đó trong gia đình, ơng bà, cha mẹ
phải thật sự mẫu mực, làm gương về đạo đức, yêu thương, chăm lo bồi dưỡng
thế hệ trẻ. Hiện nay do sức ép về lao động, việc làm khiến cho khơng ít các

bậc làm cha, làm mẹ mải miết mưu sinh hoặc chỉ lo làm giàu mà thiếu quan
tâm việc giáo dục đạo đức cho con cái, hoặc khoán trắng cho nhà trường và
xã hội. Nhiều khi con cái vi phạm đạo đức hoặc vi phạm pháp luật mà cha mẹ
không hề hay biết, hoặc khơng biết cách ngăn chặn, phịng ngừa. Để giáo dục
đạo đức cho thanh niên, mỗi gia đình cần giữ gìn đạo đức, nề nếp gia phong,
phát huy các giá trị đạo đức truyền thống, làm cho các giá trị đó ngày càng toả
sáng, góp phần bồi dưỡng tư tưởng tình cảm cao đẹp cho thế hệ con cháu.
Nhà trường không chỉ dạy chữ, dạy nghề mà còn là nơi dạy người.
Giáo dục lý tưởng, đạo lý làm người là nội dung giáo dục hàng đầu trong nhà
trường hiện nay và phải đặc biệt coi trọng. Một số nhà trường mới chỉ quan
tâm trang bị kiến thức chuyên môn, tay nghề mà xem nhẹ hoặc thiếu quan tâm
giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên.
Thanh niên ngày nay đang sống trong thời kỳ bùng nổ thông tin, kinh tế
tri thức phát triển mạnh mẽ, giao lưu quốc tế ngày càng mở rộng. Thanh niên
19


đã và đang chịu ảnh hưởng cả mặt tích cực và mặt tiêu cực từ môi trường kinh
tế, xã hội. Vì vậy các tổ chức, đồn thể, các đơn vị lực lượng vũ trang cần
quan tâm định hướng tạo môi trường thuận lợi để thanh niên phấn đấu, rèn
luyện, trưởng thành. Cấp uỷ đảng, chính quyền, mặt trận, đồn thể, nhất là
Đồn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh cần tổ chức nhiều hoạt động phong
phú, đa dạng để thu hút, tập hợp thanh niên, rèn luyện thanh niên theo các
chuẩn mực đạo đức cách mạng. Kịp thời biểu dương, nhân rộng cách làm hay
và kiên quyết uốn nắn những thiếu sót, lệch lạc, những biểu hiện lệch chuẩn
trong đạo đức, lối sống của thanh niên.
Ba là, phát huy vai trò tự học tập, tự du dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối
sống của thanh niên.
Thanh niên là lớp người trẻ, khoẻ, có nhiệt tình cách mạng, nhạy cảm
với cái mới, cái tiến bộ. Phát huy vai trò của thanh niên trong tự học tập, tự tu

dưỡng đạo đức lối sống là biện pháp quan trọng giúp họ nhanh chóng tiến bộ,
trưởng thành. Đó cịn là điều kiện quyết định kết quả rèn luyện của mỗi cá
nhân. Trước hết phải hình thành cho thanh niên nhu cầu, động cơ phấn đấu,
rèn luyện đúng đắn, làm cho mỗi người có ý thức làm chủ, ham học hỏi, cầu
tiến bộ, vươn lên tự khẳng định mình. Cần tạo mọi điều kiện thuận lợi để
thanh niên phấn đấu, rèn luyện; đồng thời phải thường xuyên theo dõi, kiểm
tra, đánh giá kết quả, định hướng phấn đấu cho thanh niên. Quan tâm đáp ứng
những nhu cầu chính đáng của thanh niên về vật chất, tinh thần; giao nhiệm
vụ phù hợp với sở trường, năng khiếu đặc điểm tâm, sinh lý của họ sẽ tạo điều
kiện tốt để thanh niên rèn luyện đạo đức, lối sống. Mỗi thanh niên phải xác
định rõ trách nhiệm trước Tổ quốc và nhân dân, sống có lý tưởng, có hồi
bão, khát khao vươn tới cái mới, cái tiến bộ. Bản thân mỗi người tự giác rèn
luyện, biết tự kiềm chế, biết vượt qua những cám dỗ và tiêu cực xã hội, những
biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, thực dụng, lợi mình hại người. Thanh
niên cần phải tự tin vào chính mình, giữ vững niềm tin trong cuộc sống, vào

20


các giá trị chân, thiện, mỹ; vượt qua mọi khó khăn gian khổ như Bác Hồ đã
dạy: “gian nan rèn luyện mới thành công”.
Bốn là, kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn
Huyện đoàn đã phát động các phong trào thi đua lao động sản xuất,
phát triển kinh tế sôi nổi trong ĐVTN, Với tổng số hơn 32 nghìn ĐVTN, sinh
hoạt ở 48 cơ sở Đồn, các cấp bộ Đồn trong huyện Vĩnh Tường đóng vai trị
là người bạn của thanh niên, đồng hành cùng thanh niên trong các phong trào
hoạt động, vừa tạo việc làm, tăng thu nhập cho bản thân và gia đình, vừa tạo
việc làm cho lao động địa phương”. Bên cạnh đó, nhằm thực hiện có hiệu quả
phong trào “5 xung kích phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc”, “4
đồng hành với thanh niên trên con đường lập thân, lập nghiệp”, Ban Thường

