Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

sáng kiến kinh nghiệm lịch sử thpt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.36 MB, 89 trang )

3
MỤC LỤC
I. Điều kiện tạo ra sáng kiến
II. Mô tả giải pháp
1. Trước khi tạo ra sáng kiến
1.1. Vai trò của môn Lịch sử ở trường THPT
1.2. Thực trạng dạy và học môn Lịch sử
1.3. Kết quả thi THPT quốc gia
1.4. Ngun nhân
2. Mơ tả giải pháp sau khi có sáng kiến
2.1. Một số phương pháp học và ôn thi
2.2. Phương pháp làm câu hỏi trắc nghiệm
2.3. Phương pháp KKGG để vận dụng làm một số trọng tâm kiến thức thi
2.4. Một số chuyển đề nâng cao góp phần chinh phục điểm cao môn Lịch
sử
2.4.1. Một số thuật ngữ, khái niệm Lịch sử cần nắm vững
2.4.2. Một số vấn đề so sánh trong lịch sử
2.5. Một số lưu ý về phương pháp ôn thi
III. Hiệu quả do sáng kiến đem lại
IV. Tài liệu tham khảo

1
2
2
2
3
4
5
9
9
17


21
39
39
45
64
69
70


4

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TT
1
2
3
4
5
6

Kí hiệu chữ viết
THPT
GD - ĐT
SGK
KHTN
KHXH
ĐH

Chữ viết đầy đủ
Trung học phổ thông

Giáo dục đào tạo
Sách giáo khoa
Khoa học tự nhiên
Khoa học xã hội
Đại học


5
BÁO CÁO SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I. ĐIỀU KIỆN TẠO RA SÁNG KIẾN
Dân tộc Việt Nam có lịch sử từ lâu đời, với quá trình hàng nghìn năm dựng
nước và giữ nước. Nhân dân ta khơng chỉ có truyền thống dân tộc anh hùng mà
cịn có kinh nghiệm phong phú, q báu về việc giáo dục lịch sử cho thế hệ trẻ,
về việc rút bài học quá khứ cho cuộc đấu tranh và lao động trong hiện tại. Kiến
thức Lịch Sử góp phần xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách, trở thành vũ
khí sắc bén trong cơng cuộc dựng nước và giữ nước. Ngày nay, cùng với quá
trình quốc tế hóa ngày càng mở rộng thì trở về nguồn cũng là một trong những
xu thế chung của các dân tộc trên thế giới. Với chúng ta, đó chính là sự tìm tịi,
phát hiện ngày càng sâu sắc hơn những đặc điểm của xã hội Việt Nam, những
phẩm chất cao quý, những giá trị truyền thống và những bài học lịch sử giúp
chúng ta lựa chọn và tiến hành bước đi thích hợp, hướng mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Học lịch sử, hiểu lịch sử, để góp phần làm
người có ích. Lời nói đầu của Hiến Pháp năm 2013 ghi rõ: “Trải qua mấy nghìn
năm lịch sử, nhân dân Việt Nam lao động cần cù, sáng tạo, đấu tranh anh dũng
để dựng nước và giữ nước, đã hun đúc nên truyền thống yêu nước, đoàn kết, nhân
nghĩa, kiên cường, bất khuất và xây dựng nền văn hiến Việt Nam”.
Tại Đại hội của Hội Khoa học lịch sử diễn ra ngày 30/11/2015, Chủ tịch
nước Trương Tấn Sang đã nhấn mạnh: “Hội Khoa học lịch sử Việt Nam phải có
trách nhiệm làm cho các cơ quan quản lý và xã hội thấy được tầm quan trọng
của môn Lịch sử trong hệ thống giáo dục quốc dân, đồng thời có những đóng góp

tích cực trong việc nâng cao chất lượng giảng dạy và học môn Lịch sử”. “Cần
triển khai tích cực những hoạt động để nâng cao hiểu biết và niềm yêu thích của
nhân dân, nhất là những thế hệ trẻ đối với lịch sử dân tộc”.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo
hướng hiện đại, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức,
kĩ năng của người học, khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy
móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người
học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kĩ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học
chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã
hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin
và truyền thông trong dạy và học”, “Đổi mới căn bản hình thức và phương pháp
thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo, bảo đảm trung thực, khách
quan. Việc thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo cần từng bước theo
các tiêu chí tiên tiến được xã hội và cộng đồng giáo dục thế giới tin cậy và công
nhận. Phối hợp sử dụng kết quả đánh giá trong quá trình học và đánh giá cuối


6
kì, cuối năm học, đánh giá của người dạy với tự đánh giá của người học, đánh
giá của nhà trường với đánh giá của gia đình và xã hội”.
Từ năm 2016 – 2017, bộ mơn Lịch sử đã có một thay đổi to lớn. Bộ GD ĐT đã quyết định thực hiện đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá. Theo đó,
bộ mơn Lịch sử được kiểm tra theo hình thức trắc nghiệm khách quan. Bộ môn
Lịch sử nằm trong tổ hợp môn xã hội: Sử - Địa - Giáo dục công dân khi kiểm tra
THPT Quốc gia (Từ năm 2020 là kì thi tốt nghiệp THPT) cho học sinh lớp 12.
Sự thay đổi này đã tạo nên một sự chuyển biến lớn trong việc ôn luyện và kiểm
tra thi THPT bộ môn Lịch sử.
Hiện nay ở các trường phổ thông, đã áp dụng rất nhiều phương pháp dạy
học, nhiều phương tiện kĩ thuật mới và bước đầu mang lại những hiệu quả thiết
thực cho quá trình dạy và học, nhất là đối với bộ mơn lịch sử. Q trình sử dụng

công nghệ thông tin trong dạy học là một xu thế hiện nay đã mang lại hiệu quả
đáng kể. Hay áp dụng nguyên tắc dạy học liên môn, dạy học theo nhóm, dạy học
theo chuyên đề... đã góp phần tích cực vào việc nâng cao hiệu quả dạy học mơn
lịch sử.
Việc thay đổi hình thức thi từ tự luận sang trắc nghiệm, đã tác động lớn
đến sự thay đổi về phương pháp học và kết quả môn học. Sự thay đổi phương
pháp thi theo hướng mới khiến khơng ít học sinh, nhất là các em học sinh lớp 12
băn khoăn, thắc mắc về phương pháp học, phương pháp ôn thi, phương pháp làm
bài như thế nào để có kết quả tốt nhất. Sự thay đổi này cũng gây không ít khó
khăn cho giáo viên trong việc ơn tập, hệ thống hóa kiến thức cho học sinh.
Từ thực tế nhiều năm hướng dẫn học sinh ôn thi THPT Quốc gia môn Lịch
sử (từ năm học 2016 -2017 đến năm học 2018 - 2019) và ôn thi tốt nghiệp (năm
học 2019 - 2020 và 2020 -2021). Qua kết quả các kì thi những năm trước cho
thấy, rất nhiều em yêu thích môn lịch sử và lựa chọn môn này làm môn thi nhưng
lại khó khăn trong việc tìm ra phương pháp học tập, ơn luyện. Khơng ít học sinh
rất tự tin vào kiến thức của mình, kể cả một số học sinh đã từng ôn thi học sinh
giỏi, hay những em có định hướng theo khối C nhưng vẫn lúng túng khi xác định
và trả lời các dạng câu hỏi trắc nghiệm. Do đó, kết quả thi thường khơng tương
xứng với kiến thức mà các em đang có. Học sinh cần có sự điều chỉnh phương
pháp học để khắc phục những hạn chế trên.
Bản thân Tôi là giáo viên trực tiếp hướng dẫn học sinh ôn thi môn Lịch sử,
đây là mơn học địi hỏi độ tư duy cao, khơng chỉ học thuộc hay chăm chỉ giải đề
trắc nghiệm, môn Sử u cầu các em có cách học và ơn thi đúng đắn. Từ thực
tiễn giảng dạy, Tôi luôn trăn trở để tìm ra những phương pháp và cách thức ơn
tập phù hợp nhằm nâng cao chất lượng cho bài thi của học sinh. Vì vậy, Tơi đã
nghiên cứu và lựa chọn đề tài: “HƯỚNG DẪN HỌC SINH MỘT SỐ


7
PHƯƠNG PHÁP ÔN VÀ LÀM CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM ĐỂ CHINH

PHỤC ĐIỂM CAO MÔN LỊCH SỬ THI TỐT NGHIỆP THPT”
II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
1. Trước khi tạo ra sáng kiến
Những năm gần đây bộ mơn Lịch sử áp dụng hình thức thi trắc nghiệm
trong kì thi THPT quốc gia, bên cạnh những câu hỏi cơ bản đa phần kiến thức
trong sách giáo khoa Lịch sử lớp 12 và phần lớp 11, cịn có những câu hỏi địi hỏi
thí sinh phải vận dụng kiến thức khái quát và tư duy lịch sử giữa các sự kiện lịch
sử có liên quan phần kiến thức và thực tế phần tư duy kiến thức lịch sử, nhận biết
“bản chất” của câu hỏi là mấu chốt để thí sinh tìm ra đáp án trả lời chính xác nhất.
Học để thi trắc nghiệm khác xa so với học để thi tự luận. Số lượng câu hỏi
nhiều và trải ra hết chương trình. Các câu hỏi dù ở mức độ nhận biết, thông hiểu,
vận dụng thấp hay vận dụng cao cũng chỉ có 4 phương án (A, B, C, D), trong đó
chỉ có 1 phương án đúng hoặc đúng nhất và 3 phương án gây nhiễu. Mỗi câu trắc
nghiệm trong đề thi sẽ bắt đầu bằng một câu hỏi hoặc mệnh đề dẫn luận liên quan
đến nội dung kiến thức trong chương trình. Các em dựa trên cơ sở kiến thức đã
có của mình để chọn phương án đúng nhất, đây là môn học không chỉ phục vụ
các bạn trong điểm số trên lớp cịn là mơn học được nhiều bạn học sinh lựa chọn
để thi vào các trường đại học như mong muốn. Vì vậy, việc học và làm bài thi để
đạt kết quả cao là q trình dài đầy khó khăn thử thách, khơng hề dễ dàng, cần có
phương pháp học tập đúng đắn cùng với thái độ tích cực thì việc tiếp thu kiến
thức mới có hiệu quả.
1.1 Vai trị của mơn Lịch sử ở trường THPT
Học môn học nào cũng thế, cũng rất cần thiết và quan trọng đối với các
bạn học sinh, môn lịch sử được đánh giá là môn học thiên về hiểu biết thực tế
nhiều nhất là mơn cần có sự chính xác, đúng đắn về thơng tin hay tin tức đưa ra.
Đơn giản cho thấy, kiến thức môn lịch sử được bắt nguồn từ những gì đã xảy ra
trong quá khứ, những vấn đề có thật trong cuộc sống được ông cha ta ghi lại trong
sách vở và thế hệ trẻ là người phải tiếp nối khối tri thức đó, học hỏi, phát triển và
giữ gìn nó từng ngày.
Lịch sử là mơn học có vị trí rất quan trọng trong chương trình giáo dục phổ

