Tải bản đầy đủ (.pdf) (215 trang)

Bài giảng Tài chính tiền tệ ĐH Lâm Nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.49 MB, 215 trang )

THS. ĐÀO LAN PHƯƠNG, THS. ĐỖ THỊ THÚY HẰNG,
THS. HOÀNG THỊ HẢO, THS. LƯU THỊ THẢO

TµI CHÝNH TIỊN TƯ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP - 2017


THS. ĐÀO LAN PHƯƠNG, THS. ĐỖ THỊ THÚY HẰNG,
THS. HOÀNG THỊ HẢO, THS. LƯU THỊ THẢO

BÀI GIẢNG

TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP - 2017
1


2


LỜI NĨI ĐẦU
Lý thuyết tài chính tiền tệ là mơn học cơ sở ngành của khối ngành kinh tế.
Nội dung cơ bản của môn học là cung cấp cho sinh viên và những người quan
tâm những kiến thức cơ bản về tài chính và tiền tệ như bản chất, chức năng của
tài chính; bản chất, chức năng của tiền tệ và hoạt động tài chính của các chủ thể
trong nền kinh tế như hoạt động của Ngân sách nhà nước, hoạt động của Ngân
hàng trung ương, hoạt động tài chính của doanh nghiệp, các hộ gia đình, các tổ
chức tài chính trung gian, các quan hệ tài chính quốc tế và vai trò của chúng
trong việc phân bổ các nguồn lực tài chính, sự vận dụng các chức năng của tài


chính và tiền tệ để quản lý nền kinh tế vĩ mô... Đây là những vấn đề lý luận giúp
sinh viên và bạn đọc có cái nhìn tổng qt hơn về tài chính và tiền tệ trong nền
kinh tế để gắn kết được giữa lý luận và thực tiễn, đồng thời là cơ sở để sinh viên
tiếp cận dễ dàng các môn học chuyên ngành trong tương lai.
Bài giảng Tài chính tiền tệ bao gồm 8 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về tài chính và tiền tệ;
Chương 2: Ngân sách Nhà nước;
Chương 3: Ngân hàng trung ương;
Chương 4: Tài chính trung gian;
Chương 5: Tài chính doanh nghiệp;
Chương 6: Tài chính hộ gia đình;
Chương 7: Tài chính quốc tế;
Chương 8: Thị trường tài chính.
Trong đó, Thạc sỹ Đào Lan Phương biên soạn các chương 4, 6; Thạc sỹ
Hoàng Thị Hảo biên soạn các chương 5, 7; Thạc sỹ Lưu Thị Thảo biên soạn các
chương 2, 8; Thạc sỹ Đỗ Thị Thúy Hằng biên soạn các chương 1, 3.
Vì nhiều lý do nên cuốn bài giảng này cịn cần bổ sung để hoàn chỉnh hơn
trong tương lai. Do đó, tập thể tác giả rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng
góp chân thành của các nhà khoa học, các nhà quản lý, các đồng nghiệp và bạn
đọc để bài giảng ngày càng có chất lượng cao hơn.
Nhóm tác giả

3


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT

Chữ viết tắt


Giải thích

1

BCNSNN

Bội chi ngân sách nhà nước

2

BHKD

Bảo hiểm kinh doanh

3

BHXH

Bảo hiểm xã hội

4

BHYT

Bảo hiểm y tế

5

CBCNVC


Cán bộ cơng nhân viên chức

6

CHXHCN

Cộng hịa xã hội chủ nghĩa

7

DNNN

Doanh nghiệp nhà nước

8

GDP

Thu nhập quốc dân

9

HCSN

Hành chính sự nghiệp

10

KTQT


Kinh tế quốc tế

11

LHQ

Liên hợp quốc

12

NHNN

Ngân hàng nhà nước

13

NHNNVN

Ngân hàng nhà nước Việt Nam

14

NHTM

Ngân hàng thương mại

15

NHTƯ


Ngân hàng trung ương

16

NSNN

Ngân sách nhà nước

17

SXKD

Sản xuất kinh doanh

18

TCQT

Tài chính quốc tế

19

TTTC

Thị trường tài chính

4


Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TÀI CHÍNH VÀ TIỀN TỆ
1.1. Lý luận cơ bản về tiền tệ
1.1.1. Sự ra đời và phát triển các hình thái tiền tệ
1.1.1.1. Sự ra đời của tiền tệ
Trong kinh tế chính trị học, Các Mác đã khẳng định nguồn gốc của tiền
bắt nguồn từ sự hình thành và phát triển của các quan hệ trao đổi. Quá trình ra
đời của tiền tệ gắn liền với 4 hình thái giá trị:
* Hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên:
Trao đổi xuất hiện từ khi công xã nguyên thủy bắt đầu tan rã. Hình thức
trao đổi lúc này là trao đổi trực tiếp vật lấy vật và hồn tồn mang tính chất
ngẫu nhiên.
Phương thức trao đổi được thể hiện bằng phương trình:
1 rìu = 20 kg thóc
Trong hình thái giá trị này,trao đổi còn chưa trở thành nhu cầu thường
xuyên của con người. Số lượng hàng hóa tham gia trao đổi ít, hình thức trao đổi
cịn mang tính chất trực tiếp, tỷ lệ trao đổi chưa cố định.
* Hình thái mở rộng:
Khi cuộc phân công lao động xã hội lớn lần thứ nhất xuất hiện, việc trao
đổi trở nên thường xuyên hơn, lúc này có nhiều hàng hóa tham gia trao đổi hơn.
Tương ứng với giai đoạn này là hình thái mở rộng.
Phương trình trao đổi trong giai đoạn này:
1 cái rìu = 20kg thóc
= 10 m vải
= 1 con cừu…
Ở hình thái này, tỷ lệ trao đổi được cố định hơn trước. Tuy vậy, việc
trao đổi vẫn mang tính chất trao đổi trực tiếp. Mỗi hàng hóa là vật ngang giá
riêng biệt của một hàng hóa khác nên những người trao đổi khó đạt được mục
đích ngay.
* Hình thái chung:
Cuộc phân cơng lao động xã hội lần thứ hai xuất hiện (thủ công nghiệp

tách khỏi nông nghiệp), năng suất lao động tăng lên, trao đổi trở thành hiện
tượng kinh tế phổ biến.
Trong quá trình trao đổi xuất hiện nhu cầu tìm một loại hàng hóa được
5


nhiều người ưa thích nhất được tách ra để trao đổi nhiều lần với các hàng hóa
khác hình thành vật ngang giá chung.
Phương trình trao đổi:
20 kg thóc =
1 cái rìu
10 m vải =
1 con cừu =
… =
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại, khi có một hàng hóa
đóng vai trị vật ngang giá chung để trao đổi nhiều lần với các hàng hóa khác, thì
lúc đó tiền tệ đã xuất hiện và vật ngang giá chung đó chính là tiền của vùng, khu
vực đó. Tuy nhiên, C.Mác lại cho rằng, hàng hóa làm tiền tệ phải có giá trị cao,
là vật ngang giá chung cho cả thế giới hàng hóa.
* Hình thái tiền tệ:
Lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Cuộc phân công lao động xã hội
lần thứ hai thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của sản xuất và lưu thơng hàng hóa.
Có nhiều hàng hóa đóng vai trị vật ngang giá chung thống nhất giữa các vùng
nhưng cuối cùng nó được cố định ở vàng. Khi đó, hình thái giá trị chung chuyển
thành hình thái tiền tệ.
Phương trình trao đổi:
20 kg thóc =
0,2 gr vàng
1 con cừu =
1 cái rìu

