Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Ngôn ngữ truyền hình việt nam vấn đề và thảo luận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (398.12 KB, 17 trang )

Ngôn ngữ truyền thông xã hội qua phân tích
diễn ngôn các ca từ trong bài hát kháng chiến

Lê Thị Phượng

Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn; Khoa Văn học
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học; Mã số: 60 22 01
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Đinh Văn Đức
Năm bảo vệ: 2012

Abstract. Khảo cứu cấu trúc, chức năng và các tiểu chức năng của diễn ngôn ca từ
trong bài hát Cách mạng giai đoạn 1945 - 1975. Phân tích, miêu tả các chức năng: tư
tưởng, liên nhân, văn bản của diễn ngôn ca từ trong bài hát Cách mạng giai đoạn
1945 - 1975. Khảo cứu chức năng tác động truyền thông xã hội của diễn ngôn ca từ
trong bài hát Cách mạng giai đoạn 1945 - 1975.

Keywords. Bài hát; Ngôn ngữ học; Diễn ngôn; Ngôn ngữ truyền thông; Ngôn ngữ
xã hội

Content.

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong những năm gần đây, hướng nghiên cứu ngôn ngữ truyền thông xã hội
đã thu được nhiều kết quả đáng kể, giúp chúng ta hiểu được sâu hơn bản chất của
ngôn ngữ với tư cách là công cụ tương tác xã hội và liên nhân. Ngôn ngữ truyền
thông xã hội là một hướng nghiên cứu được nhiều người quan tâm. Tuy nhiên, trong
Việt ngữ học, việc nghiên cứu này chưa nhiều và chưa sâu. Trước thời điểm hiện tại,
các nhà nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt chủ yếu bàn đến ngôn ngữ truyền thông xã
hội một cách toàn diện, tổng thể. Chính điều này đã thôi thúc chúng tôi đặt vấn đề
nghiên cứu một cách sâu sắc hơn: Ngôn ngữ truyền thông xã hội qua phân tích diễn


ngôn ca từ trong bài hát kháng chiến.Việc nghiên cứu vấn đề này góp phần chỉ ra sự
thể hiện đa dạng, phong phú của ngôn ngữ truyền thông xã hội, đồng thời đáp ứng
nhu cầu và phù hợp với xu thế phát triển của ngành ngôn ngữ học hiện nay. Đây là
một hướng đi mới, có thể phát hiện ra nhiều điều mới mẻ, lí thú, góp phần tìm hiểu
những vấn đề về ngôn ngữ truyền thông xã hội.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn là tìm hiểu “ngôn ngữ truyền thông xã hội qua phân
tích diễn ngôn các ca từ trong bài hát kháng chiến”.
Với mục đích như trên, chúng tôi đặt cho mình những nhiệm vụ như sau:
- Khảo cứu cấu trúc, chức năng và các tiểu chức năng của diễn ngôn ca từ trong bài
hát cách mạng giai đoạn 1945 - 1975.
- Phân tích, miêu tả các chức năng: tư tưởng, liên nhân, văn bản của diễn ngôn ca từ
trong bài hát cách mạng giai đoạn 1945 - 1975.
- Khảo cứu chức năng tác động truyền thông xã hội của các diễn ngôn ca từ trong bài
hát cách mạng giai đoạn 1945 - 1975.
3. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn tiến hành nghiên cứu dựa trên quan điểm ngữ pháp chức năng và
ngữ dụng học. Nghiên cứu phát ngôn trong hoạt động hành chức của nó hay trong
một ngữ cảnh và ngôn cảnh cụ thể. Trong quá trình nghiên cứu luận văn, chúng tôi có
sử dụng phương pháp miêu tả và các thủ pháp: phân tích nghĩa, phân tích ngữ cảnh,
mô hình hóa, thống kê,…
Chúng tôi nghiên cứu theo phương pháp đi từ cụ thể đến khái quát, từ phân
tích đến tổng hợp, từ hình thức đến nội dung, từ cấu trúc đến ý nghĩa, từ phương tiện
đến mục đích, để tìm ra những đặc điểm về ngữ dụng cũng như các chức năng tác
động xã hội thông qua tư liệu đã được khảo sát.
4. Phạm vi nghiên cứu
Nguồn tư liệu được lấy từ những bài hát kháng chiến nổi bật nhất của một số
nhạc sĩ tiêu biểu trong giai đoạn từ 1944 – 1975, trong đó có 50 bài hát hay được
chọn lọc từ Tuyển tập “Những bài hát hay dùng trong các Hội diễn văn nghệ” của
nhiều tác giả - Nhạc sĩ Cù Minh Nhật tuyển soạn, NXB Âm nhạc, Hà Nội, 2007.

Ngoài ra, nguồn tư liệu còn được lấy từ một số bài hát kháng chiến khác cũng
trong giai đoạn này ở nhiều website.
5. Đóng góp của đề tài
Chúng tôi tin tưởng rằng, công trình nghiên cứu của chúng tôi sẽ có ý nghĩa cả
về lí luận và thực tiễn.
Về lí luận, luận văn hi vọng góp phần làm rõ thêm khái niệm truyền thông nói
chung và truyền thông xã hội nói riêng; giới thiệu một số đặc điểm chung nhất của
các bài hát kháng chiến. Mặt khác, luận văn cũng quan tâm sâu hơn các chức năng
của diễn ngôn thông qua tư liệu được khảo sát: chức năng tư tưởng, chức năng liên
nhân và chức năng văn bản - những vấn đề mà xưa nay đã đề cập đến nhưng chưa
được lí giải đầy đủ; từ đó góp phần vào việc hoàn thiện các kết quả nghiên cứu về
ngôn ngữ truyền thông xã hội nói chung và chức năng tác động xã hội của các ca từ
trong bài hát kháng chiến nói riêng.
Về thực tiễn, những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể góp phần giải
quyết nhiều vấn đề về cách sử dụng tiếng Việt và là cơ sở để biên soạn nội dung, xác
định phương pháp dạy tiếng Việt cho người nước ngoài học tiếng Việt. Đặc biệt,
trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa như hiện nay, kết quả nghiên cứu của luận văn
cũng góp phần không nhỏ vào việc nâng cao chức năng sử dụng của các ca từ khi
nhạc sĩ sáng tác nhạc phẩm mới kèm theo thông điệp muốn gửi đến thính giả; từ đó
thuận lợi hơn trong việc giao tiếp và thể hiện mục đích giao tiếp của mình.
Tóm lại, việc lựa chọn ngôn ngữ truyền thông xã hội làm đối tượng nghiên
cứu không phải là vấn đề hoàn toàn mới mẻ. Cái mới của luận văn là tìm hiểu vấn đề
ấy thông qua phân tích diễn ngôn các ca từ trong bài hát kháng chiến và những vấn
đề xung quanh nó.
6. Bố cục
Phần mở đầu
Phần nội dung
Chương 1: Cơ sở lí luận liên quan đến đề tài
1.1. Các lí thuyết về truyền thông
1.2. Phân tích diễn ngôn

