Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Tiểu luận luật hình sự đề tài chế định án treo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (265.63 KB, 19 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS

Bộ luật hình sự

BLHS 2015

Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi

HĐTP

bổ sung năm 2017
Hội đồng thẩm phán

HTND

Hội thẩm nhân dân

HĐXX

Hội đồng xét xử

LXLVPHC 2012

Luật xử lí vi phạm hành chính
năm 2012
Người phạm tội

NPT
NTNPT



Nhân thân người phạm tội

TAND

Tồ án nhân dân

TGTT

Thời gian thử thách

TNHS

Trách nhiệm hình sự

VPHC

Vi phạm hành chính







1


MỤCLỤC
A. MỞ ĐẦU ............................................................................................................3

1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................3
2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ......................................................................4
3. Mục đích nghiên cứu ......................................................................................4
4. Nhiệm vụ nghiên cứu......................................................................................4
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................4
6. Tình hình nghiên cứu ......................................................................................4
B. NỘI DUNG ........................................................................................................5
I. Khái quát chung về án treo trong bộ luật hình sự Việt Nam...........................5
II. Những căn cứ áp dụng án treo..........................................................................6
1. Về mức hình phạt tù .......................................................................................7
2. Về nhân thân người phạm tội .........................................................................8
3. Có nhiều tình tiết giảm nhẹ.............................................................................9
4. Thuộc trường hợp khơng cần bắt chấp hành hình phạt tù ............................11
II. Liên hệ thực tiễn căn cứ áp dụng án treo hiện nay .......................................12
1. Những vấn đề bất cập ...................................................................................13
2. Kiến nghị, đề xuất ........................................................................................16
C. KẾT LUẬN ......................................................................................................17
DANH M C T I LI U THAM KH O ...................................................................18




















































































Ệ


























2


1. Lí do chọn đề tài
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nhà nước nghiêm khắc nhất. Tính
nghiêm khắc nhất của hình phạt thể hiện ở nội dung tước bỏ, hạn chế quyền và
lợi ích của người bị kết án như quyền sở hữu, quyền tự do và có thể cả quyển
sống của con người,..Trong nhiều trường hợp, với những điều kiện nhất định,
việc quyết định áp dụng hình phạt tù đối với người phạm tội sẽ bảo đảm tính
nghiêm khắc và tính răn đe tội phạm. Tuy nhiên, nếu như cứng nhắc trong việc
bắt buộc người bị kết án phạt tù phải chấp hành án trong các cơ sở giam giữ thì
sẽ khơng đảm bảo tính nhân đạo, tính mềm dẻo trong thi hành án. Xuất phát từ
nhiệm vụ của luật hình sự Việt Nam và mục đích của hình phạt đó là đề cao tính
nhân đạo xã hội chủ nghĩa, đấu tranh phòng chống các loại tội phạm, án treo là
chế định pháp luật hình sự rất phù hợp để tạo điều kiện cho người bị kết án tù tự
tu dưỡng và lao động tại cộng đồng với sự giúp đỡ tích cực của xã hội, gia đình.
Trong đó phải kể đến các căn cứ áp dụng án treo cho người phạm tội vì đây là
những căn cứ rất quan trọng để xem xét người bị kết án có được hưởng án treo
hay khơng.
Ngày nay, án treo càng khẳng định sự ưu việt của nó khi tác dụng khuyến
khích người bị kết án tự tu dưỡng và lao động tại cộng đồng với sự giúp đỡ tích
cực của xã hội cũng như gia đình đồng thời cảnh báo họ nếu phạm tội mới trong
thời gian thử thách thì buộc phải chấp hành hình phạt tù đã tuyên. Chế định này
biểu hiện rõ nét sự kết hợp hài hoà giữa sự cưỡng chế Nhà nước với sự tác động
của xã hội trong việc trừng trị, giáo dục cải tạo người phạm tội. Bên cạnh đó,

trong thực tiễn xét xử, chế định này đã bộc lộ những hạn chế nhất định khi vận
dụng các căn cứ áp dụng án treo. Điều đó đã làm giảm vai trị ý nghĩa của án
treo.
Vì vậy em xin lấy chủ đề nghiên cứu của bài tiểu luận là: “Phân tích căn
cứ áp dụng án treo theo Bộ luật Hình sự 2015, liên hệ thực tiễn căn cứ áp dụng
án treo hiện nay”.
