thơng, mơn lịch sử khơng chỉ cung cấp những kiến thức cơ bản, chính xác, khoa
học về lịch sử để các em học sinh nhận thức được những nét khái quát về lịch sử,
mà còn giáo dục cho học sinh lòng yêu nước, tự hào dân tộc về những thành tựu
lịch sử văn hóa dân tộc. Phần lịch sử thế giới giúp cho học sinh có cái nhìn tổng
thể về văn minh nhân loại, về những sự kiện lớn của thế giới...để từ đó các em
soi rọi vào lịch sử nước nhà, hiểu được quá trình phát triển của đất nước nằm
trong quá trình đi lên của thế giới. Trên cơ sở đó giáo dục lòng trân trọng, biết ơn


8
tổ tiên và những anh hùng dân tộc, ý thức trách nhiệm của bản thân trong học tập
và định hướng tư tưởng cho học sinh. Mỗi giáo viên chúng ta cần hiểu rằng việc
dạy học là việc làm đầy sáng tạo, lịch sử chính là cuộc sống, trong lịch sử chúng
ta thấy được gương mặt của quá khứ, thấy được công cuộc dựng nước, giữ nước
của cha ông ta, thấy được hiện thực cuộc sống, định hướng cho tương lai.
Theo PGS.TS Võ Văn Sen“lịch sử Việt Nam có hàng ngàn năm văn
hiến, lịch sử của ta đẫm máu và đầy những trang anh hùng ca chống chọi với các
kẻ thù lớn mạnh. Với bề dày lịch sử như thế, dạy học sinh hiểu, biết về sử cũng
như văn, tiếng Việt là vấn đề sống còn đất nước”. “Học sinh tốt nghiệp THPT thì
phải hiểu biết lịch sử dân tộc, hiểu biết về đất nước, phải có kiến thức căn bản
đó để trở thành một công dân, để làm người”. Học lịch sử, hiểu lịch sử, để góp
phần làm người có ích.
Lịch sử là quá khứ, là nơi chứa đựng giá trị văn hóa, là nguồn dữ liệu để
tham chiếu kinh nghiệm cha ơng vào sự phát triển hơm nay. Đó là hồn cốt, truyền
tải những giá trị truyền thống, mà nếu khơng có lịch sử khơng thể hiểu được vị
trí của hiện tại, với ý nghĩa đó thì nếu lịch sử cịn thì văn hóa cịn, và văn hóa cịn
thì dân tộc còn. lịch sử là cả một kho tàng kinh nghiệm vô cùng phong phú mà
con người cần nhận thức để rút ra những bài học. Lịch sử như một dịng chảy
khơng ngừng từ khi con người xuất hiện, phát triển liên tục đến ngày nay và cả
mai sau.

1.2. Thực trạng dạy và học môn lịch sử
Lâu nay việc dạy và học Lịch sử luôn được dư luận xã hội quan tâm, là
giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Lịch sử ở trường THPT, Tôi thấy tồn tại nhiều
vấn đề có những thuận lợi cũng như khó khăn.
1.2.1. Về phía giáo viên
Đội ngũ giáo viên giảng dạy mơn Lịch sử ở trường THPT rất nhiệt tình,
tận tâm trong giảng dạy, đều nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của bộ mơn,
đều có kiến thức chun mơn đạt chuẩn, ln có xu hướng tìm tịi, tích lũy kiến
thức, tích cực đổi mới phương pháp dạy học sao cho thu hút học sinh.
Giáo viên giảng dạy tại các trường THPT không tránh khỏi những áp lực
lớn từ “căn bệnh thành tích” qua các cuộc thi, các kì thi, … với khối lượng kiến
thức nhiều mà thời lượng dành cho bộ mơn ít, nên dẫn tới thực trạng dạy học mơn
lịch sử ở một số trường trung học phổ thông chỉ là sự truyền thụ kiến thức một
chiều, cung cấp kiến thức một cách thụ động, làm cho bài giảng trở nên khô khan
dễ gây nên sự nhàm chán ở học sinh, hệ quả là làm cho học sinh khơng thích thú
với việc học sử. Đồng thời giáo viên dạy Lịch sử cũng chưa nhận được sự quan
tâm đúng mức của các cấp quản lý, phụ huynh học sinh về bộ mơn.
1.2.2. Về phía học sinh


9
Đa số học sinh đều có thái độ tốt, hứng thú học tập với bộ môn, say mê sưu
tầm các loại tài liệu tham khảo bổ sung cho học tập, một số học sinh có năng
khiếu bộ mơn có điều kiện để nghiên cứu chuyên sâu. Bên cạnh đó, nhiều em lại
không hứng thú với môn Lịch sử cho nên vẫn chưa chủ động khám phá kiến thức,
chưa chủ động lên kế hoạch học tập, đi học còn thiếu sách vở, không ghi chép
bài, không làm bài tập, nhiều học sinh cịn khơng nắm được kiến thức cơ bản….
Thực tế có những em rất u thích lịch sử, học lịch sử rất tốt ở các năm học
trước nhưng đến kỳ thi THPT quốc gia, các em đành phải lựa chọn một cách thực
dụng để có thể đạt kết quả tốt nhất cho mục tiêu quan trọng nhất của tương lai đó chính là việc xét tuyển ĐH. Rất nhiều trường ĐH, ngành nghề trên ĐH đã từ

chối môn sử dù ai cũng có thể chỉ ra rằng mơn sử rất quan trọng cho nghề nghiệp
trong tương lai như báo chí, kiến trúc..., nên học sinh chẳng mấy quan tâm đến
học lịch sử cũng là dễ hiểu.
Mơn sử chỉ cịn xuất hiện trong tổ hợp bài thi xã hội để xét tốt nghiệp. Ngay
chính trong bài tổ hợp xã hội này, mơn sử lại tiếp tục bị thờ ơ vì nó là gánh nặng
cho các em học sinh. Bài thi xã hội gồm có sử - địa - giáo dục cơng dân. Môn
giáo dục công dân nội dung ôn tập nhẹ nhàng, mơn địa lý có cứu cánh là Atlat thì
mơn sử gây lo sợ với khối lượng kiến thức quá nhiều. Cho nên sự lựa chọn của
các thí sinh là học sơ sài, khơng có hệ thống nhằm mục tiêu khơng bị điểm liệt là
đủ. Trong sự thờ ơ đó, nỗ lực của các giáo viên cũng như gió vào nhà trống và
phổ điểm u ám đối với bộ môn lịch sử là một hệ quả tất yếu. Đối với học sinh
khối 12, chương trình mơn Lịch sử chiếm 1.5 tiết/tuần, lượng kiến thức khá nặng,
chưa kể thi theo cấu trúc của Bộ GD-ĐT trong những năm qua có cả kiến thức
lớp 11. Vì vậy, số lượng các em đăng kí thi THPT Quốc gia theo THXH và THTN
có sự chênh nhau rất lớn ở một số trường, trong đó có trường Tơi đang giảng dạy.
Trong bối cảnh học thực dụng như hiện nay, tình trạng học yếu mơn lịch
sử sẽ cịn tiếp diễn trong các năm sau vì việc điều chỉnh độ khó, dễ của đề thi chỉ
giải quyết được phần ngọn của vấn đề.
1.3. Kết quả thi THPT Quốc gia
1.3.1. Kết quả năm 2017
Theo báo VietNamNet – Ngày 7/7/2017 - (Xem phụ lục 1)
Theo đó, điểm trung bình của môn Lịch sử năm nay trên cả nước là 4.6
điểm. Số thí sinh có điểm dưới trung bình là 315.957 TS – chiếm 61,9%. Số TS
có điểm liệt (<=1 điểm) là 869 TS. Điểm số có nhiều TS đạt nhất là 4.0 điểm.
Cả nước có 107 TS đạt điểm 10 môn Lịch sử. Số TS đạt từ 9 đến 9,75 điểm
là 3876 TS. Có 501 TS có điểm 0.
1.3.2. Kết quả năm 2018
Theo báo VietNamNet – Ngày 11/7/2018- (Xem phụ lục 2)



