Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Khảo sát hiện tượng từ đạo hạnh ở hà nội (qua truyện kể và lễ hội)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (393.85 KB, 17 trang )


1
Khảo sát hiện tượng Từ Đạo Hạnh ở Hà Nội
(Qua truyện kể và lễ hội)

Vũ Thị Huế

Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn; Khoa Văn học
Chuyên ngành: Văn học Dân gian; Mã số: 60 22 01 25
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Nguyệt
Năm bảo vệ: 2012

Abstract. Tổng quan về vùng văn hóa Hà Nội, Hà Tây (cũ) và nguồn gốc của hiện
tượng Từ Đạo Hạnh. Tìm hiểu về con người và cuộc đời Từ Đạo Hạnh. Khảo sát
truyền thuyết, lễ hội về Từ Đạo Hạnh.

Keywords. Văn học dân gian; Văn hóa dân gian; Hà Nội; Lễ hội

Content.
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ Đạo Hạnh (? - 1117) tục gọi là đức Thánh Láng, Thánh Từ, là một thiền sư
nổi tiếng Việt Nam thời nhà Lý. Cuộc đời ông được ghi lại dưới nhiều màu sắc huyền
thoại. Ông là một trong những hiện tượng văn hóa chứa nhiều nghịch lý.
Từ Đạo Hạnh được biết đến không chỉ là một thiền sư, ông còn là một danh nhân văn hóa
- lịch sử, một tác giả văn học. Ông có tên húy (Từ Lộ), cha ông là Từ Vinh, mẹ ông là bà Tăng
Thị Loan. Quê ông tại hương Yên Lãng, nay thuộc phường Láng Thượng, quận Đống Đa, Hà
Nội. Từ một con người xác thực, Từ Đạo Hạnh đã chuyển hóa dần thành nhân vật thần linh,
truyền thuyết, nhân vật của truyện cổ tích. Ông được tôn vinh vào hàng Thánh, Thánh Láng,
thánh Từ Đạo Hạnh, tương truyền ông có phép thần thông, thác sinh làm vua Lý Thần Tông
(1128 - 1138), sau còn là hậu thân Lê Thần Tông (1619 - 1643).


Tìm hiểu truyền thuyết về Từ Đạo Hạnh, chúng tôi muốn lý giải con đường dân
gian hóa, Phật thoại hóa từ hiện tượng Từ Đạo Hạnh, để thấy được sự đặc biệt của
hiện tượng này trong văn học dân gian.
Hiện tượng Từ Đạo Hạnh không chỉ được lưu truyền trong truyền thuyết mà còn
tồn tại trong những lễ hội dân gian cho tới ngày nay. Lễ hội chùa Láng, lễ hội chùa Thầy
(Hà Nội) là hai lễ hội lớn về Từ Đạo Hạnh.
Trong giai đoạn hiện nay, việc gìn giữ và phát triển văn hóa dân gian rất quan trọng. Vì
vậy một vấn đề đặt ra là cần phải tìm hiểu các nhân vật dân gian, thông qua các văn bản
truyện kể, song song với việc tìm hiểu qua đời sống tâm linh của người dân, cụ thể là qua
các lễ hội dân gian. Khảo sát hiện tượng Từ Đạo Hạnh ở hai phương diện truyền thuyết và
lễ hội, giúp cho chúng ta hiểu rõ hơn một trong những đặc trưng của văn học dân gian, đó

2
là tính nguyên hợp truyền thuyết thường gắn liền với lễ hội. Đây cũng là hướng nghiên
cứu đồng thuận trong xu hướng đặt văn học dân gian trong tổng thể văn hóa dân gian.



2. Lịch sử vấn đề
- Về mặt văn bản sưu tầm, hành trạng của ông sớm được văn bản hóa
trong sử sách.
Trước tiên, phải kể đến bài minh khắc trên chuông chùa Thiên Phúc do đệ tử
của Đạo Hạnh là Huệ Hưng soạn vào năm 1109. Theo Lê Quý Đôn trong Kiến văn tiểu
lục [12]: Từ Đạo Hạnh đã đúc chuông chùa Thiên Phúc vào năm Long Phù Nguyên Hóa
thứ 9, Huệ Hưng soạn bài minh, nghệ nhân Lang Nghiêm Thường đúc chữ, về sau người
ta khắc sắc chỉ của vua Trần Anh Tông.
Ngoài ra, truyện về Từ Đạo Hạnh còn được ghi chép trong nhiều tư liệu cổ như:
An Nam chí lược [64], Thiền uyển tập anh [77], Việt điện u linh [87], Đại Việt sử ký
toàn thư [34], Lĩnh Nam chích quái [52], Tân đính Lĩnh Nam chích quái [53], Việt sử
giai thoại [74], Thơ văn Lý - Trần [43], Từ điển văn học [41], Kho tàng truyện cổ tích

Việt Nam [4], Truyền thuyết dân gian người Việt [22], Lễ hội Việt Nam [84], Kho
tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam [39]…
Có thể thấy dưới mỗi thời đại, mỗi điểm nhìn văn hóa, mỗi tư duy tiếp cận khác
nhau, các nhà biên soạn đã có những ghi chép, đánh giá riêng về hiện tượng này.
Nhưng dù tiếp cận ở góc độ nào, câu chuyện về Từ Đạo Hạnh vẫn luôn luôn được
thêu dệt, huyền thoại hóa, dân gian hóa.
- Về mặt nghiên cứu:
+ Nhóm các công trình nghiên cứu về lễ hội dân gian nói chung và lễ hội về Từ
Đạo Hạnh nói riêng: Hai công trình dày dặn nhất về lễ hội nói chung là Kho tàng lễ hội cổ
truyền Việt Nam và Lễ hội Việt Nam là pho từ điển về lễ hội của ba miền Bắc - Trung -
Nam đã khảo sát diện mạo cụ thể, làm rõ những đặc trưng riêng của mỗi lễ hội từ địa
điểm, thời gian tổ chức, di tích thờ cúng - nơi diễn ra lễ hội, nhân vật phụng thờ, diễn biến
lễ hội, giá trị văn hóa của lễ hội.
+ Nhóm các bài nghiên cứu về Từ Đạo Hạnh và các hiện tượng liên quan tới
nhân vật này:
Các công trình nghiên cứu về Phật giáo: Lịch sử Phật giáo Việt Nam [72], Việt Nam
Phật giáo sử lược [75], Việt Nam Phật giáo sử luận [34] đã giới thiệu về Từ Đạo Hạnh với
vai trò là vị thiền sư thuộc thế hệ thứ 12 của phái thiền Tì Ni Đa Lưu Chi thời Lý. Đặc biệt,
Từ Đạo Hạnh còn được nhắc đến như là đại diện tiêu biểu cho khuynh hướng Mật giáo.
Cũng từ quan điểm triết học, Khải Nguyên có bài Từ Đạo Hạnh có phải là vị
chân tu của đạo Phật? Trong bài viết, tác giả cho rằng: nhân thân, hành trạng của Từ