1.3. Diễn ngôn ca từ trong bài hát Cách mạng
1.4. Tiểu kết
Chương 2: Kết cấu diễn ngôn của ca khúc cách mạng
2.1. Cấu trúc tên đề
2.2. Bố cục một ca khúc
2.3. Đặc điểm của câu mở và câu kết
2.4. Thủ pháp so sánh/ví von
2.5. Phương tiện liên kết
2.6. Kết cấu đảo
2.7. Cấu trúc lồng
2.8. Các kiểu quan hệ diễn ngôn
2.9. Nguyên lí song song
2.10. Vị ngữ phụ
2.11. Trạng ngữ
2.12. Tiểu kết
Chương 3: Chức năng tác động truyền thông xã hội của ca khúc cách mạng
3.1. Chức năng tác động qua các hành động ngôn từ
3.2. Chức năng tác động qua các tiểu chức năng
3.3. Chức năng tác động qua sự phối hợp giữa âm thanh và ngôn từ
3.4. Tiểu kết
Phần kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
Danh mục nguồn tư liệu trích dẫn


NỘI DUNG
Chương 1: Những cơ sở lí luận liên quan đến đề tài
1.1. Các lí thuyết về truyền thông
1.1.1. Truyền thông là gì?
Truyền thông (communication) là quá trình chia sẻ thông tin. Truyền thông là

một kiểu tương tác xã hội trong đó ít nhất có hai tác nhân tương tác lẫn nhau, chia sẻ
các quy tắc và tín hiệu chung. Ở dạng đơn giản, thông tin được truyền từ người gửi
tới người nhận. Ở dạng phức tạp hơn, các thông tin trao đổi liên kết người gửi và
người nhận. Phát triển truyền thông là phát triển các quá trình tạo khả năng để một
người hiểu những gì người khác nói (ra hiệu, hay viết), nắm bắt ý nghĩa của các
thanh âm và biểu tượng, và học được cú pháp của ngôn ngữ.
1.1.2. Thế nào là truyền thông xã hội?
Hoạt động hướng tới cộng đồng như những đối tượng đích cần được tác động
để làm thay đổi thái độ, hành vi theo hướng có lợi cho xã hội thì được gọi là truyền
thông xã hội. Truyền thông là các phương tiện truyền tải thông tin. Xã hội là mục
đích của truyền thông.
1.2. Phân tích diễn ngôn
1.2.1. Những nét chính trong nghiên cứu diễn ngôn
Quan niệm về diễn ngôn được giới thiệu ở ta sớm nhất trong lĩnh vực ngôn
ngữ học. Có thể kể đến các công trình: Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt của Trần
Ngọc Thêm (1985); Văn bản và liên kết trong tiếng Việt, Giao tiếp diễn ngôn và cấu
tạo văn bản của Diệp Quang Ban (1998, 2009), Đại cương ngôn ngữ học, tập 2 của
Đỗ Hữu Châu (2001), Dụng học Việt ngữ của Nguyễn Thiện Giáp (2000), Phân tích
diễn ngôn – một số vấn đề lí luận và phương pháp của Nguyễn Hoà (2003), Từ điển
tu từ – phong cách – thi pháp học của Nguyễn Thái Hoà (2005),…
1.2.2. Phân loại diễn ngôn
Có nhiều cách phân loại diễn ngôn.
(*) Dựa vào dạng tồn tại của ngôn ngữ.
(*) Dựa vào các lĩnh vực tri.
(*) Dựa vào nội dung phát ngôn.
(*) Dựa vào thể loại.
(*) Dựa vào cấp độ của diễn ngôn.
(*) Dựa vào chủ thể diễn ngôn.
(*) Dựa vào cấu trúc.
(*) Dựa vào chức năng của ngôn ngữ.

1.2.3. Phân tích diễn ngôn
Trước hết, PTDN không phải là phân tích bất kì diễn ngôn nào, người ta chỉ
phân tích những diễn ngôn có những hiện tượng cần xem xét, với những mục đích
nhất định. Để phân tích một văn bản (viết) thông thường người ta đọc toàn văn bản
để nắm ý tổng thể của nó. Tiếp theo là công đoạn đọc từ câu này đến câu khác, rồi
đọc từ từ này đến từ khác. Chính công đoạn này giúp nhận ra những điều cần quan
tâm.
1.2.4. Lí thuyết cấu trúc diễn ngôn
Lí thuyết cấu trúc diễn ngôn (Rhetorical Structure Theory) là một phương
pháp dùng để biểu diễn sự mạch lạc, chặt chẽ của văn bản. Trung tâm của lí thuyết
CTDN là các quan hệ diễn ngôn (QHDN) giữa các đoạn văn bản không gối lên
nhau. Đoạn văn bản quan trọng hơn trong một QHDN được gọi là nhân (nuclei - N),
còn thành phần ít quan trọng hơn được gọi là vệ tinh (satellite – S). Nếu các đoạn văn
bản đó có tầm quan trọng ngang nhau (như quan hệ tương phản hay quan hệ liệt kê)
thì các đoạn văn bản đó đều đóng vai trò nhân trong mối QHDN giữa các thành phần
đó.
Điểm khác biệt cơ bản giữa các N và S là: N chứa nhiều thông tin quan trọng
hơn là S; và trong một quan hệ diễn ngôn, N có tính độc lập cao hơn S.
1.2.5. Phân tích cấu trúc diễn ngôn của văn bản
Bài toán phân tích cấu trúc diễn ngôn:
Đầu vào : văn bản T.
Đầu ra : cây cấu trúc diễn ngôn của T.

