Tải bản đầy đủ (.doc) (141 trang)

Thạc sĩ Báo chí học thông tin về đổi mới giáo dục trên báo điện tử giáo dục việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.93 MB, 141 trang )

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN.1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THÔNG
TIN....................................................................................................................9
Chương 2: THỰC TRẠNG THÔNG TIN VỀ ĐỔI MỚI GIÁO DỤC
TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ GIÁO DỤC VIỆT NAM...........................................41
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG THÔNG TIN VỀ ĐỔI MỚI GIÁO DỤC TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ
GIÁO DỤC VIỆT NAM.................................................................................96
KẾT LUẬN........................................................................................115
TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................117
PHỤ LỤC 1: BIÊN BẢN PHỎNG VẤN SÂU.................................121


1

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN
Giáo dục và Đào tạo

GD&ĐT

Đại học, Cao đẳng

ĐH, CĐ

Trung học phổ thông

THPT

Trung học cơ sở



THCS


2

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đảng và Nhà Nước ta luôn luôn quan tâm đến sự nghiệp chăm sóc và
phát huy yếu tố con người. Điều đó xuất phát từ nhận thức sâu sắc những giá
trị lớn lao và ý nghĩa quyết định của yếu tố con người, chủ thể của tất cả
những sáng tạo, những nguồn của cải vật chất và văn hóa, những nền văn
minh của các quốc gia. Xây dựng và phát triển con người có trí tuệ cao,
cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là
động lực đồng thời cũng là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Để đạt dược điều
đó, giáo dục - đào tạo có vai trị quyết định. Lồi người đang bước sang thế kỉ
XXI, thế kỉ mà trí tuệ đóng vai trị quyết định. Vì vậy hơn bao giờ hết các
quốc gia đang dành nguồn nhân lực tối đa cho phát triển, nâng cao chất lượng
của giáo dục quốc dân.
Nhận thức vai trò của giáo dục - đào tạo, Nghị quyết của Hội nghị ban
Chấp hành Trung ương lần thứ 2 (khóa VIII) đã khẳng định: "Thực sự coi
giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nhận thức sâu sắc giáo dục - đào
tạo cùng với khoa học và công nghệ là nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế
và phát triển xã hội, đầu tư cho giáo dục - đào tạo là đầu tư phát triển." (Nghị
quyết Trung ương 2, khóa VIII, trang 29 - 30).
Trong thời gian qua, giáo dục Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu,
kết quả, góp phần quan trọng vào thắng lợi của cơng cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, giáo dục đã bộc lộ những yếu
kém, bất cập, trong đó có những vấn đề gây bức xúc xã hội kéo dài, chưa đáp
ứng được yêu cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố và hội nhập

quốc tế. Những đổi mới giáo dục trong thời gian qua thiếu đồng bộ, cịn chắp
vá; nhiều chính sách, cơ chế, giải pháp về giáo dục đã từng có hiệu quả, nay


3

trở nên khơng cịn phù hợp với giai đoạn phát triển mới của đất nước, cần
được điều chỉnh, bổ sung .
Trước thực tế trên, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã
xác định: "Đổi mới căn bản, tồn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hố,
hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế" và "phát triển
nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào
việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân".
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục là một công việc hết sức trọng đại.
Đổi mới giáo dục cũng đã trở thành đề tài nhận được nhiều sự quan tâm của
độc giả trên các tờ báo. Do đó khơng ít các tờ báo đã khai thác, tìm hiểu, đăng
tải thông tin khá kỹ lưỡng về nội dung này, cung cấp cho độc giả mọi thông
tin về từng bước phát triển, thực hiện đổi mới giáo dục. Trong đó có tờ báo
không thể không nhắc đến là báo điện tử Giáo dục Việt Nam. Tuy nhiên, các
thông tin về đổi mới giáo dục trên báo chí vừa có những ưu điểm vừa có
những hạn chế nhất định. Báo chí đã góp phần tuyên truyền, quán triệt sâu
rộng các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, các định hướng và
nhiệm vụ chủ yếu của ngành về đổi mới căn bản, tồn diện giáo dục. Báo chí
đã góp phần mở rộng tầm nhìn cho cơng chúng, cung cấp thơng tin nhằm giúp
cơng chúng nắm được tiến trình đổi mới giáo dục ở nước ta; thống nhất về
nhận thức, tạo sự đồng thuận và huy động sự tham gia đánh giá, giám sát và
phản biện của toàn xã hội đối với công cuộc đổi mới, phát triển giáo dục.
Nhưng bên cạnh đó, báo chí vẫn cịn những hạn chế nhất định trong thơng tin
về đổi mới giáo dục như hình thức thơng tin cịn kém hấp dẫn, ...
Chính vì những lý do như trên, tác giả đã chọn đề tài: “Thông tin về đổi

mới giáo dục trên báo điện tử Giáo dục Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ, nhằm
góp phần nâng cao chất lượng thông tin về đổi mới giáo dục.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài


4

Đến nay mới chỉ có các cơng trình nghiên cứu về giáo dục nói chung,
hoặc nghiên cứu về đổi mới giáo dục nhưng trong phạm vi nghiên cứu của
ngành sư phạm.
- Các văn kiện của Đảng, Nhà nước và Chính phủ về đổi mới giáo dục,
như: Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), lần VII (1991), lần thứ VIII
(1996), lần thứ IX (2001), lần thứ X (2006), lần thứ XI (2011); Đề án đổi mới
giáo dục đại học Việt Nam 2006-2020.
- Các bài viết, kỷ yếu hội thảo:
Hội Khoa học Tâm lý - Giáo dục Việt Nam, Đại học Thái Nguyên
(2012), Kỷ yếu Hội thảo khoa học: "Giải pháp đột phá đổi mới căn bản và
toàn diện nền giáo dục Việt Nam".
- Luận án, luận văn:
Luận văn "Báo Giáo dục và Thời đại với việc nâng cao chất lượng
giáo dục đại học ở nước ta hiện nay" của tác giả Trần Việt Hoa năm 2007
đã bàn về vai trị của báo chí trong cơng tác tun truyền nâng cao chất
lượng giáo dục đại học, khảo sát báo Giáo dục và Thời đại, đánh giá vai trò
của tờ báo này đối với việc nâng cao chất lượng giáo dục đại học, đề xuất một
số giải pháp để tờ báo nâng cao hiệu quả tuyên truyền cho chất lượng giáo
dục đại học.
Luận văn "Báo chí với tuyên truyền chống tiêu cực trong giáo dục" của
tác giả Đỗ Thị Việt Oanh, năm 2008, đã bàn về vai trị của báo chí trong công
tác tuyên truyền chống tiêu cực trong giáo dục, thực trạng tuyên truyền chống
tiêu cực trong giáo dục của báo chí, đồng thời đưa ra các giải pháp nâng cao

chất lượng tuyên truyền chống tiêu cực trong giáo dục trên báo chí.
Luận văn "Báo in Việt Nam trong cơng cuộc đổi mới giáo dục hiện
nay" của tác giả Văn Phương Hoa, năm 2010, đã khảo sát các bài báo có nội
dung liên quan đến đổi mới giáo dục trên 3 tờ báo: báo Giáo dục và Thời đại,