10
Theo đó, điểm trung bình của mơn Lịch sử năm nay trên cả nước là 3,79
điểm. Số thí sinh có điểm dưới trung bình là 468.628 TS – chiếm 83,24%. Số TS
có điểm liệt (<=1 điểm) là 1.277 TS. Điểm số có nhiều TS đạt nhất là 3,25 điểm.
Cả nước có 11 TS đạt điểm 10 mơn Lịch sử. Số TS đạt từ 9 đến 9,75 điểm
là 658 TS. Có 527 TS có điểm 0.
1.3.3. Kết quả thi năm 2019
Theo báo VietNamNet – Ngày 15/7/2019- (Xem phụ lục 3)
Trong kỳ thi THPT quốc gia năm 2019, có 569.905 thí sinh dự thi môn
Lịch sử (thuộc tổ hợp bài Khoa học Xã hội). Thống kê của Bộ GD&ĐT qua dữ
liệu điểm thi THPT quốc gia 2019 cho thấy, số thí sinh có điểm dưới trung bình
là 399.016 (chiếm 70,01%). Số thí sinh có điểm liệt (<=1 điểm) là 395. Mơn Lịch
sử có điểm trung bình là 4,3 và có 80 bài thi đạt điểm 10 trong cả nước.
Như vậy, so với năm 2018, điểm trung bình của mơn Lịch sử 2019 là 4,3,
cao hơn năm 2018. Tuy nhiên, so với năm 2017, điểm thi năm 2018 thấp hơn
(năm 2017 là 4,6 điểm).
1.3.4. Kết quả thi năm 2020
Theo báo VietNamNet – Ngày 27/8/2020- (Xem phụ lục 4)
Trong kì thi THPT quốc gia năm 2020, có 553.987 thí sinh dự thi
mơn Lịch sử (thuộc tổ hợp bài Khoa học Xã hội). Thống kê của Bộ GD&ĐT qua
dữ liệu điểm thi THPT quốc gia 2020 cho thấy, số thí sinh có điểm dưới trung
bình là 260.074 (chiếm 46.95%). Số thí sinh có điểm liệt (<=1 điểm) là 111
(chiếm 0,02%). Mơn Lịch sử có điểm trung bình là 5,19 và có 371 bài thi đạt
điểm 10 trong cả nước.
Như vậy, so với những nămtrước đó (2017, 2018, 2019) điểm trung
bình mơn lịch sử năm 2020 là 5,19 - cao hơn.
1.3.5. Kết quả thi năm 2021
Theo báo VietNamNet – Ngày 26/7/2021- (Xem phụ lục 5)
Trong kì thi THPT quốc gia năm 2021, có 637.005 thí sinh dự thi môn Lịch
sử (thuộc tổ hợp bài Khoa học Xã hội). Thống kê của Bộ GD&ĐT qua dữ liệu

điểm thi THPT quốc gia 2021 cho thấy, số thí sinh có điểm dưới trung bình là
331.429 (chiếm 52.03%). Số thí sinh có điểm liệt (<=1 điểm) là 540 (chiếm
0,08%). Mơn Lịch sử có điểm trung bình là 4,97 và có 266 bài thi đạt điểm 10
trong cả nước.
1.4. Nguyên nhân
Theo kết quả công bố của Bộ giáo dục về điểm mơn Lịch sử "rớt" một cách
thê thảm qua các kì thi THPT quốc gia. Nhiều người sốc, cảm giác lo lắng trước
điểm thi môn Sử nhưng lại không hề bất ngờ. Chẳng có gì là lạ và cũng đừng ai
vội giật mình, dường như đây là câu chuyện “đến hẹn lại lên” của mỗi mùa thi
lớn. Nhưng vì đâu mà nên cơ sự này?


11
Trước hết, phải thừa nhận rằng, học môn Lịch sử khó và khơng hấp dẫn.
Ðã là lịch sử, nhất thiết phải gắn với sự kiện, nhân vật và hiểu lịch sử nhất định
phải nắm vững những sự kiện, nhân vật cơ bản, quan trọng trong suốt quá trình
hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Nhưng chương
trình do Bộ Giáo dục và Ðào tạo quy định là yêu cầu học sinh phải nắm được hầu
như tất cả các nội dung về lịch sử Việt Nam và lịch sử thế giới, trong khi đó, số
tiết quy định quá ít. Mặt khác, do yêu cầu của chương trình, nội dung trong sách
giáo khoa quá nặng, nội dung trong sách giáo khoa như một "đĩa nén", đầy ắp
thông tin mà học sinh không thể nhớ hết được, tôi cũng như nhiều thầy cô dạy Sử
cho rằng quá nặng nề, chi tiết, bắt các em phải nhớ quá nhiều, cách kiểm tra vẫn
là học thuộc lòng. Chúng ta vẫn giáo dục theo hướng tiếp cận nội dung mà chưa
chuyển sang tiếp cận năng lực. Nhồi nhét một mớ kiến thức có sẵn vừa nặng về
học thuộc ghi nhớ, vừa nặng về tuyên truyền mà không biết áp dụng vào đâu sẽ
gây ra sự nhàm chán, dẫn đến tình trạng "học trước quên sau". Dạy môn học này
theo tôi là truyền cho học sinh tinh thần của dân tộc, cái hồn của núi sơng, lịng
biết ơn với tổ tiên qua những nhân vật lịch sử thì mới khắc sâu và đọng lại trong
các em, gây sự hứng thú.

Thứ hai: Lịch sử là một mơn học cần có sự chăm chú và tư duy cao. Trước
đây, đề thi không theo hình thức trắc nghiệm, thậm chí nhiều học sinh luồn lách
giở tài liệu để quay cóp nên khá “ung dung”. Nhưng bây giờ thì khác, đề thi hiện
nay địi hỏi học sinh cần có cả nhận thức và kiến thức, trong khi mơn Lịch sử vốn
đã khó và thậm chí là cực khó khi đó là những kiến thức về lịch sử của cả dân tộc
và nhân loại. Học vẹt, học tủ, học để chống đối cho qua điểm liệt đã khơng cịn
có tác dụng thậm chí là phản tác dụng.Đã đến lúc cần thẳng thắn nói với nhau
rằng, quan niệm về Lịch sử là mơn học thuộc lịng, máy móc đã hồn tồn sai
lầm. Hơn thế, Lịch sử là một môn khoa học cần tư duy và lập luận logic. Nếu
không thay đổi cách học, cứ để học sinh mãi “lơ tơ mơ” về mơn này, thì
khơng bao giờ có kết quả cao được. Thực tế, để nhận thức một vấn đề lịch sử địi
hỏi học sinh có nền tảng lý luận và nhận thức tổng hợp, phân tích chun sâu.
Ở một khía cạnh khác, do trình độ nhận thức về mơn học này chưa được
đúng đắn. Có thể thấy các em học sinh luôn xem Lịch sử là mơn phụ và chỉ cần
học thuộc lịng thì sẽ qua. Chính vì thế, thái độ học tập của các em chỉ là hình
thức đối phó với thầy cơ và góp phần "dung dưỡng" cho bệnh thành tích phát
triển.
Thứ ba:Giáo viên chưa đủ tâm huyết để gây hứng thú trong những giờ học
Lịch sử, nhưng với 1,5 tiết/tuần thì thật khó, rồi khi có dự giờ, thao giảng, hội
giảng, sinh hoạt chuyên môn cụm, hội thi giáo viên giỏi cấp trường, cấp tỉnh...,
thật buồn là đồng nghiệp chỉ chăm chăm đánh giá giáo viên có truyền thụ hết kiến
thức trong sách giáo khoa hay khơng, dạy cịn thiếu ý này, ý khác, ý này là trọng


12
tâm, ý kia là cơ bản, có liên hệ, có lồng ghép, có tích hợp, có giáo dục kiến thức,
rèn kỹ năng, giáo dục thái độ tình cảm… để xếp loại tiết dạy chứ khơng xem học
sinh có hiểu bài hay không?
Thứ tư:Hệ quả của những định kiến và nhu cầu về mặt xã hội, đa số phụ
huynh và học sinh đều xem nhẹ môn học này - nếu không muốn nói là xem

thường. Vì cho rằng thực tế lịch sử học để biết vậy thôi chứ không ứng dụng gì
trong nghề nghiệp tương lai sau này (chỉ cần thiết nếu học để đi dạy lịch sử hoặc
nghiên cứu sử). Do vậy, phụ huynh chỉ đầu tư cho con học tốn, lý, hóa…nhằm
theo đuổi những ngành nghề đang hót của xã hội như kinh tế, ngân hàng, tài
chính... để có thu nhập cao, kể cả các nhà tuyển dụng đều khơng có nhu cầu cao
về việc học sinh phải học giỏi sử. Và khi khoa học lịch sử ít tiếng nói, cơ hơi tìm
việc làm của những người giỏi sử ít đi thì mơn Lịch sử sẽ khơng phải là sự lựa
chọn. Theo đuổi đam mê và sự giàu có đó là ước mơ của mỗi con người, nói cách
khác qui luật của cuộc sống là vậy.Trong bối cảnh xã hội Việt Nam hiện tại, xu
hướng quy tất cả vào giá trị vật chất và lợi ích thực dụng đã khiến cho phụ huynh,
học sinh khơng nhìn nhận ra bản chất đích thực và cuối cùng của giáo dục: tạo ra
con người tốt đẹp có năng lực cải tạo xã hội và sống hạnh phúc.
Vì thế, tất cả những gì khơng phục vụ trực tiếp việc thăng tiến vị trí và
kiếm ra tiền đều bị gạt xuống hàng thứ yếu. Bên cạnh đó, quan điểm tuyển sinh
thực dụng, học thực dụng, thi thực dụng cũng khiến môn Sử “yếu thế” hơn. Thay
vì trước đây học mơn gì thi mơn đó thì nay, thi mơn gì học mơn đó. Cách học
thực dụng dẫn đến sự chủ quan trong việc dạy học, chủ quan trong tiếp nhận kiến
thức và chủ quan cả hình thức ra đề - thi trắc nghiệm các mơn trong đó có Lịch
sử.
Thứ năm: Hình thức thi trắc nghiệm trong môn thi Lịch sử khiến các em
nhác học hơn so với cách thi tự luận trước đây. Vào phòng thi chủ yếu đốn mị
là nhiều, làm theo kiểu “phủ xanh đất trống, đồi trọc”, “chơi trị may rủi”, thậm
chí trả lời theo linh cảm, chỉ cần qua điểm liệt, dừng ở mức đỗ tốt nghiệp mà thơi.
Sẽ chẳng có gì ngạc nhiên và cũng đừng đổ lỗi tại đề khó cho kết quả thấp, vì tư
duy mơn học vẹt nên nhận kết quả như vậy là điều tất nhiên. Rõ ràng, đó là kết
quả buộc những người có tâm huyết với nền giáo dục nước nhà không thể vô cảm.
Việc học và khai thác Lịch sử ở khía cạnh tư liệu về những điều đã diễn ra
khiến Lịch sử trở thành một môn khoa học “chết”. Cần thổi một làn gió mới vào
q khứ đã qua, tơn trọng sự thật nhưng khơng có nghĩa là đóng khung tư duy
trong những con số khô cứng. Lịch sử luôn cần là sự thật cũng như môn Lịch sử

cần được học thật, thi thật, học bằng tất cả tình yêu với lịch sử nước nhà và sự
phát triển của nhân loại từ quá khứ đến hiện tại và tương lai.