=
… =
Vàng là vật ngang giá chung cho cả thế giới hàng hóa. Lúc này, thế giới
hàng hóa tách ra thành 2 cực: một cực là hàng hóa thơng thường, một cực là
hàng hóa tiền tệ, đóng vai trị trung gian trong trao đổi với các hàng hóa cịn lại.
1.1.1.2. Các loại tiền tệ
* Tiền bằng hàng hóa thơng thường:
Những hàng hóa được sử dụng làm tiền thường phải đáp ứng các điều
kiện:
- Những hàng hóa đóng vai trị vật ngang giá chung để trao đổi nhiều lần
với hàng hóa khác.
- Hàng hóa đó là quý hiếm, gọn, nhẹ, dễ bảo quản, dễ chuyên chở và phù
hợp với tập quán trao đổi từng địa phương.
6


- Hàng hóa tiền tệ: da thú, vịng đá, muối, vải…
* Tiền vàng:
Vàng là loại hàng hóa được nhiều người ưu thích.Vì vậy, việc dùng vàng
làm tiền tệ dễ được chấp nhận trên phạm vi rộng. Những đặc tính của vàng rất
thuận lợi trong việc thực hiện chức năng tiền tệ. Mặt khác, giá trị của vàng ổn
định trong thời gian tương đối dài, ít chịu ảnh hưởng bởi sự tăng năng suất lao
động xã hội làm cho tiền vàng có giá trị ổn định. Tuy nhiên, tiền vàng cũng tồn
tại những nhược điểm làm cho việc sử dụng trở nên bất tiện dẫn đến tiền vàng bị
loại bỏ khỏi lưu thông.
* Tiền đúc bằng kim loại kém giá:
- Tiền được đúc bằng các thứ kim loại thường: đồng, chì, kẽm, nhôm…
- Lưu thông chủ yếu trong các triều đại phong kiến, do nhà vua giữ độc
quyền phát hành.
- Tiền kim loại kém giá có nhiều ưu điểm: Có thể phát hành khối lượng

lớn, đáp ứng nhu cầu thanh toán trong nền kinh tế, các đồng tiền có thể được đúc
với các mệnh giá khác nhau, phù hợp với các giao dịch thanh tốn hàng hóa,
dịch vụ… Tuy nhiên, tiền đúc bằng kim loại kém giá cũng tồn tại một số nhược
điểm như giá trị nội tại rất nhỏ, dễ hỏng, dễ làm giả…
* Tiền giấy:
Xuất hiện đầu tiên dưới dạng các giấy chứng nhận có khả năng đổi ra bạc
hoặc vàng do các ngân hàng phát hành, được sử dụng trong thanh toán như vàng
hay bạc. Tiền giấy xuất hiện giúp cho việc giao dịch với những khoản tiền lớn
cũng như vận chuyển chúng trở nên dễ dàng và dần dần thay thế cho các loại
hóa tệ, các giấy chứng nhận dần được chuẩn hóa thành các tờ tiền giấy có in
mệnh giá và có khả năng đổi ra vàng một cách tự do theo hàm lượng vàng quy
định cho nó.
Mặc dù tiền giấy có nhiều ưu điểm, tuy nhiên cũng tồn tại một số nhược
điểm: khơng bền, có thể bị làm giả, dễ rơi vào tình trạng bất ổn…
* Tiền chuyển khoản:
Hình thức tiền tệ này được sử dụng bằng cách ghi chép trong sổ sách kế
toán của ngân hàng và khách hàng. Đây là đồng tiền phi vật chất và là loại tiền
mang dấu hiệu giá trị như tiền giấy. Sử dụng tiền chuyển khoản, chủ sở hữu phải
sử dụng các lệnh thanh toán để ra lệnh cho ngân hàng nơi mình mở tài khoản
thanh tốn hộ thơng qua các cơng cụ thanh tốn: giấy tờ thanh toán (séc, uỷ
7


nhiệm chi…); thẻ thanh toán; thanh toán qua mạng máy tính…
Ngày nay, tiền chuyển khoản chiếm tỷ trọng lớn (khoảng 80%) trong tổng
phương tiện thanh toán.
1.1.2. Các quan niệm và chức năng của tiền tệ
1.1.2.1. Quan niệm về tiền tệ
Tiền tệ xuất hiện là kết quả lâu dài và tất nhiên của trao đổi hàng hóa. Tiền
tệ có khả năng trao đổi trực tiếp với các hàng hóa khác. Nó trở thành phương

tiện biểu hiện giá trị của các hàng hóa khác. Vậy, bản chất của tiền tệ là một thứ
hàng hóa đặc biệt được tách ra làm vật ngang giá chung cho các hàng hóa khác.
Nó thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ sản xuất giữa những người sản
xuất hàng hóa.
Tuỳ theo cách tiếp cận ở những góc độ khác nhau, các nhà kinh tế học đã
đưa ra những định nghĩa về tiền theo quan niệm riêng của mình.
Theo quan điểm của C. Mác: Tiền tệ là một hàng hóa đặc biệt, đóng vai
trị vật ngang giá chung để đo giá trị của các hàng hóa khác và là phương tiện
thực hiện quan hệ trao đổi.
Theo quan điểm của các nhà Kinh tế học hiện đại: Tiền là bất cứ một
phương tiện nào được xã hội chấp nhận làm phương tiện trao đổi với mọi hàng
hóa, dịch vụ và các khoản thanh tốn khác trong nền kinh tế.
1.1.2.2. Chức năng của tiền tệ
* Theo quan điểm của C. Mác, tiền tệ có 5 chức năng:
(1) Chức năng thước đo giá trị:
Thước đo giá trị là chức năng đầu tiên và là chức năng quan trọng nhất
của tiền. Thực hiện chức năng này, giá trị của tiền được sử dụng làm phương
tiện – thước đo, để so sánh với giá trị của tất cả các hàng hóa.
Để thực hiện được chức năng thước đo giá trị tiền phải hội tụ đủ những
điều kiện sau đây:
- Thứ nhất, tiền phải có đầy đủ giá trị:Tất cả các hàng hóa đều phải có giá
trị nội tại, vì vậy để đo được những lượng giá trị này thì “thước đo” – tiền, phải
có giá trị. Nếu thước đo khơng có giá trị bản thân, thì khơng thể so sánh được
với giá trị của các hàng hóa.
- Thứ hai, tiền phải có tiêu chuẩn giá cả: Tiêu chuẩn giá cả là một trọng
lượng vàng (hoặc kim loại tiền khác) được luật pháp quy định cho tiền đơn vị và
tên gọi của nó. Ví dụ: Tiền đơn vị của hợp chủng quốc Hoa kỳ (USD) gọi là Đôla,
8