5

Lao động, Tuổi trẻ TP Hồ Chí Minh, trong thời gian từ tháng 1/2008 đến
tháng 6/2009, đánh giá và nhận xét về nội dung, hình thức phản ánh các vấn
đề đổi mới giáo dục trên 3 tờ báo này; rút ra những kinh nghiệm, đề xuất
những kiến nghị, giải pháp để nâng cao hiệu quả tuyên truyền các vấn đề đổi
mới giáo dục trên báo in hiện nay.
Luận văn “Kết hợp truyền thống và hiện đại trong quá trình đổi mới
giáo dục đào tạo ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Lương Bằng, năm
2011 bàn về lý luận về sự kết hợp truyền thống và hiện đại trong quá trình đổi
mới giáo dục đào tạo ở Việt Nam. Những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
đào tạo con người đáp ứng nhu cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Luận văn “Đổi mới hoạt động kiểm tra - đánh giá kết quả học tập môn
vật lý của học sinh dự bị đại học dân tộc với sự hỗ trợ của công nghệ thông
tin” năm 2011 của tác giả Lê Thị Thu Hiền, đã đề xuất một số biện pháp khả
thi đổi mới hoạt động kiểm tra – đánh giá kết quả học tập của học sinh dự bị
đại học dân tộc với sự hỗ trợ của công nghệ thơng tin.
Luận văn “Đổi mới chương trình giáo dục thể chất cho sinh viên các
trường đại học sư phạm vùng Trung Bắc theo hướng bồi dưỡng nghiệp vụ tổ
chức hoạt động thể dục thể thao trường học” năm 2013 của tác giả Lê Trường
Sơn Chấn Hải, đã đánh giá thực trạng thực hiện chương trình giáo dục thể
chất nội khóa trong các trường đại học, cao đẳng sư phạm nói chung và vùng
Trung Bắc nói riêng, đưa ra phương pháp đổi mới chương trình giáo dục thể
chất cho sinh viên các trường đại học sư phạm vùng Trung Bắc Việt Nam.

Tuy nhiên, đó mới chỉ là các cơng trình nghiên cứu về đổi mới giáo dục
thuộc chuyên ngành sư phạm. Tới nay hầu như chưa có cơng trình nào nghiên
cứu thông tin về đổi mới giáo dục đăng tải trên báo chí. Do đó tác giả luận
văn gặp khơng ít khó khăn trong việc tìm kiếm tài liệu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu


6

– Mục đích
Trên cơ sở tìm hiểu rõ những thơng tin về đổi mới giáo dục trên báo
điện tử Giáo dục Việt Nam về nội dung và hình thức, qua đó đề xuất các giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng thông tin về đổi mới giáo dục trên báo Giáo
dục Việt Nam.
– Nhiệm vụ nghiên cứu
• Làm rõ các vấn đề lý luận về giáo dục, thông tin đổi mới giáo dục
• Phân tích tầm quan trọng của việc đăng tải thơng tin về đổi mới giáo
dục trên báo chí.
• Phân tích các điều kiện đăng tải thơng tin của báo Giáo dục Việt Nam
• Phân tích những thành tựu, hạn chế của việc đưa thông tin về đổi mới
giáo dục trên báo Giáo dục Việt Nam
• Đề xuất các giải pháp nhằm đẩy mạnh chất lượng, hiệu quả việc đưa
thông tin về vấn đề trên báo Giáo dục Việt Nam
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
– Đối tượng nghiên cứu
Thông tin về đổi mới giáo dục trên báo điện tử Giáo dục Việt Nam
– Phạm vi nghiên cứu
Đề tài thực hiện khảo sát tại báo điện tử Giáo dục Việt Nam.
Về thời gian, đề tài tập trung nghiên cứu trong thời gian trong năm 2014.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

– Cơ sở lý luận
Đề tài nghiên cứu dựa trên chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm, nguyên tắc chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta, cơ sở lý luận
về báo chí. Vận dụng các vấn đề lý luận về giáo dục, đổi mới giáo dục, khảo
sát thực tế tại tờ báo.
– Phương pháp nghiên cứu


7

Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của Chủ nghĩa
Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và trên cơ sở đường lối, Nghị quyết của
Đảng ta để khảo sát đánh giá đối tượng.
Phương pháp phân tích được dùng để phân tích nội dung, hình thức các
thông tin về đổi mới giáo dục trên báo điện tử Giáo dục Việt Nam, nhận diện
các ưu điểm, hạn chế của thông tin về đổi mới giáo dục trên báo điện tử Giáo
dục Việt Nam.
Phương pháp phỏng vấn sâu các nhóm: Nhóm quản lý báo chí (2
người) nhằm lấy ý kiến của những nhà quản lý xem họ nhìn nhận như thế nào
về thơng tin đổi mới giáo dục trên báo chí nói chung và báo Giáo dục Việt
Nam nói riêng, định hướng phát triển thơng tin này. Nhóm phóng viên (3
người) nhằm tìm hiểu quy trình đưa tin về đổi mới giáo dục, những thuận lợi,
khó khăn và những kinh nghiệm trong quá trình đưa tin, viết bài. Nhóm cơng
chúng (3 người) nhằm lấy ý kiến xem họ nhìn nhận như thế nào về thơng tin
đổi mới giáo dục trên báo Giáo dục Việt Nam, có hấp dẫn hay khơng. Qua đó
gợi mở các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thông tin đổi mới giáo dục
trên báo Giáo dục Việt Nam.
Ngoài ra, tác giả luận văn còn sử dụng các phương pháp đối chiếu, so
sánh, phương pháp thống kê, nhằm có những luận cứ sinh động, rút ra những
kết luận mang tính khoa học và có ý nghĩa thực tiễn.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
– Ý nghĩa lý luận
Hiện nay, Việt Nam hầu như chưa có cơng trình nghiên cứu kỹ lưỡng
về đổi mới giáo dục nói chung và thơng tin về vấn đề này trên báo chí nói
riêng. Do đó, về mặt khoa học, luận văn sẽ góp phần vào việc nghiên cứu thực
trạng đưa thông tin về đổi mới giáo dục trên báo chí nói chung và tờ báo điện
tử Giáo dục Việt Nam nói riêng.