vụ Đồn TNCS Hồ Chí Minh huyện đã phối hợp với Ngân hàng Chính sách
xã hội tạo điều kiện cho ĐVTN vay vốn phát triển kinh tế gia trại, trang trại
và sản xuất, kinh doanh. Ðến nay, tồn huyện đã có 33 tổ tiết kiệm vay vốn,
với tổng số vốn vay 17,6 tỷ đồng cho 1.090 hộ thanh niên vay. Huyện Đoàn
đã phối hợp triển khai các dự án vay vốn ưu đãi cho ĐVTN từ các nguồn quỹ
như giải quyết việc làm, tài năng trẻ cho 9 dự án phát triển kinh tế của thanh
niên ở các đơn vị như: Vĩnh Sơn, Thổ Tang, Vĩnh Ninh, Phú Thịnh, Tân
Cương, Cao Đại, Vĩnh Thịnh với tổng số tiền gần 1 tỷ đồng. Ngoài ra, các cấp
bộ Ðoàn trong huyện đã phối hợp với các ngành chức năng tổ chức tư vấn
hướng nghiệp cho 7.500 ĐVTN, học sinh; giới thiệu việc làm miễn phí cho
4.155 thanh niên. Trong năm 2011 Huyện Đồn đã tổ chức đón, tư vấn hướng
nghiệp, giải quyết việc làm cho gần 400 bộ đội xuất ngũ trở về địa phương;
thành lập được 17 CLB với các loại hình như: “thanh niên giúp nhau phát
triển kinh tế”, “CLB 3K-kỹ thuật, kỹ năng, kinh doanh”… thu hút 726 thanh
niên tham gia.
Nhiều ĐVTN trong huyện tích cực chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật
nuôi, áp dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp; phát triển các
ngành nghề dịch vụ, ngành nghề truyền thống; xây dựng các mơ hình phát

21


triển kinh tế trên nhiều lĩnh vực, vận dụng sáng tạo để nâng cao thu nhập, cải
thiện cuộc sống.

22


KẾT LUẬN
Công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên huyện Vĩnh

Tường trong giai đoạn hiện nay có nhiều điều kiện thuận lợi nhưng cũng có
rất nhiều nguy cơ và thách thức to lớn, đòi hỏi những người làm cơng tác tư
tưởng phải có thái độ đúng đắn, có cái nhìn khách quan và thực tế hơn.
Hiện nay ở Vĩnh Tường rất nhiều thanh niên có ý chí vươn lên trong
học tập, có hồi bão khát vọng lớn. Tuy nhiên, dưới tác động của nền kinh tế
thị trường và cơ chế mở cửa thì nhiều thanh niên đã có hành vi lệch lạc, lối
sống thiếu văn hóa đang có xu hướng ngày càng tăng. Một số hành vi, vi
phạm pháp luật của thanh niên khiến gia đình và xã hội lo lắng như: Đua xe
trái phép, bạo lực học đường, hành xử thiếu văn hóa… Một số hành vi lệch
chuẩn khác về đạo đức như: Sống hưởng thụ, chạy theo đồng tiền, xa hoa lãng
phí, lười lao động... Tất cả những điều đó chủ yếu là do việc giáo dục khơng
đồng bộ giữa gia đình, nhà trường và xã hội.
Trước tình hình như vậy Đảng ủy huyện Vĩnh Tường xác định công tác
tư tưởng hay tuyên truyền giáo dục đạo đức được coi trọng hàng đầu. Để nâng
cao nhận thức tư tưởng, lối sống đạo đức với văn hóa lành mạnh cho thanh
niên. Đặc biệt để phù hợp với điều kiện nhận thức của thanh niên đa số là
nông dân huyện Vĩnh Tường đã phát huy những tư tưởng đạo đức tích cực
của nho giáo đề cao sự “tu thân” với giá trị “nhân, nghĩa, lễ,tín” và đưa ra
nhiều chương trình, kế hoạch quan tâm đến việc giáo dục đạo đức cho thanh
niên để họ hiểu rõ hơn tạo ra mơi trường sống lành mạnh có văn hóa thân
thiện phù hợp với truyền thống quý báo của dân tộc. Tránh xa những cạm bẫy,
tệ nạn xã hội, sống tốt hơn trước là cho mình sau là cho gia đình, người thân
và xã hội. Đảng và nhà nước tăng cường chỉ đạo giáo dục đạo đức cho thanh
niên. Bên cạch đó Tổ chức đồn cũng chăm lo giáo dục đạo đức cho phù hợp
với tình hình mới, Đẩy mạnh công tác tuyền và vận động tuổi trẻ học tập làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
23


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Pham Đại Doãn, Một số vấn đề về Nho giáo Việt Nam, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội 1998
2. Nguyễn Đăng Duy, Nho giáo với văn hoá Việt Nam - Nxb Hà Nội, 1998
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ 9.
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2001
4. Dương Xuân Ngọc (chủ biên), Lịch sử tư tưởng chính trị,Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội 2001
5. Vũ Kiêu, Nho giáo xưa và nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1991
6. Hồ Chí Minh tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2000

24


MỤC LỤC

25


×