3












A. MỞ ĐẦU


_ Căn cứ áp dụng án treo trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015
_ Thực tiễn vận dụng án treo trong cơng tác đấu tranh phịng chống tội phạm
3. Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ nội dung về căn cứ áp dụng án treo theo quy định của Bộ luật
Hình sự năm 2015. Từ đó nghiên cứu thực tiễn vấn đề căn cứ áp dụng án treo để
tìm ra những bất cập, nguyên nhân cốt lõi, đồng thời tìm ra các giải pháp khắc
phục nhằm hồn thiện và nâng cao hiệu quả của án treo.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
_ Về lí luận: Nghiên cứu nội dung cơ bản liên quan đến án treo, phân tích cụ thể
các căn cứ áp dụng án treo giúp có cái nhìn đúng đắn về chế định án treo.
_ Về thực tiễn: Nghiên cứu, đánh giá tổng quát thực tiễn áp dụng án treo trong
những năm gần đây. Trên cơ sở đó, tìm ra các vướng mắc trong quá trình căn cứ
xét án treo cho người phạm tội, đưa ra giải pháp nhầm nâng cao hiệu quả khi áp
dụng án treo.
5. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp nghiên cứu phân tích tài liệu là chính, đồng thời kết
hợp lý luận và thực tiễn, tham khảo nguồn internet,..
6. Tình hình nghiên cứu
Trên thực tế, vấn đề án treo được đề cập ở một số giáo trình của các
trường đại học chuyên ngành luật, có rất nhiều luận văn đã bình luận về án treo.
Trên thế giới, đề tài này cũng được nhiều người quan tâm. Đã có cơng trình đề
cặp án treo trong hệ thống lí luận chung về pháp luật hình sự. Tuy nhiên, các bài
viết trên chỉ đề cập khái quát về chế định án treo nói chung chứ chưa đi sâu vào

phân tích các căn cứ áp dụng án treo. Nếu có thì đó là những văn bản nước
ngồi sẽ khơng phù hợp với tình hình nước ta hiện nay. Vì thế căn cứ áp dụng án
treo vẫn cịn nhiều phức tạp về mặt lập pháp và áp dụng pháp luật cần được
quan tâm và tìm hiểu sâu hơn.






































4









2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu


I. Khái quát chung về án treo trong bộ luật hình sự Việt Nam
Khái niệm án treo
Bộ luật hình sự không đưa ra khái niệm cụ thể đối với án treo. Nhưng dựa
vào các quy định trong BLHS hiện nay, án treo có thể hiểu là biện pháp miễn
chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Khi đó người được hưởng án treo là người
bị kết án phạt tù, nhưng được miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện.

Khoản 1 Điều 65 BLHS 2015 quy định về án treo như sau: Khi xử phạt tù không
quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ,
nếu xét thấy khơng cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì tồ án cho hưởng
án treo và ấn định thời gian thử thách từ 01 năm đến 05 năm và thực hiện các
nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật thi hành án hình sự.
Một số người có quan niệm sai về án treo, họ thường gọi án treo là “tù
treo” và mặc nhiên cho rằng “tù treo” nhẹ hơn “tù giam”. Vì vậy, chúng ta cần
có cái nhìn đúng hơn về các thuật ngữ này. Đầu tiên, hình phạt tù chỉ bao gồm
“tù có thời hạn” và “tù chung thân” khơng có thuật ngữ pháp lý nào nói đến “tù
giam”. Khi bị áp dụng hình phạt tù thì người phạm tội sẽ bị giam giữ trong trại
giam và bị quản lý bởi lực lượng cơng an. Thứ hai nói đến tù là phải nói đến
phải chấp hành hình phạt tù nên sẽ không tồn tại thuật ngữ “tù treo” bởi “án
treo” được áp dụng đồng nghĩa với miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện.
Bản chất của án treo
Bản chất của án treo trong thực tiễn thi hành mang đặc điểm pháp lý đó là
biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện là biện pháp khơng tước tự
do, qua đó thể hiện hai mặt của vấn đề. Một là nếu khơng cải tạo trong trại giam
thì người được hưởng án treo sẽ được tự do hơn về thể chất lẫn tinh thần mà như
dân gian nói là “một ngày ở tù bằng nghìn thu ở ngồi”, ở ngồi trại giam thì họ
sẽ làm được nhiều việc cho bản thân họ, gia đình họ và cho xã hội,... Song mặt
khác của vấn đề là nếu người được hưởng án treo không thận trọng, không ý























5













B. NỘI DUNG



hành hình phạt tù trong bản án treo trước đó, cộng với hình phạt của bản án về
tội phạm mới thực hiện.
Vai trò của án treo
Án treo là một chế định tiến bộ thể hiện cụ thể phương châm trừng trị kết
hợp với giáo dục và tính nhân đạo trong chính sách hình sự của Nhà nước ta.
Chế định này không buộc người bị kết án cách ly khỏi xã hội, họ vẫn được làm
ăn sinh sống và chứng tỏ sự hối cải, hồn lương của mình ngay trong mơi trường
xã hội bình thường dưới sự giám sát, theo dõi, giáo dục của cơ quan nhà nước,
tổ chức, đơn vị quân đội, cơ sở giáo dục, đào tạo hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã
nơi người được hưởng án treo. Không những vậy, khi án treo được áp dụng Nhà
nước sẽ tiết kiệm được khoản chi tương đối lớn cho việc cải tạo họ trong trại giam
nếu cho người bị kết án được hưởng án treo. Đặc biệt nếu họ cải tạo theo hưởng
tích cực khi làm việc và sinh sống ở ngoài sẽ giúp thúc đẩy nền kinh tế nước ta
phát triển. Hơn nữa án treo cịn có tác dụng phịng chống các loại tội phạm có
thể xảy ra. Bởi những người xung quanh thấy được hậu quả bất lợi từ hành vi
phạm tội thì họ sẽ lấy đó làm bài học và có ý thức chấp hành pháp luật tốt hơn.
Tất cả điều đó đã thể hiện vai trò quan trọng của án treo đối tất cả các chủ
thể trong lĩnh vực pháp luật. Nó vừa là chính sách nhân văn sâu sắc của Nhà
nước đối với người phạm tội, vừa mang lại hiệu quả cao trong công tác đấu
trang phòng chống các loại tội phạm. Như thế xã hội sẽ ổn định, đảm bảo an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội đồng thời giúp kinh tế, văn hoá xã hội phát
triển bền vững.
II. Những căn cứ áp dụng án treo
BLHS 2015 đã đưa ra các quy định chung về căn cứ áp dụng án treo tại
Khoản 1 Điều 65. Cụ thể sẽ có 4 căn cứ chính giúp NPT được hưởng án treo đó
là: căn cứ mức hình phạt tù; căn cứ nhân thân người phạm tội; có nhiều tình tiết
giảm nhẹ và thuộc trường hợp khơng cần bắt chấp hành hình phạt tù.




