ký hiệu là USD. Năm 1973 tiêu chuẩn giá cả của đồng tiền này là: 1 USD =
0,736662 gr vàng rịng.
(2) Chức năng phương tiện lưu thơng:
Thực hiện chức năng phương tiện lưu thơng, tiền đóng vai trị mơi giới
trung gian trong trao đổi. Quá trình thực hiện chức năng phương tiện lưu thơng,
hay q trình trao đổi hàng hóa diễn ra dưới sự thay đổi hình thái sau đây:
H–T–H
Khi thực hiện chức năng phương tiện lưu thơng tiền có những đặc thù
khác với thực hiện chức năng thước đo giá trị, đó là:
- Thứ nhất, phải sử dụng “tiền mặt”.
- Thứ hai, có thể sử dụng tiền dấu hiệu.
- Thứ ba, lưu thông chỉ chấp nhận một số lượng tiền nhất định.
(3) Chức năng phương tiện dự trữ giá trị:
Thực hiện chức năng “dự trữ giá trị”, tiền và các phương tiện chuyển tải
giá trị nói chung, phải đảm bảo đầy đủ những yêu cầu sau đây:
- Thứ nhất, giá trị dự trữ phải được thể hiện bằng những phương tiện
chuyển tải giá trị hiện thực chứ không phải là một lượng tiền “tưởng tượng”.
- Thứ hai, những phương tiện dự trữ giá trị được xã hội thừa nhận.
- Thứ ba, các phương tiện dự trữ giá trị đều mang tính thời gian.
(4) Chức năng phương tiện thanh tốn:
Các hàng hóa được thực hiện giá trị bằng hình thức mua – bán chịu, người
bán sẽ được thanh toán khi thời hạn nợ đã hết. Tiền xuất hiện lúc này với tư cách
thực hiện chức năng phương tiện thanh toán, đồng thời cũng là phương tiện kết
thúc quan hệ trao đổi.
Thực hiện chức năngphương tiện thanh tốn tiền cịn được sử dụng để nộp
thuế, trả lương, trả tiền công, các khoản đóng góp chi dịch vụ…
(5) Chức năng phương tiện trao đổi quốc tế và tiền tệ thế giới:
Thực hiện các quan hệ trao đổi giữa các nước, tiền thực hiện chức năng
phương tiện trao đổi quốc tế. Tuy nhiên, theo mức độ “mạnh”, “yếu” của mỗi
đồng tiền, mà chúng tham gia vào quá trình trao đổi quốc tế ở mức độ khác nhau.

Ngày nay, quan hệ trao đổi quốc tế gần như được mở rộng đến khắp các
nước và các khu vực trên hành tinh. Để thực hiện được các quan hệ trao đổi này,
các nước chỉ có thể sử dụng đồng tiền chung, đó là “tiền thế giới”.
Tiền thế giới là phương tiện chi trả, thanh toán và dự trữ giá trị, được các
9


đối tượng tham gia trao đổi ở mọi quốc gia thừa nhận.
Để thực hiện chức năng “tiền thế giới”, buộc phải sử dụng tiền vàng.Các
đồng tiền quốc gia đều không thực hiện được chức năng này.
* Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại, tiền tệ có 3 chức năng:
(1) Chức năng đơn vị định giá:
Thực hiện chức năng này, tiền tệ được sử dụng làm đơn vị để đo giá trị
của các hàng hóa, dịch vụ trong nền kinh tế. Qua việc thực hiện chức năng này,
giá trị của các hàng hóa, dịch vụ được biểu hiện ra bằng tiền, nhờ đó mà việc
trao đổi hàng hóa được diễn ra thuận lợi hơn.
Nếu giá trị hàng hóa khơng có đơn vị đo chung là tiền, mỗi hàng hóa sẽ
được định giá bằng tất cả các hàng hóa cịn lại, tuy nhiên số lượng giá các mặt
hàng trong nền kinh tế ngày nay rất nhiều đến mức người ta khơng cịn thời
gian cho việc tiêu dùng hàng hóa. Khi giá của các hàng hóa, dịch vụ được biểu
hiện bằng tiền, không những thuận tiện cho người bán hàng hóa mà việc đọc
bảng giá cung đơn giản hơn nhiều với chi phí thời gian ít hơn sử dụng cho các
giao dịch. Trong thời đại ngày nay, mặc dù các phương tiện được sử dụng là
tiền khơng cịn giá trị như các hàng hóa khác nhưng nó được mọi người chấp
nhận trong lưu thơng, do đó vẫn được sử dụng để đánh giá giá trị các hàng hóa.
Trong bất kể nền kinh tế tiền tệ nào, việc sử dụng tiền làm đơn vị đo lường giá
trị đều mang tính chất trừu tượng, vừa có tính pháp lý, vừa có tính quy ước.
(2) Chức năng phương tiện trao đổi:
Là một phương tiện trao đổi, tiền tệ được sử dụng như một vật môi giới
trung gian trong việc trao đổi các hàng hóa, dịch vụ. Trong nền kinh tế trao đổi

trực tiếp, người ta phải tiến hành đồng thời hai dịch vụ bán và mua với một
người khác. Điều đó là đơn giản trong trường hợp chỉ có ít người tham gia trao
đổi, nhưng trong điều kiện nền kinh tế phát triển, các chi phí để tìm kiếm như
vậy q cao. Vì vậy, việc sử dụng tiền làm mơi giới trong quá trình này, tức là
người ta trước hết sẽ đổi hàng hóa của mình lấy tiền sau đó dùng tiền mua thứ
hàng hóa mình cần. Rõ ràng việc thực hiện lần lượt các giao dịch bán và mua
với hai người sẽ dễ dàng hơn nhiều so với việc thực hiện đồng thời hai giao dịch
đối với cùng một người. Để thực hiện chức năng phương tiện trao đổi tiền phải
có những tiêu chuẩn nhất định: được chấp nhận rộng rãi, dễ nhận biết, có thể
chia nhỏ được, dễ vận chuyển, khơng bị hư hỏng nhanh chóng, được tạo ra hàng
loạt một cách dễ dàng, có tính đồng nhất.
10


(3) Phương tiện dự trữ về mặt giá trị:
Là một phương tiện dự trữ giá trị, tiền tệ là nơi cất giữ sức mua qua thời
gian. Khi người ta nhận được thu nhập mà chưa muốn tiêu nó hoặc chưa có
điều kiện để chi tiêu ngay, tiền là một phương tiện để cho việc cất giữ sức mua
trong những trường hợp này hoặc có thể người ta giữ tiền chỉ đơn thuần là việc
để lại của cải.
Việc cất giữ như vậy có thể thực hiện bằng nhiều phương tiện ngồi tiền
khác như: cổ phiếu, trái phiếu, đất đai, nhà cửa... một số loại tài sản như vậy
đem lại một mức lãi cao hơn cho người giữ hoặc có thể chống đỡ lại sự tăng cao
về giá so với việc giữ tiền mặt. Tuy nhiên, người ta vẫn giữ tiền với mục đích dự
trữ giá trị bởi vì tiền có thể chuyển đổi một cách nhanh chóng ra các tài sản
khác, còn các tài sản khác nhiều khi đòi hỏi một chi phí giao dịch cao khi người
ta muốn chuyển đổi nó sang tiền. Những điều đó cho thấy, tiền là một phương
tiện dự trữ giá trị bên cạnh các loại tài sản khác.
1.1.3. Lưu thông tiền tệ và lạm phát
1.1.3.1. Các khối tiền tệ