3
Đạo Hạnh giống các đạo sĩ nhiều hơn và không nên xếp ông vào bậc chân tu Phật
giáo.
Từ góc độ văn hóa, PGS. Nguyễn Hữu Sơn trong bài Thiền sư Từ Đạo Hạnh -
từ chùa Láng đến chùa Thầy đã cho rằng Từ Đạo Hạnh là “một trong những hiện
tượng văn hóa chứa nhiều nghịch lý”, được khúc xạ qua thời gian và không gian,
trong đó mang nhiều yếu tố của Phật – Nho và Đạo giáo.
Cùng tác giả Nguyễn Hữu Sơn, các bài nghiên cứu: Tìm hiểu đặc trưng “lạ hóa”

về sự ra đời của các thiền sư trong Thiền uyển tập anh, Về motif “quy tịch” của các
thiền sư trong Thiền uyển tập anh, Loại hình tác phẩm Thiền uyển tập anh khi phân
tích về cấu trúc, cốt truyện, các motif cơ bản của loại truyện thiền sư cũng đã nhiều lần
nhắc tới hiện tượng thiền sư Từ Đạo Hạnh.
Trong công trình nghiên cứu Phật giáo với 1000 năm Thăng Long, Thích Đồng Bổn
có bài Đóng góp thêm các bản dịch mới về bài kệ của thiền sư Từ Đạo Hạnh [9]. Như
nhan đề của bài viết, tác giả đã đưa thêm các bản dịch mới về bài kệ Hữu không của Từ
Đạo Hạnh và đánh giá cao tài năng của thiền sư Từ Đạo Hạnh, cho bài kệ của thiền sư là
“một giá trị văn học đã đạt đến chân lý giác ngộ”.
Trên phương diện tín ngưỡng, lễ hội, chúng ta có nhiều công trình, bài viết về
các lễ hội chùa Láng, chùa Thầy, và một số chùa có thờ Từ Đạo Hạnh: Đỗ Danh
Huấn có bài Làng Đồng Bụt và thiền sư Từ Đạo Hạnh [24]. Thông qua bài viết tác
giả đã chỉ ra một không gian sinh hoạt văn hóa Phật giáo với hệ thống chùa, các sinh
hoạt lễ hội và những truyền thuyết lịch sử gắn với cuộc đời thiền sư Từ Đạo Hạnh.
Bài nghiên cứu Từ huyền tích của Từ Đạo Hạnh đến lễ hội chùa Thầy [32] của
Đặng Thị Phong Lan đã phân tích một số huyền tích của Từ Đạo Hạnh liên quan đến
lễ hội chùa Thầy, cũng như liên quan đến việc tái hiện nghệ thuật kiến trúc và điêu
khắc.
Cùng hướng nghiên cứu còn có các bài Chùa Láng với sự tích thiền sư Từ Đạo
Hạnh (Thích Bảo Nghiêm), Non nước chùa Thầy (Thích Viên Thành), Nghiên cứu về
chùa Thầy (Thích Viên Thành), Thêm tư liệu về chùa Láng (Đỗ Thỉnh), Thiền sư Từ
Đạo Hạnh con đường tái sinh (Như Hùng), Thiền sư Từ Đạo Hạnh và các di tích liên
quan ở Hà Nội (Phạm Thị Lan Anh)…
Ngoài ra còn rất nhiều các bài viết giới thiệu về lễ hội chùa Láng, chùa Thầy
với ý nghĩa quảng bá các danh lam thắng cảnh nổi tiếng của đất nước.
Viết về Từ Đạo Hạnh với vai trò là vị thủy tổ của nghệ thuật múa rối nước có
các bài viết: Nghệ thuật múa rối nước Việt Nam (Anh Chi), Thủy tổ của múa rối
nước, Rối nước làng Ra, Múa rối chùa Bi,…
Các công trình nghiên cứu chúng tôi thống kê trên đây, cho thấy chưa có công
trình nào nghiên cứu hiện tượng Từ Đạo Hạnh một cách khái quát, tổng hợp, nhưng

trên phương diện văn học, văn hóa, tín ngưỡng của hiện tượng đã phần nào được đề

4
cập tới. Trên cơ sở kế thừa những thành quả của người đi trước từ việc khảo sát hiện
tượng Từ Đạo Hạnh qua truyện kể và lễ hội dân gian, chúng tôi sẽ tiến hành hệ thống
hóa các truyền thuyết cũng như những lễ hội về hiện tượng này với mong muốn đưa
ra cái nhìn toàn diện, hệ thống hơn về nhân vật dưới cả hai góc độ văn học và văn
hóa dân gian.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng: Nhân vật Từ Đạo Hạnh thể hiện trong văn học và trong văn hóa
dân gian, cụ thể là thể hiện trong truyền thuyết và trong lễ hội dân gian Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Những truyền thuyết về Từ Đạo Hạnh (đã công bố và sưu tầm được).
- Các lễ hội dân gian xung quanh hiện tượng Từ Đạo Hạnh (qua các lễ hội ở các
chùa ở Hà Nội: chùa Láng, chùa Thầy…).
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp cấu trúc - loại hình
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp điền dã - khảo sát thực tế
5. Mục đích, ý nghĩa, đóng góp của luận văn
5.1. Mục đích
Khảo sát hiện tượng Từ Đạo Hạnh trong văn học và trong lễ hội dân gian,
chúng tôi muốn nhìn nhận và khái quát hóa, hệ thống hóa về hiện tượng này từ góc
độ văn học và góc độ văn hóa. Qua đó thấy được mối liên hệ giữa hiện tượng Từ Đạo
Hạnh trong văn học và trong đời sống lễ hội dân gian Việt Nam. Từ đó chứng minh
rằng hiện tượng Từ Đạo Hạnh không chỉ là một truyền thuyết, một lễ hội bó hẹp
trong một địa phương nhất định mà nó được sinh ra và lưu truyền, có sức sống bền bỉ
về mặt thời gian và ảnh hưởng rộng lớn về mặt không gian.

5.2. Đóng góp của luận văn
- Về mặt tư liệu: tập hợp một nguồn tư liệu tương đối hệ thống các truyền
thuyết và lễ hội về Từ Đạo Hạnh.
- Về nội dung nghiên cứu:
+ Phân tích, giải mã các motif, xác định vai trò của các motif này trong việc tạo
nên cốt truyện.
+ Góp phần xây dựng ý nghĩa của hiện tượng Từ Đạo Hạnh trong tâm thức dân
gian. Giải mã phần nào các vấn đề xung quanh hiện tượng Từ Đạo Hạnh.
+ Miêu tả và phân tích các lễ hội cổ truyền liên quan tới hiện tượng Từ Đạo
Hạnh.