13
2. Mơ tả giải pháp sau khi có sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Một số phương pháp học và ôn thi
Một trong những vấn đề mà đa số Thầy cô và các em học sinh quan tâm
chính là phương pháp học và ôn môn lịch sử như thế nào hiệu quả nhất. Từ thực
tế quá trình giảng dạy và nhiều năm ôn luyện thi tốt nghiệp THPT, Tôi nhận thấy
tùy thuộc vào hoàn cảnh, điều kiện học tập, khả năng nhận thức, quỹ thời gian
mà mỗi em học sinh lại có cho mình những phương pháp học khác nhau. Mỗi
phương pháp đều có những ưu điểm - nhược điểm khác nhau mà khơng phải trong
trường hợp nào cũng có thể vận dụng để đạt hiệu quả cao nhất. Do vậy, trong
khuôn khổ của sáng kiến, Tôi sẽ đưa ra một số phương pháp học và ôn môn lịch
sử, các em học sinh có thể tham khảo và chọn ra phương pháp học và ôn phù hợp
nhất với bản thân và quỹ thời gian của mình.
2.1.1. Xác định đúng mục tiêu, quyết tâm học tập, có kế hoạch cụ thể cho việc
học
Từ thực tế cho thấy, các em học sinh lựa chọn mơn Lịch sử với quan điểm
“học để thi”, số cịn lại học vì đam mê. Vì vậy trước khi bắt đầu q trình ơn tập,
các em cần xác định rõ mục tiêu. Khi chọn môn Lịch sử để thi tốt nghiệp THPT
và là một trong ba môn của tổ hợp KHXH để xét tuyển, các em cần xác định rõ
đây là mơn học khó nhất trong tổ hợp, cần được đầu tư nhiều thời gian và nhất
thiết phải có người hướng dẫn trong suốt quá trình học. Các em nên đặt ra điểm
số cần đạt cho bản thân để lấy đó làm động lực phấn đấu. Mỗi giai đoạn trong
quá trình học đều nên kiểm tra lại khả năng của bản thân để xác định mục tiêu ở
giai đoạn kế tiếp, nhất là ở giai đoạn nước rút. Việc kiểm tra có thể căn cứ vào
làm các đề thi thử trên mạng, nhất là các trường chuyên hoặc đề minh họa của Bộ
GD - ĐT.

Cần xác định quyết tâm cao độ trong việc học, bởi nếu khơng có đam mê
thì việc học mơn khó như Lịch sử là điều nhiều em học sinh rất ngại. Trong quá
trình học các em cần xây dựng thời gian biểu hợp lý và kiên quyết làm theo.
Thông thường, các em sẽ tự chia thời gian biểu cho việc học của mình, tuy nhiên
ngồi các mơn khác, trong thời gian học chính khóa các em nên giành cho mơn
sử thời gian ít nhất một tiếng mỗi ngày để học. Đến giai đoạn nước rút, các em
tăng tốc thì đã có một lượng kiến thức cơ bản tích lũy để làm nền tảng.
2.1.2. Nắm vững kiến thức cơ bản
Việc học và nắm vững kiến thức cơ bản của môn Lịch sử là vô cùng quan
trọng, là chiếc chìa khóa để giải đáp tất cả những câu hỏi trong đề thi, nhưng
nhiều em vẫn còn lúng túng trong việc lựa chọn cho mình một phương pháp nắm
vững kiến thức cơ bản hiệu quả. Kiến thức cơ bản được coi như xương sống của
một giai đoạn, tiến trình lịch sử. Trong SGK cơ bản lớp 12, toàn bộ các sự kiện,
giai đoạn, nhân vật lịch sử đều được trình bày thành các bài theo lối thơng sử hết


14
sức cơ bản. Do vậy, cách tốt nhất để nắm kiến thức cơ bản là bám sát SGK, các
em cũng cần xác định các phần giảm tải để loại bỏ nó ra khỏi chương trình học,
bởi đấy được xem là kiến thức khơng cơ bản, hồn tồn khơng có trong đề thi.
Để nắm vững kiến thức cơ bản học sinh cần có thái độ nghiêm túc, tự học
trước ở nhà, đọc trước SGK và các tài liệu cần thiết. Khi đến lớp chú ý nghe thầy
cơ giảng những ý chính, coi đó là bộ khung để xây dựng hệ thống kiến thức cơ
bản cho bản thân. Cần nắm vững kiến thức theo các bước:
- Xác định bối cảnh lịch sử (nguyên nhân bùng nổ sự kiện, hiện tượng)
- Diễn biến sự kiện (nội dung chính)
- Kết quả (kết quả lớn nhất, kết quả cơ bản nhất)
- Ý nghĩa lịch sử (ý nghĩa lớn nhất, ý nghĩa cơ bản nhất)
- Liên hệ thực tế hiện nay (nếu có)
- Cuối cùng các em cần học bài cũ, làm các bài tập ở cuối bài theo hình

thức tự luận dù thi trắc nghiệm -> đó là cách nắm vững kiến thức cơ bản nhất.
2.1.3. Phân chia kiến thức thành các mốc, các giai đoạn cụ thể
Việc chia nhỏ các nội dung, giai đoạn và nắm vững các cột mốc sẽ giúp
học sinh khái quát được các vấn đề quan trọng của lịch sử. Học là một phản xạ
có điều kiện, các em dù có học thuộc nhưng khơng có q trình ơn thì sau một
thời gian sẽ quên kiến thức. Để khắc phục các em cần phân chia kiến thức sắp
học ra thành nhiều giai đoạn nhỏ để dễ học, thực hiện kế hoạch “chia để học”.
Phần lịch sử thế giới 12 từ năm 1945 đến năm 2000 bao gồm:
- Trật tự thế giới mới sau CTTGT2 (1945-1949)
- Liên Xô và các nước Đông Âu (1945-1991). Liên Bang Nga (1991-2000)
- Khu vực Đông Bắc Á
- Đông Nam Á và Ấn Độ
- Châu Phi và Mỹ La Tinh
- Mỹ - Tây Âu - Nhật Bản
- Quan hệ quốc tế trong và sau thời kì chiến tranh lạnh
- Cách mạng khoa học-công nghệ và xu thế tồn cầu hóa nửa sau thế kỉ XX
- Tổng kết lịch sử thế giới hiện đại từ 1945-2000
Phần lịch sử Việt Nam từ 1919-2000, bao gồm
Giai đoạn: 1919-1930
- Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ 2 của Pháp và tác động đến kinh tế-xã
hội Việt Nam
- Phong trào yêu nước của tư sản, tiểu tư sản (khuynh hướng dân chủ tư
sản), phong trào công nhân (khuynh hướng vô sản).
- Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc
- Sự ra đời của 3 tổ chức cộng sản và ba tổ chức cách mạng
- Đảng cộng sản Việt Nam ra đời


15
- Cương lĩnh chính trị và Luận cương chính trị

Giai đoạn: 1930-1945
- Phong trào cách mạng 1930-1931
- Phong trào dân chủ 1936-1939
- Tình hình Việt Nam trong những năm CTTGT2
- Các hội nghị trung ương Đảng tháng 11/1939 và tháng 5/1941
- Quá trình chuẩn bị cho khởi nghĩa tháng Tám và khởi nghĩa từng phần
- Cách mạng tháng Tám thành công và sự ra đời của nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa
Giai đoạn: 1945-1954
- Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ ngày 2/9/1945 đến trước ngày
19/12/1946
- Cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ
- Các thắng lợi của ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp (chiến dịch Việt
Bắc năm 1947, chiến dịch Biên Giới năm 1950, cuộc tiến công chiến lược Đông
– Xuân 1953-1954, chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954).
- Hậu phương trong kháng chiến chống pháp (1945-1954)
- Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 về chấm dứt chiến tranh, lập lại hịa bình
ở Đơng Dương.
Giai đoạn: 1954-1975
- Tình hình 2 miền Nam – Bắc sau Hiệp định Giơ-ne-vơ
- Chiến đấu chống lại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mĩ (19541975)
- Hậu phương trong những năm kháng chiến chống Mĩ (1954-1975)
- Hiệp định Pa-ri về Việt Nam năm 1973
Giai đoạn: 1975-2000
- Việt Nam trong những năm đầu sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống
Mĩ cứu nước
- Đường lối đổi mới của Đảng (1986 – 2000).
2.1.4. Nắm vững các khái niệm, thuật ngữ và áp dụng phương pháp liên hệ ngang
bằng
Khái niệm và thuật ngữ lịch sử rất quan trọng, thực tế trong đề thi THPT

quốc gia năm 2017, 2018, 2019, kì thi tốt nghiệp THPT năm 2020 và 2021 cho
thấy, phần lớn các câu hỏi ở mức độ vận dụng thấp và cao đều có liên quan đến
các khái niệm và thuật ngữ.
- Đường lối chiến lược
- Nhiệm vụ chiến lược
- Mâu thuẫn dân tộc
- Mâu thuẫn giai cấp