6











thức hậu quả pháp lý của án treo mà lại phạm tội mới thì họ buộc phải chấp



Mức hình phạt tù là căn cứ đầu tiên để tồ án xem xét cho người bị kết án
tù có được hưởng án treo hay không. Bởi nếu thời gian chấp hành hình phạt tù
ngắn hay dài sẽ chứng tỏ hành vi mà NPT thực hiện gây ra hậu quả lớn hay
không lớn cho xã hội. Khi NPT gây ra hậu quả khơng lớn thì họ cần được cho
thêm một cơ hội để thay đổi theo hướng tốt hơn, đồng thời họ cần phải được cơ
quan có thẩm quyền quản lý kiểm sốt để tránh tình trạng tái phạm hoặc phạm
tội mới. Điều này thể hiện sự nhân đạo và tính mềm dẻo trong thi hành án đối
với NPT. Chính vì lẽ đó, tại Điều 65 của BLHS 2015 quy định rõ những người
bị tồ án phạt tù khơng q 03 năm, khơng kể tội phạm là tội gì đều có thể được
xem xét cho hưởng án treo.
Như vậy, so với BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) và Nghị quyết
số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao hướng dẫn về áp dụng Điều 60 BLHS 1999 (sửa đổi bổ sung năm
2009) về án treo thì căn cứ hưởng án treo theo BLHS 2015 đã có bước tiến bộ
hơn khi bỏ quy định án treo chỉ được áp dụng đối với NPT bị xử phạt tù khơng
q 03 năm về tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng. Qua
đó cho thấy phạm vi hưởng án treo về cơ bản đã được mở rộng hơn.
Song bên cạnh đó cần lưu ý những điều sau. Mức hình phạt tù khơng q
03 năm được tuyên phải phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm của tội
phạm, trên cơ sở tuân thủ các căn cứ quyết định hình phạt áp dụng cho trường
hợp phạm tội cụ thể. Khi quyết định hình phạt phải tuân thủ nguyên tắc xử lí
quy định tại Điều 3 BLHS kết hợp với các căn cứ quyết định hình phạt quy định
tại Điều 50 BLHS; khơng được cho rằng án treo là một loại hình phạt nhẹ hơn
hình phạt tù để tăng hình phạt lên cao hơn các trường hợp khác khơng có căn cứ
và cho hưởng án treo; khơng được tuỳ tiện giảm mức hình phạt tù khơng có căn
cứ để đủ điều kiện về mức hình phạt tù quy định tại Điều 65 BLHS và cho
hưởng án treo. Ngoài ra cần phải xem xét trên nhiều phương diện và các căn cứ
khác có liên quan để toà án quyết định đối với người bị xét xử trong cùng một











7









1. Về mức hình phạt tù


chung không quá 03 năm tù được hưởng án treo hay khơng.
Từ những phân tích trên u cầu mọi người phải hiểu đúng Điều 65 của
BLHS 2015 đó là nếu bị tồ án phạt tù khơng q 03 năm thì người phạm tội
vẫn có khả năng phải chấp hành hình phạt tù có thời hạn chứ khơng phải lúc nào
cũng được xem xét hưởng án treo. Không những thế khi xem xét áp dụng án
treo, thẩm phán cần khách quan trong việc đưa ra mức hình phạt tù phù hợp với
tội phạm mà người phạm tội thực hiện để đảm bảo sự công bằng trong lĩnh vực
pháp luật.