* Khối lượng tiền trong lưu thông:
- Khối lượng tiền trong lưu thông là tổng các phương tiện, được chấp nhận
làm trung gian trao đổi với mọi hàng hóa, tại một thị trường nhất định và trong
một thời gian nhất định.
- Khối lượng tiền trong lưu thông được ký hiệu là Ms, bao gồm các bộ
phận sau đây:
M1: Được gọi là khối tiền tệ giao dịch, gồm những phương tiện có “tính
lỏng” cao nhất trong lưu thơng. M1 lại được phân loại theo thứ tự sau:
+ Tiền mặt (tiền vàng, giấy bạc ngân hàng, tiền đúc lẻ).
+ Tiền gửi không kỳ hạn.
M2: Được gọi là khối tiền tệ giao dịch mở rộng.Gồm cả những phương
tiện “tính lỏng” thấp hơn. Thành phần M2 có các bộ phận:
+ M1.
+ Tiền gửi có kỳ hạn.
M3:Khối tiền tệ tài sản, có “tính lỏng” thấp nhất. Thành phần M3 bao gồm:
+ M2.
+ Thương phiếu.
+ Tín phiếu.
11


+ Trái khoán và cổ phiếu…
Như vậy:
Ms = M3 + Các phương tiện có khả năng thanh tốn khác.
Khối lượng tiền trong lưu thông lớn hơn hay nhỏ phụ thuộc vào nhiều yếu
tố, trong đó quan trọng nhất là:
- Số lượng các phương tiện được phát hành từ ngân hàng.
- Các phương tiện được phát hành từ doanh nghiệp.
- Các phương tiện được phát hành từ chính phủ.
Nếu tài sản tích lũy của dân cư và doanh nghiệp đưa vào đầu tư lớn, thì số

lượng các phương tiện lưu thơng sẽ tăng lên. Nếu tài sản này bị lưu giữ, thì
khơng những các phương tiện lưu thơng bị giảm thấp, mà cịn làm cho nền kinh
tế bị trì trệ.
* Khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông:
Khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông là khối lượng tiền do tổng nhu cầu
của nền kinh tế quốc dân trong một thời kỳ quyết định.
Khối lượng tiền này được ký hiệu Mn (Necessary Money). Mn phụ thuộc
vào hai yếu tố:
- Tổng giá cả hàng hóa đưa ra lưu thơng trong kỳ. Yếu tố này chính là
tổng mức chu chuyển hàng hóa và dịch vụ của nền kinh tế quốc dân.
- Tốc độ lưu thơng bình qn của tiền trong kỳ:
Mn 

P Q
V

Trong đó:
P: Mức giá cả hàng hóa.
Q: Tổng khối lượng hàng hóa đưa vào lưu thơng.
V: Tốc độ lưu thơng bình quân của tiền tệ.
Trên thực tế cung và cầu tiền thường xuyên không cân bằng. Nghĩa là giữa
Ms và Mn ln ln có khoảng cách. Khoảng cách này được thể hiện bằng
những tỷ số sau:
Tỷ số (1):

Ms
 1
Mn
Đây là tỷ số giả định. Theo tỷ số này, nghĩa là tiền trong lưu thông tương
đương với số lượng tiền cần thiết. Nếu có tỷ số này trong lưu thơng tiền – hàng

12


là cân đối. Đây là tỷ số lý thuyết trong quản lý kinh tế vĩ mô và vi mô.
Tỷ số (2):

Ms
Mn

 1

Nếu xuất hiện tỷ số này, nghĩa là tiền trong lưu thông nhỏ hơn khối lượng
tiền cần thiết. Đây là hiện tượng thiểu phát.Hàng hóa chậm tiêu thụ vì thiếu
phương tiện lưu thơng. Hoặc hàng hóa sẽ bị giảm giá trên diện rộng, ảnh hưởng
xấu đến sản xuất kinh doanh.
Tỷ số (3):

Ms
Mn

 1

Tỷ số này cho thấy tiền trong lưu thơng lớn hơn khối lượng tiền cần thiết.
Nếu có tỷ số này, thì dấu hiệu của lạm phát đã xuất hiện. Tuy nhiên tùy theo
mức độ, lạm phát sẽ có ảnh hưởng khác nhau đến sự phát triển của nền kinh tế
quốc dân.
Thực tế chưa thể xác định được các tỷ số trên một cách chính xác.
Nhưng tỷ lệ này, có thể được kiểm chứng thơng qua “tín hiệu thị trường”, như
các chỉ số giá hàng tiêu dùng, tỷ giá hối đối, giá vàng…Điều chỉnh để Ms
xích lại gần Mn là công việc của các cơ quan hoạch định và thực thi chính sách

tiền tệ quốc gia.
1.1.3.2. Cung cầu tiền tệ
* Cung tiền cho lưu thông:
Khối lượng tiền cho lưu thông được cung ứng từ các tác nhân sau:
(1) Ngân hàng trung ương cung tiền:
Ngân hàng trung ương giữ độc quyền phát hành và lưu thông giấy bạc
ngân hàng, ngân phiếu thanh tốn và các phương tiện lưu thơng – thanh tốn
khác, thơng qua các nghiệp vụ sau:
- Tái chiết khấu các thương phiếu, các chứng chỉ tiền gửi, các chứng từ có
giá…của các ngân hàng thương mại và của các tổ chức tín dụng;
- Tái cầm cố các phương tiện nêu trên;
- NHTƯ ứng tiền cho Ngân sách nhà nước.

13


(2) Các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng cung tiền:
Những tác nhân này về nguyên tắc khơng có quyền cung ứng tiền vào lưu
thơng.Nhưng trong thực tiễn, chúng lại góp phần tích cực làm gia tăng khối
lượng tiền hiện có. Những nghiệp vụ làm tăng khối lượng tiền lưu thơng của các
NHTM các tổ chức tín dụng là:
- Một là, tổng nghiệp vụ “Có” lớn hơn tổng nghiệp vụ “Nợ”.
Nguồn vốn của các NHTM là một lượng có hạn. Nhưng trong thực tiễn,
khi thực hiện nghiệp vụ chúng lại sử dụng số vốn lớn hơn nguồn vốn thực có,
như:
+ Cho khách hàng vay quá nguồn vốn huy động được.
+ Cho khách hàng chi vượt quá số dư tiền gửi.
+ Xử lý chứng từ thanh tốn địi tiền khách hàng,bằng cách ghi “Có”
trước, ghi “Nợ” sau.
+ Cho khách hàng phát hành séc quá số dư tiền gửi trên tài khoản của họ.

Những nghiệp vụ trên được coi là nghiệp vụ tạo tiền của các NHTM. Tùy
theo quy chế quản lý tài chính của mỗi quốc gia và chính sách tiền tệ của
NHTƯ, nghiệp vụ trên có thể bị ngăn cấm hoặc giới hạn phạm vi. Nhưng trên
thực tế nghiệp vụ này vẫn được thực hiện và một số lượng tiền mới lại được
tăng thêm trong lưu thông.Các nghiệp vụ trên tuy được thực hiện bằng hình thức
ghi sổ và tiền tồn tại dưới dạng“bút tệ”, nhưng chúng vẫn phát huy chức năng
thực sự của tiền. Đồng thời sau đó chúng có thể chuyển hóa thành những
phương tiện chuyển tải giá trị khác nhau.
- Hai là, các loại kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các phương tiện có giá trị
thanh tốn khác, được các NHTM phát hành theo quy chế quản lý tài chính.
Những phương tiện này có thể thay tiền thực hiện chức năng phương tiện
lưu thơng và phương tiện thanh tốn. Chúng đã góp phần làm tăng khối lượng
tiền trong lưu thông.
(3) Các tác nhân và các tổ chức phi ngân hàng cung tiền:
Mỗi tác nhân có thể phát hành vào lưu thơng những phương tiện lưu thơng
và thanh tốn đặc thù, được quy chế tài chính cho phép.
- Chính phủ:Phát hành cơng trái, trái phiếu chính phủ, trái phiếu đơ thị
(cấp tỉnh hoặc cấp bang) trái phiếu cơng trình, trái phiếu kho bạc…
- Các tác nhân mở tài khoản trong hệ thống NHTM như: các doanh
nghiệp, các tổ chức không kinh doanh, các thể nhân…Các tác nhân này, tùy theo
14