8

– Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài cung cấp cái nhìn cụ thể về thực tiễn về việc đăng tải thông tin
về đổi mới giáo dục trên báo chí của nước ta hiện nay, làm rõ vai trị của báo
chí đến việc đổi mới giáo dục. Với kết quả nghiên cứu đạt đươc, luận văn có
thể là tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu, học tập về việc đăng tải
thơng tin đổi mới giáo dục trên báo chí nước ta hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Đề tài bao gồm 3 chương, phần mở đầu và phần kết luận
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thơng tin đổi mới giáo
dục trên báo chí
Chương 2: Thực trạng thông tin về đổi mới giáo duc trên báo điện tử
Giáo dục Việt Nam
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thông tin về đổi
mới giáo dục trên báo điện tử Giáo dục Việt Nam


9

Chương 1: MỘT SỐ VẤN LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THƠNG TIN

ĐỔI MỚI GIÁO DỤC TRÊN BÁO CHÍ
1.1 . Một số khái niệm liên quan
1.1.1 . Thông tin
Ngày nay, trong đời sống hàng ngày, ở đâu ta cũng thấy người ta nói tới
thơng tin: thơng tin là nguồn lực của sự phát triển; chúng ta đang sống trong
thời đại thông tin; một nền công nghiệp thông tin, một xã hội thơng tin đang
hình thành,…
Quả thật thơng tin là khái niệm cơ bản của khoa học cũng là khái niệm
trung tâm của xã hội trong thời đại chúng ta. Mọi quan hệ, mọi hoạt động của
con người đều dựa trên một hình thức giao lưu thơng tin nào đó. Mọi tri thức
đều bắt nguồn bằng một thông tin về những điều đã diễn ra, về những cái
người ta đã biết, đã nói, đã làm. Hiểu khái qt, thơng tin là lượng tri thức mà
người này hoặc đối tượng này muốn chuyển cho người khác hoặc đối tượng
khác, là cái mà A nghĩ là B chưa biết và cần biết, B muốn biết và A muốn
chuyển. Nhưng hiện nay có rất nhiều cách hiểu về thông tin.
Theo nghĩa thông thường, thông tin là tất cả các sự kiện, sự việc, ý
tưởng, phán đoán làm tăng thêm sự hiểu biết của con người. Thơng tin hình
thành trong q trình giao tiếp: một người có thể nhận thơng tin trực tiếp từ
người khác thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, từ các ngân
hàng dữ liệu hoặc từ tất cả các hiện tượng quan sát được trong môi trường
xung quanh.
Theo quan điểm triết học, thông tin là sự phản ánh của tự nhiên và xã
hội (thế giới vật chất) bằng ngôn từ, ký hiệu, hình ảnh…hay nói rộng hơn
bằng tất cả các phương tiện tác động lên giác quan của con người. Nội dung
của thơng tin chính là những thuộc tính, tính chất vốn có của sự vật với các sự
vật hiện tượng được bộc lộ ra, thể hiện thông qua tác động qua lại của sự vật


10


ấy với sự vật khác. Thông tin luôn gắn với q trình phản ánh. Những dấu ấn
để lại chính là những thông tin của hệ thống vật chất này đối với hệ thống vật
chất khác. Phản ánh của vật chất là phản ánh thơng tin, khơng có thơng tin
chung chung mà thông tin là thông tin về sự vật này đối với sự vật khác.
Thông tin mang lại cho con người sự hiểu biết, nhận thức tốt hơn về
những đối tượng trong đời sống xã hội, trong thiên nhiên, ... giúp cho họ thực
hiện hợp lý công việc cần làm để đạt tới mục đích một cách tốt nhất.
Bản chất của thơng tin nằm trong sự giao lưu của nó. Tức là thơng tin
chỉ có giá trị và ý nghĩa khi nó được truyền đi, phổ biến và được sử dụng. Nói
cách khác thuộc tính cơ bản của thơng tin là giao lưu.
Theo Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Hồng Đức, 2008, thì thơng tin
với nghĩa là động từ là truyền tin cho nhau để biết; và với nghĩa danh từ là
điều được truyền đi cho biết, tin truyền đi (ví dụ bài báo có lượng thơng tin
cao) [15, tr.853]. Thông tin giúp làm tăng hiểu biết của con người, là nguồn
gốc của nhận thức và là cơ sở của quyết định.
Theo cuốn “Thuật ngữ báo chí - truyền thơng”, thơng tin có tiếng anh là
“Information”, từ ngun gốc Latinh là “information” có nghĩa là quan niệm,
hình ảnh, sự lý giải; “informare” có nghĩa là sự tạo hình thức phản ánh. “Từ
góc độ nhận thức luận, thơng tin là kết quả của sự phản ánh hiện thực khách
quan, được biểu hiện bằng các hệ thống ngôn từ, ký hiệu, hình ảnh,... Thơng
tin đồng nghĩa với các hình thái tri thức mới mẻ, có giá trị phát triển sự hiểu
biết của con người. Từ góc độ khoa học kỹ thuật, thơng tin là số liệu, dẫn liệu
mà ta có thể lấy ra phân tích, so sánh, phân loại, giải thích, khái quát, tổ chức
lại, từ đó mà rút ra được những ý nghĩa, giá trị nào đó về tính chất, đặc trưng
của các sự vật, hiện tượng nào đó cũng như các quy luật tồn tại và vận động
của chúng.” (11, tr.185).