1.2.6. Phân đoạn diễn ngôn
Theo lí thuyết của Mann và Thompson, cấu trúc diễn ngôn được tạo nên từ các
phân đoạn diễn ngôn nhỏ hơn. Mọi phân đoạn diễn ngôn đều phải mang một ý nghĩa
trọn vẹn nào đó, ví dụ như câu đơn hoặc mệnh đề trong câu ghép. Đơn vị diễn ngôn
nhỏ nhất được gọi là đơn vị diễn ngôn cơ bản (ĐVDNCB).
Quá trình phân tách văn bản thành các ĐVDNCB gọi là quá trình phân đoạn
diễn ngôn. Tính chính xác ở bước này có ảnh hưởng đến chất lượng của bước xác

định quan hệ diễn ngôn sau này. Ngoài ra, mức độ gọn nhẹ của bản tóm tắt sau này
cũng phụ thuộc vào độ chi tiết (kích thước) của các ĐVDNCB.

Quá trình phân đoạn diễn ngôn gồm hai bước:
1. Tách các đoạn văn, câu. Bước này được thực hiện khá đơn giản dựa trên các
dấu xuống dòng và dấu chấm câu.
2. Tách các câu thành các ĐVDNCB.
1.2.7. Chức năng của diễn ngôn
Theo Halliday, ngôn ngữ có 3 chức năng lớn:
+ Ideation (ý niệm, tư tưởng)
Đây là chức năng thể hiện các thông tin thuần lí của ngôn ngữ trong thông
điệp của giao tiếp ngôn ngữ, và có 90% thông tin gạn lọc được là các thông tin thuần
lí. Nghĩa là, các thông tin phản ánh thực tại, các sự kiện xảy ra trong đời sống mà
chúng ta muốn giao tiếp.
+ Interpersonal (liên nhân)
Chức năng liên nhân là chức năng mang tính xã hội rõ nhất vì bản chất ngôn
ngữ, suy cho cùng, là làm mối dây liên hệ giữa người với người trong một cộng đồng
đã được xác định. Đôi khi chúng ta nói không phải để truyền thông tin mà nói để tìm
hiểu về nhau, thông cảm với nhau
+ Intergrative (văn bản)
Đây là chức năng mang tính ngữ pháp văn bản rất rõ, các từ không thể rời rạc
mà phải nối kết với nhau để tạo thành sức mạnh, đó là sức mạnh của hiệu lực lời nói.
Để đạt được hiệu lực này, ngoài vài luật ngữ pháp quy định về các quan hệ cú pháp
đặc thù cho một ngôn ngữ thì chúng ta còn phải sử dụng rất nhiều các nhân tố khác
nhau để kết liên các từ lại thành một khối.
1.3. Diễn ngôn ca từ trong bài hát Cách mạng
1.3.1. Giới thiệu sơ bộ các bài hát cách mạng
Nhạc cách mạng, thường được gọi nhạc đỏ, là một dòng của tân nhạc Việt
Nam gồm những bài hát sáng tác trong thời kì Chiến tranh Đông Dương, ở miền Bắc
Việt Nam và vùng giải phóng ở miền Nam Việt Nam trong thời kì Chiến tranh Việt

Nam và sau năm 1975 khi Việt Nam thống nhất. Các ca khúc nhạc đỏ thường để cổ
vũ tinh thần chiến đấu của chiến sĩ, phục vụ kháng chiến, truyền đạt những chính
sách của nhà nước, khuyến khích tình yêu lí tưởng cộng sản, lí tưởng xã hội chủ
nghĩa, và những bài hát trữ tình cách mạng, thể hiện tình yêu quê hương đất nước
hoặc cổ vũ lao động, xây dựng.
Nhạc đỏ cùng với nhạc dân ca, truyền thống là những thể loại âm nhạc duy
nhất được phát trên đài phát thanh Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975 ở miền Bắc.
Tuy không có chủ trương kiểm duyệt công khai, nhưng âm nhạc thời kì trước 1975
tại miền Bắc và nhạc đỏ có sự định hướng, chỉ đạo và kiểm soát của lãnh đạo và nhà
nước.
1.3.2. Sự giống và khác nhau giữa diễn ngôn ca từ với một số diễn ngôn nghệ thuật
khác
Chúng tôi nghĩ, để nhận diện rõ nhất sự khác nhau giữa diễn ngôn ca từ với
các diễn ngôn nghệ thuật khác, trước hết chúng tôi chọn cách tiếp cận đối với văn
học, trong đó có thơ. Bởi vì lời ca khúc có nhiều điểm gần gũi so với diễn ngôn văn
học.
a/ Một vấn đề khá quan trọng để ca khúc mang ấn tượng sâu sắc đối với người
hát, người nghe còn là sự chứa đựng chất liệu điển hình của cuộc sống trong lời ca.
b/ Lời trong ca khúc phải luôn luôn mang tính văn học: lời ca không nên chỉ
mang thông báo tự nhiên đơn thuần mà phải cố gắng phản ánh hiện thực bằng hình
tượng.
Trong thực tế, lời ca trong ca khúc không thể diễn đạt giống như lời văn trong
tác phẩm văn học được, tuy nó rất cần đến hình tượng văn học. Điều đáng chú ý là,
khi dùng lời ca để phản ảnh hiện thực, các tác giả ca khúc thường gắn bó với nhau,
nghĩa là phải dùng âm nhạc làm phương tiện chính để tải nội dung thông báo, trong
đó lời ca là một yếu tố tác động vào nhận thức.
Diễn ngôn văn chương có tính hư cấu. Nó khác dạng diễn ngôn ca từ, bởi nó
không được tạo ra để đáp ứng các điều kiện thực hành sự xác nhận đích thực, hoặc nó
không thực dụng.
c/ Diễn ngôn ca từ giống với diễn ngôn thơ tạo nghĩa qua các yếu tố ngôn