2. Về nhân thân người phạm tội
Người được hưởng án treo phải là người có nhân thân tốt. Theo hướng
dẫn của Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP, người phạm tội có nhân thân tốt
được hiểu là ngồi lần phạm tội này họ ln tơn trọng các quy tắc xã hội, chấp
hành đúng chính sách, pháp luật, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của công dân nơi cư
trú, công tác; không vi phạm các điều mà pháp luật cấm.
Những đặc điểm NTNPT không chỉ là căn cứ quan trọng của quyết định
hình phạt mà cịn là căn cứ cần thiết để xem xét người phạm tội với điều kiện cụ
thể có khả năng tự giáo dục, cải tạo hay khơng. Chúng ta phải xem xét tồn diện
về nhân thân kết hợp với thái độ của họ sau khi phạm tội và đối chiếu với yêu
cầu phòng ngừa chung của xã hội để quyết định hình phạt tù đối với họ. Đối với
những người có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội, sau khi phạm tội có thái độ biết
lỗi và có ý thức sửa sai thì sẽ có nhiều khả năng tự cải tạo hơn các đối tượng
khác, vì vậy án treo sẽ giúp người họ hoàn lương một cách tốt nhất.
Trường hợp người phạm tội có án tích nhưng đã được xố án tích, được
đương nhiên xố án tích thì coi là chưa bị kết án; đã bị xử lý hành chính, xử lý
kỷ luật nhưng đã hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý VPHC, xử lý kỷ luật
hoặc hết thời hiệu xử lý VPHC , xử lý kỷ luật thì được coi là chưa bị xử lý hành
chính, chưa bị xử lý kỷ luật; hoặc nếu xét thấy tính chất, mức độ của tội phạm
mới được thực hiện thuộc trường hợp ít nghiêm trọng hoặc người phạm tội là





















8











lần về nhiều tội hoặc có nhiều bản án mà khi tổng hợp hình phạt, hình phạt


cũng có thể cho hưởng án treo. Cụ thể theo quy định tại Điều 7 LXLVPHC 2012
thì “Cá nhân, tổ chức bị xử lý VPHC, nếu trong thời hạn 06 tháng, kể từ ngày
chấp hành xong quyết định xử lý phạt cảnh cáo hoặc 01 năm, kể từ ngày chấp
hành xong quyết định xử phạt hành chính khác hoặc từ ngày hết thời hiệu thi
hành quyết định xử phạt VPHC mà khơng tái phạm thì được coi là chưa bị xử

phạt VPHC ”. Theo quy định này thì người bị xử phạt cảnh cáo vì VPHC được
coi như chưa bị xử phạt VPHC và có thể được xem xét cho hưởng án treo sau 12
tháng, kể từ khi họ được coi là chưa bị xử lý hành chính. Đối với quyết định xử
phạt VPHC khác và trường hợp đã hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt
VPHC thì thời hạn được coi như chưa bị xử phạt VPHC phải là 01 năm, tức là
người được coi là chưa bị xử phạt VPHC phải bảo đảm hơn 18 tháng, kể từ khi
được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính đến khi phạm tội mới. Theo quy
định tại khoản 2 Điều 69 và khoản 1 Điều 107 BLHS thì các trường hợp được
coi là khơng có án tích thuộc phạm tội do lỗi vơ ý, được miễn hình phạt, đưa vào
trường giáo dưỡng, áp dụng biện pháp tư pháp.
Đồng thời cần lưu ý người bị kết án phải có nơi cư trú rõ ràng hoặc nơi
làm việc ổn định. Theo đó, nơi cư trú rõ ràng là nơi tạm trú hoặc thường trú có
địa chỉ được xác định cụ thể theo quy định của Luật cư trú mà người được
hưởng án treo về cư trú, sinh sống thường xuyên sau khi được hưởng án treo.
Nơi làm việc ổn định là nơi người phạm tội làm việc có thời hạn từ 01 năm trở
lên theo hợp đồng lao động hoặc theo quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền. Khi có nơi cư trú rõ ràng và nơi làm việc ổn định thì chính quyền địa
phương có thể theo dõi hoạt động của người phạm tội một cách chính xác. Đây
là cơ sở giúp cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giám sát giáo dục người phạm tội
có hiệu quả hơn.
3. Có nhiều tình tiết giảm nhẹ
Các tình tiết giảm nhẹ để xem xét cho hưởng án treo là những tình tiết
được quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS 2015 gồm 22 tình tiết. Đối với từng
vụ án cụ thể, những tình tiết giảm nhẹ có thể được tồ án xác định theo khoản 2











9







đồng phạm có vai trị khơng đáng kể trong vụ án và có đủ các điều kiện khác thì


chưa được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn một cách rõ
ràng. Tuy nhiên trong q trình xét xử, Tịa án có thể tham khảo quy Nghị quyết
số 01/2000/NQ-HĐTP ngày 04-8-2000 của Hội đồng Thẩm phán và theo Công
văn 212/TANDTC – PC 2019 để xác định tình tiết khác là tỉnh tiết giảm nhẹ.
Những tình tiết đó được liệt kê trong BLHS là hồn tồn có căn cứ vì đã
được các nhà làm luật xem xét trên cơ sở lý luận thực tiễn được và ghi nhận.
Như vậy các tình tiết giảm nhẹ đã được giới hạn rõ ràng, dễ hiểu, phù hợp với
mong muốn được giảm trách nhiệm hình sự của người phạm tội. Người phạm
tội sẽ căn cứ vào đây để biết được mình có được giảm nhẹ trách nhiệm hay
khơng, từ đó có thể bảo vệ quyền lợi của mình. Cịn đối với cơ quan xét xử sẽ
căn cứ các tình tiết này để áp dụng pháp luật một cách đúng đắn khi xem xét
quyết định hình phạt cho NPT. Điều này sẽ hạn chế được quan điểm chủ quan
của cá nhân có thẩm quyền xét xử, đồng thời mang lại sự cơng bằng bình đẳng
cho tất cả NPT.
Vì vậy, những tình tiết giảm nhẹ sẽ là căn cứ quan trọng để Tồ án quyết