5
6. Cấu trúc luận văn
Chương 1: Tổng quan về vùng văn hóa Hà Nội, Hà Tây (cũ) và nguồn gốc của
hiện tượng Từ Đạo Hạnh
Chương 2: Khảo sát truyền thuyết về Từ Đạo Hạnh
Chương 3: Khảo sát lễ hội về Từ Đạo Hạnh
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ VÙNG VĂN HÓA HÀ NỘI, HÀ TÂY (CŨ)
VÀ NGUỒN GỐC HIỆN TƯỢNG TỪ ĐẠO HẠNH
1.1. Vùng văn hóa Hà Nội và Hà Tây (cũ)
1.1.1. Những điều kiện về địa lý, lịch sử, xã hội của Hà Nội
1.1.2. Những điều kiện địa lý, lịch sử, xã hội của Hà Tây (cũ)
1.2. Bối cảnh văn hóa Phật giáo thời Lý
1.2.1. Vài nét khái quát về sự phát triển của Phật giáo thời Lý
Có thể thấy, trong suốt hơn hai mươi thế kỷ qua, Phật giáo đã có một vai trò, vị
trí nhất định đối với lịch sử dân tộc. Đặc biệt là trong triều Lý (1010 - 1225), khi Phật
giáo phát triển cực thịnh và trở thành quốc giáo của dân tộc, đây cũng là thời đại đất

nước hùng mạnh nhất trong trang sử nước nhà. Từ thế kỷ XI cho đến khoảng hết thời
nhà Lý, Phật giáo ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống xã hội nước ta trên mọi phương
diện: văn hóa, chính trị, xã hội.
1.2.2. Vai trò, ảnh hưởng của Phật giáo tới văn hóa, chính trị của đất nước
Không chỉ trong chính trị, xã hội mà trong đời sống văn hóa, Phật giáo cũng ghi
dấu ấn mạnh mẽ.
Đối với văn học, đặc biệt phải kể tới nền văn học Phật giáo với sự xuất hiện của
một lực lượng tác gia lỗi lạc mà đa phần là các vị thiền sư uyên bác: thiền sư Mãn
Giác, Viên Chiếu, Viên Thông, Không Lộ, Quảng Nghiêm, Bảo Giác, Ngộ Ấn…
1.2.3. Yếu tố Mật giáo của thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi
Mật giáo chấp nhận sự có mặt của các thần linh được thờ phụng trong dân gian
vì thế đạo Phật có cơ hội được phát triển rất rộng trong sinh hoạt của người dân. Khi
vào nước ta, khuynh hướng của Mật giáo rất phù hợp với sinh hoạt tín ngưỡng và
phong tục người Việt, vì vậy Mật giáo đã trở thành một yếu tố rất quan trọng trong
sinh hoạt văn hóa của người dân.
1.3. Con người, cuộc đời Từ Đạo Hạnh
1.3.1. Thân thế Từ Đạo Hạnh
Từ Đạo Hạnh (? - 1117) quê sinh ở hương Yên Lãng, tục gọi làng Láng, nay
thuộc phường Láng Thượng, quận Đống Đa, Hà Nội. Ông là một thiền sư, một tác
giả văn học, một danh nhân văn hóa - lịch sử. Từ Đạo Hạnh từ nhỏ bản tính đã hào
hiệp phóng khoáng, có chí lớn, việc làm lời nói không ai đoán trước được. Ông kết

6
thân với nho sĩ Phí Sinh, đạo sĩ Lê Toàn Nghĩa và người kép hát là Vi Ất. Ban đêm
ông miệt mài đọc sách, ban ngày thổi sáo, đá cầu, đánh bạc vui chơi. Sau ông dự kỳ
thì Tăng hương thí, đỗ khoa Bạch Liên.
Ông là thiền sư thuộc thế hệ thứ 12 dòng thiền Tì Ni Đa Lưu Chi thời Lý. Người
nổi tiếng với những pháp thuật của Mật giáo
1.3.2. Vai trò của Từ Đạo Hạnh trong lịch sử
Những đóng góp và công lao của Từ Đạo Hạnh trong lịch sử đã được dân gian

kể lại, cũng như được ghi dấu trong nhiều văn bia, tài liệu cổ. Từ Đạo Hạnh là một
thiền sư với trí tuệ lớn và những hiểu biết uyên thâm về nho, y, lý, số. Vốn ưa thích
múa hát, ông đã dạy dân hát chèo và sáng tạo nên trò múa rối và truyền dạy cho dân
chúng. Từ Đạo Hạnh không chỉ là một thiền sư, ông còn là một tác gia văn học, một
danh nhân văn hóa - lịch sử.
Tiểu kết
Vùng văn hóa Hà Nội, Hà Tây cũ là những vùng có lịch sử văn hóa phát triển
lâu đời, là mảnh đất tiêu biểu về văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội của cả nước. Nổi
tiếng là vùng “địa linh nhân kiệt”, nơi đây đã sản sinh ra biết bao anh hùng, những
danh nhân văn hóa, những người đã đóng góp công lao to lớn cho sự nghiệp xây
dựng, bảo vệ và phát triển của đất nước
Phật giáo đã du nhập sớm vào nước ta từ thời kỳ đầu công nguyên. Trải qua các
triều đại, đặc biệt trong triều nhà Lý, khi vua Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long, Phật
giáo đã phát triển cực thịnh, trở thành quốc giáo. Phật giáo đã có những đóng góp vô
cùng hiệu quả trong sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước.
Trong thời kỳ đó, dưới tầm ảnh hưởng của Phật giáo, đã xuất hiện nhiều vị thiền
sư có công trạng, vai trò lớn đối với lịch sử dân tộc. Trong đó có thiền sư Từ Đạo Hạnh
- một danh nhân văn hóa. Với những công lao, đóng góp của mình, ông đã được nhân
dân biết ơn, tôn thờ gọi là Thầy, là Phật, là Thánh.
Chương 2
KHẢO SÁT TRUYỀN THUYẾT VỀ TỪ ĐẠO HẠNH
2.1. Khái niệm và đặc trưng của truyền thuyết
Qua việc tìm hiểu và tiếp thu các nghiên cứu đi trước về thể loại truyền thuyết,
chúng tôi khái quát: truyền thuyết là những truyện kể về những sự kiện lịch sử, những
nhân vật lịch sử, những địa danh, những di tích dựa trên những điều có thật trong lịch
sử nhưng được nhân dân hư cấu, sáng tạo.
Môi trường diễn xướng của truyền thuyết chính là hội lễ với các nghi thức thờ
cúng.





7
2.2. Khảo sát truyền thuyết về Từ Đạo Hạnh
2.2.1. Nội dung và cấu trúc của các truyền thuyết
2.2.1.1. Nội dung
Qua so sánh đối chiếu nội dung các truyền thuyết kể về Từ Đạo Hạnh, chúng tôi
nhận thấy nội dung các bản kể về nhân vật này tương đối giống nhau. Từ Đạo Hạnh
là một nhân vật có thật trong lịch sử, có hành trạng và tiểu sử rõ ràng. Ông được nhìn
nhận ở tư cách một vị thiền sư, một đơn vị tác gia văn học, một danh nhân văn hóa,
lịch sử. Theo truyền thuyết, ông đã để lại nhiều công trạng đối với nhân dân, cũng
như với nhà Lý. Theo thời gian, cuộc đời ông được ghi lại dưới nhiều màu sắc huyền
thoại, dần trở thành nhân vật thần linh, truyền thuyết, nhân vật của truyện cổ tích.
Người ta gọi ông là Thầy, là Phật, là Thánh và tới ngày nay, ông vẫn được thờ phụng
như một người anh hùng văn hóa.
2.2.1.2. Cấu trúc của kiểu truyện Từ Đạo Hạnh
* Nguồn gốc của nhân vật
* Hành trạng của nhân vật
* Đoạn kết của nhân vật
2.3. Các motif chính của kiểu truyện Từ Đạo Hạnh
2.3.1. Motif sinh nở thần kỳ
Motif sự thụ thai thần kỳ bắt nguồn từ thần thoại và phổ biến trong cả truyền
thuyết và truyện cổ tích. Tác giả dân gian đã sử dụng motif sự thụ thai thần kỳ và
sinh nở thần kỳ nhằm “lạ hóa” nhân vật, đem đến cho nhân vật một nguồn gốc thần
linh, dự báo những điều kỳ lạ, phi thường mà những con người này sẽ đạt được.
Sự ra đời của Từ Đạo Hạnh thuộc dạng thức: đứa trẻ ra đời do người mẹ nằm
mộng. Motif này đã rất quen thuộc trong các truyện cổ dân gian.
Motif sự sinh nở thần kỳ có ý nghĩa, trước hết nó tạo nên sức hấp dẫn và lôi
cuốn người đọc bởi những chi tiết hoang đường, kỳ lạ trong việc lý giải nguồn gốc
của nhân vật. Mặt khác, motif này cũng thể hiện ước nguyện và khát vọng của người