ngữ: nhịp điệu, âm vị, âm thanh, vần,…
Một điểm giống nữa là, trong diễn ngôn ca từ và diễn ngôn thơ, chủ thể phát
ngôn luôn được giả định là tác giả. Sự giả định này không những giúp tác giả dễ thế
ngôn, thác ngôn mà còn tạo cho độc giả cũng có cơ hội được sở hữu phát ngôn đó.
Ở diễn ngôn thơ, các sự vật, sự việc trong thơ tượng trưng cho thế giới bên
ngoài, toàn bộ cái tạo thành thế giới thơ chỉ mang tính chất tham khảo, để tìm ra ý
nghĩa của nó chúng ta phải hướng đến cái thế giới bên ngoài tác phẩm.
Còn diễn ngôn ca từ thì lại sinh ra để ghi lại cảm xúc thực lúc đó, thời khắc
lịch sử, không gian thật của thời đại.
Tóm lại, diễn ngôn ca từ tuy có một số nét khác biệt so với một số diễn ngôn
nghệ thuật khác, nhưng về cơ bản là có nhiều điểm tương đồng.
Như vậy, chương cơ sở lí luận đã đi vào tìm hiểu các vấn đề sau:
+ Một số khái niệm liên quan đến truyền thông: truyền thông là gì? Thế nào là truyền
thông xã hội?
+ Điểm lại những công trình nghiên cứu về diễn ngôn từ trước tới giờ và những quan
niệm khác nhau về diễn ngôn.
+ Trình bày một số khái niệm về: phân tích diễn ngôn; lí thuyết cấu trúc diễn ngôn;
các chức năng của diễn ngôn; phương pháp phân đoạn diễn ngôn; v.v. Ngoài ra
cũng chỉ ra được những nét giống và khác nhau giữa diễn ngôn ca từ so với một số
diễn ngôn nghệ thuật khác.
Chương 2:
Kết cấu ngôn ngữ diễn ngôn trong các ca khúc cách mạng
2.1. Cấu trúc tên đề
- Tên bài hát đơn giản hay phức tạp tùy thuộc vào nội dung của bài hát.
- Tên ca khúc được đặt một cách trực diện.
- Tên bài hát là một câu đơn.
- Tên bài hát là một ngữ.
- Tên bài hát là một từ loại.
2.2. Bố cục ca khúc
Gồm 6 phần: Dạo đầu; Đoạn chính; Hợp xướng hoặc điệp khúc; Giang tấu; Phần

nối; Phần kết.
Mỗi phần đều đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo nên sự thành công của
một ca khúc.
2.3. Đặc điểm của câu mở và câu kết
- Nghĩa chung của những câu mở thường trùng với nghĩa của tên ca khúc.
- Nghĩa chung của những câu kết đều biểu thị sự tự hào dân tộc, tình yêu quê
hương đất nước, sự đoàn kết quyết tâm giành thắng lợi. Hướng niềm tin về một
tương lai tươi sáng. Bày tỏ niềm hạnh phúc, hân hoan trong ngày độc lập.
2.4. Thường sử dụng thủ pháp so sánh ví von
Tình yêu đất nước, sự đoàn kết, hi sinh và vẻ đẹp của con người Việt Nam
luôn được tác giả ví với những hình tượng rất hùng vĩ, trong sáng, tinh khiết:
Bài thơ, sông dài; núi; cỏ hoa; mây; chim bồ câu; hoa hướng dương; thuyền;
giấc mộng đẹp; cô Tấm; rừng; mùa xuân; ánh trăng đêm rằm; sao mai lấp lánh;
dòng sông; con suối; cánh chim trời; biển khơi; đứa trẻ; lũy thành; bông hoa; ngón
tay; lá xanh; con thoi; tiếng hát; tiếng hát; cánh hoa; lửa sôi; tiếng nhạc; sao mai;…
2.5. Phương tiện liên kết
Chung quy lại là có 3 cặp từ thường được sử dụng:
Dù/dẫu không/vẫn/quyết/dễ gì/cũng chẳng bằng/mong/nề/
Tuy nhưng
Vì :
2.6. Kết cấu đảo
Những bổ ngữ đảo trí này ngoài mang ý nghĩa nhấn mạnh ra, nó còn mang ý
nghĩa nêu chủ đề của sự tình.
Bát cơm; súng; chí căm thù; non nước mây trời; trong những ví dụ được nêu
trong luận văn là những sự tình mà tác giả muốn gửi gắm đến người tiếp nhận.
2.7. Cấu trúc lồng
Việc nhiều câu sử dụng cấu trúc lồng (1 chủ ngữ, nhiều vị ngữ; hoặc vị ngữ có
kết cấu là một C-V; đã làm cho câu hát trở nên súc tích và cô đọng hơn. Lời tuy ít
nhưng ý thì nhiều.
+ Lặng nghe sáo ai bay dập dìu trên đèo.

(Tiếng hát giữa rừng Pắc Bó)
2.8. Các kiểu quan hệ diễn ngôn
Có 6 kiểu quan hệ:
- Quan hệ chứng minh
- Quan hệ nhân nhượng
- Quan hệ nhân quả
- Quan hệ liệt kê
- Quan hệ mục đích
- Quan hệ thời gian