11


Theo Philipppe Breton và Serge Proulx trong cuốn sách “Bùng nổ
truyền thông - sự ra đời một ý thức hệ mới”, khái niệm thơng tin có hai
hướng nghĩa: Thứ nhất là, nói về một hành động cụ thể để tạo ra một hình
thái, thứ hai là, nói về sự truyền đạt một ý tưởng, một khái niệm hay biểu
tượng. Hai hướng nghĩa này cùng tồn tại, một nhằm vào sự tạo lập cụ thể,
một nhằm vào sự tạo lập kiến thức và truyền đạt. Nó thể hiện sự gắn kết
của hai lĩnh vực kỹ thuật và kiến thức [22, tr.75].
Như vậy, thông tin được hiểu theo hai nghĩa: Thứ nhất, đó chính là nội
dung thơng tin; Thứ hai, đó là phương tiện thông báo, báo tin.
Cách hiểu này phù hợp với khái niệm thông tin nêu trong phần mở đầu
“Chiến lược phát triển thông tin đến năm 2010” ban hành kèm theo Quyết
định số 219/2005/QĐ – TTg ngày 9/9/2005 của Thủ tướng Chính phủ:
“Thơng tin được coi là một nhu cầu thiết yếu trong đời sống xã hội, là công cụ
để điều hành, quản lý, chỉ đạo của mỗi quốc gia, là phương tiện hữu hiệu để
mở rộng giao lưu hiểu biết giữa các quốc gia, dân tộc, là nguồn cung cấp tri
thức mọi mặt cho công chúng và là nguồn lực phát triển kinh tế – xã hội”.
Đặc biệt, Chiến lược phát triển thông tin đã nêu lên một luận điểm quan
trọng về vai trị của thơng tin trong đời sống xã hội: Sự chênh lệch về trình độ
phát triển thông tin giữa các nước là một đặc điểm về quy mơ và trình độ phát
triển trong thời kỳ cách mạng khoa học và công nghệ. Nước nào không vượt
qua được những thách thức về thơng tin, nước đó mất cơ hội phát triển và có
nguy cơ mất khả năng tự chủ. Thiếu thơng tin, sẽ gặp khó khăn trong việc đưa
ra các quyết định hoặc các quyết định sẽ bị sai lệch, thiếu cơ sở khoa học,
không thực tiễn và trở nên kém hiệu quả.
Trong đời sống con người, nhu cầu thông tin là một nhu cầu rất cơ bản.
Nhu cầu đó khơng ngừng tăng lên cùng với sự gia tăng các mối quan hệ trong
xã hội. Thông tin tiềm tàng khắp nơi trong xã hội, đó là thông tin về lao động,


12


đất đai, môi trường, hoạt động kinh tế, xã hội,… trong đó, thơng tin báo chí
đã được hình thành.
1.1.2 . Thơng tin báo chí
Trong báo chí học và nghiên cứu truyền thông, thông tin đồng nghĩa
với những số liệu, kết luận hàm súc, có một hình thức dường như khơng cần
bình luận, bàn cãi về các sự kiện, hiện tượng, vấn đề xã hội cụ thể. “Thơng tin
báo chí là dạng thơng tin xã hội đặc thù, mang tính thời sự, phổ cập và rất
quan trọng về phương diện chính trị - xã hội. Là sự phản ánh hiện thực, thơng
tin có nội dung khách quan đồng thời lại mang tính chủ quan.” [11, tr.185]
Đối với báo chí, thơng tin trở thành phần tri thức, tư tưởng (do nhà báo
sáng tạo, tái tạo từ hiện thực) được chuyển dịch từ nhà báo đến công chúng để
cung cấp kiến thức, thay đổi nhận thức và cảm biến hành vi. Nói cách khác,
thơng tin chính là điểm khởi đầu, gốc rễ cơ bản nhất của q trình truyền
thơng, quyết định hiệu quả - kết quả so với mục đích ban đầu của người làm
truyền thơng.
Trong tiến trình phát triển của lịch sử văn hố nhân loại, báo chí là một
hiện tượng xã hội, ra đời do nhu cầu thông tin giao tiếp, giải trí và nhận thức
của con người. Thơng tin là một hiện tượng vốn có của thế giới vật chất. Theo
các nhà nghiên cứu, lần đầu tiên thông tin được con người chú ý về mặt ý
nghĩa xã hội của nó và được đề cập đến trong lý thuyết báo chí vào những
năm 20 – 30 của thế kỷ XX. Và từ đây, “Thơng tin chính là những cái mới
khác với những điều đã biết”.
Thông tin là chức năng sơ khởi của báo chí, theo nghĩa sử dụng phương
tiện kỹ thuật để phổ biến kết quả lao động sáng tạo của nhà báo. Thực hiện
chức năng thơng tin, báo chí cung cấp cho công chúng về tất cả các vấn đề, sự
kiện của đời sống xã hội, đáp ứng nhu cầu khám phá, tìm hiểu thế giới tự
nhiên, xã hội.



13

Trong một thế giới hiện thực chứa đầy lượng thông tin, báo chí có
cách riêng của mình để phản ánh hiện thực với mục đích tác động tới nhiều
tầng lớp xã hội với những mối quan tâm, sở thích và nhu cầu khác nhau.
Chính điều đó đã khiến cho báo chí trở thành một hoạt động thơng tin đại
chúng rộng rãi và năng động nhất mà khơng một hình thái ý thức xã hội
nào có được.
Như vậy, thơng tin báo chí cũng được hiểu theo hai nghĩa:
Thứ nhất, đó là tri thức, tư tưởng do nhà báo tái tạo và sáng tạo từ
hiện thực cuộc sống. Tất cả những vấn đề, sự kiện, hiện tượng trong tự
nhiên và xã hội được báo chí phản ánh nhằm phục vụ nhu cầu tìm hiểu,
khám phá của con người.
Thứ hai, đó là phương tiện, cơng cụ chuyển tải tác phẩm báo chí tới
cơng chúng.
Trong hoạt động báo chí, thơng tin là mục đích chủ yếu. Thơng tin trở
thành “cầu nối” giữa báo chí và công chúng. Căn cứ việc phân loại theo
phương thức thể hiện, người ta chia thơng tin báo chí thành các loại hình:
Thơng tin bằng chủ yếu chữ viết (báo in); thơng tin chủ yếu bằng tiếng nói
(phát thanh); thơng tin chủ yếu bằng hình ảnh (truyền hình); thơng tin trên
mạng internet (đa phương tiện).
Trong thực tiễn báo chí, thuật ngữ “thơng tin” có nhiều dạng khác nhau:
có khi chỉ là cái tin vắn, tin ngắn, bài bình luận, phóng sự, phỏng vấn; có khi
là một chương trình phát thanh, truyền hình. Ngay cả các tiêu đề, vị trí của tác
phẩm trên các cột báo, giọng đọc của phát thanh viên, các cỡ chữ hay cách
xếp chữ trên các tờ báo… đều chứa đựng thông tin.
Thuật ngữ “Thông tin” trong hoạt động báo chí cịn có có cách hiểu
rộng hơn, chúng còn được hiểu như một danh từ tập hợp. Chúng ta có thể gọi
tồn bộ tác phẩm, hay hệ thống những tin tức… là thông tin.