mục tiêu hoạt động, quy chế tài chính có thể cho phép chúng phát hành: cổ
phiếu, trái khoán, séc các loại…
Các phương tiện nêu trên làm cho thành phần của tiền trong lưu thơng
thêm phong phú. Tuy nhiên “tính lỏng” của chúng kém hơn các thành phần khác
của tiền. Vì vậy, những tác nhân và thể nhân sở hữu chúng ln ln tìm cách
chuyển hóa chúng về M1, để từ đó lại chuyển hóa thành những phương tiện
khác phù hợp. Sự chuyển hóa này là thường xuyên. Nhưng tại thời điểm chuyển

hóa, nó chỉ làm thay đổi các thành phần của tiền, chứ không làm thay đổi tổng
khối lượng tiền.
Nghiệp vụ cung ứng tiền cho lưu thông rất đa dạng. Có nhiều tác nhân
tham gia vào q trình này, trong đó NHTƯ giữ vai trị quan trọng nhất vì:
+ NHTƯ quyết định khối lượng tiền đưa vào lưu thông và khối lượng giấy
bạc ngân hàng trong lưu thông qua lãi suất tái chiết khấu.
+ NHTƯ quyết định quy mô đầu tư tín dụng của các NHTM bằng tỷ lệ dự
trữ bắt buộc, nghĩa là ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng tiền đang lưu thông.
+ NHTƯ quyết định việc điều chuyển vốn trong hệ thống ngân hàng và do
đó tác động đến điều hòa tiền trong nền kinh tế.
* Nhu cầu tiền trong lưu thông:
Tổng nhu cầu tiền của nền kinh tế trong một thời kỳ, được xác định bằng
khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông (Mn).
- Nhu cầu tiền của các tác nhân và thể nhân được chia thành các loại sau
đây:
(1) Nhu cầu tiền cho giao dịch:
Hoạt động giao dịch của các tác nhân và thể nhân (gọi chung là tác nhân)
diễn ra thường xuyên.Mọi giao dịch đều cần phải sử dụng tiền, như: trả công lao
động (trả lương), mua nguyên vật liệu, thanh toán nợ, mua vật phẩm tiêu
dùng…các khoản chi này hợp thành tổng cầu tiền cho giao dịch.
(2) Nhu cầu tiền cho tích lũy:
Ngồi các khoản chi thường xuyên cho giao dịch, các tác nhân cịn phải
tích lũy một khoản tiền nhất định cho các nhu cầu đã dự định trước, như: mua
sắm tài sản, đầu tư, cho kỳ du lịch sắp đến… Giá trị của các khoản này chưa đến
“độ sử dụng”, chúng ở trong quỹ của các tác nhân dưới dạng tiền nhàn rỗi.
Khi lãi suất tiền gửi thấp, thì số tiền dành cho nhu cầu tích lũy với các
mục đích trên sẽ cao. Nhu cầu tích lũy phụ thuộc vào mức thu nhập và mục đích
15



của các tác nhân. Thời gian sử dụng tiền càng cấp bách thì địi hỏi các tác nhân
tích lũy càng nhanh. Giá trị khoản chi càng lớn thì phải tích lũy càng nhiều.
(3) Nhu cầu tiền cho dự phòng:
Dự phòng là nhu cầu bắt buộc của các tác nhân, được chia làm ba loại.
+ Dự phòng một số tiền để chờ cơ hội mua mà không dự báo trước được.
Khoản tiền này thường phát sinh khi các tác nhân chuẩn bị có những hoạt động
ở xa trụ sở. Khoản dự phịng này với một tác nhân tuy khơng lớn, nhưng tổng
hợp cả nền kinh tế, thì lại là một số lượng khơng nhỏ.
+ Dự phịng chi thường xun. Đây là những khoản chi thường xuyên cho
nhu cầu cá nhân, buộc mọi người phải dự phòng một khoản tiền tối thiểu. Số
lượng tiền dự phòng này phụ thuộc vào mức thu nhập của các tác nhân.
+ Dự phòng chi cho rủi ro. Rủi ro thường gặp với các tác nhân, như: hỏng
phương tiện giao thông, các công cụ lao động gặp sự cố bất chợt cần sửa chữa,
bệnh tật, tai nạn…Không có tác nhân nào để riêng tiền cho khoản chi này.
Nhưng thực tế khoản chi này lại thường xuyên phát sinh ở một số ít trong số
đơng các tác nhân.
(4) Nhu cầu tiền để cất trữ:
Sự phân hóa thu nhập giữa các thể nhân trong nền kinh tế thị trường là
một quy luật. Một số ít các thể nhân, do các nguyên nhân khác nhau đã giàu lên
nhanh. Họ có một số lượng “tiền thừa”. Đây là số lượng tiền nhàn rỗi lâu dài,
chưa có mục tiêu đầu tư. Trường hợp này các thể nhân thường đưa số “tiền
thừa” vào cất trữ. Tiền cất trữ thể hiện bằng vàng. Nhu cầu cất trữ của các thể
nhân trong nền kinh tế thị trường tuy không lớn nhưng là hiện thực. Cất trữ đã
làm giảm khối lượng các phương tiện lưu thông.
- Các nhân tố ảnh hưởng đến nhu cầu tiền trong lưu thông:
+ Giá trị giao dịch:
Số lượng, số lần và giá trị giao dịch quyết định đến mức cầu tiền, tức là
lượng tiền cần giữ lại của các tác nhân. Nếu giá cả hàng hóa trong kỳ tăng lên
hay giảm xuống, thì nhu cầu tiền cho giao dịch cũng thay đổi tương ứng.
+ Sự không đồng bộ về thời gian giữa thu và chi:

Nếu thu nhập và chi tiêu của các tác nhân phát sinh đều đặn, thì nhu cầu
tiền giữ lại cho giao dịch là ít nhất. Nếu có cách quãng về thời gian giữa thu và
chi, thì số tiền phải giữ lại nhiều hơn để đảm bảo các khoản chi thường xuyên.
Sự “lệnh pha” về thời gian thu chi càng lớn thì nhu cầu tiền dược giữ lại càng
16


nhiều và ngược lại.
+ Lãi suất tiền gửi:
Lãi suất tiền gửi tác động trực tiếp đến tổng cầu tiền. Giữ lại tiền chờ cơ
hội mua hoặc thanh toán là mất đi một khoản thu nhập tính theo lãi suất tiền gửi
hoặc đầu tư và thời gian. Lãi suất thay đổi sẽ tác động đến tư duy kinh tế của các
tác nhân gửi tiền. Những tác nhân này sẽ so sánh giữa lợi ích của việc giữ tiền
và lợi tức mất đi. Họ sẽ hành động theo hướng lợi ích vượt trội. Nhìn chung lợi
tức giảm thì nhu cầu giữ tiền sẽ tăng và ngược lại.
+ Tập quán dân tộc và địa phương:
Tập quán dân tộc và địa phương được phản ánh khá đậm nét trong nhu
cầu tiền. Những nơi kinh tế thuận lợi, kiếm tiền khơng khó thì tiền được giữ
lại ít. Ngược lại, những vùng có cuộc sống khó khăn, thì tiền được giữ lại
nhiều hơn. Những điều kiện ấy đã hình thành tập qn thanh tốn của vùng,
miền và dân tộc.Tập quán này sẽ thay đổi theo đời sống kinh tế, nhưng rất
chậm chạp.
+ Thu nhập thực tế:
Do nhu cầu nắm giữ tiền để giao dịch phụ thuộc vào tổng giá trị các giao
dịch mà các chủ thể kinh tế dự định tiến hành, mà tổng giá trị các giao dịch này
lại phụ thuộc vào thu nhập thực tế nên có thể nói, thu nhập thực tế là nhân tố đầu
tiên tác động đến bộ phận cầu tiền này.Thu nhập thực tế tăng sẽ làm cho cầu tiền
tăng lên và ngược lại.
* Cân đối cung cầu tiền:
Cung và cầu tiền thường không khớp nhau.Trong điều kiện lưu thông giấy

bạc ngân hàng mất cân đối cung cầu tiền là hiện tượng phổ biến. Trong đó cung
thường lớn hơn cầu tiền.
Mất cân đơi cung cầu có thể xảy ra ở một dạng khác là: cung nhỏ hơn cầu
tiền.Hiện tượng này cũng ảnh hưởng đến sự phát triển kình tế - xã hội.Tuy
nhiên, đây là hiện tượng ít xuất hiện trong lịch sử lưu thông giấy bạc ngân hàng.
Mất cân đối cung cầu tiền dù ở dạng nào cũng cần phải có những giải
pháp để lập lại thế cân đối. Đặc biệt là hiện tượng cung lớn hơn cầu ở mức độ
cao (lạm phát) có ảnh hưởng xấu đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Những giải
pháp thường được áp dụng là:
- Hạn chế số lượng tiền gia tăng trong lưu thông bằng cách:
+ Nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc các NHTM.
17


+ Nâng lãi suất tái chiết khấu.
- Nâng lãi suất tiền gửi, để thu hút tiền vào ngân hàng.
- Các NHTM bán các cơng cụ lưu thơng – tín dụng, để thu hút giấy bạc
ngân hàng như: kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu kho bạc, cổ phiếu trái
khoán cơng ty…
- Gia tăng cung cấp hàng hóa – dịch vụ.
Những giải pháp trên nếu được áp dụng đúng thời điểm, phù hợp và đồng
bộ, sẽ có hiệu quả thiết thực đến việc lập lại thế cân đối cung cầu tiền trên thị
trường.
1.1.3.3. Lạm phát
* Khái niệm
Lạm phát là hiện tượng kinh tế, trong đó giấy bạc lưu thơng vượt quá nhu
cầu cần thiết, làm cho chúng bị mất giá dẫn đến giá cả của hầu hết các hàng hóa
trong lưu thông không ngừng tăng lên.
Lạm phát là một hiện tượng kinh tế động, gắn liền với sự biến đổi số
lượng tiền và chỉ số giá cả. Các chỉ số này thường xuyên tăng lên và được đo

bằng chính chỉ số giá cả. Nếu giá cả tăng lên so với thời gian trước, sau đó giữ
nguyên, có thể ở mức cao trong một thời gian dài, có thể coi đó là hiện tượng
“lạm phát ỳ”. Còn nếu giá cả lại giảm xuống liên tục, đó là hiện tượng giảm
phát. Nền kinh tế của một số quốc gia đã chứng kiến “lạm phát ỳ” và giảm phát.
Nhưng tần xuất của hai hiện tượng này rất thấp, chủ yếu vẫn là lạm phát và đây
là hiện tượng phổ biến trong điều kiện lưu thơng tiền giấy.
* Ngun nhân của lạm phát
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến lạm phát.Dưới góc độ tiền tệ, những
nguyên nhân cơ bản đó là:
(1) Lạm phát do nhu cầu tiền tăng – cầu kéo
Các hiện tượng kinh tế làm tăng tổng cầu tiền, dẫn đến tăng tổng cung
tiền, trong điều kiện tăng trưởng kinh tế không tương ứng đã dẫn đến lạm phát.
Đó là lạm phát do nhu cầu, hay còn gọi là lạm phát cầu – kéo.
Lạm phát nhu cầu bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, chủ yếu là:
- Tăng cầu tiền do thâm hụt ngân sách.
Thâm hụt ngân sách lại do những nguyên nhân buộc chính phủ phát hành
để chi, trong trường hợp dự trữ của Nhà nước có hạn, nguồn thu khơng tăng
tương ứng như:
18


+ Chi cho y tế, giáo dục, quốc phòng…
+ Khắc phục các hậu quả thiên tai, bệnh dịch, chiến tranh…Cần phải có
một khoản tiền lớn.
+ Chính phủ giảm thuế do một nguyên nhân nào đó, làm nguồn thu bị
giảm.
+ Chi mua ngoại tệ trong trường hợp cán cân vãng lai bị chênh lệch thiếu,
hoặc nhập hàng hóa khẩn cấp cho nhu cầu quốc gia.
+ Tăng trợ cấp và phúc lợi xã hội…
Những nhu cầu phát sinh nêu trên, buộc chính phủ phải chi là bất khả

kháng.Dù là nguyên nhân nội sinh hay ngoại sinh, chúng đều tác động đến sự ổn
định kinh tế - xã hội. Những khoản chi này dẫn đến thâm hụt ngân sách kéo dài,
mà chưa có những giải pháp khắc phục, buộc chính phủ phải phát hành bù đắp
do đó dẫn đến lạm phát.
- Tăng cầu tiền bắt nguồn từ nhu cầu về hàng hóa.
Do tổng cung của một số hàng hóa chủ yếu, hoặc đại bộ phận các hàng
hóa trên thị trường khơng thay đổi (hoặc giảm thấp), trong khi đó nhu cầu về
những hàng hóa này lại tăng lên (hoặc khơng đổi) làm cho giá cả sẽ tăng lên.
Hiện tượng này cũng dẫn đến lạm phát. Mặc dù giá cả tăng lên, nhưng dân cư
không thể ngừng tiêu dùng, họ bắt buộc phải tăng cung tiền, để đảm bảo nhu cầu
hàng hóa – dịch vụ như trước, hoặc những hàng hóa mới theo sở thích. Đối với
dân cư để đảm bảo cho nhu cầu tăng lên, chỉ có cách duy nhất là huy động dự
trữ hiện có để đưa ra tiêu dùng. Cịn đối với chính phủ thì ngồi sử dụng ngân
sách dự phịng là phát hành thêm tiền.
Như vậy, nhu cầu về hàng hóa, đã dẫn đến tăng cầu tiền, do đó buộc phải
tăng cung tiền. Vì vậy, đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến lạm phát.
(2) Lạm phát do chi phí tăng
Chi phí tăng lên dẫn đến mức cung tiền vượt quá nhu cầu, đã dẫn đến lạm
phát gọi là lạm phát chi phí đẩy. Những nguyên nhân dẫn đến lạm phát chi phí
đẩy:
- Tăng lương vượt quá mức tăng năng suất lao động xã hội.
- Đầu tư cơ bản kém hiệu quả. Đầu tư này bao gồm hai nguồn quan trọng
nhất là từ NSNN và tín dụng. Những khoản đầu tư này rất lớn, nhưng nếu bị thất
thoát, lãng phí hoặc cơng trình khơng phát huy tác dụng, cũng có thể chưa phát
huy tác dụng, đã dẫn đến một bộ phận tiền tạm thời “thừa”. Đây là một nguyên
19