2.9. Nguyên lí song song
Các ca khúc cách mạng đều được xây dựng dựa trên nguyên lí song song:
- Song song trong nhịp điệu
- Song song về thanh điệu
- Lặp từ
- Láy câu
- Láy từ
2.10. Vị ngữ phụ
Trong những trường hợp được khảo sát trong luận văn, vị ngữ phụ đều đứng
trước chủ ngữ.
Điều này tất nhiên không nằm ngoài dụng ý của các tác giả. Nó đứng đầu câu
để mà nhấn mạnh những cảm xúc, những điều muốn được truyền đạt, được gửi đi tới
người tiếp nhận.
Vui trong nắng vàng từng đàn bướm trắng bay khắp rừng hoa. Ngập ngừng
bên suối nước reo quanh mình như muôn tiếng đàn. Bâng khuâng nỗi lòng nhịp sáo
ai đưa tiếng ca rộn vang.
(Tình ca Tây Bắc)
2.11. Trạng ngữ
Khảo sát trạng ngữ chỉ thời gian và địa điểm không nằm ngoài việc chứng
minh chức năng tác động của các ca khúc cách mạng. Những thời gian và không gian

nghệ thuật được các nhạc sĩ sử dụng như một chiếc bút màu đánh dấu, nhằm nhấn
mạnh những khoảnh khắc, thời điểm của những sự kiện, những cảm xúc yêu thương,
cũng như căm hờn, đã diễn ra trong thời chiến tranh oanh liệt đầy gian khổ ấy.
Gà rừng gáy trên nương rồi. Dấn bước ta đi lên nào. Kéo pháo ta băng qua
đèo trước khi trời hửng sáng (Hai ba nào).
(Hò kéo pháo)
2.12. Tiểu kết
- Bố cục của một ca khúc gồm 6 phần cơ bản sau: dạo đầu, đoạn chính, hợp xướng
hoặc điệp khúc, giang tấu, phần nối và phần dạo cuối. Mỗi phần đều có một vai trò
rất quan trọng trong sự quyết định thành công của một bài hát.
- Các bài hát đều được xây dựng theo nguyên lí song song. Có thể là song song về
phương diện nhịp điệu, từ, ngữ, câu hay cả về cấu trúc của đoạn, lời.
- Xét về mặt quan hệ diễn ngôn, chúng tôi thấy có 6 quan hệ: chứng minh, nhân
nhượng, nhân quả, liệt kê, mục đích, thời gian.
- Tùy vào nội dung của ca khúc mà tên ca khúc có thể là một câu đơn, một ngữ hoặc
một từ loại.
- Các nhạc sĩ thường sử dụng thủ pháp so sánh/ví von; các phương tiện liên kết; kết
cấu đảo; cấu trúc lồng; vị ngữ phụ và trạng ngữ làm tăng thêm tính chân thực, tính
sinh động và sâu sắc hơn cho các ca khúc cách mạng.



Chương 3: Chức năng tác động truyền thông xã hội của các ca khúc cách mạng
3.1. Chức năng tác động qua các hành động ngôn từ
 Hành động khẳng định
Bốn phương gió mưa, buồn thương mùa đông và mây mù sẽ qua.
(Bài ca hi vọng)
Những lời khẳng định ấy như đã thôi thúc thêm sự tin tưởng của toàn dân vào cuộc
kháng chiến, xóa bỏ đi những cảm giác lo sợ của những ai yếu lòng, thiếu niềm tin vào sự
lãnh đạo của Đảng và sức mạnh của toàn dân.

 Hành động cầu khiến
Tiến mau ra xa trường. Tiến lên! Cùng tiến lên!
(Tiến quân ca)
Cái chất hào hùng, khí phách, mãnh liệt của các ca khúc cách mạng ngoài giai
điệu ra thì chính là nhờ các câu cầu khiến này mà có. Các nhạc sĩ như thổi thêm vào
tâm can người Việt cái chí khí chiến đấu nóng bỏng.
 Hành động hứa hẹn
Điện Biên! Chúng ta sẽ toàn thắng.
(Trên đồi Him Lam)
Tất cả những ví dụ kiểu nêu trên đều mang âm hưởng của những lời hứa hẹn,
những lời thề, lòng quyết tâm của những người ra đi chiến đấu, đem độc lập, tự do về
cho Tổ quốc, gìn giữ non sông. Những câu hát đó thổi vào suy nghĩ, tâm can của người
Việt yêu nước một hi vọng vào tín hiệu tốt đẹp trong tương lai.
 Hành động bày tỏ
Ơi câu hò chiều nay, tôi mang nặng tình ai.
(Câu hò bên bờ Hiền Lương)
Sử dụng nhiều câu cảm thán, đặc biệt, câu hỏi nhấn mạnh, câu trần thuật để thể
hiện hành động này.
 Hành động tuyên bố
Toàn dân Việt Nam đứng đều lên góp sức một ngày. Thề đem xương máu quyết
lòng chiến đấu cho tương lai.
(19 tháng 8)
Những lời tuyên bố ấy cũng là những ghi nhận về tình yêu nước, sự ngoan cường bất
khuất của toàn quân và dân ta trong cuộc chiến đấu giữa ta với địch. Đó cũng là những
tuyên bố hùng hồn về chủ quyền của đất nước ta trong ngày chiến thắng. Quân thù không
được xâm phạm.
3.2. Chức năng tác động qua các tiểu chức năng
3.2.1. Tính phiếm định
- Lược bỏ chủ từ
- Dùng từ phiếm định ”ai”

- Dùng nhiều từ ”ta/chúng ta/tôi/chúng tôi”
=> Khi những câu ca được ai đó cất lên thì những cảm xúc trong đó lại được lộ ra và
nhân rộng hơn nữa. Chức năng tác động của bài hát cũng nhờ thế mà có phạm vi rộng
hơn, xa hơn.
3.2.2. Kêu gọi
Dậy mà đi hỡi đồng bào ơi! Bao nhiêu năm qua dân ta sống không nhà. Bao
nhiêu năm qua dân ta chết xa nhà. Dậy mà đi! Dậy mà đi! Dậy mà đi hỡi đồng bào
ơi!
(Dậy mà đi)
Các ca khúc cách mạng hầu hết đều mang âm hưởng kêu gọi, yêu cầu, động viên
chính mình cũng như người nghe đồng tâm đứng dậy, vai kề vai, tay cầm tay, một lòng một
dạ đoàn kết chiến đấu để diệt thù xâm lăng. Chức năng kêu gọi được tạo ra nhờ sự góp mặt
của những câu cầu khiến và những từ hô gọi (ơi, hỡi, ). Tiểu chức năng này đã tạo nên ”cái
hồn” cho một bài hát cách mạng.
3.2.3. Cổ vũ
Đi đầu quân! Đi trong mùa động viên. Đi đầu quân! Đi trong mùa xuân mới
gió lá reo, gió lá reo. Kìa bảng treo cùng trong làng. Đi đầu quân. Đi đầu quân. Tất cả
cho tiền tuyến! Mau lên đi! Hỡi các anh trai làng!
(Lá xanh)
Những câu hát kiểu ví dụ trên đều làm cho tinh thần của người nghe trở nên
phấn khởi, tin tưởng hơn vào cuộc cách mạng, để rồi hăng hái tham gia hoạt động
cách mạng mà ”không nề gian khổ”, ”thà chết chớ lui”. Tiểu chức năng cổ vũ/khuyến
khích trong bài hát cách mạng đã truyền thêm sức mạnh cho cuộc cách mạng của dân
tộc ta. Nếu thiếu nó sẽ thiếu mất niềm tin vào cuộc kháng chiến trường kì, bài hát
cách mạng sẽ mất cái hơi ấm và cái hồn vốn nên có.
3.2.3. Ca ngợi
Ca ngợi Bác Hồ:
Hồ Chí Minh! Hồ Chí Minh! Đẹp nhất tên người. Là một niềm tin. Hồ Chí
Minh!
(Hồ Chí Minh đẹp nhất tên Người)