định người bị kết án có được hưởng án treo hay khơng. Nó vừa thể hiện chính
sách khoan hồng của Nhà nước ta đối với người phạm tội; vừa thể hiện tính
khách quan, mềm dẻo, linh hoạt trong quá trình giải quyết vụ án. Những tình tiết
giảm nhẹ cịn đảm bảo quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân, đặc biệt là đối với những người có nhiều thành tích trong học tập và cơng
tác; những người có cơng với cách mạng và thân nhân của họ. Đặc biệt là
khuyến khích người phạm tội thành khẩn khai báo, thành khẩn hối lỗi trước
hành vi phạm tội của mình.
Nhằm bảo đảm việc xét cho hưởng án treo được áp dụng một cách chặt
chẽ, nghiêm túc, toà án chỉ cho hưởng án treo đối với các trường hợp sau:
_ Có từ 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên, trong đó có ít nhất 01
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của BLHS
2015 và khơng có tình tiết tăng nặng TNHS tại khoản 1 Điều 52 BLHS 2015.
















10










Điều 51 BLHS 2015. Hiện nay quy định tại khoản 2 Điều 51 của BLHS 2015


nhiệm hình sự phải nhiều hơn số tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự từ 02
tình tiết trở lên, trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy
định tại khoản 1 Điều 51 của BLHS 2015.
4. Thuộc trường hợp không cần bắt chấp hành hình phạt tù
Căn cứ này xuất phát từ NPT có khả năng tự cải tạo và việc cho họ hưởng
án treo không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật
tự, an toàn xã hội. Ngồi việc tự cải tạo thì họ sẽ được gia đình và xã hội giúp
đỡ để hồn lương trở thành người tốt. Mặt khác, toà án phải đối chiếu với yêu
cầu phòng ngừa và chống tội phạm ở từng loại tội trong môi trường xã hội nhất
định của từng thời kì. Người phạm tội thuộc trường hợp được hưởng án treo
phải là người thực sự có khả năng tự hồn lương trong mơi trường xã hội cụ thể,
khơng có nguy cơ tái phạm hoặc không gây ảnh hưởng xấu đến phịng, chống tội
phạm, bởi tính chất loại tội phạm họ đã thực hiện cũng như do ảnh hưởng xấu
của đối tượng xung quanh. Cho nên mặc dù người bị kết án đã đáp ứng được 3
ba điều kiện trên nhưng do u cầu của cơng tác đấu tranh phịng và chống tội
phạm, để kịp thời răn đe, giáo dục ngăn chặn loại tội phạm mà bị cáo phạm phải
trên địa bàn; tồ án có thể ra quyết định khơng cho họ được hưởng án treo vì
cơng tác chính trị của địa phương.

Theo đó, những trường hợp tại Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP không
được hưởng án treo gồm:
_ Người phạm tội là: người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, lưu
manh, côn đồ, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội;
NPT dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tổ chức, có tính chất chun nghiệp, cố ý gây
hậu quả nghiêm trọng; phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
_ Người thực hiện hành vi phạm tội bỏ trốn và đã bị các Cơ quan tiến hành tố
tụng đề nghị truy nã.
_ Người được hưởng án treo phạm tội mới trong TGTT, người đang được hưởng
án treo bị xét xử về một tội phạm khác thực hiện trước khi được hưởng án treo.























11







_ Nếu có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì số tình tiết giảm nhẹ trách


là người dưới 18 tuổi. NPT nhiều lần, trừ trường hợp NPT là người dưới 18 tuổi.
_ Người phạm tội thuộc trường hợp tái phạm, tái phạm nguy hiểm.
Như vậy, bốn căn cứ trên có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Khi xem xét
cho người bị kết án hưởng án treo, Tịa án phải căn cứ vào mức hình phạt tù,
NTNPT và các tình tiết giảm nhẹ, phân tích từng căn cứ và đánh giá tổng hợp
các căn cứ đó. Đồng thời căn cứ vào u cầu phịng ngừa chung để quyết định
buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tù hay cho họ được hưởng án
treo, đảm bảo việc áp dụng án treo đối với người bị kết án có căn cứ, đúng pháp
luật, được nhân dân đồng tình và nâng cao tác dụng của án treo. Nếu NPT đáp
ứng đầy đủ bốn yếu tố này sẽ có cơ hội làm lại cuộc đời và có cuộc sống tốt hơn.
Qua đó thể hiện rõ bản chất nhân đạo trong pháp luật Việt Nam ta. Đồng thời
cho thấy sự linh hoạt mềm dẻo của cá nhân có thẩm quyền khi áp dụng án treo
cho NPT. Tuy nhiên, việc áp dụng biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có
điều kiện cho người bị kết án ln cần sự thận trọng, khách quan; HĐXX không
thể tuỳ tiện cho người bị phạt tù được hưởng án treo mà phải tuân thủ các quy
định của pháp luật về án treo cũng như các căn cứ được hưởng án treo.
II. Liên hệ thực tiễn căn cứ áp dụng án treo hiện nay