16
- Cách mạng Dân tộc dân chủ nhân dân
- Đánh đuổi và đánh đổ
- Quyền dân tộc cơ bản
- Phi mĩ hóa chiến tranh, mĩ hóa trở lại…
Nếu học sinh nắm không vững sẽ dẫn tới giải nghĩa sai từ khóa, khơng xác
định được trọng tâm của câu hỏi, đưa đến việc lựa chọn đáp án sai.
Trong quá trình học, các em có thể áp dụng phương pháp liên hệ ngang
bằng. Tương ứng với các mốc lịch sử Việt Nam thì cùng thời gian đó lịch sử thế
giới có sự kiện gì? Và tác động của sự kiện lịch sử thế giới đó đến lịch sử Việt
Nam.
Ví dụ: khi học về bài 16 - Lịch sử 12: Phong trào giải phóng dân tộc và
Tổng khởi nghĩa tháng Tám (1939-1945). Nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra
đời -> các em sẽ thấy mối liên hệ giữa lịch sử Việt Nam và lịch sử thế giới như
sau:
Sự kiện lịch sử thế giới
Sự kiện lịch sử Việt Nam
Thời
Thời gian
Sự kiện
Sự kiện

gian
9/1939
Chiến tranh thế giới thứ 11/1939 Hội nghị Ban chấp hành
2 bùng nổ
Trung ương đảng Đảng Cộng
sản Đông Dương lần 6
9/1940
Nhật vào Đông Dương 11/1940 Hội nghị Ban chấp hành
Trung ương đảng Đảng Cộng
sản Đơng Dương lần 7
Đầu năm Đức thơn tính gần hết 5/1941 Sau khi về nước (1/1941)
1941
châu Âu, chuẩn bị tấn
Nguyễn Ái Quốc trực tiếp
công Liên Xô
lãnh đạo cách mạng và chủ trì
Hội nghị Ban chấp hành
Trung ương đảng Đảng Cộng
sản Đơng Dương lần 8
3/1945
Nhật Đảo chính Pháp
Từ
Đảng phất động cao trào
Tháng 3 kháng Nhật cứu nước làm
đến
tiền đề cho cuộc tổng khởi
tháng
nghĩa.
8/1945
15/8/1945 Nhật đầu hàng không 8/1945 Đảng chớp thời cơ, phát lệnh

điều kiện
Tổng khởi nghĩa trong cả
nước


17
2.1.5. Phương pháp học 5W – 1 How
Đây là phương pháp học lịch sử căn bản nhất, giúp học sinh có cái nhìn
tổng quan về các vấn đề lịch sử, sự kiện, nhân vật. Qua đó hình thành hệ thống
kiến thức cơ bản. Phương pháp 5W là viết tắt của các câu hỏi trong tiếng anh
gồm:
- What – Xác định được sự kiện lịch sử gì đã xảy ra và xảy ra như thế nào?
- When? – Sự kiện đã xảy ra vào thời điểm nào?
- Where?–Gắn với địa điểm, không gian nào?
- Who? – Gắn liền với ai – nhân vật, giai cấp, tổ chức, tầng lớp…
Khi vận dụng 4W trên trong ôn luyện, các em không nên máy móc, vì trong
nhiều trường hợp lịch sử khơng cần phải chi tiết, cụ thể về ngày, tháng, năm mà
mang tính “tương đối”. thời gian của sự kiện lịch sử cũng rất đa dạng, có thể được
tính bằng phút (10h 45 phút ngày 30/4/1975, xe tăng và bộ binh quân giải phóng
tiến vào Dinh Độc lập, bắt sống tồn bộ nội các Sài Gịn), có khi theo mùa (mùa
hè năm 1920, Nguyễn Ái Quốc được tiếp xúc với Luận cương của Lê-nin…),
hoặc thập kỉ, thế kỉ… Đôi khi lại dùng cụm từ chỉ tương đối như “trong những
năm”, “cuối những năm” (Những năm 20 của thế kỉ XX, phong trào yêu nước
Việt Nam có 2 khuynh hướng chính trị cùng tồn tại là tư sản và vô sản…). Tương
tự như vậy, địa điểm, không gian diễn ra sự kiện lịch sử có thể là cây đa (cây đa
Tân Trào-nơi diễn ra lễ xuất quân của một đơn vị Giải phóng thị xã Thái Nguyên,
mở đầu cho Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945), tại một cứ điểm, căn cứ (cứ
điểm Điện Biên Phủ), vùng miền, khu vực (miền Bắc Việt Nam, khu vực Đơng
Nam Á).
- Why – Tại sao (Phải lí giải tại sao, vì sao sự kiện lịch sử lại diễn ra như

vậy… tức là phải bình luận, nhận xét, đánh giá, chứng minh, giải thích, lí giải về
sự kiện).
Các em học sinh cần lưu ý, kiến thức lịch sử ln có 2 phần: phần sử là
những sự kiện, hiện tượng đã diễn ra trong quá khứ, dù muốn hay không cũng
không thay đổi được, phần sử gồm 4w ở trên. Phần luận (Why) là phần quan trọng
nhất mà các em cần chú trọng giải quyết, bởi khi trả lời được các câu hỏi trên,
các em sẽ hình thành được tư duy cho mình để hiểu sâu sắc bản chất của sự kiện,
hiện tượng lịch sử. Điểm của thí sinh cao hay thấp phụ thuộc vào phần “luận”.
Theo phương pháp này, học sinh sẽ nắm được các nội dung trọng tâm trong
chương trình, nắm vững kiến thức cơ bản, ghi nhớ và hiểu những sự kiện cốt yếu
gắn với thời gian, địa danh, nhân vật lịch sử.
Ví dụ: Khi đề cập về sự kiện Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi tồn
quốc kháng chiến, thì các em lí giải được tại sao Đảng, Chính phủ ta lại phát động
kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp vào ngày 19/12/1946 mà không phải
thời gian khác. Dĩ nhiên để “luận” được phần “sử”, các em phải ghi nhớ, xác định


18
được quá trình của 4w diễn ra ở trên. Trên thực tế, khơng ít học sinh tuy biết được
phần “sử” nhưng lại khơng thể giải thích, bình luận, nhận xét được sự kiện. Ví
như các em nhớ sự kiện ngày 7/5/1954 là chiến thắng Điện Biên Phủ nhưng khơng
lí giải được vì sao đây là chiến thắng lớn nhất của quân dân ta trong kháng chiến
chống Pháp (1945-1954). Dù là bài thi tự luận hay trắc nghiệm khách quan vẫn
phải nhớ cả phần “sử” và “luận” khi học tập và ôn tập.
- “1 How” đề cạp đến các dạng câu hỏi nào thường gặp trong đề thi để
chúng ta tập trung ôn luyện thành thạo và cách giải quyết mỗi dạng câu hỏi như
thế nào?
2.1.6. Học theo sơ đồ tư duy, kết hợp từ “chìa khóa”
Đặc thù của mơn Sử là hiện hữu nhiều mốc sự kiện, không gian, thời gian
nên học sinh phải hệ thống hóa kiến thức dưới dạng sơ đồ tư duy để ghi nhớ kiến

thức hiệu quả hơn. Học sinh làm "sơ đồ tư duy" dựa trên nguyên lý từ "cây" đến
"cành" đến "nhánh", từ ý lớn sang ý bé. Nhờ đó, các em sẽ thấy các bài học sẽ trở
nên ngắn gọn hơn, súc tích và dễ hiểu, dễ nhớ hơn.
Từ những kiến thức, sự kiện, vấn đề cơ bản của từng bài, từng chương,
từng phần trong sách giáo khoa hiện hành, thông qua sơ đồ tư duy, học sinh sẽ tự
biết cách tổng hợp và xâu chuỗi kiến thức theo trình tự, trật tự kiến thức và lý giải
các mối quan hệ tác động biện chứng, nhân quả giữa các vấn đề, sự kiện.
HS có thể dùng sơ đồ cây hoặc sơ đồ tư duy sau khi học xong kiến thức cơ
bản để tái hiện cũng như tổng hợp kiến thức cơ bản đã học. Đây là cách ôn tập
giúp các em phát triển được năng lực về trí tuệ (ghi nhớ, phân tích, chọn lọc, vẽ,
viết, …), giúp các em có nền tảng kiến thức vững chắc. Khi học theo mỗi bài,
mỗi giai đoạn, cần lưu ý lấy bút gạch chân những từ, cụm từ quan trọng, vì đây
là những nội dung cần được quan tâm, chú ý, không thể quên.
Việc sử dụng sơ đồ tư duy chỉ là biện pháp bổ sung quan trọng cho việc
nắm chắc kiến thức cơ bản, chứ khơng nên sử dụng như là phương pháp chính.
Để đạt hiệu quả cao khi học, giáo viên sẽ cho học sinh tự xây dựng theo ý tưởng
của bản thân chứ khơng dùng những sơ đồ tư duy có sẵn.
Ví dụ: Khi học về Chiến dịch Biên giới thu đông 1950, với các nội dung:
Hoàn cảnh, âm mưu của Pháp, chủ trương của ta, diễn biến, kết quả, ý nghĩa 
Ta có thể sử dụng sơ đồ tư duy để khắc sâu kiến thức cơ bản.
2.1.7. Phân bổ thời gian hợp lý, phương pháp cà chua (Pomodoro Technique)
Đây là nội dung khó nhất trong ơn thi, làm sao để phân bổ thời gian hợp lý
cho các môn học. Đối với bộ môn Lịch sử, theo đánh giá của học sinh là mơn học
khó, mức độ tư duy trong đề thi u cầu ngày càng cao, thì việc dành thời gian
nhiều cho môn Lịch sử là cần thiết. Một thực trạng không thể phủ nhận hiện nay,
là đa phần các em học sinh dành quá nhiều thời gian cho học thêm, nhiều em có
sự lựa chọn theo số đơng, cịn mơ hồ về tổ hợp xét tuyển đại học. Vì vậy, các em