Ca ngợi quê hương, đất nước:
Làng tôi xanh bóng tre, từng tiếng chuông ban chiều, tiếng chuông nhà thờ ru.
(Làng tôi)
Những câu hát được cất lên để khen, để tỏ lòng yêu quý cái hay, cái đẹp của đất
nước và những người con yêu nước của Việt Nam ta. Dù gian khổ thế nào, chúng ta vẫn
một lòng một dạ chiến đấu để bảo vệ quê hương. Dù anh và em có xa nhau cách trở, thì tình
yêu ấy cũng sẽ biến thành sức mạnh để anh và em góp thêm sức mình vào công cuộc bảo vệ
Tổ quốc thân yêu. Cả nước đoàn kết chiến đấu dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam và Bác Hồ kính yêu, vĩ đại, để chắc chắn một điều rằng”Kháng chiến nhất quyết thành
công Anh về em thỏa ước mong”. (Lên ngàn)
Hai tiểu chức năng không kém phần quan trọng của ca từ nữa đó là tiểu chức năng
cảm xúc và tiểu chức năng chất thơ đã được phân tích rất cụ thể trong luận văn chi tiết. Dưới
đây là các ví dụ đại diện.
3.2.4. Cảm xúc
Bao nhiêu nỗi uất hận, đau thương của kiếp người nô lệ dồn nén trong lòng
nay bung ra. Câu hát đầu tiên vừa vang lên trong lòng Xuân Oanh, ông đã hát vang
trên “Toàn dân Việt Nam đứng đều lên góp sức một ngày, thề đem xương máu quyết
tâm chiến đấu cho tương lai mười chín, tháng Tám ánh sao tự do đem tới, cờ bay
nơi nơi ” Nghĩ ra được câu nào, ông hát to lên cho mọi người cùng hát theo.
=> Cảm xúc
3.2.5. Chất thơ
Những bài ca được bắt đầu và thể hiện bằng những “nỗi nhớ”, “căm hờn”,
“tình yêu”,, “hạnh phúc”, Sự rung động thực chất trong tâm hồn tác giả đã nhạy
bén tạo thành những câu nhạc có hướng phát triển.
3.3. Chức năng tác động qua sự phối hợp giữa âm thanh và ngôn từ
3.3.1. Âm thanh
Mùa hoa lê-ki-ma nở (ơ) ở quê ta miền đất đỏ, Thôn xóm vẫn nhắc tên người
anh hùng đã chết cho mùa hoa lê-ki-ma nở (ơ) đời sau vẫn còn nhắc nhở. Sông núi
đất nước ơn người anh hùng đã chết cho đời sau.
(Biết ơn Võ Thị Sáu)

Ngoài ý nghĩa biểu hiện, bản thân âm thanh giữ vai trò quan trọng trong việc
định hình câu hát, gắn kết các thành phần câu hát. Nghệ thuật âm nhạc cho phép tạo
ra những cú pháp đặc thù (như hiện tượng câu vắt câu, tách câu, buông lửng ).
3.3.2. Vần
Xe ta bon trên dặm đường, rời làng quê ta băng qua bao suối đèo, đồi nương,
(mà) xe ta bon ra chiến trường.
(Chào em cô gái Lam Hồng)
Một bài hát hay ngoài nội dung và các thủ pháp sử dụng từ cũng như kết hợp
từ, thì cái hợp vần cũng là yếu tố quan trọng giúp người nghe dễ cảm nhận và thuộc
bài hát.
3.3.3. Nhịp điệu
Nhịp điệu không thể là những khuôn mẫu buồn tẻ. Nhịp điệu có thể thay đổi
linh động, biểu tả được tâm trạng của người viết:
Mùa/bình thường/mùa vui nay đã về. 1/2/4
Mùa xuân mơ ước ấy/đang đến/đầu tiên/với khói bay/trên sông/gà đang gáy trưa bên
sông. 5/2/2/3/2/6
Một trưa nắng vui/cho bao/tâm hồn.4/2/2
(Mùa xuân đầu tiên–Văn Cao)

3.3.4. Từ ngữ
Qua khảo sát chúng tôi thấy các bài hát cách mang đều có sự tập trung dày đặc
của các ca từ cơ bản:
Xương máu; thề; quyết; chiến đấu; căm hờn; kêu thét; diệt tan; tiến lên; quân
thù; giang sơn; khởi nghĩa; hạnh phúc; non sông; hành quân;
- Chỉ địa danh
- Chỉ sự đoàn kết dân tộc
- Chỉ ý chí quyết tâm giành thắng lợi
- Chỉ niềm tin vào tương lai, vào sự trường tồn của nước nhà
3.3.5. Trật tự từ
Ta về quê khi lũ ngoại xâm hấp hối tơi bời. Trên đường quê nghe tiếng mẹ ta

đang khắc khoải mong chờ.
(Tiến về Sài Gòn)
Tiếng súng Phước Long chờ mong tin thắng, người đi xa vắng rồi sẽ có ngày
về đường này thăm sóc Bom Bo.
(Tiếng chày trên sóc Bom Bo)
=> Dụng ý khác nhau.
3.3.6. Tiểu kết
Những đơn vị trên đều được các tác giả chọn lựa và sắp xếp theo những dụng ý
riêng rất tinh tế và độc đáo, làm cho các ca khúc đều trở thành những nhạc phẩm rất
đỗi sâu sắc với sức sống mãnh liệt, lại giàu chất hiện thực.