Trong những năm qua, các TAND đã áp dụng đúng các quy định của pháp

luật và vận dụng đúng các căn cứ để cho hưởng án treo. Khi đó, án treo có tác
dụng trong việc giáo dục NPT hướng thiện, tỷ lệ tái phạm đối với người được
hưởng án treo thấp hơn nhiều so với người bị phạt tù tái phạm. Ví dụ như ở tỉnh
Bắc Ninh, trong ba năm 2015, 2016, 2017, Tòa án hai cấp tỉnh Bắc Ninh xét xử
7.508 bị cáo, trong đó 2.205 bị cáo hưởng án treo, thì số NPT trong TGTT là
3%. Áp dụng hình phạt tù là 5.303 bị cáo, thì số tái phạm là 11,8%. Tỷ lệ trên
chứng minh án treo phù hợp với xu hướng hội nhập hiện nay vì nó hạn chế hình
phạt mang tính chất giam giữ. Đồng thời cho thấy hiệu quả giáo dục của việc áp
dụng chế định án treo cao hơn hình phạt tù. Bên cạnh đó, việc căn cứ các điều
kiện cho NPT hưởng án treo vẫn còn nhiều hạn chế cần khắc phục kịp thời.

















12





_ Người phạm tội bị xét xử trong cùng một lần về nhiều tội, trừ trường hợp NPT


a) Về mức hình phạt tù
Tại Điều 65 của BLHS 2015 quy định rõ những người bị toà án phạt tù
không quá 03 năm, không kể tội phạm là tội gì đều có thể được xem xét cho
hưởng án treo.
Quy định trên bộc lộ hạn chế đó là một số cá nhân sẽ thuộc phạm tội
nhiều lần hoặc phạm nhiều tội trong cùng một lúc nhưng khi tổng hợp hình phạt
tù thì đáp ứng được điều kiện hình phạt tù khơng q 03 năm. Vì vậy đây khơng
phải là lần đầu tiên họ phạm tội làm sao có thể khẳng định được họ sẽ không tái
phạm lần nữa khi được tự do hoạt động bên ngoài xã hội? Càng nhiều lần phạm
tội, tính chuyên nghiệp sẽ càng cao và khi họ tái phạm thì tính chất nguy hiểm
cho xã hội sẽ tăng lên. Ngoài ra đối với người phạm nhiều tội thì vẫn có khả
năng họ sẽ thực hiện một tội mới mà tội mới ấy chúng ta không lường trước
được tính chất nguy hiểm của tội ấy như thế nào, điều đó có thể ảnh hưởng đến
những người xung quan người được hưởng án treo. Thực tế đã cho thấy có nhiều
trường hợp nêu trên đã sa vào con đường phạm tội một lần nữa
Ví dụ điển hình là trường hợp của thanh niên 18 tuổi Bùi Hải Hưng đã vi
phạm pháp luật bị TAND huyện Trấn Yên xử phạt 6 tháng tù về tội “Đánh bạc”
và 12 tháng tù về tội “Tàng trữ vũ khí quân dụng trái phép”. Tổng hợp hình phạt
cho cả 2 tội, Hưng lĩnh án 18 tháng tù và được cho hưởng án treo, TGTT là 36
tháng. 20 tuổi khi chưa chấp hành xong hình phạt, Hưng lại phạm tội “Trộm cắp
tài sản”, bị TAND thị xã Yên Bái (nay là TAND thành phố Yên Bái) xử phạt 24

tháng tù giam, tổng hợp với bản án trước đó, Hưng nhận mức án 42 tháng tù
giam. Liên tiếp nhiều năm Hưng đã bị TAND thành phố Yên Bái xét xử về tội
“Trộm cắp tài sản” với các mức án cao cho kẻ “ngựa quen đường cũ”
b) Về nhân thân người phạm tội
Hiện nay, trên thực tế đối với trường hợp bị cáo có nhân thân đã từng
phạm tội nhưng đã được xóa án tích, thì Tòa án thường căn cứ vào nhân thân đã



