19

cần xác định đúng mơn thi chính thức của mình trong các tổ hợp xét tuyển, môn
nào học tốt, môn nào học cịn chưa tốt để có cách sắp xếp hợp lý. Và các em cần
tôn trọng nhịp đồng hồ sinh học của bản thân, không học quá sức hoặc thức trắng
đêm học nhưng sau đó lại rơi vào trạng thái “nửa tỉnh nửa mê”. Ôn luyện là cả
một quá trình dài, cần có cách ơn hợp lý, khoa học để có kết quả.
2.1.8. Học theo phương pháp cuốn chiếu, lượt đi lượt về
Khi xây dựng được hệ thống kiến thức cơ bản, chúng ta có thể áp dụng
phương pháp sau:
- Sau khi học xong mỗi tiết, cuối giờ GV yêu cầu học sinh gấp hết sách vở
và kiểm tra kiến thức vừa học theo dạng câu hỏi trả lời nhanh
- Học xong 3 bài rồi quay lại ôn kiến thức bài 1,2
- Học tiếp bài 4,5,6 xong quay lại ôn kiến thức bài 1,2,3
- Học tiếp bài 7,8,9 xong quay lại ôn kiến thức bài 1,2,3,4,5,6
…………….
Cứ lần lượt như vậy cho đến hết các bài, khi học sang phần Việt Nam thì
các em đã ơn được khá nhiều lượt các bài đầu tiên và tương đối kĩ phần thế giới.
Tương tự học phần lịch sử Việt Nam
2.1.9. Học nhóm
Đây là một hình thức học tập phổ biến nhằm nâng cao sự hợp tác giữa các
thành viên trong nhóm, qua đó các em tự đặt câu hỏi, thảo luận, trình bày quan
điểm và thực hiện hợp tác. Việc học nhóm sẽ giúp các em nhận ra điểm yếu mạnh
của mình, tăng khả năng tư duy, phản biện, tăng sự ganh đua trong học tập, cho
phép học sinh học lẫn nhau. Đây là phương pháp hữu hiệu cho hoạt động giải
quyết vấn đề khó trong ơn thi. Tuy nhiên để phát huy được những lợi ích từ việc
học nhóm, cần chú ý:
Số lượng thành viên không quá đông, chỉ cần khoảng 4-5 người, trong đó
cần có những người có kiến thức tốt để định hướng. Khơng học nhóm đơng q
sẽ làm cho các bạn ỷ lại, học nhóm ít q sẽ không gây hứng thú trong tranh luận
vấn đề, thời gian học không quá dày, chỉ 1- 2 buổi/ tuần.
2.1.10. Sử dụng điện thoại thông minh

Hiện nay các phương tiện ghi âm rất phổ biến, có thể dùng điện thoại di
động thông minh để phục vụ cho cách học này. Các em đọc to, rõ ràng nội dung
bài học, ghi âm lại và có thể nghe bất kì khi nào, kể cả trước khi đi ngủ. Việc
nghe trước hết sẽ tác động trực tiếp đến việc ghi nhớ, hình thành kiến thức theo
nguyên tắc “mưa dầm thấm lâu”. Đây là một trong những cách ghi nhớ kiến thức
hiệu quả và dễ dàng. Ngồi ra các em có thể chụp lại những nội dung kiến thức
hay và lấy đó làm hình nền điện thoại, sau khi thuộc bài có thể thay bằng hình
nền khác, đảm bảo các em sẽ khơng qn kiến thức khi mà ngày nào cũng nhìn
thấy.


20
2.1.11. Học onlie
Đây là phương pháp học không mới nhưng còn khá xa lạ với nhiều giáo
viên và học sinh, tuy nhiên chỉ nên học khi thật sự cần thiết và chú ý đến nội dung
sẽ học. Học onlie đúng cách với phương pháp chuẩn sẽ tiết kiệm tối đa thời gian,
công sức và tiền bạc của bản thân và gia đình mà hiệu quả cao. Tuy nhiên các em
cần lựa chọn kênh học phù hợp, có thái độ học tập nghiêm túc.
Giáo viên có thể giới thiệu cho các em một số trang có đội ngũ các thầy cơ
nhiều kinh nghiệm, có số lượng học sinh tham gia đơng đảo, qua đó các em theo
dõi, trao đổi, học hỏi một cách có chọn lọc.
2.1.12. Giải trí
Đây là nội dung rất quan trọng trong quá trình dạy và học mà nhiều giáo
viên và học sinh làm chưa đúng cách, bộ não con người là siêu việt như một siêu
máy tính với khả năng ghi nhớ và lưu trữ vô hạn. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác
nhau, chúng ta khơng thể ghi nhớ quá nhiều cùng lúc. Thực tế chúng ta cần thời
gian để bộ não nghỉ ngơi và “dọn rác” theo đúng nghĩa. Tuy nhiên giải trí trong
q trình học không nên sa đà, đi bộ, nghe nhạc hoặc xem những tiểu phẩm hài
ngắn là những phương pháp thư giãn tốt nhất trong quá trình học căng thẳng.
2.1.13. Luyện đề

Việc luyện đề thường xuyên sẽ giúp học sinh rèn luyện tâm lý, làm
quen với các dạng câu hỏi, tập cách phản xạ với những câu hỏi khó. Mặt khác,
qua việc luyện đề sẽ giúp học sinh cân đối được thời gian và phân chia thời gian
làm bài một cách khoa học, tự kiểm tra, đánh giá được lượng kiến thức của bản
thân, đồng thời có thêm cơ hội để ghi nhớ nội dung lâu hơn. Tuyệt đối tránh việc
học tự luận chưa kĩ, chưa nắm được kiến thức có bản đã chăm chăm giải đề trắc
nghiệm.
2.2. Phương pháp làm câu hỏi trắc nghiệm
Trắc nghiệm khách quan là phương pháp kiểm tra, đánh giá bằng hệ thống
câu hỏi trắc nghiệm khách quan, cách cho điểm hồn tồn khách quan khơng phụ
thuộc vào người chấm.
2.2.1. Khái niệm
Trắc nghiệm là một từ ghép gồm 2 từ “Trắc” và “nghiệm”. Theo nghĩa
chữ Hán, “Trắc” có nghĩa là “đo lường”, “nghiệm” có nghĩa là “suy xét, chứng
thực”. “Khách quan” là “không phụ thuộc vào yếu tố chủ quan”. Trắc nghiệm là
dụng cụ hay phương thức hệ thống nhằm đo lường thành tích học tập của một cá
nhân so với các cá nhân khác, so với những yêu cầu, nhiệm vụ học tập được dự
kiến. Trong trường học, trắc nghiệm khách quan đối với môn Lịch sử, là phương
pháp được dùng như một hình thức kiểm tra, đánh giá học sinh thông qua hệ
thống câu hỏi trắc nghiệm.


21
Trắc nghiệm khách quan là một cụm từ đã xuất hiện trên thế giới hàng trăm
năm nay, theo các nhà nghiên cứu cũng như các nhà thực tiễn thường gọi cụm từ
này để chỉ “hình thức tổ chức, kiểm tra hoặc thi cử, bằng cách cho thí sinh lựa
chọn và đánh dấu lên các mẫu tự để trả lời các câu hỏi trực tiếp hoặc gián tiếp
của đề thi”.
Trắc nghiệm là một hình thức được sử dụng khá phổ biến trong hệ thống
giáo dục ở nhiều quốc gia trên thế giới.

2.2.2. Tầm quan trọng của việc đổi mới theo hình thức thi trắc nghiệm khách
quan
Các phương pháp đánh giá kết quả học tập rất đa dạng, mọi phương pháp
đều có những ưu điểm và nhược điểm, khơng có phương pháp nào là hoàn mĩ với
mọi mục tiêu giáo dục. Nhưng ở góc độ nghiên cứu nội dung này, Tơi nhận thấy
đây là phương pháp hết sức mới mẻ nhưng nó lại đánh giá tương đối chính xác
và khách quan kết quả của học sinh. Sau đây tôi xin đưa ra một số ưu điểm và
hạn chế của việc kiểm tra, đánh giá theo hình thức trắc nghiệm khách quan.
2.2.2.1. Ưu điểm
Thứ nhất:Thi trắc nghiệm, việc đầu tiên học sinh cần thay đổi là đọc kỹ
sách giáo khoa. Vì phần lớn kiến thức trong bài thi đều lấy từ sách giáo khoa, các
em cần chủ động hơn trong việc khai thác và xử lý sách giáo khoa. Bởi đây là tài
liệu căn bản, nền tảng tri thức của mọi đề thi và hình thức thi. Thêm nữa, các em
cần biết suy luận thơng qua việc phân tích dữ liệu từ các đáp án, bài kiểm tra có
rất nhiều câu hỏi nên có thể kiểm tra được một cách hệ thống và toàn diện kiến
thức, kĩ năng của học sinh, tránh việc học tủ. Có thể kiểm tran đánh giá trên diện
rộng trong một thời gian ngắn.
Thứ hai:Hình thức thi trắc nghiệm sẽ ứng dụng được CNTT vào quá trình
chấm thi: Mỗi thí sinh đều được phát một mẫu phiếu trả lời câu hỏi trắc nghiệm,
thí sinh phải điền đầy đủ thơng tin vào đó kèm theo đáp án, máy tính sẽ tự động
chấm bài mà khơng cần phải có giáo viên chấm thi như trước. Đối với kì thi THPT
Quốc gia, số lượng học sinh tham dự đơng, với hình thức trắc nghiệm khách quan,
đáp án rõ ràng, dễ cho học sinh lựa chọn,đặc biệt - có thể ứng dụng kĩ thuật vào
việc chấm bài – như chấm bằng máy, Nếu như chấm tay, giáo viên có thể châm
chước bỏ qua bớt các lỗi sai hoặc vớt điểm cho thí sinh nhưng đối với chấm thi
bằng máy thì mọi thứ đều là tự động, việc chấm bài nhanh, chính xác, đảm bảo
được tín cơng bằng, ngay cả người khơng có chun mơn nếu có đáp án sẵn vẫn
chấm được, rất khách quan, tránh được nhữngnhược điểm của một bài thi tự luận.
Thứ ba:Biết kết quả thi sớm hơn - Nếu như với hình thức thi tự luận, việc
chấm thi sẽ do đại diện các giáo viên của các trường THPT trên cả nước tham gia

