Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Tiểu luận quá trình nhận thức của đảng về chủ nghĩa xã hội ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.53 KB, 35 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT


Tiểu luận môn: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Đề tài: Quá trình nhận thức của Đảng về chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam

Giảng viên hướng dẫn:
Sinh viên thực hiện:
Mã sinh viên:
Lớp:

Hồ Chí Minh, năm 2022


Mục lục
MỞ ĐẦU.....................................................................................................3
1. Một số định nghĩa....................................................................................4
2. Quá trình nhận thức của Đảng về chủ nghĩa xã hội Việt Nam từ Đại hội VII (1991)
đến Đại hội XII (2016)............................................................................................5
2.1. Đại hội lần thứ VII (1991) đổi mới toàn diện, đồng bộ, đưa đất nước tiến lên theo
con đường xã hội chủ nghĩa................................................................................................5
2.2. Đại hội VIII (1996) tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.....................................................................................................................................8
2.3. Đại hội IX (2001) phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa...............................................................................................................................11
2.4. Đại hội X (2006) huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực, sớm đưa đất nước ra khỏi
tình trạng kém phát triển...................................................................................................13
2.5.Đại hội XI (2011) tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng,
đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới đất nước..............................................................16


2.6. Đại hội XII (2016) đẩy mạnh công cuộc đổi mới, sớm đưa đất nước cơ bản trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại.............................................................................20
3. Đánh giá.................................................................................................23
3.1.
Đảng ta đã nhận thức rõ ràng hơn về mơ hình và phương hướng áp dụng chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam..................................................................................................24
3.2. Quá trình nhận thức của Đảng ta đối với mục tiêu và bản chất của công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội ngày càng đầy đủ hơn...................................................................25
3.3. Nhận thức về nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam của Đảng Cộng sản Việt Nam.......26
3.4. Nhận thức về động lực của sự phát triển con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt. 26
Nam...................................................................................................................................26
4. Bài học lịch sử và liên hệ thực tiễn..........................................................27
Kết luận.....................................................................................................31


MỞ ĐẦU
Từ khi thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tổ chức và lãnh đạo mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trải qua 12 kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc, mỗi kỳ đại
hội là một mốc son chói lọi phản ánh sự trưởng thành của Đảng và cách mạng Việt Nam
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Những thắng lợi đó đều bắt nguồn từ việc Đảng Cộng sản Việt
Nam đã nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
tham khảo kinh nghiệm quốc tế xuất phát từ thực tiễn đất nước, có nhiều tìm tịi, sáng tạo
trong nhận thức lý luận, nhất là trong thời kỳ đổi mới để từ đó vạch ra đường lối cách
mạng đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn đất nước và xu thế thời đại.1
Cơng cuộc đổi mới đó đến nay đã diễn ra gần 30 năm, đạt được nhiều thành tựu to
lớn, có ý nghĩa lịch sử quan trọng. Một trong những thành tựu to lớn là Đảng và nhân dân
ta nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng
rõ nét và sâu sắc. Trong 85 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, dù trong hoàn cảnh nào,
Đảng ta vẫn luôn kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc. Kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt đường lối cách

mạng Việt Nam. Ngay từ khi mới ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng đến
nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định: chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của
Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, là
con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. Từ tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận,
nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng
sáng tỏ hơn.
Do đó, nhóm tác giả quyết định lựa chọn đề tài: “Phân tích làm rõ q trình nhận
thức của Đảng về chủ nghĩa xã hội Việt Nam từ Đại hội VII (1991) đến Đại hội XII
(2016)” để nghiên cứu, nhằm qua đó thấy được q trình trưởng thành của Đảng ta trong
nhận thức về chủ nghĩa xã hội, đồng thời đưa ra một số đánh giá và rút ra bài học từ những
nội dung đã thực hiện.



1. Một số định nghĩa
Chủ nghĩa xã hội là một trong ba ý thức hệ chính trị lớn hình thành trong thế kỷ
XIX bên cạnh chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa bảo thủ. Được tiếp cận theo 4 nghĩa:
Thứ nhất, là phong trào thực tiễn, phong trào đấu tranh của nhân dân lao động chống
các giai cấp thống trị.
Thứ hai, là trào lưu tư tưởng, lý luận phản ánh lý tưởng giải phóng nhân dân lao
động chống khỏi áp bức, bóc lột, bất cơng.
Thứ ba, là một mơn khoa học - Chủ nghĩa xã hội khoa học, khoa học về sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân, khoa học về những quy luật và tính quy luật chính trị - xã
hội của quá trình chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản chủ nghĩa mà
giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội, được xem là một trong ba bộ phận hợp thành chủ nghĩa
Mác - Lênin
Thứ tư, là một chế độ xã hội hiện thực tốt đẹp, xã hội xã hội chủ nghĩa, giai đoạn
đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.2
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là q trình chuyển đổi căn bản, tồn diện các hoạt
động kinh tế và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng sức lao động thủ cơng là chính sang sử

dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên
tiến, hiện đại nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được hiểu theo hai nghĩa:
Thứ nhất, đối với các nước chưa trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển, cần thiết phải
có thời kỳ quá độ khá lâu dài từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, đối với những nước đã trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển, giữa chủ nghĩa
tư bản và chủ nghĩa cộng sản có một thời kỳ quá độ nhất định - quá độ chính trị, thời kỳ cải
biến cách mạng từ xã hội này sang xã hội kia, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ


nghĩa cộng sản.3
Tại Việt Nam, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
2. Quá trình nhận thức của Đảng về chủ nghĩa xã hội Việt Nam từ Đại hội VII
(1991) đến Đại hội XII (2016)
Đảng Cộng sản Việt Nam trong hơn 90 năm lãnh đạo cách mạng, về đường lối chiến
lược luôn kiên định, kiên trì xây dựng, khơng ngừng hồn thiện nhận thức lý luận về chủ
nghĩa xã hội và định hướng con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong những
điều kiện lịch sử khác nhau.4 Quá trình nhận thức của Đảng về chủ nghĩa xã hội Việt Nam
phần nào được thể hiện qua định hướng của mỗi kỳ đại hội từ Đại hội VII (1991) đến Đại
hội XII (2016) cho thấy sự phát triển và từng bước trưởng thành qua từng giai đoạn.
Nhóm tác giả phân tích quá trình nhận thức của Đảng về chủ nghĩa xã hội Việt Nam
từ Đại hội VII (1991) đến Đại hội XII (2016) chủ yếu dựa trên nhận thức về mô hình chủ
nghĩa xã hội gắn với các đặc trưng, bên cạnh đó là những nhận thức về mục tiêu, bản chất,
động lực và phương hướng áp dụng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, từ đó thấy được cùng với
sự phát triển của cơng cuộc đổi mới, Đảng đã có những nhận thức ngày càng sâu sắc về
chủ nghĩa xã hội phù hợp hơn với thực tiễn cuộc sống.
2.1. Đại hội lần thứ VII (1991) đổi mới toàn diện, đồng bộ, đưa đất nước tiến lên
theo con đường xã hội chủ nghĩa
Từ ngày 24 đến 27/6/1991, tại Thủ đô Hà Nội, Đại hội lần thứ VII diễn ra trong bối
cảnh tình hình trong nước và quốc tế đang có nhiều diễn biến phức tạp. Sự khủng hoảng

trầm trọng của chế độ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, sự chống phá nhiều phía
vào chủ nghĩa xã hội, vào chủ nghĩa Mác – Lênin và Đảng Cộng sản khiến một bộ phận
những người cộng sản trên thế giới trong đó có Việt Nam hoang mang dao động.5 Đất
nước ta khi ấy phải đương đầu với các hoạt động phá hoại của các lực lượng thù địch trong
và ngoài nước, vẫn trong tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhiều vấn đề nóng bỏng


chưa được giải quyết.6
Dựa vào việc nhận thức lại một cách đầy đủ và đúng đắn các quan điểm của chủ
nghĩa Mác
- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, kết hợp với những kinh
nghiệm của thế giới và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta, đặc biệt là từ khi
tiến hành công cuộc đổi mới (1986), Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xác định quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
là một quá trình lâu dài, trải qua nhiều chặng đường. Đây là lần đầu tiên chủ nghĩa xã hội
Việt Nam được đề cập tới một cách có hệ thống dưới hình thức luận đề.
Thứ nhất, xác định sáu đặc trưng của mơ hình xã hội chủ nghĩa ở nước ta bao gồm:
Về chính trị: là xã hội do nhân dân lao động làm chủ
Về kinh tế: có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế
độ cơng hữu tư liệu sản xuất
Về văn hóa: có nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc
Về con người: được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công; được làm việc theo
năng lực, hưởng theo lao động; có cuộc sống ấm no, có tự do hành phúc, có điều kiện phát
triển tồn diện cá nhân
Các dân tộc trong nước: bình đẳng, đồn kết, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ
Về đối ngoại: có quan hệ hịa bình, hợp tác, hữu nghị với nhân dân các nước trên thế
giới.
Đó là những đặc trưng bản chất hay mục tiêu cơ bản của chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam mà nhân dân ta xây dựng và hướng tới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Những
đặc trưng đó vừa thể hiện tính phổ biến theo học thuyết Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội,

vừa thể hiện tính đặc thù dân tộc, mang đặc điểm của thời đại. Việc nhận thức sáu đặc


trưng của xã hội chủ nghĩa trước hết là nhận thức được những thuộc tính bản chất của chủ
nghĩa xã hội.
Thứ hai, Cương lĩnh khẳng định bốn vấn đề có tính nguyên tắc của cách mạng Việt
Nam:
- Độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn của
cách mạng Việt Nam.
- Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, là
kim chỉ nam cho hành động của Đảng.
Cụ thể theo Nghị quyết 01 của Bộ chính trị (1992) về cơng tác lý luận đã khẳng định
tính khoa học và sự trung thành, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin đồng thời làm rõ
toàn diện tư tưởng Hồ Chí Minh từ khái niệm, đến cơ sở hình thành, quá trình phát triển và
nội dung. Việc chính thức bổ sung tư tưởng Hồ Chí Minh cho nền tảng tư tưởng của Đảng
là đánh dấu một bước tiến mới, một bước phát triển quan trọng trong tư duy lý luận cho
thấy Đảng ta đã nhận thức đầy đủ hơn, sâu sắc hơn vai trị, vị trí của tư tưởng Hồ Chí
Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống các quan điểm toàn diện, sâu sắc về những vấn
đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa
Mác - Lênin vào thực tiễn của nước ta, đồng thời là sự kế thừa và phát triển các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
- Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng chính trị duy nhất lãnh đạo nhà nước và xã
hội.
- Phát triển kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của nhà nước xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế tổng quát của nước ta.
Bên cạnh đó, những mục tiêu cơ bản rút ra từ sáu đặc trưng, chủ nghĩa xã hội cũng
được thể hiện một cách cụ thể hóa trong một số Nghị quyết.
- Nghị quyết trung ương 2 (1991) về cải cách bộ máy nhà nước khẳng định quyền