13












1. Những vấn đề bất cập


hưởng án treo, mặc dù bị cáo đáp ứng đủ các tiêu chí để được hưởng án treo
theo quy định. Điều này vơ hình làm giảm đi mục đích, hiệu lực của hình phạt
trong việc giáo dục, cải tạo người phạm tội. Như đã phân tích ở trên, trường hợp
người phạm tội có án tích nhưng đã được xố án tích, được đương nhiên xố án
tích thì coi là chưa bị kết án. Vì vậy, khơng nên chỉ căn cứ vào người đó đã từng
phạm tội mà vội kết luận họ không được hưởng án treo. Nếu thấy họ đáp đứng
đủ các căn cứ khác thì vẫn có thể áp dụng án treo cho họ, trừ những trường hợp
đặc biệt khác.
c) Về điều kiện người được hưởng án treo phải có nơi cư trú rõ ràng hoặc
nơi làm việc ổn định
Nghị quyết số 02/2018 hướng dẫn người phạm tội phải “có nơi cư trú rõ
ràng hoặc nơi làm việc ổn định” để cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giám sát,
giáo dục. Quy định này chưa thực sự rõ ràng và còn gây nhiều cách hiểu khác
nhau khi áp dụng pháp luật. Ví dụ: Trường hợp Nguyễn Văn A phạm tội ‘‘Trộm
cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 BLHS 2015, đã bồi thường khắc phục xong
toàn bộ thiệt hại, có nhân thân tốt, khơng có tình tiết tăng nặng, có 3 tình tiết giảm
nhẹ TNHS sự tại khoản 1 Điều 51 BLHS 2015, A là lao động tự do, cơng việc
khơng ổn định, và khơng có nơi cư trú rõ ràng, tuy nhiên A được B là bác ruột
có nơi cư trú rõ ràng bảo lãnh về nơi cư trú. Vì vậy, cần cân nhắc kĩ khi ra quyết
định hưởng án treo đối với A vì nơi cư trú khơng ổn định là do mục đích mưu sinh

của A ảnh hưởng. Nếu quyết định cho A được hưởng án treo thì sau đó có thể tạo
điều kiện cho A có cơng việc ổn định khi đang chấp hành án treo tại địa phương.
Trên thực tiễn còn rất nhiều trường hợp khác chẳng hạn bị cáo là công dân
của địa phương nào đó, nhưng đi làm ăn ở nơi khác, mỗi năm chỉ về 1, 2 lần nên
khơng thể đóng góp đầy đủ các nghĩa vụ tại địa phương như khơng đóng quỹ
khuyến học, quỹ đền ơn đáp nghĩa,…Theo em không nên coi trường hợp này là
chưa thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của cơng dân nơi cư trú vì đây là tình tiết bất lợi
cho bị cáo. Khi xét xử vụ án có thể yêu cầu họ đóng góp đầy đủ các nghĩa vụ đó.










14







từng phạm tội của bị cáo để đánh giá bị cáo là có “nhân thân xấu” và không cho


vụ; ngay lúc đó Thẩm phán có quyền khơng cho họ được hưởng án treo.

d) Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
Theo khoản 2 Điều 51 của BLHS, đầu thú và một số tình tiết khác cũng
được xem là tình tiết giảm nhẹ và có thể cho hưởng án treo. Trong quá trình điều
tra, xét xử việc giảm nhẹ TNHS sẽ tùy thuộc vào quyết định của Tòa án. Vì thế,
đơi khi Thẩm phán sẽ có quyết định mang hướng chủ quan làm sai lệch đi tính
đúng đắn trong các quyết định của mình.
e) Về trường hợp khơng cần bắt chấp hành hình phạt tù
Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP cịn một số hạn chế về trường hợp
khơng được hưởng án treo là “Người phạm tội nhiều lần, trừ trường hợp NPT là
người dưới 18 tuổi”. Tuy nhiên trên thực tế có nhiều trường hợp phạm tội nhiều
lần nhưng thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có nhân thân tốt có nơi cư trú rõ
ràng, có khung hình phạt dưới 3 năm tù, có hồn cảnh đặc biệt khó khăn…đủ
điều kiện để cho hưởng án treo nhưng đối chiếu với quy định tại Nghị quyết số
02/2018/NQ-HĐTP thì họ khơng được hưởng án treo. Quy định tuy chặt chẽ
nhưng vẫn còn một số bất cập, gây bất lợi cho người phạm tội và mâu thuẫn với
quy định tại Điều 65 BLHS.
Ví dụ: Ngày 10/01/2021, A trộm cắp 01 chiếc xe đạp trị giá 2 triệu đồng,
ngày 15/01/2021, A trộm cắp số tiền 2 triệu đồng, A bị truy tố về tội Trộm cắp
tài sản với tình tiết tăng nặng là “phạm tội từ 02 lần trở lên”, A 3 tình tiết giảm
nhẹ TNHS theo quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS 2015 và có hồn cảnh đặc
biệt khó khăn, là lao động chính trong gia đình, có con nhỏ bị khuyết tật đặc biệt
nặng đang điều trị. A phạm tội nhiều lần nhưng cùng một tội và giá trị tài sản
không lớn, vẫn thuộc khoản 1 Điều 173 BLHS 2015, có khung hình phạt từ 06
tháng đến 03 năm. Vì vậy A vẫn có thể được cho hưởng án treo, nhưng chiếu
theo Điều 3 Nghị quyết số 02/2018 thì A lại không được hưởng án treo, điều này

















15









Nếu họ không chấp nhận đóng chứng tỏ họ đang cố tình khơng thực hiện nghĩa


vơ tình gây bất lợi cho NPT. Trên thực tế, khi gặp các trường hợp này, HĐXX
thường “lách luật” bằng cách chuyển sang xử phạt cải tạo không giam giữ.
2. Kiến nghị, đề xuất