dân về một nhân vật thần kỳ sẽ có tài cao, đức trọng hơn người, có thể giúp đỡ và bảo
vệ quê hương, đất nước.
2.3.2. Motif tài năng và phép lạ
Trong truyện về Từ Đạo Hạnh, có ghi ông sinh ra đã có “khí cốt tiên phật, lúc còn trẻ
hay chơi bời phóng túng, nhưng có chí lớn, cách cử động ít người lường biết”. Sau này lớn
lên, trên đường sang Tây Thiên học pháp thuật, Đạo Hạnh đã được bà cụ dạy cho mọi phép
thiêng.
Khi sáng tạo truyền thuyết, với việc sử dụng motif tài năng và phép lạ, tác giả
dân gian đã gửi gắm tình cảm và thái độ của mình với nhân vật ngay trong khi xây
dựng nhân vật. Họ đã thần thánh hóa, lý tưởng hóa người anh hùng. Qua đó thể hiện
thái độ đề cao, suy tôn công lao mà người anh hùng đem tới cho nhân dân.

8
2.3.3. Motif vật phù trợ
Motif vật phù trợ xuất hiện đậm đặc trong truyện kể dân gian. Vật phù trợ có
vai trò quan trọng giúp nhân vật vượt qua những khó khăn, đạt được ước nguyện.
Motif này thể hiện trí tưởng tượng phong phú cũng như lý tưởng nhân đạo của tác giả
dân gian. Trong truyện về Từ Đạo Hạnh, vật phù trợ chính là cây gậy có phép lạ.
Trong truyện cổ dân gian, cùng motif về vật phù trợ, còn xuất hiện motif sự
giúp đỡ của các thế lực siêu nhiên. Motif vật phù trợ và motif sự giúp đỡ của các thế
lực siêu nhiên là một yếu tố đặc trưng, là một thủ pháp nghệ thuật đặc sắc trong các
truyện dân gian góp phần làm tăng thêm tính hấp dẫn đặc biệt của truyện kể dân gian.
2.3.4. Motif hóa (tịch diệt thần kỳ)
Giống như sự “hoá” của người anh hùng trong các truyền thuyết, trong truyền
thuyết về Từ Đạo Hạnh, cái chết của ông cũng được nhân dân thần thánh hóa, trở
thành một cái chết đẹp, chết thiêng. Ông ra đi nhưng là sự ra đi bất tử. Chết để hóa
thân thành một con người mới, sống một cuộc sống mới.
Như vậy, motif hóa thân thể hiện sức mạnh thần kỳ, sức sống mãnh liệt của
nhân vật, đáp ứng ước muốn, nguyện vọng của nhân dân muôn đời sau.
2.3.5. Motif tái sinh

Motif tái sinh cùng nằm trong hệ thống nói về cái chết đẹp, cái chết thiêng, là sự tiếp
nối của motif hóa thân. Với truyền thuyết về Từ Đạo Hạnh, nhân vật được tái sinh để làm
người khác hẳn bằng việc đầu thai vào con nhà người khác. Đó là việc Đại Điên đã tái
sinh thành Giác Hoàng, còn Từ Đạo Hạnh thì thác thai làm con Sùng Hiền Hầu, sau
thành vua Lý Thần Tông.
Tiểu kết
Truyền thuyết về Từ Đạo Hạnh vừa được lưu truyền trong dân gian, vừa được
ghi chép lại từ rất sớm trong các nguồn thư tịch cổ. Những truyền thuyết này đã thể
hiện được niềm tôn vinh, ngưỡng mộ của nhân dân đối với Từ Đạo Hạnh. Một con
người huyền thoại là Phật, là Thần, là Vua.
Qua khảo sát truyện kể về Từ Đạo Hạnh và những motif chính xây dựng nên
kiểu truyện, chúng tôi thấy kết cấu của truyện tuân theo kết cấu đặc trưng của truyền
thuyết: Nguồn gốc của nhân vật - Hành trạng của nhân vật - Đoạn kết của nhân vật.
Hình tượng Từ Đạo Hạnh được xây dựng bằng các motif điển hình của truyền thuyết
như: motif sinh nở thần kỳ, motif tài năng và phép lạ, motif vật phù trợ, motif hóa,
motif tái sinh. Từ những motif này chất hiện thực, chất lịch sử, chất lãng mạn và chất
thần thánh đã hòa quyện vào nhau tạo nên tính đặc trưng kỳ diệu của truyền thuyết.





9
Chương 3
KHẢO SÁT LỄ HỘI VỀ TỪ ĐẠO HẠNH
3.1. Khái niệm lễ hội
3.1.1. Khái niệm lễ hội
Như vậy, lễ hội là một hiện tượng văn hóa dân gian, là sự tổng hòa những giá trị
văn hóa thông qua các hiện tượng, các đề tài về lịch sử, sản xuất nông nghiệp, tôn
giáo tín ngưỡng, sinh hoạt văn hóa dân gian, đáp ứng nhu cầu tư tưởng, tình cảm