lực nhà nước là thống nhất nhưng có sự phân công phối hợp giữa ba cơ quan lập pháp –
hành pháp – tư pháp; tách chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và quản lý sản xuất kinh
doanh, theo đó nhà nước quản lý kinh tế bằng chính sách và luật pháp, việc tổ chức sản
xuất kinh doanh giao cho doanh nghiệp; xây dựng nhà nước pháp quyền quản lý theo
nguyên tắc tập trung - dân chủ.
- Nghị quyết trung ương 7 (1994) về cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa khẳng định đây
là q trình làm thay đổi toàn diện, triệt để các hoạt động sản xuất kinh doanh, quản lý kinh
tế, văn hóa từ sử dụng lao động phổ thơng là chính sang sử dụng sức lao động với công
nghệ hiện đại, phương pháp tiên tiến, năng suất cao.
- Nghị quyết trung ương 3 (1992) về đối ngoại đặt ra yêu cầu nắm vững tính hai mặt
vừa hợp tác vừa đấu tranh trong đối ngoại. Theo đó kết hợp chủ nghĩa u nước chân chính
với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, vừa xây dựng lực lượng, giữ vững độc lập tự chủ, vừa đa
phương hóa, đa dạng hóa thơng qua việc tham gia hợp tác khu vực, mở rộng quan hệ với
các nước và các tổ chức quốc tế, trước tiên là các nước trong khu vực ASEAN và châu Á.
Từ những bài học và kinh nghiệm thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội theo đường
lối đổi mới, đúng như nhận định của Đảng nêu ra tại Đại hội lần thứ X, nhận thức của
chúng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn,
hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản nhất.7 Tạo ra
những thay đổi to lớn trên nhiều mặt, nước ta thoát khỏi thời kỳ khủng hoảng kinh tế – xã
hội.
2.2. Đại hội VIII (1996) tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VIII diễn ra từ ngày 28/06/1996 đến ngày
01/07/1996 ở Hà Nội, trong bối cảnh đất nước đã trải qua việc thực hiện công cuộc đổi mới
được đề ra từ Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI sau hơn 10 năm và đạt được


những thắng lợi to lớn, được nhân dân trong nước và quốc tế ủng hộ. Trong kỳ Đại hội này,
Đảng đã tiến hành hai nhiệm vụ quan trọng.

Thứ nhất, Đảng ta đã bổ sung, hồn thiện các tiêu chí của công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
Đảng xác định rõ hơn con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội, hướng đến mục tiêu “xây
dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ
nghĩa”8, từ đó khẳng định tiếp tục nắm vững và triển khai hai nhiệm vụ chiến lược là xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đồng thời đưa nước ta sang thời kỳ phát triển
mới - thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để thực hiện hai nhiệm vụ
trên, Đảng xác định cần sở hữu cơ sở vật chất hiện đại; cơ cấu kinh tế hợp lý giữa các nền
nông nghiệp, công nghiệp nặng nhẹ, và dịch vụ; quan hệ sản xuất phải phù hợp và tiệm cận
với trình độ chun mơn cũng như năng lực của lực lượng sản xuất. Đồng thời nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần, xây dựng nền quốc phòng an ninh vững mạnh.
Đặc biệt nêu quan điểm về q trình cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa, xem đây là sự
nghiệp của tồn dân, của các thành phần kinh tế. Trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trị then
chốt và khoa học cơng nghệ là động lực. Đồng thời tiếp tục nhấn mạnh độc lập tự chủ đi
đôi với mở rộng hợp tác quốc tế. Đặc biệt lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu
tố phát triển nhanh và bền vững, kết hợp linh hoạt giữa phát triển kinh tế với xây dựng
quốc phịng, đảm bảo dựng nước đi đơi với giữ nước.
Thứ hai, căn cứ vào những định hướng đã xác định, Đại hội VIII đề ra Kế hoạch 5
năm
1996-2000 nhằm hiện thực hóa mục tiêu
Theo đó:
- Đẩy mạnh cơng cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ.
- Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần.