nhân quan trọng dẫn đến lạm phát.
- Thấu chi qua hệ thống ngân hàng. Đây thuộc về quy chế tài chính của

quốc gia, hoặc quy định của NHNN, cho phép chủ tài khoản được ghi “có” trước
và ghi “nợ” sau, khi xử lý chứng từ thanh toán. Hiện tượng này xảy ra ít hay
nhiều đều dẫn đến mất cân đối về cung cầu tiền.
- Chiết khấu và tái chiết khấu các thương phiếu nhận vốn. Thực chất đây
là một khoản chi khống góp phần tăng cung tiền ra thị trường.
- Nguyên liệu đầu vào của một số sản phẩm tăng lên. Chủ yếu là những
nguyên liệu nhập từ nước ngoài, Chính phủ khơng thể điều tiết được mức giá
này. Do giá nguyên liệu đầu vào tăng, làm cho giá bán của hàng hóa tăng. Đó
cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến lạm phát.
- Sự lãng phí quá mức trong tiêu dùng xã hội.
Một xã hội không chú ý đến tiết kiệm hoặc không biết tiết kiệm, sẽ dẫn
đến hiện tượng tiêu dùng vượt quá khả năng kinh tế.Tình trạng này sẽ dẫn đến
cầu vượt quá cung của nhiều hàng hóa và dịch vụ. Lạm phát tiềm ẩn ở chính
hiện tượng này.
(3) Hệ thống chính trị khơng ổn định, là một nguyên nhân dẫn đến lạm phát
Hệ thống chính trị không ổn định dẫn đến việc điều hành kinh tế của
Chính phủ khơng hiệu quả. Nhưng vấn đề quan trọng hơn là dân chúng không
tin tưởng vào giấy bạc ngân hàng hiện hành. Người ta tìm đến hàng hóa quý
hiếm, ngoại tệ, vàng…để dự trữ giá trị. Vì thế, giấy bạc ngân hàng “bị đẩy” ra
lưu thông nhiều hơn và nó mất giá càng nhanh.
Như vậy, có nhiều nguyên nhân dẫn đến lạm phát. Những nguyên nhân
này không giống nhau ở các quốc gia. Chúng cũng không tác động đồng thời
trong một thời điểm. Mặt khác nó cịn tùy thuộc vào giải pháp chống lạm phát
của mỗi chính phủ, thế mà mức độ của lạm phát và ảnh hưởng của nó đối với
nền kinh tế cũng khác nhau.
* Các loại lạm phát
“Lạm phát” là thuật ngữ chung để chỉ sự mất giá của giấy bạc.Tùy theo
mức độ biểu hiện và ảnh hưởng của nó đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, lạm
phát được chia thành các loại sau đây:
(1) Lạm phát vừa phải

Lạm phát vừa phải là loại lạm phát mà tại thời điểm xảy ra giá cả hàng
hóa so với trước khơng cao và tốc độ tăng chậm. Tỷ lệ lạm phát đo được dưới
20


10%, gọi là lạm phát ở mức “một con số”.
Loại lạm phát này thường thấy ở các nước có nền kinh tế phát triển.
Nguyên nhân của loại lạm phát này có thể do:
+ Hiện tượng kinh tế tự nhiên: sút giảm sản lượng nông nghiệp cục bộ,
khắc phục hậu quả thiên tai một vùng…
+ Nhà nước điều chỉnh chỉ tiêu phát triển kinh tế vĩ mô, như tăng lương,
tăng giá thu mua nơng phẩm, khởi cơng những cơng trình quốc gia…
+ Chính phủ duy trì mức độ lạm phát này với mục đích riêng.
Lạm phát vừa phải khơng ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển kinh tế - xã
hội. Thậm chí nó cịn tác động ngược lại làm cho nền kinh tế năng động hơn.Vì
vậy mà nhiều chính phủ cịn có kế hoạch duy trì lạm phát vừa phải trong kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội của mình.
Ví dụ: Các nước tư bản phát triển như Nhật Bản, Thụy Điển, Thụy Sĩ,
Anh, Pháp, Hoa kỳ…thường duy trì lạm phát ở mức thấp nhằm đạt những mục
tiêu kinh tế - xã hội đã dự định.
(2) Lạm phát phi mã
Lạm phát phi mã là loại lạm phát mà tại thời điểm xảy ra giá cả hàng hóa
tăng cao với tốc độ nhanh so với trước. Tỷ lệ lạm phát này ở mức hai hoặc ba
con số: từ 10%, 20%, 100% hoặc 200%.
Thơng thường lạm phát phi mã có ảnh hưởng xấu đến sự phát triển kinh tế
- xã hội. Nếu khơng có biện pháp khắc phục kịp thời thì lạm phát này sẽ là cơ sở
dẫn đến lạm phát cao hơn.
(3) Siêu lạm phát
Siêu lạm phát là loại lạm phát mà giá cả của tất cả các hàng hóa tăng cao
gấp nhiều lần lạm phát phi mã. Loại lạm phát này có tốc độ tăng rất nhanh, liên

tục và khơng thể kiềm chế được.
Loại lạm phát này ảnh hưởng xấu đến sự phát triển kinh tế xã hội. Nó phá
vỡ hầu hết các quan hệ cân đối kinh tế quốc dân. Nếu khơng có những giải pháp
đột phá thì khơng thể khắc phục được tình trạng siêu lạm phát này.
Trong thời kỳ xảy ra siêu lạm phát, chỉ số phát hành giấy bạc, giá cả hàng
hóa tiêu dùng đều tăng với tốc độ rất cao. Chúng đạt tới con số khó đọc. Vì vậy,
chúng được gọi là những “con số thiên văn”.
* Cách tính lạm phát
Sự gia tăng giá cả bình qn trên thị trường là biểu hiện bên ngồi của lạm
21


phát, do đó để xác định mức lạm phát thì phải tính được sự gia tăng của giá cả.
Giá cả hàng tiêu dùng (consumer Price Index) – CPI, được sử dụng một
cách phổ biến để xác định mức lạm phát trong kỳ.
Ở mỗi nước, một lô hàng tiêu dùng phổ biến gọi là “rổ hàng hóa”, được
chọn làm cơ sở để nghiên cứu, so sánh. Tỷ trọng của mỗi loại hàng hóa trong rổ
hàng hóa, thường đã được xác định. Do đó, để xác định chỉ số giá tại thời điểm
cần nghiên cứu, có thể sử dụng cơng thức sau:
n

Pt   pi ki
i 1

Trong đó:
Pt: Chỉ số giá cả của rổ hàng hóa tại thời điểm t;
i : Loại hàng hóa trong rổ hàng hóa được lựa chọn;
pi: Giá cả của hàng hóa i;
ki : Tỷ trọng của hàng hóa i trong rổ hàng hóa.
Nếu lấy một thời điểm nào đó trước t làm gốc gọi là t0, như vậy Pt0 đã