không thể thiếu được trong đời sống của nhân dân các dân tộc trên thế giới cũng như
trong nước ta.
3.1.2. Mối quan hệ giữa lễ và hội
Lễ và hội là hai yếu tố luôn tồn tại song song, bổ sung cho nhau, hỗ trợ và hoàn
thiện lẫn nhau.
3.2. Tín ngưỡng thờ Từ Đạo Hạnh
Tín ngưỡng thờ Từ Đạo Hạnh là sự cộng gộp của tín ngưỡng thờ Thần, thờ
Thánh, thờ Phật, thờ Vua. Với vị trí và công lao to lớn trong lịch sử, Từ Đạo Hạnh đã
trở thành bất tử trong tâm thức người dân Việt Nam.
3.3. Lễ hội về Từ Đạo Hạnh
3.3.1. Lễ hội chùa Láng
3.3.1.1. Lịch sử, vị trí, kiến trúc chùa Láng
3.3.1.2. Lễ hội chùa Láng
* Phần lễ
Ngày mồng 5 bất đầu hội, kiệu Thánh được rước lên chùa Nền để ông thăm lại
nơi chào đời.
Sáng ngày mồng 6 tháng 3 rước Thánh xuống Tam Huyền, buổi chiều tối rước
về dân làng cung nghinh đức Thánh ra ngự ở lầu bát giác trước sân chùa. Tại đây
diễn ra nghi lễ múa chầu Thánh do 10 cô gái thanh tân thể hiện.
Sáng sớm ngày mồng 7 tháng 3 bắt đầu rước Thánh từ lầu bát giác ra ngự trên
kiệu chỗ sập đá ngoài tam quan cùng với đám rước các làng khác đến hộ giá.
Sau lễ rước, ngày mồng 8 tháng 3 trở đi, các vị chức sắc kỳ mục, các bô lão lần lượt
tế ở chùa làng. Đây là nét đặc sắc chỉ ở chùa Láng và một số nơi có.
Đến ngày 15 tháng 3 làm lễ tạ, giải triều phục, mặc áo cà sa nhà Phật.
* Phần hội
Hội Láng đặc biệt nhất với lễ rước Thánh Từ. Đây cũng chính là cái độc đáo làm
nên nét riêng của lễ hội.
Hội Láng ngoài việc tế lễ, rước Thánh còn có các trò chơi như đấu võ, chọi gà,
đánh đu, hát chèo, hát tuồng… đặc biệt có tục thổi cơm thi, vừa đi vừa thổi cơm hoặc
vừa thổi cơm vừa chăn cóc.


10
Hội Láng đã cho ta thấy sinh động cảnh sinh hoạt của người Việt đời Lý. Xưa kia
dường như Đạo và Đời hoà vào làm một chính vì thế những ngôi chùa dọc hai bờ Tô
giang liên quan đến sự tích Từ Đạo Hạnh vẫn được dân gian gọi là đền. Hình thức hội
Láng nằm trong hệ thống các phong tục hội hè miền phụ cận, mang đậm nét văn hóa của
kinh thành Thăng Long. Trải nhiều đời, nó đã góp vào quá trình sinh hoạt văn hoá dân
gian chốn đế đô một tổng thể lễ tiết phong phú và độc đáo. Câu chuyện rất đời của một vị
Thánh Tổ (Từ Đạo Hạnh làm thuốc cứu dân lại dạy dân trò hát chèo, múa đáo thanh lịch
rối nước nên được suy tôn làm Thầy) hoá ra lại là một nét văn hóa đặc sắc của người
Tràng An.
Lễ hội chùa Láng thực chất là lễ hội mùa xuân của cả một vùng gồm nhiều làng
ở hai bên bờ sông Tô Lịch Hà Nội trước kia nên có những nét khác lạ. Từ chùa ra tới
đường cái đám rước đi rất chậm, ra đến cổng làng thì tốc độ mới tăng dần lên. Vừa có
lễ dành cho Thánh, vừa có lễ dành cho Phật lại vừa có lễ dành cho thiên tử tượng
trưng cho ba kiếp hoá của Từ Đạo Hạnh.
3.3.2. Lễ hội chùa Thầy
3.3.2.1. Lịch sử, vị trí, kiến trúc chùa Thầy
3.3.2.2. Lễ hội chùa Thầy
* Phần lễ
Nghi lễ quan trọng đầu tiên của hội chùa Thầy là lễ tắm Phật được tiến hành trước
ngày mồng 7 tháng 3 âm lịch. Tham dự lễ này là các nhà sư, tăng ni phật tử và đông đảo
nhân dân.
Tiếp đến là lễ cúng Phật và chạy đàn. Lễ rước đi Thần về Phật được tái diễn vô cùng
sinh động. Đây là một nghi lễ lớn, quan trọng nhất và gây ấn tượng nhất ở hội chùa Thầy.
Khoảng ba giờ chiều, kiệu của bốn thôn đã tề tựu đông đủ theo thứ tự trước sân
chùa. Sau khi làm lễ cũng, đám rước bắt đầu xuất phát từ chùa Thầy ra gò Quán Thánh -
tương truyền đây là địa điểm quân Minh đốt xác Từ Đạo Hạnh.
Ra đến Quán Thánh, các thôn rước lễ vào quán để nhà sư và ông Thống trông
coi quán làm lễ.

* Phần hội
Hội chùa Thầy không chỉ có những nghi thức tôn giáo. Ở đây còn có trò múa
rối nước với những cảnh múa lân, múa rồng, cảnh xay thóc, giã gạo, chọi trâu… Đặc
biệt, trong dịp hội chùa Thầy, thông qua nghệ thuật rối nước, người xem một lần nữa lại
có thể chứng kiến lễ rước đi Thần về Phật.
Đến với lễ hội chùa Thầy qua những nghi thức tế lễ, đám rước người xem được hòa
mình trong một không gian văn hóa linh thiêng. Ở đó hình tượng Từ Đạo Hạnh nổi bật lên
tuyệt đẹp như một vị Thánh, vị Phật, là thầy tổ của nghề múa rối nước. Trong lễ hội, Từ Đạo
Hạnh đã sống một đời sống bất tử vẹn toàn nhất.

11
Thông qua lễ hội chùa Thầy, có thể thấy Phật giáo trong giai đoạn nhà Lý đã
khéo léo đi vào đời sống tín ngưỡng, văn hóa tinh thần của đông đảo tầng lớp nhân
dân Việt Nam thông qua sự kết hợp giữa yếu tố vương quyền và thần quyền ở những
vị thiền sư thời Lý, đặc biệt là với những vị thuộc phái Thiền Tì Ni Đa Lưu Chi. Đó là sự
kết tụ nhiều yếu tố siêu phàm trong một nhân vật: những thuật phù thủy, khả năng chữa
bệnh giúp dân, tổ nghề, tái sinh, để lại vết tích, chân thân… mục đích là quy tụ niềm tin,
sự khâm phục, tạo sự hấp dẫn bằng quyền năng, hướng đông đảo tầng lớp đi sâu vào
Phật giáo.
3.3.3. Một số lễ hội khác
Ngoài chùa Láng và chùa Thầy, Từ Đạo Hạnh còn được thờ ở một số chùa khác
như: Chùa Tổng (xã La Phù - huyện Hoài Đức - Hà Nội), chùa Cả - Trung Hưng tự
(thôn La Phù - xã La Phù - huyện Hoài Đức), chùa Thiên Vũ (thôn La Dương - xã
Dương Nội - huyện Hoài Đức), chùa Ngãi Cầu (thôn Ngãi Cầu - huyện Hoài Đức), chùa
Đồng Bụt - Thiền Sư tự (thôn Đồng Bụt - xã Ngọc Liệp - huyện Quốc Oai - Hà Nội)…
Trong đó đáng lưu ý là chùa Đồng Bụt, nơi hiện đang lưu giữ truyền thuyết và tư liệu
khá chi tiết về việc Thiền sư được sinh ra như thế nào, cũng như hệ thống di tích và tâm
thức của nhân dân về thờ phụng Từ Đạo Hạnh ở đây.
Tiểu kết
Lễ hội về Từ Đạo Hạnh diễn ra ở chùa Láng và chùa Thầy đều được tổ chức