14

Đảng và Nhà nước ta hết sức coi trọng và đánh giá cao vai trị của
thơng tin báo chí. Đây không chỉ là phương tiện cung cấp thông tin, cung cấp
tri thức, là một trong những công cụ giúp cho cơng tác chỉ đạo, điều hành đất
nước mà cịn là nơi để phản hồi những thông tin từ nhân dân đối với đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, góp phần quan
trọng thực hiện dân chủ hố trong đời sống xã hội. Thơng tin báo chí thực sự
là cơng cụ cung cấp tri thức, dự báo sự phát triển đồng thời cũng là động lực
thúc đẩy sự phát triển. Đời sống nhân dân được cải thiện, trình độ dân trí ngày
càng được nâng cao nên nhu cầu thơng tin của nhân dân địi hỏi ngày càng
cao hơn.
1.1.3. Đổi mới giáo dục - Thông tin về đổi mới giáo dục
1.1.3.1 Giáo dục
Trong tiếng Anh, từ “giáo dục” được biết đến với từ “education”, đây là
một từ gốc Latin được ghép bởi hai từ là “Ex” và “Ducere” – “Ex-Ducere”.
Có nghĩa là dẫn (“Ducere”) con người vượt ra khỏi (“Ex”) hiện tại của họ để
vươn tới những gì hồn thiện, tốt lành hơn và hạnh phúc hơn.
Về cơ bản, các giáo trình về giáo dục học ở Việt Nam đều trình bày
“Giáo dục là hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất của nó là sự truyền đạt và
lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử – xã hội của các thế hệ loài người” [1, tr.5]. Định
nghĩa này nhấn mạnh về sự truyền đạt và lĩnh hội giữa các thế hệ, nhấn mạnh
đến yếu tố dạy học, nhưng khơng đề cập đến mục đích sâu xa hơn, mục đích
cuối cùng của việc đó.
Giáo dục là sự hồn thiện của mỗi cá nhân, đây cũng là mục tiêu sâu xa
của giáo dục; người giáo dục, hay có thể gọi là thế hệ trước, có nghĩa vụ phải
dẫn dắt, chỉ hướng, phải truyền tải lại cho thế hệ sau tất cả những gì có thể để
làm cho thế hệ sau trở nên phát triển hơn, hoàn thiện hơn.Với ý nghĩa đó, giáo
dục đã ra đời từ khi xã hội lồi người mới hình thành, do nhu cầu của xã hội



15

và trở thành một yếu tố cơ bản để làm phát triển loài người, phát triển xã hội.
Giáo dục là một hoạt động có ý thức của con người nhằm vào mục đích phát
triển con người và phát triển xã hội.
Giáo dục là một quá trình dạy và học nhằm chuẩn bị những kiến thức
và kỹ năng cần thiết hoặc làm thay đổi hành vi có hại bằng hành vi có lợi.
Giáo dục cũng là q trình giao tiếp hai chiều qua đó người dạy và
người học cùng chia sẻ hiểu biết, kinh nghiệm và cùng học tập lẫn nhau.
Giáo dục ban đầu được thực hiện một cách đơn giản, trực tiếp ngay
trong lao động và trong cuộc sống, ở mọi lúc, mọi nơi. Khi xã hội ngày càng
phát triển lên, kinh nghiệm xã hội được đúc kết nhiều hơn, yêu cầu của xã hội
đối với con người ngày càng cao hơn, các loại hình hoạt động xã hội ngày
càng mở rộng hơn thì giáo dục theo phương hướng trực tiếp khơng cịn phù
hợp mà địi hỏi phải có một phương thức giáo dục khác có hiệu quả hơn. Giáo
dục gián tiếp theo phương thức nhà trường, được thực hiện một cách chuyên
biệt ra đời và ngày càng phát triển đáp ứng ngày càng tốt nhu cầu của xã hội.
Do đó, xã hội ngày càng phát triển, giáo dục ngày càng trở nên phức tạp hơn
và mang tính chuyên biệt hơn. Sự phát triển đó là do yêu cầu tất yếu của xã
hội và do những sức mạnh to lớn của giáo dục tạo ra sự phát triển của xã hội.
Vai trò của giáo dục đối với sự phát triển về mọi mặt của xã hội thì khơng ai
có thể phủ nhận về nó.
Từ khi ra đời, giáo dục đã trở thành một yếu tố cơ bản thúc đẩy sự phát
triển thông qua việc thực hiện các chức năng xã hội của nó. Đó chính là
những tác động tích cực của giáo dục đến các mặt hay các quá trình xã hội và
tạo ra sự phát triển cho xã hội. Có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm
“giáo dục”:
– Giáo dục được hiểu là quá trình hình thành và phát triển nhân cách