được xác định, vì là số liệu lịch sử, tỷ lệ lạm phát tại thời điểm t được xác định
theo công thức sau:

 P
G pt   t  1   100

 Pt 0

Trong đó:
Gpt: Tỷ lệ lạm phát tại thời điểm t;
Pt: Chỉ số giá của rổ hàng hóa tại thời điểm t;
Pt0: Chỉ số giá của rổ hàng hóa tại thời điểm lấy làm gốc.
Chỉ số CPI mặc dù được tính một cách khoa học, nhưng chưa hồn tồn
chính xác, vì nó mới chỉ phản ánh giá cả của những hàng hóa trong rổ chứ chưa
phải là tồn bộ lượng hàng hóa trên thị trường. Mặt khác CPI chỉ phản ánh được
sự thay đổi giá bên ngồi cịn yếu tố nội tại làm tăng giá như: đầu tư khoa học
công nghệ làm cho mẫu mã hàng hóa đẹp hơn, bền hơn, nhiều cơng dụng hơn…
yếu tố làm tăng giá này trên một sản phẩm nhưng mang tên cũ không phải là yếu
tố làm tăng lạm phát thì CPI khơng phản ánh được.
Ngồi việc tính CPI để xác định lạm phát, còn các chỉ số khác cũng được
sử dụng để nghiên cứu đó là:
-Chỉ số giá sản xuất – PPI (Production Price Index):
22


Đây là chỉ số giá bán buôn lần đầu của một số sản phẩm quan trọng trong
nền kinh tế.Tùy điều kiện của mỗi nước, lượng sản phẩm được chọncó thể
nhiều, ít khác nhau. Chỉ số này giúp cho việc nghiên cứu những nguyên nhân tạo
nên lạm phát từ khâu sản xuất.
- Chỉ số giảm phát GNP (GNP Deflator)

Chỉ số này được xác định bằng cách so sánh giữa giá danh nghĩa và giá
thực tế của GNP. Chỉ số này cho thấy được một cách toàn diện sự tăng hoặc
giảm giá của toàn bộ của cải vật chất của nền kinh tế. Từ đó thấy được giá trị
thực của tồn bộ của cải vật chất lúc ban đầu.
- Chỉ số giảm phát GDP (GDP Deflator)
Chỉ số này được xác định bằng cách so sánh giữa GDP theo giá hiện hành
và GDP theo giá một năm nào đó được chọn làm gốc. Chỉ số này cho thấy sự
thay đổi giá của tất cả các mặt hàng tạo nên tổng sản phẩm quốc nội. Nó được
sử dụng để phân tích sự ảnh hưởng của giá cả lên các cân đối vĩ mô của nền kinh
tế quốc dân.
* Ảnh hưởng của lạm phát đến sự phát triển kinh tế - xã hội
Lạm phát có ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển kinh tế - xã hội tùy
theo mức độ của nó.
Lạm phát vừa phải, tạo nên một sự chênh lệch giá hàng hóa, dịch vụ giữa
các vùng làm cho thương mại năng động hơn. Các doanh nghiệp vì thế sẽ gia
tăng sản xuất, đẩy mạnh cạnh tranh, đưa ra thị trường nhiều sản phẩm với chất
lượng cao hơn. Lạm phát vừa phải làm cho nội tệ mất giá nhẹ so với ngoại tệ,
đây là lợi thế để các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu tăng thu ngoại hối,
khuyến khích sản xuất trong nước phát triển. Lạm phát vừa phải thường tương
đồng với một tỷ lệ thất nghiệp nhất định. Đó là yếu tố buộc người lao động
muốn có việc làm phải nâng cao trình độ chun mơn, cạnh tranh chỗ làm việc.
Như vậy người sử dụng lao động sẽ có cơ hội tuyển chọn được lao động có
chất lượng cao hơn. Nhìn chung lạm phát vừa phải có ảnh hưởng tích cực đến
sự phát triển kinh tế - xã hội.Tuy nhiên, để duy trì tỷ lệ lạm phát này, địi hỏi
chính phủ phải tổ chức và quản lý kinh tế vĩ mô năng động và hiệu quả.
* Biện pháp khắc phục lạm phát
Những biện pháp này được áp dụng với mục tiêu giảm tức thời “cơn sốt
lạm phát”, trên cơ sở đó áp dụng các biện pháp ổn định tiền tệ lâu dài. Các biện
23



pháp này thường được áp dụng khi nền kinh tế lâm vào tình trạng siêu lạm phát.
- Biện pháp cấp bách
+ Ngừng phát hành tiền vào lưu thông, thắt chặt tiền tệ: Biện pháp này
cịn gọi là chính sách đóng băng tiền tệ. Tỷ lệ lạm phát tăng cao, ngay lập tức
ngân hàng trung ương phải dùng các biện pháp có thể đưa đến tăng cung ứng
tiền tệ như ngừng thực hiện các nghiệp vụ chiết khấu và tái chiết đối với các
tổ chức tín dụng, quy định mức dự trữ bắt buộc, dừng việc mua vào các
chứng khoán ngắn hạn trên thị trường tiền tệ, không phát hành tiền bù đắp bội
chi ngân sách Nhà nước.
Áp dụng các biện pháp giảm lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế như:
NHTƯ bán ra các chứng khoán ngắn hạn trên thị trường tiền tệ, bán ngoại tệ và
vay, phát hành các cơng cụ nợ của Chính phủ để vay tiền trong nền kinh tế bù
đắp cho bội chi ngân sách Nhà nước, tăng lãi suất tiền gửi đặc biệt là lãi suất
tiền gửi tiết kiệm dân cư. Các biện pháp này rất có hiệu lực vì trong một thời
gian ngắn nó có thể giảm bớt được một khối lượng khá lớn tiền nhàn rỗi trong
nền kinh tế quốc dân, do đó giảm được sức ép lên giá cả hàng hóa và dịch vụ
trên thị trường.
+ Cắt giảm hoặc hoãn chi những khoản chưa cấp bách từ NSNN: Cắt
giảm bớt những khoản đầu tư công kém hiệu quả, những khoản đầu tư công
chưa thực sự cần thiết, giảm áp lực về cầu, góp phần nâng cao hiệu quả của
nền kinh tế.
+ Bán ngoại tệ và vàng, để thu bớt tiền mặt từ lưu thông vào ngân hàng.
+ Giảm thuế nhập khẩu, khuyến khích tự do mậu dịch, nhằm tăng quỹ
hàng hóa tiêu dùng, góp phần cân đối tiền hàng để khơng gây ra đột biến về giá,
ngăn chặn đầu cơ.
+ Vay và xin viện trợ từ bên ngoài.
+ Cải cách tiền tệ, áp dụng chính sách tỷ giá linh hoạt.
- Biện pháp ổn định lâu dài
Đây là những biện pháp có tác động lâu dài đến sự phát triển của nền kinh

tế quốc dân.Tổng hợp các biện pháp này sẽ tạo ra sức mạnh kinh tế lâu dài của
đất nước, làm cơ sở cho sự ổn định tiền tệ một cách bền vững. Các biện pháp
chiến lược thường được áp dụng:
+ Xây dựng kế hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
+ Xây dựng ngành sản xuất hàng hóa, hoặc dịch vụ “mũi nhọn” của nền
24


×