KẾT LUẬN
Trong dòng chảy của âm nhạc Việt Nam, chúng ta không thể không nhắc đến
dòng âm nhạc cách mạng với những giai điệu đã đi sâu vào tiềm thức của nhiều thế
hệ. Giờ đây, đã 37 năm trôi qua, các bài hát ấy vẫn được ngân lên không chỉ vào
ngày 30/4, mà đã trở thành khúc đồng ca của cả dân tộc và còn vượt ra ngoài biên
giới, đến với bạn bè khắp năm châu. Có những ca khúc tác giả chỉ viết một mạch 2
tiếng đồng hồ nhưng có lẽ là bằng cảm xúc của cả một đời người như bài Như có Bác
Hồ trong ngày vui đại thắng của Phạm Tuyên.
Qua phân tích khảo sát những dữ liệu hữu quan, chúng tôi rút ra được một số
kết luận như sau:

1/ Diễn ngôn hiện diện ở khắp mọi nơi. Diễn ngôn của các bài hát cách
mạng mang một đặc trưng riêng, mà trong đó diễn ngôn ca từ là một loại diễn ngôn
đặc biệt.
2/ Về đặc điểm ngôn ngữ:
Với những ca từ giản dị, ngắn gọn, các nhạc phẩm này giống như là cuộc hôn
phối kì diệu giữa âm thanh, ý nghĩa và hình ảnh. Chữ và nghĩa trong ngôn ngữ ca
khúc hòa quyện với nhau như hình với bóng, như xác với hồn nên việc tách rời chúng
ra khỏi nhau sẽ làm tổn hại đến bình diện ngôn ngữ và thẫm mĩ của câu thơ.

Viết ca khúc là một việc khó và không phải ai cũng có thể làm được. Nói khác
đi, nhạc sĩ dùng chữ nghĩa, giai điệu để viết ca khúc, giống như họa sĩ dùng màu để
vẽ tranh, hay nhà điêu khắc dùng đá hoặc thạch cao để tạc tượng. Các nhạc sĩ không
dùng chữ như những dấu hiệu để chỉ định, giải thích, mà dùng chữ như chất liệu.
Nhạc sĩ tụ hợp, biến đổi, giao ứng những chất liệu ấy với nhau, sai khiến màu sắc, âm
thanh, khiến chúng hấp dẫn nhau, xô đẩy nhau, "đốt cháy" nhau, nhào lộn trong tâm
hồn, quyện thành một "thể" mới: ấy là nhạc phẩm.
3/ Chức năng tác động xã hội của các ca từ Cách mạng được thể hiện rất rõ
nét ở cả 3 bình diện:
+ Qua hành động ngôn từ;
+ Qua âm thanh nhịp điệu;
+ Qua ngữ pháp.
Những ca khúc cách mạng không những tồn tại và có sức sống lâu dài trải qua
bao thập kỉ, mà cho đến ngày hôm nay nó được xem như một quyển sách lịch sử
bằng âm thanh để cho thế hệ trẻ nhìn lại quá khứ, nhìn lại những năm tháng hào hùng
của dân tộc để có một cuộc sống ngày hôm nay.
Ai trong chúng ta mà đọc và hoà mình vào cảm xúc rất trong trẻo của thời đại
chống Pháp, chống Mĩ ở mỗi ca khúc này, chúng ta sẽ hiểu thế nào là sự sống, tình
yêu mạnh hơn bom đạn và cái chết. Đó là những ca khúc cách mạng hay nhất đã
đang và mãi đi cùng năm tháng./.

References.
DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đào Tuấn Ảnh, Trần Hồng Vân, Lại Nguyên Ân dịch (theo Pilin và E.A. A
Tzurganova chủ biên), Các khái niệm và thuật ngữ của các trường phái
nghiên cứu văn học ở Tây Âu và Hoa Kỳ thế kỷ 20, Nxb.Đại học Quốc gia Hà
Nội, 2003.
2. Diệp Quang Ban, Giao tiếp diễn ngôn và cấu tạo của văn bản, Nxb.Giáo dục,
2009.

3. Diệp Quang Ban, Văn bản và liên kết trong tiếng Việt, Nxb.Giáo dục, 2008.
4. Cấu trúc nhịp thơ và nhạc âm của thơ, tạp chí Sông Hương số 240, 2/2009.
5. Đỗ Hữu Châu, Đại cương ngôn ngữ học, Nxb.Giáo dục, tập 2, 2001.
6. Đinh Kiều Châu, Ngôn ngữ Truyền thông Xã hội tiếng Việt qua các thông điệp
Truyền thông Phát triển Cộng đồng, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Hà Nội,
2010.
7. Chủ nghĩa cấu trúc và văn học, Nxb.Văn học, 2002.
8. Chủ nghĩa hậu hiện đại như một hệ hình thế giới quan, tạp chí Văn hoá Nghệ
An, 4 – 2009.
9. Chức năng của hiệp vần, tạp chí Hợp Lưu số 10.
10. Dịch và lí thuyết dịch như một hệ hình lí luận, phê bình mới, tạp chí Nghiên
cứu văn học, 12 – 2009.
11. Trịnh Bá Đĩnh, Chủ nghĩa cấu trúc và văn học, Nxb.Văn học, 2002.
12. Vũ Hoàng Địch, Trần Ngọc Vương dịch (theo Kate Hamburger), Logic học về
các thể loại văn học, Nxb.Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004, tr365.
13. Nguyễn Thị Hà, Khảo sát chức năng ngôn ngữ văn ba
̉
n quản lí nhà nước qua
phương pháp phân tích diễn ngôn, Luận án Tiến sĩ, ĐH KHXH&NV, 2009.
14. Nguyễn Hoà, Khía cạnh văn hoá của phân tích diễn ngôn, tạp chí Ngôn ngữ
số 12 -2005, Hà Nội.
15. Nguyễn Hoà, Phân tích diễn ngôn – một số vấn đề lí luận và phương pháp,
chuyên khảo, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003.
16. Nguyễn Thái Hoà, Từ điển tu từ – phong cách – thi pháp học, Nxb.Giáo dục,
2005.
17. Hồ Mỹ Huyền, Trúc Thanh dịch (theo David Nunan), Dẫn nhập phân tích
diễn ngôn, Nxb.Giáo dục, 1998.
18. Nguyễn Thiện Giáp, Dụng học Việt ngữ, Nxb.Giáo dục, 2000.
19. Trần Thiện Khanh, Bước đầu nhận diện diễn ngôn, diễn ngôn văn học, diễn
ngôn thơ, />van-hoa/