dưới ảnh hưởng của tất cả các hoạt động từ bên ngoài, được thực hiện một


16

cách có ý thức của con người trong nhà trường, gia đình và ngồi xã hội. Ví
dụ: Ảnh hưởng của các hoạt động đa dạng nội khóa, ngoại khóa của nhà
trường; ảnh hưởng của lối dạy bảo, nếp sống trong gia đình; ảnh hưởng của
sách vở, tạp chí; ảnh hưởng của những tấm lòng nhân từ của người khác;…
– Giáo dục còn được hiểu là hệ thống những tác động có mục đích xác
định được tổ chức một cách khoa học (có kế hoạch, có phương pháp, có hệ
thống) của các cơ quan giáo dục chuyên biệt (nhà trường) nhằm phát triển
tồn diện nhân cách. Qua những mơn học trên trường, lớp cũng như qua
những hoạt động như báo cáo thời sự, biểu diễn văn nghệ, cắm trại, thăm
quan,… được tổ chức ngoài giờ lên lớp, sẽ tạo ra những ảnh hưởng tích cực
đến sự hình thành và phát triển nhân cách của người được giáo dục, dưới tác
động của giáo viên, của nhà giáo dục.
– Giáo dục được hiểu là quá trình hình thành và phát triển nhân cách
người giáo dục dưới quan hệ của những tác động sư phạm của nhà trường, chỉ
liên quan đến các mặt giáo dục như: trí học, đức học, mĩ dục, thể dục, giáo
dục lao động.
– Ngồi ra, giáo dục cịn được hiểu là quá trình hình thành và phát triển
nhân cách người được giáo dục chỉ liên quan đến giáo dục đạo đức. Sự ra đời
và phát triển của giáo dục gắn liền với cự ra đời và phát triển của xã hội. Một
mặt, giáo dục phục vụ cho sự phát triển xã hội, bởi lẽ, xã hội sẽ không phát
triển thêm một bước nào nếu như khơng có những điều kiện cần thiết cho giáo
dục tạo ra. Mặt khác, sự phát triển của giáo dục luôn chịu sự quy định của xã
hội thông qua những yêu cầu ngày càng cao và những điều kiện ngày càng
thuận lợi do sự phát triển xã hội mang lại. Chính vì vậy, trình độ phát triển
của giáo dục phản ánh những đặc điểm phát triển của xã hội.

Trong thời đại ngày nay, nền giáo dục thế giới và của mỗi quốc gia
đang không ngừng cái cách đổi mới nhằm thích ứng tốt hơn với những xu thế


17

phát triển mới mẻ, năng động của toàn nhân loại và có khả năng tạo ra được
những nguồn lực mới để phát triển nhanh, bền vững.
1.1.3.2 Đổi mới giáo dục
Đổi mới là cái vốn có của mọi vận động và phát triển trong tự nhiên, xã
hội cũng như trong tư duy. Bất kỳ sinh vật nào cũng luôn luôn tự đổi mới để
thích nghi với những sự thay đổi của môi trường sống. Đổi mới là trào lưu tư
tưởng tiến bộ, là xu thế thời đại. Những ai khơng có tư duy đổi mới, hành
động đổi mới thường dễ bị sa vào bảo thủ, duy trì những cái đã lỗi thời. Đối
với xã hội, đổi mới là một phản ứng mang tính tự nhiên của xã hội để bảo
đảm sự thích nghi của nó trước những biến đổi mơi trường tự nhiên, mơi
trường quốc tế, để thích ứng với tình thế. Đổi mới là quá trình vận động tự
nhiên của mọi hiện tượng xã hội.
Ngay từ năm 1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng khái niệm “Đổi
mới” trong sự vận dụng cụ thể vào Đổi mới đất nước. Người viết: “Công cuộc
Đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân”. Khi nhấn mạnh sự cần thiết phải
không ngừng Đổi mới nhận thức để phản ánh đúng tình hình thế giới, tình
hình trong nước vốn khơng ngừng biến đổi, Hồ Chí Minh viết: thế giới ngày
ngày Đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ cho nên chúng ta phải tiếp tục
học và hành để tiến bộ kịp nhân dân”. Đổi mới, theo Hồ Chí Minh, cịn là để
thắng sức ỳ của thói quen, của tập quán cũ. Dù đó là việc khó khăn, nhưng
chẳng có việc gì là khơng thể Đổi mới”.
Đổi mới cịn là cách để thay đổi một phương thức sống, tạo lập một
phương thức sống mới, đáp ứng nhu cầu của sự phát triển.
Đổi mới giáo dục là sự nghiệp quan trọng, khó khăn, là tất yếu khách

quan. Yêu cầu này xuất phát từ thực trạng nền giáo dục Việt Nam.
Trong những thập kỷ qua, nền giáo dục Việt Nam có những bước phát
triển, có những thành tựu đáng ghi nhận, góp phần quan trọng vào nâng cao


18

dân trí, đào tạo nhân lực cho cơng cuộc xây dựng, bảo vệ và đổi mới đất
nước. Nhưng đồng thời nền giáo dục đang ẩn chứa rất nhiều yếu kém, bất cập,
mà Đại hội IX, X đến Đại hội XI của Đảng vẫn nêu rất đậm nét, đó là:
- Giáo dục-đào tạo còn nhiều hạn chế, yếu kém, bất cập chậm được
khắc phục; chất lượng giáo dục còn thấp, quan tâm đến phát triển số lượng
nhiều hơn chất lượng; so với yêu cầu phát triển của đất nước còn nhiều nội
dung chưa đạt; chưa thực sự là quốc sách hàng đầu.
- Nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục cịn lạc hậu, chậm đổi
mới, chậm hiện đại hóa, chưa gắn chặt với đời sống xã hội và lao động nghề
nghiệp; chưa phát huy tính sáng tạo, năng lực thực hành của học sinh, sinh viên.
- Chất lượng giáo dục có mặt bị buông lỏng, giảm sút, nhất là giáo dục
đạo đức, lối sống; giáo dục mới quan tâm nhiều đến dạy “chữ”, còn dạy
“người” và dạy “nghề” vẫn yếu kém; yếu về giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối
sống, lịch sử dân tộc, tư duy sáng tạo, kỹ năng thực hành, kỹ năng sống…
- Hệ thống giáo dục quốc dân không hợp lý, thiếu đồng bộ, chưa liên
thông, mất cân đối.
- Quản lý nhà nước trong giáo dục còn nhiều yếu kém, bất cập, chậm
đổi mới, là nguyên nhân chủ yếu của nhiều nguyên nhân khác; cơ chế quản lý
giáo dục chậm đổi mới, còn nhiều lúng túng, nhận thức rất khác nhau, nhất là
trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế; chưa theo kịp sự đổi
mới trên các lĩnh vực khác của đất nước.
- Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên còn nhiều bất cập, đạo
đức và năng lực của một bộ phận còn thấp.

- Chưa nhận thức đầy đủ, đúng đắn về cơng tác xã hội hóa giáo dục;
định hướng liên kết với nước ngoài trong phát triển giáo dục còn nhiều lúng
túng, chưa xác định rõ phương châm.