hàng năm vào ngày mồng 7 tháng 3 âm lịch, đều là những lễ hội lớn và độc đáo với
nhiều nghi lễ có sự tham gia của đông đảo quần chúng nhân dân. Có thể thấy, ở cả
hai lễ hội vẫn dung chứa, đan xen trong nó nhiều nghi lễ, tín ngưỡng dân gian: nghi
lễ thờ thành hoàng làng, thờ Phật, thờ Thánh, thờ thiên tử, các tín ngưỡng của lễ hội
nông nghiệp như lễ hội cầu mưa…
Lễ hội chùa Láng và lễ hội chùa Thầy đều tổ chức để tôn thờ Từ Đạo Hạnh
nhưng ở mỗi lễ hội vẫn có những sự độc đáo riêng. Lễ hội chùa Láng mang tính đồ sộ
hơn cả về quy mô mà chủ đề của lễ hội cũng khá phong phú. Hình thức hội Láng nằm
trong hệ thống các phong tục hội hè miền phụ cận, mang đậm nét văn hóa của kinh
thành Thăng Long. Lễ hội chùa Láng thực chất là lễ hội mùa xuân của cả một vùng
gồm nhiều làng ở hai bên bờ sông Tô Lịch Hà Nội. Chùa Láng tương truyền là nơi
Từ Đạo Hạnh sinh ra và lớn lên, nên trong lễ hội ngoài việc tôn thờ Từ Đạo Hạnh
nhân dân trong vùng còn nhắc tới thân phụ, thân mẫu của ông cùng với các địa danh
chùa Nền, cống Cót, cầu Yên Quyết, chùa Hoa Lăng nơi ghi dấu cuộc đời họ, qua các
nghi lễ rước tượng. Đặc biệt trong lễ hội chùa Láng có nghi lễ đấu thần khi kiệu
thánh Từ đi tới trước chùa Thánh Tổ - thờ Đại Điên. Lễ hội chùa Láng mang đậm
tính lễ và ít tính hội hơn trong trong khi đó lễ hội chùa Thầy hai yếu tố lễ và hội đan
xen hòa quyện với nhau rất tự nhiên. Trong lễ hội chùa Thầy ngoài các nghi lễ tắm
Phật, cúng Phật, chạy đàn thì nghi lễ rước đi Thần về Phật là nét riêng rất độc đáo.

12
Cũng trong lễ hội này người xem được thưởng thức các tiết mục múa rối nước vốn
nổi tiếng từ lâu mà tương truyền Từ Đạo Hạnh là thầy tổ của nghệ thuật này.
Lễ hội bao giờ cũng gắn liền với truyền thuyết. Nếu coi truyền thuyết là nội
dung thì lễ hội chính là nghệ thuật. Các hình tượng nhân vật trong truyền thuyết sẽ
được sáng tỏ qua hình thức lễ hội và ngược lại lễ hội góp phần thần thánh hóa các
hình tượng. Truyền thuyết là nội dung cốt lõi giúp lễ hội trở nên thiêng liêng phong
phú. Lễ hội lại có ý nghĩa khẳng định sức sống lâu bền của truyền thuyết. Đến với lễ
hội con người không chỉ đến với ước vọng, giao cảm, giao hòa với siêu nhiên và tự
nhiên mà còn trực tiếp tham gia vào quá trình tái tạo và sáng tạo. Như vậy, lễ hội là

một hình thức lưu giữ những giá trị văn hóa tinh thần vô cùng quý báu của dân tộc.

PHẦN KẾT LUẬN
1. Vùng văn hóa Hà Nội, Hà Tây cũ là những vùng có lịch sử văn hóa phát triển
lâu đời, là mảnh đất tiêu biểu về văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội của cả nước. Nổi
tiếng là vùng “địa linh nhân kiệt”, nơi đây đã sản sinh ra biết bao anh hùng, những
danh nhân văn hóa, những người đã đóng góp công lao to lớn cho sự nghiệp xây
dựng, bảo vệ và phát triển của đất nước.
2. Từ Đạo Hạnh là vị thiền sư nổi tiếng thời Lý. Ông được biết đến với vai trò
là một tác giả văn học, là thầy tổ của nghệ thuật múa rối nước, là một danh nhân văn
hóa lịch sử. Từ một con người có thực trong lịch sử, con người, hành trạng ông đã
được dân gian, sử sách huyền thoại hóa. Ông trở thành Phật, thành Thánh với tất cả
lòng ngưỡng mộ và tôn thờ của nhân dân.
3. Truyền thuyết về Từ Đạo Hạnh vừa được lưu truyền trong dân gian vừa được
ghi lại trong các văn bia, tài liệu. Những truyền thuyết này đã thể hiện được niềm tôn
vinh, ngưỡng mộ của nhân dân đối với thánh Từ. Về kết cấu và những motif chính
xây dựng nên truyện, chúng tôi thấy kết cấu của truyện tuân theo kết cấu đặc trưng
của truyền thuyết: Nguồn gốc nhân vật - Hành trạng - Hiển linh. Các motif điển hình
của truyền thuyết cũng xuất hiện trong truyện về Từ Đạo Hạnh như: motif sinh nở
thần kỳ, motif tài năng và phép lạ, motif hóa, motif vật phù trợ, motif tái sinh. Những
motif này một mặt có ý nghĩa trong việc tạo nên cốt truyện, mặt khác nó làm nên tính
kỳ diệu của truyền thuyết, tăng sức hấp dẫn lôi cuốn đối với người đọc, người nghe.
4. Xét về mặt lễ hội, lễ hội về Từ Đạo Hạnh thường được tổ chức vào tháng ba
âm lịch, trong đó nổi bật là lễ hội chùa Láng và lễ hội chùa Thầy. Hai lễ hội này đều
tổ chức vào ngày mồng 7 tháng 3 âm lịch hàng năm, và đều là những lễ hội lớn và
độc đáo. Mỗi địa phương có một đặc trưng về địa thế, lịch sử và văn hóa riêng nên
các lễ hội được tiến hành với những đa dạng, phong phú và đặc sắc riêng. Nếu như lễ
hội chùa Láng đặc sắc bởi nghi thức đấu thần khi kiệu thánh Từ đi tới trước chùa
Thánh Tổ - thờ Đại Điên thì lễ hội chùa Thầy lại thu hút người tham dự ở nghi thức đi