chấm thi và chấm theo kiểu thủ cơng nên thời gian có kết quả sẽ chậm hơn. Nếu


22
là chấm trên máy, chỉ cần bỏ bài làm vào và máy tính sẽ chạy tự động và có thể
chỉ trong thời gian ngắn (10 ngày hoặc 20 ngày sau sẽ có kết quả trên tồn quốc).
Thứ tư:Điểm thi chia đều cho các câu - nếu như bài thi tự luận thì các câusẽ
có các thang điểm khác nhau tùy theo mức độ dễ khó, nếu vào câu nhiều điểm
mà học sinh chưa học đến thì điểm sẽ khơng cao.Cịn đối với bài thi trắc nghiệm
thì điểm sẽ chia đều cho 50 câu, tức là 1 câu 0,2 điểm. Điều này sẽ tạo điều kiện
để học sinh tự đánh giá kết quả học tập của mình chính xác. Vì đối với những câu
hỏi ở mức độ vận dụng và vận dụng cao, học sinh không chỉ học thuộc bài, mà
yêu cầu học sinh phải nắm thật chắc kiến thức mới có thể phân tích, liên hệ, so
sánh để chọn đáp án đúng.
Thứ năm: Trắc nghiệm khách quan có bốn mức độ, ngoài những câu hỏi
về kiểm tra kiến thức, cần có một số câu hỏi yêu cầu suy luận, phân tích mà đáp
án khá giống nhau theo kiểu 50/50. Khi đó, học sinh phải hiểu bài, phân tích câu
trả lời để chọn ra đáp án đúng. Đây là những câu hỏi mà các bạn rất dễ bị mất
điểm và đây cũng chính là cơ sở để sàng lọc, phân loại học sinh, nên có thể dễ
dàng phân hóa được trình độ học sinh qua kết quả kiểm tra.
2.2.2.2. Hạn chế
Một là làm giảm khả năng tư duy của học sinh: Nếu như thi theo hình thức
tự luận thì học sinh sẽ phải suy nghĩ về hướng giải quyết một bài tốn, một câu
hỏi và xem xét phải trình bày như thế nào cho hợp lý thì theo hình thức thi trắc
nghiệm học sinh không cần phải chú trọng nhiều vào việc trình bày mà chỉ tập
trung vào kết quả sẽ như thế nào. Đây là hạn chế lớn nhất của thi trắc nghiệm,
giáo viên sẽ không thể diễn biến tư duy của học sinh trong quá trình làm bài.
Hai là không đánh giá được khách quan năng lực của học sinh: Theo hình
thức thi trắc nghiệm sẽ khó đánh giá được năng lực thực sự của học sinh vì sẽ có
thành tố may rủi. Nhiều thí sinh có năng lực và làm bài thực sự nhưng cũng khơng

ít người gọi là đánh lụi (đánh bừa) và tự nhiên đúng. Điều này sẽ khơng cơng
bằng cho các thí sinh khác.
Ba là đề thi mang tính bao quát cao và rộng: Nếu như thi tự luận lượng
kiến thức sẽ ít hơn, tập trung vào từng dạng và coi trọng đến cách trình bày hơn;
cịn đối với thi trắc nghiệm thì ngược lại, lượng kiến thức thì vơ tận, có nhiều
dạng mới và đào sâu tất cả những gì có trong sách giáo khoa, nhưng đối với thi
trắc nghiệmthì khơng cần bận tâm nhiều đến cách trình bày.
Bốn là áp lực về thời gian thi: Rút ngắn thời gian thi ít lại trong khi đó
lượng kiến thức vơ cùng lớn, có 40 câu hỏi làm trong 50 phút, như vậy 1,25 phút
cho một câu, chưa kể những câu hỏi dài và khó địi hỏi học sinh đọc kĩ và phân
tích. Nếu học sinh nào học không chắc kiến thức sẽ không làm được dẫn đến tình
trạng chọn đáp án một cách ngẫu nhiên.


23
Năm là gây áp lực cho phụ huynh, học sinh và hơn hết là giáo viên: Họ
phải tìm cách đổi mới phương pháp dạy, thay đổi giáo án, thay đổi cách kiểm tra,
ôn tập... để làm sao cho học sinh mình có thể hiểu và nắm bắt kiến thức kịp thời,
giải đề nhanh và chính xác… Nếu giáo viên khơng hướng dẫn kỹ thì học sinh
cũng khơng biết phải đi theo hướng nào.
Sáu là rất khó soạn đề vì thế đối với một số giáo viên lớn tuổi: Họ không
quen sử dụng CNTT nếu chuyển qua thi trắc nghiệm thì họ sẽ phải sử dụng CNTT
để tạo đề hoặc thu thập các đề thi, do đó họ sẽ chậm hơn những giáo viên khác.
2.2.3. Thực trạng của việc học sinh lựa chọn thi môn Lịch sử và thực trạng của
việc đổi mới thi theo hình thức trắc nghiệm khách quan.
2.2.3.1. Thực trạng học sinh lựa chọn thi môn Lịch sử
Theo thống kê của Bộ GD-ĐTqua các năm, tỉ lệ thí sinh cả nước đăng kí
chọn bài thi KHXH có chiều hướng tăng hơn so với chọn bài thi KHTN. Cụ thể:
Năm học
Năm học

Năm học
Năm học
2017-2018 2018 - 2019
2019-2020
2020-2021
Số thí sinh
900.152
1.014.972
925.961
887.173
dự thi
Thí sinh thi
546.842
561.364
498.516
541.777
bài KHXH
(chiếm 55,38%)
Theo thống kê của trường Tơi đang trực tiếp giảng dạy – tỉ lệ thí sinh khối
12 đăng kí chọn bài thi KHXH cũng có chiều hướng tăng. Cụ thể:

Tổng số HS khối
12 dự thi
Thí sinh thi bài
KHXH

2017 – 2018

2018-2019


405

392

71

93

2019 - 2020

2020-2021

394
432
101

114

Trước đó năm 2015, chỉ 15,3% tổng số em đăng kí thi mơn Lịch sử, thấp
nhất trong số các mơn tự chọn trong kì thi THPT Quốc gia. Năm 2016, nhiều hội
đồng khơng có học sinh lựa chọn thi Lịch sử.
Kết quả trên cho thấy học sinh chưa quay lưng lại với môn Lịch sử, thể
hiện sự quan tâm đến lịch sử đất nước. Với việc chuyển đổi hình thức thi từ tự
luận sang trắc nghiệm ảnh hưởng lớn đến việc lựa chọn thi lịch sử của các em
học sinh.
2.2.3.2. Thực trạng của việc đổi mới thi theo hình thức TNKQ
- Đối với giáo viên: Việc ra đề kiểm tra có đủ các bước theo quy trình biên
soạn đề kiểm tra chưa thật sự đảm bảo, đôi khi giáo viên chưa chú trọng đến việc



24
biên soạn đề theo hướng khám phá và phát triển năng lực của học sinh. Giáo viên
chưa xây dựng được ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm theo từng bài, từng chương
cho học sinh làm sau mỗi bài, mỗi chương. Kinh nghiệm trong việc biên soạn đề,
sách –tài liệu tham khảo cịn chưa nhiều, những câu hỏi khó ở mức độvận dụng
và vận dụng cao cịn ít.
- Đối với học sinh: Năm 2021 là năm thứ 5 thi THPT theo hình thức trắc
nghiệm đối với môn Lịch sử, số lượng học sinh đăng kí thi ngày càng tăng, đa số
học sinh cho rằng: khơng cần học vẫn làm tốt vì dù sao trong 4 đáp án cũng chọn
được một đáp án, các em trông chờ vào yếu tố “may-rủi”, “hên-xui”. Do đó, có
tình trạng học sinh ỷ lại, khơng ý thức được việc học, điều này đưa đến chất lượng
thi THPT quốc gia môn lịch sử rất thấp.
2.2.4. Cấu trúc - ma trận của bài thi trắc nghiệm THPT quốc gia môn lịch sử
2.2.4.1. Cấu trúc đề thi THPT quốc gia môn Lịch sử
Một đề thi THPT quốc gia môn lịch sử gồm có 4 cấp độ tư duy
- Nhận biết: Học sinh nhớ được bản chất những khái niệm, thuật ngữ cơ
bản và có thể nêu hoặc nhận ra các khái niệm khi được yêu cầu. Đây là bậc thấp
nhất của nhận thức, yêu cầu học sinh tái hiện, ghi nhớ, kể tên, nêu lại, nhớ lại một
sự kiện hiện tượng. Ví dụ: học sinh nhớ được địa điểm, nội dung chính của một
sự kiện lịch sử, tên một nhân vật lịch sử cụ thể.
- Thông hiểu: Học sinh hiểu được các khái niệm, thuật ngữ cơ bản và có
thể sử dụng khi câu hỏi được đặt ra gắn liền với các ví dụ học sinh đã được học
trên lớp. Ở bậc nhận thức này, học sinh có thể giải thích được một sự kiện, hiện
tượng lịch sử, tóm tắt được diễn biến một sự kiện, nghe và trả lời được các câu
hỏi liên quan. Ví dụ: học sinh có thể giải thích được được sự kiện lịch sử diễn ra
như thế nào?
- Vận dụng thấp: Học sinh vượt qua cấp độ hiểu biết thơng thường và có
thể sử dụng các khái niệm của chủ đề trong các tình huống tương tự nhưng khơng
hồn tồn giống như tình huống đã gặp trên lớp. Ở bậc nhận thức này, học sinh
có thể sử dụng được kiến thức để giải quyết một tình huống cụ thể. Ví dụ: áp

dụng một sự kiện lịch sử này để lý giải một sự kiện lịch sử khác.
-Vận dụng cao: học sinh có khả năng vận dụng kiến thức, khái niệm cơ bản
để giải quyết một vấn đề mới hoặc chưa từng được học hoặc trải nghiệm trước
đây, nhưng có thể giải quyết bằng các kĩ năng và kiến thức đã được dạy ở mức
độ tương đương. Các vấn đề này tương tự như các tình huống thực tế học sinh sẽ
gặp ngồi mơi trường lớp học. Ở bậc này học sinh phải xác định được những
thành tố trong một tổng thể và mối quan hệ qua lại giữa chúng, phát biểu ý kiến
cá nhân và bảo vệ được ý kiến đó về một sự kiện, hiện tượng hay nhân vật lịch
sử nào đó, học sinh phải so sánh, đánh giá, phân biệt…liên hệ thực tiễn, rút ra bài
học kinh nghiệm. Ví dụ: học sinh có thể rút ra bài học kinh nghiệm sua khi học