19

- Tư duy giáo dục chậm đổi mới, chưa theo kịp yêu cầu đổi mới-phát
triển đất nước trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế;
khoa học giáo dục chưa được quan tâm đúng mức, chất lượng nghiên cứu
khoa học giáo dục còn nhiều bất cập.
- Các cơ quan chức năng chậm cụ thể hóa những quan điểm của Đảng
thành cơ chế, chính sách của Nhà nước; thiếu nhạy bén trong công tác tham
mưu, thiếu những quyết sách đồng bộ và hợp lý ở tầm vĩ mơ (có khi chính
sách được ban hành rồi nhưng chỉ đạo tổ chức thực hiện không đến nơi đến
chốn, kém hiệu quả); một số chính sách về giáo dục cịn chủ quan, duy ý chí,
xa thực tế, thiếu sự đồng thuận của xã hội.
Những vấn đề, những yếu kém và bất cập nêu trên của giáo dục không
thể giải quyết khắc phục được căn bản chỉ bằng các giải pháp cục bộ, đơn lẻ,
bề mặt nhất thời, thiếu chiến lược và tầm nhìn dài hạn, thiếu tính đồng bộ và
hệ thống, chưa đạt tới chiều sâu bản chất của vấn đề. Để giải quyết được căn
bản những vấn đề đặt ra, những người lãnh đạo - quản lý, những nhà khoa
học, những người làm giáo dục phải có cách nhìn tồn diện, đầy đủ, khách
quan, như các văn kiện của Đảng đã nêu, sâu hơn, bản chất hơn những gì nêu
trên báo chí và những báo cáo tổng kết thành tích.
Trong khi đó, sự phát triển đất nước trong giai đoạn mới ln địi hỏi
nhiều yếu tố từ phía giáo dục, đặt ra những yêu cầu, những nội dung rất mới,
rất cao về nguồn lực con người, với những giá trị xã hội mới, tiêu chí mới về
phẩm chất và năng lực của mỗi con người và cả cộng đồng (như năng lực hợp
tác, cạnh tranh, đấu tranh trên trường quốc tế; năng lực làm chủ - ứng dụng và

sáng tạo khoa học và công nghệ cao; năng lực kết nối cộng đồng; năng lực lập
nghiệp; văn hóa lao động, lối sống hiện đại, văn minh và mang đậm bản sắc
dân tộc…). Tất cả những giá trị mới nêu trên tất yếu đặt ra những yêu cầu mới
về nhận thức, quan điểm, mục tiêu, cơ chế phát triển giáo dục; về nội dung,


20

chương trình và phương pháp giáo dục; địi hỏi phải đổi mới căn bản, toàn
diện nền giáo dục của đất nước.
Đổi mới giáo dục ở nước ta không phải là những sửa đổi, điều chỉnh
nhỏ, đơn lẻ, cục bộ, mang tính bề mặt. Đây là q trình đổi mới “đụng” tới
tầng sâu bản chất của hệ thống giáo dục, làm thay đổi căn bản về chất của hệ
thống giáo dục, để đưa hệ thống giáo dục lên một trình độ mới, hiệu quả hơn,
chất lượng hơn.
Đảng, Nhà nước ta đã đặt ra yêu cầu đổi mới giáo dục phải là đổi mới
căn bản, toàn diện. Đổi mới căn bản được hiểu là đổi mới những vấn đề cốt
lõi nhất để làm thay đổi và nâng cao về chất của hệ thống giáo dục, nhằm đáp
ứng với đòi hỏi của đất nước trong giai đoạn mới, đó là:
- Đổi mới tư duy, nhận thức, triết lý về giáo dục, về sứ mạng của giáo dục.
- Đổi mới quan điểm phát triển giáo dục.
- Đổi mới mục tiêu giáo dục.
- Đổi mới và lành mạnh hóa mơi trường giáo dục.
- Đổi mới nội dung và phương thức giáo dục.
- Đổi mới cơ chế phát triển giáo dục.
- Đổi mới động lực - nguồn lực phát triển giáo dục.
- Đổi mới tổ chức chỉ đạo thực hiện q trình đổi mới giáo dục.
Đó là những yếu tố cơ bản cần được nghiên cứu làm rõ cả về cơ sở
khoa học và thực tiễn để làm nền tảng cho đổi mới Hệ thống giáo dục. Đây là
những vấn đề rất quan trọng, chưa được nghiên cứu thấu đáo và có hệ thống,

hiện đang cịn có nhiều ý kiến khác nhau.
Đổi mới tồn diện nền giáo dục được hiểu là đổi mới về tất cả các mặt,
các yếu tố cấu thành hệ thống giáo dục và các quá trình giáo dục như:
- Đổi mới và hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc gia.
- Đổi mới ở tất cả các cấp, bậc học, các hình thức giáo dục, đào tạo.


21

- Đổi mới đồng bộ về nội dung, chương trình và phương pháp giáo dục,
đào tạo.
- Đổi mới và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và
giáo viên.
- Đổi mới và nâng cao chế độ đãi ngộ - tôn vinh gắn liền với nâng cao
chế độ trách nhiệm xã hội của các nhà giáo.
- Đổi mới và nâng cao cấp cơ sở vật chất, kỹ thuật của các cơ sở giáo
dục, đào tạo.
- Đổi mới cơ chế hoạt động của các cơ sở giáo dục, đào tạo.
- Đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý giáo dục.
- Đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục và xây dựng xã hội học tập.
- Hình thành đồng bộ và lành mạnh hóa mơi trường giáo dục gồm mơi
trường nhà trường, mơi trường gia đình và mơi trường xã hội.
Nội dung đổi mới căn bản và nội dung đổi mới tồn diện gắn bó mật
thiết với nhau; phải trên cơ sở làm rõ các “nội dung căn bản” để cụ thể hố
cho các “nội dung tồn diện”. Bởi vì một nền giáo dục “học một lần cho làm
việc cả đời” khác căn bản với nền giáo dục “học cả đời để ln thích ứng
cơng việc và cuộc sống”, lại càng khác hơn so với nền giáo dục trong xã hội
thông tin và nền kinh tế tri thức; nền giáo dục được bao cấp hoàn toàn khác
với nền giáo dục trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
Định hướng cơ bản của quá trình đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo

dục đã được nêu trong Văn kiện Đại hội XI của Đảng là “chuẩn hoá, hiện đại
hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế”. “Ngũ hố” đó là những
u cầu cơ bản đặt ra cho quá trình đổi mới nền giáo dục. Mỗi “hố” đó chứa
đựng những tiêu chí mới đối với nền giáo dục (ở đây chưa đề cập chi tiết).
Nhưng tổng hợp lại sẽ tạo nên một nền giáo dục năng động-hiệu quả-chất