13
Thần về Phật. Nhìn vào bề sâu, có thể thấy ở các lễ hội này vẫn dung chứa và đan xen
trong nó những nghi lễ, tín ngưỡng của lễ hội nông nghiệp. Và dù có những điểm khác
biệt nhưng tựu chung lại, lễ hội chùa Láng, lễ hội chùa Thầy, lễ hội chùa Đồng Bụt…
đều hướng chung tới thiền sư Từ Đạo Hạnh với tất cả niềm tin, lòng biết ơn của nhân
dân. Chính các lễ hội này là môi trường diễn xướng nhằm lưu truyền, gìn giữ và phát
huy hệ thống truyền thuyết về Từ Đạo Hạnh trên phạm vi địa bàn Hà Nội nói riêng,
vùng đồng bằng châu thổ Bắc Bộ nói chung.
5. Qua việc khảo sát hiện tượng Từ Đạo Hạnh trên phương diện truyện kể và lễ
hội, chúng tôi nhận thấy đây là một hiện tượng văn học, văn hóa độc đáo. Cùng với
truyền thuyết, ngày nay các lễ hội về Từ Đạo Hạnh vẫn được gìn giữ và bảo tồn. Từ
hiện tượng Từ Đạo Hạnh nói riêng, các hiện tượng văn học văn hóa dân gian nói
chung, chúng tôi nhận ra một thực tế là nhu cầu về tín ngưỡng của nhân dân hiện nay
đang trỗi dậy mạnh mẽ. Đến với lễ hội, con người được hòa mình vào thiên nhiên mỹ
lệ của đất nước, được thưởng thức những công trình văn hóa sáng tạo của người đi
trước, được hòa hợp cộng đồng và trong mỗi người tình yêu thiên nhiên, đất nước và
con người được bồi đắp hơn nữa. Ngày nay, xã hội hiện đại, càng có thêm điều kiện
để kết hợp lễ hội với du lịch, khiến cho hội lễ tiếp nhân được các phương tiện hoạt
động của du lịch để tăng cường sức sống, mở mang tiếp xúc trao đổi với thế giới và
về phần mình, du lịch không ngừng được bổ sung những hệ thống sản phẩm có giá trị
cao về ý nghĩa và thẩm mỹ.

References.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn An, Múa rối chùa Bi, .
2. Trần Thị An (2000), Đặc trưng thể loại truyền thuyết và việc văn bản hóa truyền
thuyết dân gian Việt Nam, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Thư viện Quốc gia.
3. Nguyễn Huệ Chi (1977), Thơ văn Lý - Trần, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
4. Nguyễn Đổng Chi (1993), Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam (tập 3), Viện Văn
học, Hà Nội

5. Nguyễn Đổng Chi (1993), Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam (tập 5), Viện Văn
học, Hà Nội.
6. Anh Chi, Nghệ thuật múa rối nước của Việt Nam,

7. Nguyễn Mạnh Cường, Đinh Viết Lực, Nguyễn Đức Dũng (2011), Từ Đạo Hạnh - Trần
Nhân Tông (Những trái chiều lịch sử), Nxb Văn hóa - Thông tin và Viện văn hóa.
8. Thích Đồng Bổn (chủ biên), Thích Tuệ Nhật, Thích Phương Huyền (2010), Phật
giáo đời Lý, Nxb Tôn giáo.

14
9. Thích Đồng Bổn (2011), “Đóng góp thêm các bản dịch mới về bài kệ của Thiền sư
Từ Đạo Hạnh”, Văn học, Phật giáo với 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, Nxb Văn
hóa - Thông tin, Hà Nội.
10. Hà Lâm Bùi (1995), “Phát hiện thêm một di chứng khảo cổ học thuộc văn hóa
Phùng Nguyên”, Báo Nhân Dân, 23/10/1995, tr 3.
11. Nguyễn Xuân Diện, Những phát hiện sớm nhất về Tứ bất tử Việt Nam,

12. Lê Quý Đôn (1962), Kiến văn tiểu lục, Nxb Sử học, Hà Nội.
13. Phạm Văn Đồng, Nhân ngày giỗ Tổ vua Hùng, Báo Nhân Dân, ngày 29/4/1969.
14. La Mai Thi Gia (2011), “Nguồn gốc Phật giáo của motif tái sinh trong truyện kể
dân gian Việt Nam”, Văn học, Phật giáo với 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, Nxb
Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
15. Nguyễn Bích Hà (1998), Thạch Sanh và kiểu truyện dũng sĩ trong truyện cổ Việt
Nam và Đông Nam Á, Nxb Giáo dục.
16. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (chủ biên) (1992), Từ điển thuật ngữ
văn học, Nxb Giáo dục.
17. Mai Thanh Hải (2004), Địa chí tôn giáo lễ hội Việt Nam, Nxb Văn hóa - Thông
tin, Hà Nội.
18. Mai Thanh Hải (2005), Tìm hiểu tín ngưỡng truyền thống Việt Nam, Nxb Văn
hóa - Thông tin, Hà Nội .

19. Đỗ Đức Hiểu (chủ biên) (1984), Từ điển văn học, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
20. Nguyễn Duy Hinh (2007), Một số bài viết về tôn giáo học, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
21. Nguyễn Duy Hinh (1994), “Đôi điều suy nghĩ lý luận về lễ hội”, Lễ hội truyền
thống trong xã hội hiện đại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
22. Kiều Thu Hoạch (chủ biên), Trần Thị An, Mai Ngọc Hồng (2009), Truyền thuyết
dân gian người Việt (Tập 3), Truyền thuyết về thời Lý và Trần. Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
23. Kiều Thu Hoạch (1971), Truyền thuyết anh hùng trong thời kỳ phong kiến, in
trong Truyền thống anh hùng trong loại hình tự sự dân gian Việt Nam, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
24. Đỗ Danh Huấn, Làng Đồng Bụt và thiền sư Từ Đạo Hạnh,

25. Nguyễn Thị Huế, Trần Thị An (2001), Tuyển tập văn học dân gian Việt Nam (tập
1), Thần thoại - truyền thuyết, Nxb Giáo dục.
26. Nguyễn Xuân Kính (1991), “Phác thảo lịch sử lễ hội của người Việt ở Bắc Bộ”,
Tạp chí Văn hóa dân gian, số 4, tr 38 - 45.

15
27. Vũ Ngọc Khánh (chủ biên) (1993), Từ điển văn hóa Việt Nam - Nhân vật chí,
Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
28. Vũ Ngọc Khánh, Trần Thị An, Phạm Minh Thảo (1998), Truyền thuyết Việt Nam,
Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
29. Vũ Ngọc Khánh (chủ biên) (2006), Chùa cổ Việt Nam, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
30. Vũ Ngọc Khánh (2006), Kho tàng thần thoại Việt Nam, Nxb Văn hóa - Thông tin,
Hà Nội.
31. Hồ Phương Lan (tuyển chọn và giới thiệu) (2011), Thăng Long - Hà Nội ngàn
năm văn hiến, Nxb Lao động, Hà Nội.
32. Đặng Thị Phong Lan (2009) “Từ huyền tích của Từ Đạo Hạnh đến lễ hội chùa