Một là, đưa khái niệm pháp lý về án treo từ Nghị quyết, Công văn hướng dẫn áp
dụng điều luật liên quan đến Điều 65 của BLHS về án treo để thống nhất nhận

thức và áp dụng thực tiễn.
Hai là, thống nhất trường hợp không được hưởng án treo tại Nghị quyết số
02/2018/NQ-HĐTP với căn cứ có nhiều tình tiết giảm nhẹ trong BLHS. Khi Có
sự thống nhất trong 2 văn bản pháp luật này thì Tồ án có thể quyết định chính
xác việc cho hưởng án treo của người phạm tội mà không làm hoang mang dư luận.
Ba là, có hướng dẫn về trường hợp người bị kết án nhưng đã được xóa án tích
thì khơng được xem là có nhân thân xấu và nếu đáp ứng đủ các điều kiện thì có
thể cho hưởng án treo.
Bốn là, cần có hướng dẫn về nội dung “thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công
dân ở nơi cư trú, nơi làm việc”, “không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an
toàn xã hội”, để tránh việc lạm quyền, tùy tiện của chính quyền địa phương nơi
người được hưởng án treo cư trú, gây khó khăn trong q trình áp dụng. Do đó
cơ quan có thẩm quyền cần phải hướng dẫn rõ theo hướng liệt kê các nghĩa vụ
mà công dân phải thực hiện đầy đủ để có căn cứ pháp lý, cũng như giải thích rõ
như thế nào là ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội làm cơ sở áp
dụng thống nhất.
Năm là, Có hướng dẫn cụ thể hơn cách áp dụng Khoản 2 Điều 51 BLHS 2015
về đầu thú và các tình tiết giảm nhẹ khác trong các Cơng văn và Nghị quyết.
Sáu là, thường xuyên tổ chức nhiều buổi tập huấn, giao lưu học hỏi kinh nghiệm
để nâng cao trình độ cũng như kỹ năng giải quyết nhiều vụ án từ dễ đến khó, từ
đơn giản đến phức tạp cho các Thẩm phán.





























16


Bài tiểu luận trên đã làm rõ được các nội dung cơ bản trọng tâm về căn cứ
áp dụng án treo theo Bộ luật Hình sự năm 2015. Đầu tiên, án treo là biện pháp
miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Thứ hai án treo thể hiện sâu sắc
phương châm "trừng trị kết hợp với giáo dục" và tính nhân đạo trong chính sách
hình sự của Nhà nước ta; nhiều quốc gia trên thế giới đang sử dụng án treo một
cách phổ biến, nhất là ở những nước phát triển. Thứ ba, để xem xét người bị kết
án có được hưởng án treo hay khơng sẽ dựa trên bốn điều kiện lớn đó là bị tồ
án phạt tù khơng q 03 năm, nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và thuộc

trường hợp không cần bắt chấp hành hình phạt tù. Thứ tư, hiện nay có ba văn
bản hướng dẫn áp dụng luật liên quan đến án treo bao gồm Nghị quyết số
01/2013/NQ-HĐTP, Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP với Nghị quyết số
01/2000/NQ-HĐTP. Bằng cách phân tích cụ thể chi tiết từng nội dung cơ bản
trên, chúng ta đã cùng nhau hiểu sâu hơn về án treo nói chung cũng như các căn
cứ vận dụng án treo nói riêng trong Bộ luật Hình sự năm 2015. Qua đó, thể hiện
án treo là biện pháp hữu hiệu giúp Nhà nước ta răn đe, cải tạo người phạm tội.
Trong những năm qua, việc áp dụng chế định án treo trong công tác xét
xử của các Tịa án nhân dân trong tồn quốc, cơ bản đã áp dụng đúng theo các
quy định của pháp luật Việt Nam và đã phát huy được tác dụng giáo dục đối với
người phạm tội hướng thiện. Song bên cạnh đó, chúng ta hãy cùng chung tay
phịng chống và nói khơng với các hành vi tiêu cực khiến việc áp dụng án treo
trở nên lệch lạc. Riêng bản thân em, em ln có thói quen sống và làm việc theo
pháp luật. Thường xuyên tìm hiểu pháp luật qua phương tiện truyền thông hoặc
sách báo vừa giúp vững kiến thức pháp luật nói chung vừa phục vụ cho nghề
nghiệp tương lai sau này. Em sẽ luôn rèn luyện ý thức chính trị vững vàng để trở
thành cơng dân tốt.










17








C. KẾT LUẬN


DANH M C T I LI U THAM KH O

I. Văn bản quy phạm pháp luật
1. Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017
2. Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày 04-8-2000 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao
3. Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao
4. Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/05/2018 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao
II. Tài liệu khác
1. Mai Hắc Biên, Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam phần chung, trường Đại học
Kiểm sát Hà Nội, Pb Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội, 2020
2. Nguyễn Ngọc Hoà, Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam phần chung, trường
Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2019
3. Sở Tư pháp tỉnh Phú Thọ, Một số vướng mắc tại Nghị quyết số 02/2018/NQHĐTP hướng dẫn áp dụng điều 65 của BLHS về án treo, 2021
/>4. Tạp chí Tồ án nhân dân, Án treo – từ thực tiễn thi hành Nghị quyết số
01/2013 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC, 2018
/>5. Thư viện pháp luật, Những vướng mắc trong việc áp dụng chế định án treo,
2020
/>








































Ệ

















18






19



×