22

lượng, đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn mới và phù
hợp với xu thế của thời đại.
1.1.3.3 Thông tin về đổi mới giáo dục
Dựa trên những khái niệm đã nêu ở trên, có thể hiểu: thông tin về đổi
mới giáo dục là những tin tức, tri thức nhằm thay đổi những vấn đề lớn, cốt
lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương
pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện trong lĩnh vực giáo
dục. Đó là những tin tức về nhận thức, quan điểm, mục tiêu, những yếu kém
và bất cập của giáo dục, nội dung, chương trình và phương pháp đổi mới áp
dụng trong ngành giáo dục.
Trong nhiều năm qua, đổi mới giáo dục đã trở thành đề tài tiêu điểm
trên các trang báo, từ truyền hình cho tới phát thanh, báo in và đặc biệt là báo
mạng điện tử. Vì vai trị to lớn của giáo dục với sự phát triển của đất nước mà
các cây bút đều hướng sự quan tâm tới thông tin về đổi mới giáo dục. Các tờ
báo đưa tin về các chính sách của Đảng, Nhà nước, Bộ Giáo dục và đào tạo,
đưa tin về thái độ, phản ứng của học sinh, giáo viên và nhân dân. Ngoài ra,
khơng ít tờ báo cịn đi sâu vào việc phân tích, bình luận các chính sách, các
tiêu cực trong nên giáo dục nói chung và q trình đổi mới giáo dục nói riêng.
1.2 Quan điểm của Đảng, Nhà nước về đổi mới giáo dục
Từ xưa, cha ông ta đã khẳng định; “Hiền tài là ngun khí quốc gia” và
điều đó đã trở thành truyền thống quý báu của dân tộc ta. Phát huy truyền

thống đó, Đảng và Nhà nước ln luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến sự
nghiệp giáo dục, đào tạo.
Giai đoạn trước đổi mới, Đảng ta chưa ban hành nghị quyết Trung
ương có tính chun đề về giáo dục và đào tạo. Đường lối và các chính sách
của Đảng về lĩnh vực này được thể hiện trong các văn kiện của các đại hội


23

Đảng và các nội dung được đưa vào các nghị quyết về các lĩnh vực kinh tế xã hội.
Để cụ thể hoá thực hiện Nghị quyết Đại hội IV, ngày 11-1-1979 Bộ
Chính trị đã ra Nghị quyết số 14-NQ/TW “về cải cách giáo dục”. Nghị quyết
nêu mục tiêu của cải cách giáo dục lần này là “làm tốt việc chăm sóc và giáo
dục thế hệ trẻ ngay từ tuổi ấu thơ cho tới lúc trưởng thành, nhằm tạo cơ sở
ban đầu rất quan trọng của con người Việt Nam mới, người lao động làm chủ
tập thể và phát triển toàn diện”. Đây là nghị quyết đầu tiên về chuyên đề giáo
dục sau khi đất nước được thống nhất, có nhiều vấn đề cần cụ thể hố bằng
các chính sách, các đề án để thực hiện, từ xác định mục tiêu cụ thể, sắp xếp lại
cơ cấu hệ thống cho đến vấn đề biên soạn sách giáo khoa thống nhất cho các
cấp học bậc học.
Nghị quyết Đại hội VI xác định: Giáo dục nhằm mục tiêu hình thành và
phát triển tồn diện nhân cách xã hội chủ nghĩa của thế hệ trẻ, đào tạo đội ngũ
lao động có kỹ thuật đồng bộ về ngành nghề, phù hợp với yêu cầu phân công
lao động của xã hội. Sự nghiệp giáo dục, nhất là giáo dục đại học và chuyên
nghiệp, trực tiếp góp phần vào việc đổi mới công tác quản lý kinh tế và xã
hội.
Ngày 14-1-1993, Đảng ta ban hành Nghị quyết số 04-NQ/HNTW, “Về
tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo”.
Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Đảng ta, Ban Chấp hành Trung ương
Đảng đã có kỳ họp riêng bàn về một số vấn đề xã hội, trong đó tập trung xem

xét sâu rộng vấn đề giáo dục và đào tạo và ra Nghị quyết về tiếp tục đổi mới
sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Đây là Nghị quyết đáp ứng lòng mong đợi từ
lâu của toàn Đảng, toàn dân ta, nhất là đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo
dục, học sinh, sinh viên trong cả nước, về việc xác định quan điểm, chủ
trương, chính sách, biện pháp tiếp tục phát triển mạnh mẽ sự nghiệp giáo dục.


24

Nghị quyết không những chỉ ra những giải pháp cấp bách để xử lý những vấn
đề nóng bỏng đối với cơng tác giáo dục và đào tạo mà cịn định hướng lâu dài
cho việc phát triển sự nghiệp này theo cương lĩnh và chiến lược của Đảng ta
cho đến sau năm 2000, nhằm chuẩn bị cho nhân dân ta, đặc biệt cho thế hệ trẻ
vững bước tiến vào thế kỷ XXI.
Đặc biệt, Nghị quyết đã nêu rõ tư tưởng mới hết sức quan trọng: đầu tư
cho giáo dục là đầu tư phát triển. Nhiều năm trước đây, đầu tư cho giáo dục
được coi là đầu tư cho phúc lợi xã hội. Từ đây, đầu tư cho giáo dục là đầu tư
để phát triển con người, phát triển sản xuất, phát triển xã hội.
Tại Đại hội XI, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã kí ban hành Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI (Nghị quyết số
29-NQ/TW) với nội dung Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hóa – hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Đảng và Nhà nước xác định mục tiêu của đổi mới lần này là: Tạo
chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp
ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học
tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát
huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu
Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả.
Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt,

quản lý tốt; có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã
hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại
hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế hệ thống giáo dục và đào
tạo; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc dân tộc. Phấn đấu đến
năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.


×