- Phấn đấu đạt và vượt mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền
vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội.
- Cải thiện đời sống nhân dân, nâng cao tích lũy từ nội bộ nền kinh tế. Nhằm cụ thể
kế hoạch 5 năm, nhiều nghị quyết đã được ban hành:
- Nghị quyết 02-NQ/HNTW năm 1996 về định hướng chiến lược phát triển khoa học

và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000 do
Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành đã xác định giáo dục đào tạo và khoa học công
nghệ là quốc sách hàng đầu.
- Nghị quyết 04-NQ/HNTW ngày 29/12/1997 Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa VIII khẳng định tiếp tục đẩy mạnh cơng cuộc đổi mới, phát huy nội
lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, cần kiệm để cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn
đấu hồn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội đến năm 2000.
- Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 17/10/1998 Hội nghị lần thứ sáu (lần 1) Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa VIII về nhiệm vụ kinh tế, xã hội năm 1999 xác định văn hóa
là nền tảng tinh thần của xã hội; xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc,
tiên tiến về mặt nội dung – hình thức – phương tiện truyền tải; xây dựng nền văn hóa thống
nhất đa dạng; huy động nguồn lực xây dựng văn hóa bao gồm nguồn lực từ nhà nước, xã
hội lẫn bên ngoài.
- Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 02/02/1999 Hội nghị lần thứ 6 (lần 2) Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (khoá VIII) về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác
xây dựng Đảng hiện nay khẳng định việc xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt.
- Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII)
(1999) về một số vấn đề về tổ chức, bộ máy và tiền lương, trợ cấp xã hội thuộc ngân sách
nhà nước.
Sau 5 năm thực hiện kế hoạch, thông qua công tác tổng kết, đánh giá, kiểm điểm,


Đại hội đã nêu lên được các bài học đáng chú ý về đổi mới. Theo đó, cơng cuộc đổi mới
phải luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kết hợp chặt chẽ ngay từ
đầu giữa đổi mới chính trị và đổi mới kinh tế, lấy đổi mới kinh tế làm trung tâm từ đó từng
bước đổi mới chính trị một cách có hiệu quả; hơn hết cần nâng cao vai trò lãnh đạo của
Đảng cũng như sự đồn kết của nhân dân.
Nhìn chung, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII đã đánh dấu bước ngoặt, đưa đất
nước ta sang thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nước
Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh theo định hướng xã hội

chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân ta, vì tình hữu nghị và sự hợp tác với nhân dân các
nước trên thế giới. Đại hội có ý nghĩa quyết định đối với vận mệnh dân tộc và tương lai của
đất nước vào lúc chúng ta sắp bước vào thế kỷ XXI.
2.3. Đại hội IX (2001) phát huy sức mạnh tồn dân tộc, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa
Ðại hội lần thứ IX của Ðảng họp từ ngày 19/4 đến 22/4/2001, tại Thủ đô Hà Nội.
Đại hội tiếp tục thực hiện và bổ sung cương lĩnh Đại hội VII với chủ đề “Đại hội của trí
tuệ, dân chủ, đoàn kết, đổi mới".
Đại hội đã tiến hành thảo luận, làm rõ một số nội dung:
Thứ nhất, đã nhận thức sâu sắc hơn về nền kinh tế thị trường, có những định nghĩa
và mục tiêu rõ ràng. Mục tiêu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát
triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, thực hiện dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Thứ hai, con đường cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa có thể rút ngắn được nhờ lợi thế
của một quốc gia kế thừa. Từ bài học của các quốc gia tiến hành cơng nghiệp hóa - hiện đại
hóa trên thế giới như Pháp, Mỹ, Hàn Quốc..., Đảng xác định để đạt được thành quả đáng
kể trong cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa, họ khơng cần tuần tự các bước thực hiện mà tiếp


cận ngay và áp dụng hiệu quả thành tựu mới nhất.
Thứ ba, Đảng xác định nội dung đấu tranh giai cấp là bảo vệ độc lập dân tộc, chủ
nghĩa xã hội, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa, xóa đói giảm nghèo… Việc xác
định nội dung đấu tranh giai cấp toàn diện, nâng cao nhận thức khoa học về đấu tranh giai
cấp sẽ góp phần đấu tranh phịng chống những quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ chủ
nghĩa Mác – Lênin, bảo vệ nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thứ tư, Đảng xác định bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa có nghĩa là bỏ qua việc xác
lập địa vị của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Việc bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, về
cơ bản chính là: “bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc
thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt
được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh

lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”.
Thứ năm, xác định đại đồn kết tồn dân tộc đóng vai trị động lực chính đối với
thành cơng của sự nghiệp xây dựng và đổi mới chủ nghĩa xã hội. Đại đoàn kết dân tộc là
một giá trị tinh thần to lớn, một truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc ta, được hun đúc
trong suốt mấy nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đoàn kết đã trở thành một
động lực to lớn để dân tộc vượt qua bao biến cố, thăng trầm của thiên tai, địch họa, để tồn
tại và phát triển bền vững.
Thứ sáu, nêu lên sáu thành phần kinh tế gồm kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh
tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và bổ sung thành phần
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Nhằm cụ thể những nội dung trên, nhiều nghị quyết đã được ban hành:
Nghị quyết trung ương 3 năm 2001: chủ trương sắp xếp nâng cao hiệu quả của
doanh nghiệp Nhà nước: số lượng tập đoàn, đưa ra tiêu chí của tập đồn, nên để lại và cổ
phần hóa doanh nghiệp nào,…