25
về cách mạng tháng Tám, chống thù trong giặc ngoài (1945-1946), cuộc kháng
chiến chống Pháp, chống mĩ cứu nước, công cuộc đổi mới. Sau đó liên hệ kiến
thức với những vấn đề trong cuộc sống hiện nay: ô nhiễm môi trường, tranh chấp
biên giới, biển đảo, xu thế toàn cầu hóa…
2.2.4.2. Ma trận của bài thi trắc nghiệm tốt nghiệp THPT mơn lịch sử
Tổng quan hình thức thi trắc nghiệm của môn Lịch sử bao gồm: gồm 40
câu hỏi, thời lượng 50 phút.
Năm 2017
Năm 2018
Năm 2019
Năm 2020
Năm 2021
CHỦ Đề
Đề
Đề
Đề
Đề

Đề
Đề
Đề
Đề
Đề
ĐỀ
tham Chính tham Chính tham Chính tham Chính tham Chính
LSTG
19171945
LSVN
18581918
LSTG
19452000
LSVN
19191930
LSVN
19301945
LSVN
19451954
LSVN
19541975
LSVN
19752000

khảo

thức

khảo


thức

khảo

thức

khảo

thức

khảo

thức

0

0

2

2

1

1

1

1


2

2

0

0

6

6

3

3

1

1

2

2

12

12

10


10

11

11

11

11

10

10

5

6

2

2

5

5

6

7


6

6

5

7

5

6

7

9

9

8

7

8

13

6

6


5

4

3

5

6

6

6

4

5

8

7

8

6

5

4


6

5

1

4

2

1

1

2

2

3

1

1

2.3. Phương pháp KKGG để vận dụng làm một số trọng tâm kiến thức thi
tốt nghiệp THPT


26
KKGG là là viết tắt của “khoanh khoanh gạch gạch” được áp dụng khi làm

bài thi trắc nghiệm môn Lịch sử, giúp em phân tích đề và đưa đến lựa chọn đáp
án hiệu quả nhất.
Về chi tiết, phương pháp KKGG được hiểu như sau:
* K là KHOANH MỐC THỜI GIAN: Cứ nhìn thấy mốc thời gian trên câu
hỏi, em sẽ khoanh trịn lại để khu biệt kiến thức và tìm dữ kiện trong bộ nhớ.
K1: MỐC THỜI GIAN BẰNG SỐ => dễ nhìn thấy và khoanh trịn.
K2: MỐC THỜI GIAN BẰNG CHỮ (ví dụ như “sau chiến tranh thế
giới thứ hai”, “sau Cách mạng Tháng Tám”,…) => khoanh tròn.
* G là GẠCH TỪ KHĨA; có 2 loại từ khóa cần gạch:
G1: TỪ KHÓA ĐÚNG => gạch chân, xuất hiện trên câu hỏi và đáp án
đúng. Chỉ cần tìm và gạch chân, tìm đủ và đúng từ khóa sẽ ra đáp án đúng.
G2: TỪ KHÓA SAI => gạch chéo, xuất hiện trên đáp án sai. Đặc biệt
với những câu hỏi khó, tìm từ khóa sai và chéo để loại trừ đáp án.
2.3.1 Phần Lịch sử thế giới
2.3.1.1. Hội nghị Ianta
Câu 1- (Đề thi minh họa năm 2017)
Hội nghị Ianta (2/1945) diễn ra khi cuộc chiến tranh thế giới thứ hai
A. đã hoàn toàn kết thúc
B. bước vào giai đoạn kết thúc
C. đang diễn ra vô cùng ác liệt
D. bùng nổ và ngày càng lan rộng
Câu 16 - (Mã đề 301 – Đề thi THPTQG năm 2017)
Nội dung nào dưới đây không phải là vấn đề cấp bách đặt ra đối với các cường
quốc Liên Xô, Mĩ, Anh vào đầu năm 1945?
A. Nhanh chóng đánh bại chủ nghĩa phát xít
B. Tổ chức lại thế giới sau chiến tranh
C. Phân chia thành quả chiến thắng
D. Kí hịa ước với các nước bại trận
Câu 13 - (Đề thi tham khảo năm 2018)
Hội nghị Ianta (2/1945) không quyết định

A. thành lập tổ chức Liên hợp quốc nhằm duy trì hịa bình, an ninh thế giới
B. tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa phát xít Đức, chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản
C. thỏa thuận về việc phân chia phạm vi ảnh hưởng ở châu Âu và châu Á
D. đưa quân Đồng minh vào Đông Dương giải giáp quân đội Nhật
Câu 14 - (Mã đề 303 – Đề thi THPTQG năm 2018)
Hội nghị Ianta (2/1945) không thông qua quyết định nào?
A. Thành lập tổ chức Liên hợp quốc nhằm duy trì hịa bình, an ninh thế giới
B. Quy định về việc đóng quân tại các nước nhằm giải giáp quân đội phát xít
C. Tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa phát xít Đức và chủ nghĩa quân phiệt Nhật
D. Giao cho quân Pháp việc giải giáp quân đội Nhật ở Đông Dương
Câu 13 - (Đề thi tham khảo năm 2019)
Hội nghị Pốtxđam (1945) thông qua quyết định nào?
A. Liên Xơ có trách nhiệm tham gia chống qn phiệt Nhật ở châu Á


27
B. Thành lập tổ chức Liên hợp quốc để duy trì hịa bình, an ninh thế giới
C. Liên qn Mỹ-Anh sẽ mở mặt trận ở Tây Âu để tiêu diệt phát xít Đức
D. Phân cơng qn đội Đồng minh giải giáp quân Nhật ở Đông Dương
Câu 14 - (Mã đề 302 – Đề thi THPTQG năm 2019): Theo quyết định của Hội
nghị Ianta (2/1945), Liên Xơ khơng đóng qn tại khu vực nào sau đây?
A. Đông Đức
B. Tây Á
C. Đông Âu
D. Bắc Triều Tiên
Câu 17- (Đề thi tham khảo lần 1 năm 2020): Theo quyết định của Hội nghị Ianta
(2/1945), nước nào cần trở thành một quốc gia thống nhất và dân chủ?
A. Trung Quốc
B. Nhật Bản
C. Pháp

D. Ấn Độ
Câu 30 - (Mã 301 – Đề thi tốt nghiệp THPT năm 2020): Theo quyết định của Hội
nghị Ianra (2/1945), Liên Xô không được phân chia phạm vi ảnh hưởng ở địa bàn
nào sau đây?
A. Đông Béc-lin
B. Đông Âu
C. Đông Đức
D. Tây Âu
Câu 1 - (Đề thi tham khảo năm 2021)
Nguyên thủ quốc gia nào sau đây tham dự Hội nghị Ianta (2/1945)?
A. Nhật Bản
B. Pháp
C. Đức
D. Mĩ
Câu 10 - (Mã đề 304 – Đề thi tốt nghiệp THPT năm 2021): Theo quyết định của
Hội nghị Ianta (2/1945), quân đội Liên Xơ chiếm đóng khu vực nào sau đây?
A. Tây Âu
B. Bắc Triều Tiên
C. Tây Đức
D. Tây Béc-lin
2.3.1.2. Phong trào giải phóng dân tộc Á, Phi, Mĩlatinh
Câu 5 - (Đề minh họa năm 2017)
Những quốc gia Đông Nam Á tuyên bố độc lập năm 1945 là
A. Inđônêxia, Việt Nam, Lào
B. Cămpuchia, Malaixia, Brunây
C. Inđơnêxia, Việt Nam, Philíppin
D. Miến Điện, Việt Nam, Philíppin
Câu 15 - (Mã đề 301 – Đề thi THPTQG năm 2017)
Từ giữa những năm 70 của thế kỉ XX, Ấn Độ đã tự túc được lương thực nhờ tiến
hành cuộc cách mạng nào dưới đây?

A. Cách mạng công nghiệp
B. Cách mạng chất xám
C. Cách mạng công nghệ
D. Cách mạng xanh
Câu 29 - (Đề thi tham khảo năm 2018)
Sự phát triển và thắng lợi của cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc ở các nước Á,
Phi, Mĩlatinh sau chiến tranh thế giới thứ hai có ý nghĩa như thế nào?
A. Hơn 100 nước thuộc địa và phụ thuộc giành độc lập dân tộc
B. Làm cho thế kỉ XX trở thành thế kỉ giải trừ chủ nghĩa thực dân
C. Các quốc gia độc lập trẻ tuổi đạt nhiều thành tựu về kinh tế -xã hội
D. Xóa bỏ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân Âu-Mĩ ở các thuộc địa
Câu 32 - (Đề thi tham khảo năm 2018)
Sự sụp đổ của chế độ phân biệt chủng tộc (Apacthai) ở Nam Phi năm (1993)
chứng tỏ


×