Thầy”, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 3, tr 22 - 28.
33. Nguyễn Lang (1994), Việt Nam Phật giáo sử luận, Nxb Văn học, Hà Nội.
34. Ngô Sĩ Liên, Cao Huy Giu (phiên dịch), Đào Duy Anh (hiệu đính và khảo chứng)
(1967), Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
35. Lâm Bá Nam (1992), “Đôi điều về xứ Đoài - Hà Tây”, Văn hóa thể thao, số 1, tr 62.
36. Nguyễn Bích Ngọc (2009), Nhà Lý trong văn hóa Việt Nam, Nxb Thanh Niên, Hà
Nội.
37. (Nhiều tác giả) (1981), Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý - Trần, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
38. (Nhiều tác giả) (2004) Tổng hợp văn học dân gian người Việt (tập 4), Truyền
thuyết dân gian người Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
39. (Nhiều tác giả) (2000), Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam, Nxb Văn hóa dân
tộc, tạp chí Văn hóa nghệ thuật Hà Nội.
40. (Nhiều tác giả) (1995), Thăng Long - Hà Nội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
41. (Nhiều tác giả) (2004), Từ điển văn học, Nxb Thế giới, Hà Nội.
42. (Nhiều tác giả) (1988), Từ điển tiếng Việt , Viện Ngôn Ngữ học, y ban Khoa học
Xã hội Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
43. (Nhiều tác giả) (1977), Thơ văn Lý - Trần (tập 1), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
44. (Nhiều tác giả) (2011), Văn nghệ dân gian Hà Tây, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
45. (Nhiều tác giả) (1998), Hỏi và đáp về văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc,
Hà Nội.
46. Nguyễn Thị Nguyệt (2010), Khảo sát và so sánh một số type truyện và motif truyện
kể dân gian Việt Nam - Nhật Bản, Nxb Đại Học Quốc gia Hà Nội.
47. Nguyễn Thị Nguyệt (2010), Khảo sát một số kiểu truyện tiêu biểu về các nhân vật “tứ
bất tử” trong truyện kể dân gian Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
48. Thích Bảo Nghiêm (1991), “Chùa Láng với sự tích thiền sư Từ Đạo Hạnh”, Tạp
chí Nghiên cứu Phật học, số 3, tr. 60 - 62.

16
49. Nguyễn Tri Nguyên (2004), “Bản chất và đặc trưng tín ngưỡng dân gian trong lễ hội

cổ truyền Việt Nam”, Tạp chí Di sản văn hóa, số 7, tr. 27 - 32.
50. Thạch Phương, Lê Trung Vũ (1995), 60 lễ hội truyền thống Việt Nam,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
51. Vũ Quỳnh, Kiều Phú, Đinh Gia Khánh, Nguyễn Ngọc San (dịch) (2001), Lĩnh
Nam chích quái, chuyện lạ sưu tầm ở Lĩnh Nam, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
52. Vũ Quỳnh, Kiều Phú, (1990), Lĩnh Nam chích quái, Nxb Văn học, Hà Nội.
53. Vũ Quỳnh (1993), Tân đính Lĩnh Nam chích quái, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
54. Vũ Tú Quỳnh (2004), Múa rối nước dân gian làng Ra, Luận văn thạc sĩ văn hóa
học, Viện Văn học.
55. Lê Chí Quế (chủ biên - 1998), Võ Quang Nhơn, Nguyễn Hùng Vỹ, Văn học dân
gian Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
56. Lê Chí Quế (1990), Phương pháp loại hình học trong khoa học văn học dân gian
trong sách văn học dân gian - những lĩnh vực nghiên cứu, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội.
57. Lê Chí Quế (1985), “V. Ia. Prop (1895 - 1970) và phương pháp nghiên cứu folklore
theo so sánh loại hình lịch sử”, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 3 & 4, tr. 18 - 23.
58. Nguyễn Hữu Sơn (2000), “Thiền sư Từ Đạo Hạnh - Từ chùa Láng đến chùa
Thầy”, Tạp chí Sông Hương, số 10, tr. 5 - 8.
59. Nguyễn Hữu Sơn (1994), “Tìm hiểu đặc trưng lạ hóa về sự ra đời của các thiền sư
trong Thiền uyển tập anh”, Tạp chí Nghiên cứu Phật học, số 4, tr. 28 - 30.
60. Nguyễn Hữu Sơn (2003), Loại hình tác phẩm Thiền uyển tập anh, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
61. Nguyễn Hữu Sơn (1996), “Về motip quy tịch của các thiền sư trong Thiền uyển tập
anh”, Tạp chí Nghiên cứu Phật học, số 4 + 5, tr. 57 - 59/ 50 - 52.
62. Nguyễn Hữu Sơn (1998), “Về khả năng tích hợp các yếu tố folklore trong sách
Thiền uyển tập anh”, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 1, tr. 40 - 44.
63. Phạm Văn Sinh (1994), Về vai trò Phật giáo ở Việt Nam (qua thời đại nhà Lý),
luận án PTSKH Triết học.
64. Lê Tắc (2002), An Nam chí lược, Nxb Thuận Hóa, Huế.
65. Phạm Minh Thảo (2006), Truyện linh dị Việt Nam, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà

Nội.
66. Hà Văn Tấn (1965), “Từ một cột kinh Phật năm 973 mới phát hiện ở Hoa Lư,
Ninh Bình”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 70, tr 39 - 50.
67. Nguyễn Văn Tiến (2001), Di tích chùa Thầy (Hà Tây), Luận án TS Lịch sử.
68. Nguyễn Quốc Tuấn (2004), “Mô hình Phật - Thánh qua chùa Bối Khê - Đại Bi
(Hà Tây)”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo. NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
69. Đỗ Thỉnh (1993), “Thêm tư liệu về chùa Láng”, Người Hà Nội, số 31, tr. 8.

17
70. Thích Viên Thành (1992), “Non nước chùa Thầy”, Tạp chí Nghiên cứu Phật học,
số 6, tr. 33 - 35.
71. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục.
72. Lê Mạnh Thát (1999), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb Thuận Hóa, Huế.
73. Lê Mạnh Thát (2005), Nghiên cứu Thiền uyển tập anh, Nxb Phương Đông, Hà Nội.
74. Nguyễn Khắc Thuần (2005), Việt sử giai thoại, Nxb Giáo dục.
75. Mật Thể (2004), Việt Nam Phật giáo sử lược, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
76. Nguyễn Hữu Thức (1996), Văn học dân gian Hà Tây và việc chấn hưng văn hóa
địa phương, Luận án PTS. KH Ngữ văn, Hà Nội.
77. Ngô Đức Thọ, Nguyễn Thúy Nga (dịch và chú thích) (1990), Thiền uyển tập anh,
Phân viện nghiên cứu Phật học, Nxb Văn học, Hà Nội.
78. Nguyễn Tài Thư (chủ biên) (1988), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội .
79. Đỗ Bình Trị (1999), Những đặc điểm thi pháp các thể loại văn học dân gian, Nxb
Giáo dục.
80. Trần Quốc Vượng (phiên dịch và chú giải) (2005), Việt sử lược, Nxb Thuận Hóa,
Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây.
81. Trần Quốc Vượng, Vũ Tuấn Sán (1975), Hà Nội nghìn xưa, Sở Văn hóa - Thông
tin Hà Nội.
82. Trần Quốc Vượng (chủ biên), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
83. Phượng Vũ (chủ biên) (1999), Địa chí Hà Tây, Sở Văn hóa - Thông tin Hà Tây.

84. Lê Trung Vũ, Lê Hồng Lý (2005), Lễ hội Việt Nam, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà
Nội.
85. Lê Trung Vũ (1992), Lễ hội cổ truyền, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
86. Nguyễn Hữu Vinh (dịch và giới thiệu), Thích Thiện Niệm đính chính, Bút ký
Chùa Thiên Phúc và sư Từ Đạo Hạnh, http://www. trangnhahoaihuong.com.
87. Lý Tế Xuyên (1972), Việt điện u linh, Nxb Văn học, Hà Nội.

×