20. Khía cạnh văn hoá của phân tích diễn ngôn, tạp chí Ngôn ngữ, 12 -2005.
21. Ngô Thị Thanh Mai (HV Cao học khoá 2004-2007, Chuyên ngành Ngôn ngữ
Anh), Phan Văn Hòa (Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Đà Nẵng), Tìm
hiểu về đề ngữ liên nhân trong các bài diễn văn chính trị Anh – Việt, Nghiên
cứu khoa khọc, 2007.
22. Một vài dạng cấu trúc nhân quả khó nhận biết trong diễn ngôn nghệ thuật
ngôn từ, tạp chí Ngôn ngữ số 4 – 2009.
23. Phạm Quốc Lộc, Lê Nguyên Long, Dịch và lí thuyết dịch như một hệ hình,
phê bình mới, Tạp chí Nghiên cứu văn học số 12 -2009, Hà Nội, tr.7.
24. Nguyên lí cấu trúc nhịp thơ, tạp chí Thơ số 4/2008.
25. Hồng Nhâm, Trúc Thanh, Ái Nguyên dịch (theo George Yule), Dụng học, một
số dẫn luận nghiên cứu ngôn ngữ, Nxb.Giáo dục, 1997.
26. Nhạc sĩ Cù Minh Nhật tuyển soạn, 101 ca khúc chào thế kỷ, Nxb.Âm nhạc,
2007.
27. Phân tích diễn ngôn phê phán là gì?, tạp chí Ngôn ngữ, 2 -2005.
28. Hoàng Trọng Phiến, Ngữ pháp tiếng Việt – Câu, Nxb.Đại học và Trung học
chuyên nghiệp, 1980.
29. Nguyễn Trọng Phúc, Lê Thanh Hương, Tóm tắt văn bản tiếng Việt sử dụng
cấu trúc diễn ngôn, Báo cáo khoa học, Đại học Bách Khoa Hà Nội.
30. Nguyễn Minh Quân, Chủ nghĩa hậu hiện đại: những khái niệm căn bản” in
trong Văn học hậu hiện đại thế giới, những vấn đề lý thuyết, Nxb.Hội Nhà
văn, Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, 2003, tr.164.
31. Nguyễn Hưng Quốc, Mấy vấn đề phê bình và lý thuyết văn học, Nxb. Văn
mới, USA, 2007, tr.360.
32. Lê Hồng Sâm và Đặng Anh Đào dịch (theo Antoine Compagnon), Bản mệnh
của lý thuyết, Nxb.Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2006, tr.192-193.
33. Trần Đình Sử, Văn học như là tư duy về cái khả nhiên, Tạp chí Sông Hương
số 231 -2008, Hà Nội.
34. Nguyễn Minh Tấn chủ biên, Từ trong di sản (Những ý kiến về văn học từ đầu
thế kỉ XX ở nước ta), Nxb.Tác phẩm mới, Hội Nhà văn, Hà Nội, Hà Nội, 1981.

35. Tính chất nước đôi của chủ thể hậu thuộc địa trong Vu khống của Linda Lê,
tạp chí Văn học nước ngoài số 3 – 2010.
36. Tính chất nước đôi và mầm mống phá huỷ nhãn quan thực dân về Việt Nam
tính trong bộ phim Đông Dương,
37. Trần Văn Toàn, Diễn ngôn về tính dục trong văn xuôi hư cấu Việt Nam từ đầu
thế kỉ XX đến 1945 in trong Nghiên cứu văn học Việt Nam, những khả năng
và thách thức, Nxb.Thế giới, 2009.
38. Khâu Chấn Thanh, Lý luận văn học nghệ thuật cổ điển Trung Quốc, Nxb.Văn
học, Hà Nội, 2001, tr.406.
39. Trần Ngọc Thêm, Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt, Nxb.ĐH và THCN, Hà
Nội, 1985.
40. Đoàn Thiêm, Quan niệm và sáng thơ - Theo lời thi nhân và học giả phương
Tây (trích dịch), Viện Đại học Huế, 1962, tr54.
41. Trần Thuần dịch (theo Gillian Brown, George Yule), Phân tích diễn ngôn,
Nxb.Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002.
42. Thực hành phân tích diễn ngôn bài Lá rụng, tạp chí Ngôn ngữ, 2 – 2009.
43. Lộc Phương Thuỷ chủ biên, Lý luận – phê bình văn học thế giới thế kỉ XX, tập
hai, Nxb.Giáo dục, Hà Nội, 2007, tr.411 và tr.655.
44. Đỗ Lai Thuý biên soạn và giới thiệu, Sự đỏng đảnh của phương pháp,
Nxb.Văn hoá thông tin, Hà Nội, 2004, tr.501.
45. Lê Ngọc Trà, Tư tưởng lí luận của nhà văn và sáng tác văn học, Văn nghệ số
34, ngày 22.8.1987, Hà Nội.
46. Hoàng Văn Vân dịch (theo Mak Halliday), Dẫn luận ngữ pháp chức năng,
Nxb.Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001.
47. Về diễn ngôn tiểu thuyết Việt Nam đương đại, tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt
Nam, 3 – 2010.

×