Nghị quyết trung ương 5 năm 2002: nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, khuyến khích
kinh tế tư nhân: giải thể những hợp tác xã khơng cịn hiệu quả,…
Nghị quyết trung ương 7 năm 2003: phát huy sức mạnh đại đồn kết dân tộc: muốn
xây
dựng được thì phải xóa bỏ hằn thù quá khứ, chân thành hợp tác, khoan dung độ
lượng.
Đại hội IX của Đảng có ý nghĩa trọng đại mở đường cho đất nước ta nắm lấy cơ hội,
vượt qua thách thức tiến vào thế kỷ mới, thiên niên kỷ mới, thực hiện mục tiêu xây dựng
một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
2.4. Đại hội X (2006) huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực, sớm đưa đất nước ra
khỏi tình trạng kém phát triển
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X tiếp tục thực hiện và bổ sung cương lĩnh với
chủ đề “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh tồn
dân tộc, đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém

phát triển”.
Đại hội đã tiến hành làm rõ một số nội dung:
Thứ nhất, bổ sung mơ hình chủ nghĩa xã hội của Đại hội VII
Đề cập đến xã hội do “nhân dân” làm chủ, thay cho khái niệm "nhân dân lao động"
trong Đại hội VII vì nhân dân mới là phạm trù bao quát và cao quý nhất, một phạm trù
chính trị chủ đạo trong học thuyết cách mạng. Nhân dân là tồn thể dân tộc, khơng phân
biệt giai cấp, tầng lớp, nghề nghiệp, vị thế xã hội, dân tộc, tín ngưỡng, tơn giáo… cùng
tham gia sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Như vậy “nhân dân” là một khái niệm
tiến bộ và tổng quát hơn nhiều so với “nhân dân lao động”.
Đề cập đến nền tế kinh phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan
hệ sản xuất phù hợp, khác với "chế độ công hữu tư liệu sản xuất" trong Đại hội VII. Nước


ta đã từng quá nhấn mạnh sở hữu tư liệu sản xuất theo hướng tập thể hóa (cơng hữu) cho
đó là nhân tố hàng đầu của quan hệ sản xuất mới, từ đó người lao động bị biệt lập với đối
tượng lao động. Quan hệ sản xuất lên quá cao, tách rời với lực lượng sản xuất. Hậu quả là
sản xuất bị kìm hãm, đời sống nhân dân đi xuống nhanh chóng. Nhận thức được sai lầm
trong thời kỳ trước, Nhà nước ta đặt chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức kinh
doanh đa dạng, phát huy mọi năng lực sản xuất, mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế,
các quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến, tác động trong tồn tiến trình lịch sử
nhân loại. Chính sự vận dụng đúng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của
lực lượng sản xuất đã đem đến nhiều thành tựu đáng kể. Thực tiễn cho thấy con đường
chúng ta đang đi là đúng đắn và đạt nhiều thành tựu quan trọng, vượt qua giai đoạn lịch sử
nhạy cảm.
Thứ hai, con người được giải phóng khỏi áp bức và bất công, được làm việc theo
năng lực, hưởng theo lao động. Các dân tộc trong nước bình đẳng, đồn kết, tương trợ,
giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Bên cạnh đó Nhà nước đề cập đến quan hệ hịa bình, hợp tác
hữu nghị với nhân dân các nước trên thế giới, đến Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Mục đích lớn nhất mà ta hướng tới là
“Dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”.
Thứ ba, nêu lên định hướng xã hội chủ nghĩa của kinh tế thị trường với bốn nội dung
chính:
-

Thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.

-

Phát huy vai trò của kinh tế Nhà nước

-

Phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động

-

Thực hiện tốt các hình thức phân phối


Thứ tư, xác định đường lối cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa, tiến hành gắn cơng
nghiệp hóa
-

hiện đại hóa đất nước với kinh tế tri thức. Đảng xác định một số lĩnh vực phải

gắn với kinh tế tri thức như nông nghiệp, xây dựng, dịch vụ, xây dựng cơ cấu lao động,
bảo vệ tài nguyên môi trường. Bên cạnh đó, phải gắn bó với kinh tế thị trường và hội nhập
quốc tế để tiếp thu hiệu quả và phù hợp những tiến bộ văn minh nhân loại.

Nhằm cụ thể những nội dung trên, nhiều nghị quyết đã được ban hành:
-

Nghị quyết trung ương 3 năm 2006: về phòng chống tham nhũng và lãng phí:

đây là vấn đề nhạy cảm và gây nhức nhối cho nước nhà đến tận ngày nay.
-

Nghị quyết trung ương 4 năm 2006: về chính sách phát triển kinh tế nhanh

gắn với bền vững: có lúc phát triển nhanh quá phải hạ xuống để đảm bảo tính bền vững.
-

Nghị quyết trung ương 5 năm 2007: về cơng tác báo chí trong tình hình mới:

báo chí là công cụ, phải tham gia tuyên truyền giáo dục, đấu tranh chống tiêu cực.
-

Nghị quyết trung ương 6 năm 2008: về xây dựng giai cấp cơng nhân, hồn

thiện thể chế kinh tế thị trường: Đảng ta (i) khẳng định giai cấp công nhân là giai cấp lãnh
đạo để cnh-hđh, đánh giá thực trạng về số lượng, trình độ, cơ cấu, việc làm, đời sống,…
mới nêu ra được giải pháp để xây dựng giai cấp này; bên cạnh đó là (ii) hoàn thiện thể chế,
tạo điều kiện cho kinh tế thị trường phát triển, rà soát lại những quy định của luật pháp, tạo
môi trường pháp lý cho kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển.
-

Nghị quyết trung ương 7 năm 2008: về công tác thanh niên, xây dựng đội ngũ

tri thức, phát triển nông nghiệp – nông dân – nông thôn: (i) đối với công tác thanh niên,

Đảng đánh giá vai trò của thế hệ trẻ, đánh giá thực trạng đội ngũ thanh niên và công tác
thanh niên hiện tại tồn tại nhiều tích cực và khó khăn để có giải pháp; (ii) gọi là "đội ngũ"
mà khơng gọi là "tầng lớp" tri thức bởi vì sẽ bao trùm được đội ngũ tri thức VN định cư ở
nước ngồi để đánh giá thực trạng, sự đóng góp,… để có giải pháp phát triển; (iii) bên cạnh


đó ba mặt nơng nghiệp – nơng dân – nơng thơn có quan hệ chặt chẽ với nhau.
- Chính phủ đưa ra những chủ trương: ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát,
đảm bảo an sinh xã hội,…
- Nghị quyết trung ương 9 năm 2008: Phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học –
công
nghệ, giữ vững quốc phòng – an ninh, bảo vệ tài nguyên – mơi trường.
Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ X của Đảng có ý nghĩa trọng đại, các văn kiện
được thơng qua tại Đại hội “là kết tinh trí tuệ và ý chí của tồn Đảng, tồn dân ta, là sự
tổng kết sâu sắc thực tiễn và lý luận 20 năm đổi mới”. Thành công của Đại hội đánh dấu
một mốc son trên chặng đường hơn 76 năm lãnh đạo cách mạng của Đảng, mở ra một thời
kỳ phát triển mới của công cuộc đổi mới.
2.5.Đại hội XI (2011) tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng, đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới đất nước
Đại hội lần thứ XI của Đảng diễn ra từ ngày 12 đến 19/01/2011, tại Thủ đô Hà Nội.
Bên cạnh việc đánh giá kết quả các nội dung đã thực hiện, Đại hội bổ sung, phát triển
Cương lĩnh năm 1991, đề ra phương hướng, nhiệm vụ 5 năm 2011 - 2015, tổng kết Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001 - 2010), cũng như 20 năm thực hiện Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Chủ đề của Đại hội là: "Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của
Đảng, phát huy sức mạnh dân tộc, đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới. Tạo nền tảng để
đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) được thông qua tại Đại hội XI, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
khẳng định: Xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội:

-

Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh;


-

Do nhân dân làm chủ;

-

Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ

sản xuất tiến bộ phù hợp;
-

Có nền văn hố tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;

-

Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn

-

Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và giúp

diện;

nhau cùng phát triển;
-


Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân vì nhân

dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo;
-

Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.

Đảng ta đã xác định 8 đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam dựa trên
Cương lĩnh 1991 và những đặc trưng được đề cập tại Đại hội X của Đảng (2006). Nội dung
của từng đặc trưng đã có một số thay đổi cũng như cụ thể, chi tiết hơn để phù hợp với bối
cảnh phát triển của đất nước. Cụ thể những thay đổi như sau:
Thứ nhất, so với cương lĩnh 1991, bổ sung hai đặc trưng mới “Dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh”, “Do nhân dân làm chủ”. Các đặc trưng này đã được đề cập
ở Đại hội trước đó khi nói về chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng. Ở đặc trưng thứ
nhất, đã có sự ưu tiên hơn khi đặt tiêu chí “dân chủ” lên trước tiêu chí “cơng bằng”. Vị trí
và vai trị của dân chủ trong xã hội là vơ cùng quan trọng, nó thúc đẩy sự phát triển của
kinh tế - xã hội, từ đó mới dẫn đến một đất nước công bằng, văn minh. Đất nước “do nhân
dân làm chủ” cho phép thực hiện khối đại đoàn kết toàn dân tộc và huy động sức mạnh của
toàn dân vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, ở đặc trưng thứ ba trong Cương lĩnh 2011 đã thay thế từ “chế độ công hữu
về các tư liệu sản xuất chủ yếu” (Cương lĩnh 1991) bằng từ “quan hệ sản xuất tiến bộ phù


hợp”, đây là một sự thay đổi tất yếu và hợp lý. Bởi lẽ, theo quan niệm của chủ nghĩa Mác Lênin, quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là
xương sống của mọi hình thái kinh tế - xã hội. Trong khi đó, quan hệ sở hữu chế độ công
hữu chỉ là một trong các yếu tố của quan hệ sản xuất. Việc bổ sung từ ‘tiến bộ”, có ý nghĩa
như “sợi dây” gắn kết các thành phần kinh tế nước ta lại gần nhau và chuyển động theo
hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, “Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển

toàn diện”, đặc trưng thứ năm đã thay thế gần hết so với Đại hội X cũng như Cương lĩnh
1991. Sự thay đổi này mang ý nghĩa bao hàm và nhân văn hơn, con người đã được giải
phóng, có nhiều điều kiện để phát triển toàn diện.
Thứ tư, trong Văn kiện ở Đại hội X viết: “Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam
bình đẳng, đồn kết, tương trợ, giúp nhau cùng tiến bộ”, đến Cương lĩnh năm 2011 đã sửa
thành: “Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và giúp nhau
cùng phát triển”. Việc sử dụng từ “cộng đồng” thay cho “trong nước” (Cương lĩnh 1991)
bao hàm cả người Việt đang ở nước ngồi. Sự thay thế từ “tương trợ” thành “tơn trọng”
khiến nội dung tồn diện hơn. Thêm vào đó nhằm làm rõ nghĩa hơn, cũng có sự thay đổi từ
“tiến bộ” sang “phát triển”.
Thứ năm,“có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân vì
nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo”. Đã khẳng định quyền dân chủ nhiều hơn bằng việc
thay thế từ “dưới” thành “do”. Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) đã nói: “Dân
chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát
triển đất nước…”.
Việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân là một trong những điều kiện tiên quyết để thực hiện và phát huy quyền làm
chủ của nhân dân.
Thứ sáu, nếu Cương lĩnh 1991 xác định “Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân


dân tất cả các nước trên thế giới'' thì trong Văn kiện Đại hội lần thứ X và trong Cương lĩnh
2011, nó được diễn đạt một cách chính xác hơn - ''Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các
nước trên thế giới''. Cụm từ ''với các nước trên thế giới'' đã mở rộng đối tượng hơn so ''với
nhân dân tất cả các nước trên thế giới''. Thể hiện mối quan hệ hữu nghị và hợp tác của Việt
Nam không chỉ với nhân dân các nước, mà cùng với nhà nước, chính phủ và các tổ chức
phi chính phủ của các nước trên thế giới. Đồng thời, bỏ sự phân biệt giữa “nhà nước” và
“nhân dân”.
Ngoài ra, tại Đại hội XI cũng chỉ rõ những phương hướng phát triển xã hội theo từng
lĩnh vực cụ thể như sau:

Về kinh tế, Đại hội nêu lên bốn thành phần: Kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh
tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi. Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương,
đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường
quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn
sau.
Về hình thức sở hữu, Đại hội nêu lên bốn hình thức: Sở hữu toàn dân, sở hữu tập
thể, sở hữu tư nhân, sở hữu hỗn hợp.
Về đổi mới chính trị, tập trung ba lĩnh vực cơ bản, trọng yếu: Đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng; xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ
trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương. Trong đó, đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng là cấp thiết và hàng đầu. Đặc biệt, bắt đầu từ Đại hội XI,
Đảng ta xác định quan hệ “giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị” là một trong các quan
hệ lớn cần giải quyết tốt trong thời kỳ quá độ đi lên Chủ nghĩa xã hội.10
Bên cạnh đó, sau Đại hội XI đã có một số nghị quyết được bổ sung nhằm làm rõ
phương hướng, đường lối phát triển đất nước:


-

Nghị quyết Trung ương 3 khóa XI (12/2011) về mục tiêu, quan điểm, giải

pháp phát triển kinh tế - xã hội (2011 – 2015). Về mục tiêu, tạo nền tảng đến 2020 nước ta
trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Tăng trưởng kết hợp với ổn định kinh tế
vĩ mơ, kiềm chế lạm phát, phát huy vai trị nhà nước trong kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, cấu trúc lại nền kinh tế (các
ngành, các đơn vị).
-


Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI (1/2012) về một số vấn đề xây dựng Đảng

hiện nay. Nêu lên 3 vấn đề cấp bách: (i) ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thối chính trị
đạo đức tư tưởng lối sống; (ii) làm tốt công tác quy hoạch cán bộ (nhất là cấp trung ương);
(iii) phân định rõ quyền hạn, mối quan hệ, nghĩa vụ – quyền hạn giữa người đứng đầu và
tập thể cấp ủy, cơ quan. Đồng thời, đề ra 4 nhóm giải pháp: (i) tự phê bình và phê bình; (ii)
chế độ chính sách; (iii) những vấn đề có tính ngun tắc; (iv) tun truyền giáo dục.
-

Nghị quyết Trung ương 5 (5/2012) về sửa đổi Hiến pháp năm 1992 tổ chức

lấy ý kiến
Nhân dân, ban hành Hiến pháp năm 2013.
-

Nghị quyết Trung ương 6 (12/2012) nâng cao hiệu quả kinh tế Nhà nước và

chiến lược phát triển khoa học công nghệ.
-

Nghị quyết Trung ương 7 (5/2013) về hồn thiên hệ thống chính trị, tăng

cường sự lãnh
đạo của Đảng về công tác dân vận.
-

Nghị quyết Trung ương 8 (10/2013) về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục

đào tạo thời kỳ cơng nghiệp hố - hiện đại học. Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình
mới.

-

Nghị quyết Trung ương 9 (6/2014) tiếp tục đầu tư xây dựng nền văn hoá và

xây dựng con


người Việt Nam phát triển toàn diện để đáp ứng yêu cầu của đất nước.

2.6. Đại hội XII (2016) đẩy mạnh công cuộc đổi mới, sớm đưa đất nước cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại
Đại hội họp chính thức từ ngày 21 đến ngày 28/1/2016 với chủ đề: "Tăng cường xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ
nghĩa; đẩy mạnh tồn diện, đồng bộ cơng cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ
vững mơi trường hịa bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại”.11
Đại hội XII đã tiến hành một số nội dung sau:
Thứ nhất, tổng kết 30 năm đổi mới
Nhìn lại quá trình đổi mới, trên cơ sở đánh giá tổng kết 30 năm, từ những kết quả đã
đạt được Đại hội khẳng định phải:“đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ, có bước đi phù
hợp trên các lĩnh vực, nhất là giữa kinh tế và chính trị”12, nhận thức đúng đắn, tạo động
lực mới để phát triển đất nước.
Thứ hai, nội dung về cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa
Bên cạnh đó, Đại hội cịn bổ sung một số nội dung về cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa
đất nước. Tồn cầu hố, hội nhập quốc tế, cách mạng khoa học - công nghệ, kinh tế tri thức
tiếp tục được đẩy mạnh:
- Xây dựng hệ tiêu chí của nước cơng nghiệp theo hướng hiện đại, phản ánh được
trình độ
phát triển kinh tế, giải quyết được những vấn đề xã hội, vấn đề mơi trường.
-


Cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức, kinh tế thị trường, hội

nhập quốc tế. Xây dựng thương hiệu công nghiệp quốc gia với tầm nhìn ngắn hạn, trung


hạn, dài hạn và trong từng giai đoạn phát triển.
-

Phát triển công nghiệp theo hướng hiện đại, tăng hàm lượng khoa học – cơng

nghệ và tỷ lệ nội địa hóa. Phát triển một số ngành công nghệ cao, công nghệ sạch, công
nghệ năng lượng,… Phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông
thôn mới. Tiếp tục phát triển hợp lý một số ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động.
-

Phát huy tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, đồng thời ưu tiên phát triển các

vùng kinh tế động lực; có chính sách hỗ trợ phát triển các vùng cịn nhiều khó khăn, nhất là
vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi và hải đảo; nâng cao hiệu quả
khu công nghiệp, chế xuất, khu công nghệ cao.
Thứ ba, về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Đại hội xác định đột phá về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
là mục tiêu cần đẩy mạnh, nhằm giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất, huy động, phân bổ, sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực. Tiếp tục cụ thể hoá, thể chế hoá nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội.
Thứ tư, về công tác xây dựng Đảng
Đại hội đề ra mục tiêu tổng quát trong 5 năm 2016 - 2020: “Tăng cường xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây

dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ
nghĩa…”.
Kiên định với chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững bản chất
giai cấp công nhân, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam; kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới.
Thứ năm, về xây dựng văn hóa và con người Việt Nam
Việc xây dựng văn hóa và con người Việt Nam cần được nhận thức đầy đủ và thực


hiện có hiệu quả các nhiệm vụ đã đề ra:“Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ
và năng lực làm việc; xây dựng mơi trường văn hóa lành mạnh” là 1 trong 6 nhiệm vụ
trọng tâm mà Đại hội XII đề cập. Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải
trở thành mục tiêu của chiến lược phát triển con người.
Ngoài ra, Đại hội xác định một trong những nhiệm vụ tổng quát trong 5 năm 2016 2020 là “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, con người Việt
Nam phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”. Nhận thức đầy đủ văn hóa là nền tảng vững chắc xã hội,
sức mạnh nội sinh quan trọng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Một số Nghị quyết bổ sung sau Đại hội XII:
-

Nghị quyết Trung ương 4 năm 2016: tăng cường xây dựng chỉnh đốn Đảng,

ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thối.
-

Nghị quyết Trung ương 5 số 10 năm 2017: chủ trương phát triển kinh tế tư

nhân, coi đây
là động lực quan trọng.

-

Nghị quyết Trung ương 5 số 11 năm 2017: chủ trương hoàn thiện thể chế kinh

tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
-

Nghị quyết Trung ương 5 số 12 năm 2017: chủ trương tiếp tục đổi mới, cơ cấu

lại, nâng
cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước.
3. Đánh giá
Có thể thấy, giai đoạn từ năm 1991 đến năm 2016, nhận thức của Đảng về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta dần được cải thiện, bổ sung và phát


triển. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nước ta đã phát huy những thành tựu
to lớn trong nhận thức lý luận về mơ hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm đưa nước ta phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Để nhìn nhận, đánh giá chặng đường nhận thức về xã hội chủ nghĩa Việt Nam giai
đoạn
1991-2016, có thể thơng qua một số khía cạnh sau:
3.1.

Đảng ta đã nhận thức rõ ràng hơn về mô hình và phương hướng áp dụng chủ

nghĩa xã hội ở Việt Nam
Với Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội do Đại
hội VII của Đảng thông qua, lần đầu tiên 6 đặc trưng của xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

được đề cập. Tổng kết sau 30 năm đổi mới, Văn kiện Đại hội XII đã làm sáng tỏ hơn một
số nội dung của các đặc trưng so với Cương lĩnh 1991.
Đầu tiên, nhấn mạnh vị trí của dân chủ, đặt lên trước công bằng, văn minh; đưa nội
dung phát huy “dân chủ xã hội chủ nghĩa” thành một nội dung cốt lõi; thể hiện sự tôn trọng
quyền làm chủ, quyền con người, coi con người là trung tâm của chiến lược phát triển. Đây
cũng là sự thể hiện nhất quán với tinh thần Hiến pháp 2013.
Tiếp đó, Đảng xây dựng kế hoạch đưa nước ta trở thành nước cơng nghiệp hóa - hiện
đại hóa theo hướng xã hội chủ nghĩa. Một trong những nhiệm vụ lịch sử đóng vai trị chủ
chốt là phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đặc biệt, từ Đại hội VIII cho đến Đại hội XI, Đảng ta đã thể hiện sự chú trọng bằng
cách đưa ra và khẳng định mục tiêu “đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước cơng
nghiệp theo hướng hiện đại” thì ngay trong tiêu đề của Báo cáo chính trị Đại hội XII, Đảng
ta xác định lại là “phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo


×