Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG DỰNG NƯỚC VÀ GIỮ NƯỚC TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.02 KB, 30 trang )

1


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

3

NỘI DUNG

4

I.

KHÁI QUÁT VỀ TRUYỀN THỐNG DỰNG NƯỚC VÀ

4

GIỮ NƯỚC CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM
1.1.

Quá trình hình thành, phát triển của truyền thống dựng nước và

4

giữ nước
1.2.

Đặc trưng truyền thống dựng nước và giữ nước


15

II.

PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG DỰNG NƯỚC VÀ GIỮ

17

NƯỚC TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI HIỆN NAY
2.1.

Một số yêu cầu phát huy truyền thống dựng nước và giữ nước

17

của dân tộc trong sự nghiệp đổi mới, hội nhập và phát triển đất
nước.
2.2.

Một số giải pháp phát huy truyền thống dựng nước và giữ nước

21

của dân tộc trong sự nghiệp đổi mới, hội nhập và phát triển đất
nước.
KẾT LUẬN

28

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


29

MỞ ĐẦU
2


Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam trải
qua hàng ngàn năm với những bước thăng trầm, thịnh suy
nhưng rất đỗi anh dũng, kiên cường. Điều kiện địa lý và hoàn
cảnh lịch sử buộc đất nước ta phải thường xuyên đối phó với
thiên tai địch họa, liên tục chống lại những thế lực xâm lược lớn
mạnh để bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc. Trải qua các
thời đại với chế độ chính trị - xã hội khác nhau, dưới thời phong
kiến độc lập, tự chủ, các triều đại Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Lê (hậu
Lê) đến triều Tây Sơn... đã lãnh đạo nhân dân xây dựng và bảo
vệ vững chắc giang sơn.
Lịch sử đã chứng minh rằng, ở các mức độ khác nhau, các
triều đại phong kiến đã có những đóng góp quan trọng về chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phịng và đối ngoại,
góp phần giữ n bờ cõi trước sự xâm lăng của ngoại bang,
khẳng định tinh thần độc lập, tự chủ, tự cường của dân tộc. Tinh
hoa đặc sắc về nghệ thuật cầm quyền, trị quốc trong lịch sử dân
tộc Việt Nam, đặc biệt là ở các thời thịnh, các triều đại phong
kiến luôn thể hiện những tư tưởng và thực hành nhiều chính
sách quan trọng trong nghệ thuật cầm quyền, trị quốc.
Trong thời kỳ đổi mới cũng vậy, trước diễn biến phức tạp
của tình hình thế giới, khu vực, trước tác động của thiên nhiên,
dịch bệnh đối với xã hội và đời sống con người thì tinh thần
dựng nước đi đơi với giữ nước lại được kế thừa và phát huy đúng

mức. Chính vì thế tôi chọn: “Phát huy truyền thống dựng nước và giữ
nước trong sự nghiệp đổi mới đất nước” làm chủ đề nghiên cứu cho bài tiểu
luận.

3


NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT VỀ TRUYỀN THỐNG DỰNG NƯỚC VÀ GIỮ
NƯỚC CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM
1.1. Quá trình hình thành, phát triển của truyền thống dựng nước và
giữ nước
Lịch sử quốc gia dân tộc Việt Nam từ khi ra đời tới nay là lịch sử dựng
nước và giữ nước gắn bó với nhau. Dựng nước ln ln gắn chặt với giữ nước,
trong đó dựng nước là yếu tố cơ bản. Phải xây dựng được đất nước hùng mạnh
về mọi mặt mới có điều kiện, khả năng chiến thắng các thế lực thù địch và phải
giữ được nước mới có điều kiện để xây dựng đất nước. Trong quá trình hình
thành và phát triển, truyền thống đó có ảnh hưởng sâu sắc đến hệ tư tưởng và
các thành quả tinh thần và vật chất của nhân dân ta.
Truyền thống dựng nước và giữ nước trong buổi bình minh lịch sử - nước
Văn Lang - Âu Lạc (3000 - 179 TCN)
Trở về thời đại các vua Hùng dựng nước, ngày nay còn tìm thấy các di
chỉ văn hóa Phùng Ngun, Đồng Đậu, Gị Mun, Đơng Sơn... (có niên đại xa
nhất cách đây 4000-3500 năm), rất nhiều công cụ bằng đồng, cùng những vũ khí
thơ sơ để tự vệ: lưỡi cày, lưỡi búa, mũi tên, lưỡi dao, giáo, rìu, dao găm và
những mảnh giáp che thân bằng đồng... Sự phát triển của đồ đồng đã chấm dứt
thời kỳ tồn tại hàng vạn năm của cơng xã ngun thủy trước đó, thời kỳ mà con
người sống hồn tồn cịn phụ thuộc vào tự nhiên để đi vào thời kỳ mới: thời kỳ
con người bắt đầu có ý thức với cuộc sống, với cộng đồng, với sản xuất. Việc
con người biết trồng trọt, chăn nuôi, biết dùng súc vật để kéo cày, biết làm lúa

nước, làm thủy lợi, cùng với việc xuất hiện một số ngành nghề mới (thủ công,
trồng dâu nuôi tằm, luyện đồng, rèn sắt...) đã tạo ra tiền đề ổn định cộng đồng,
nhờ đó cũng kéo theo cả sự phát triển của văn hóa...
Lược bỏ màu sắc thần thoại, Sơn Tinh chiến thắng Thủy Tinh là thiên anh
hùng ca về cuộc chiến đấu của cư dân Việt với lũ lụt, giành lấy những mảnh đất
màu mỡ ven sông để sinh sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước. Người Việt
biết trồng lúa nước vào loại sớm nhất thế giới, đến thời Hùng Vương thì nghề
này đã đạt đến trình độ khá cao. Nghề trồng lúa, trồng dâu chăn tằm, chăn nuôi
gia súc ngày càng phát triển thì thủ cơng nghiệp cũng phát triển theo (nghề gốm,
4


nghề dệt, nghề mộc, nghề luyện kim đồng thau, khai mỏ đồng, mỏ thiếc, mỏ chì,
nấu quặng...). Giao thơng vận tải phát triển, giao lưu kinh tế văn hóa trong cư
dân Việt Nam cũng đạt trình độ phát triển khá. Đồ đồng Đơng Sơn rất phong
phú, nhiều hình vẻ, bao gồm cơng cụ, vũ khí, đồ đựng, đồ trang sức. Đồ đồng
Đông Sơn thấy cả ở miền xuôi và miền núi. Từ Việt Nam, trống đồng được
truyền lên phía Bắc, tới đất Điền (Vân Nam), đất Thục (Tứ Xuyên), và đưa
xuống phía Nam, tới Malaixia, tới đất nước đảo Dừa (Inđônêxia). Một số lượng
cực kỳ lớn và phong phú các loại vũ khí bằng đồng thau được tìm thấy trong các
di chỉ văn hóa. Tất cả những điều đó đã nói lên rằng trong thời kỳ này, chẳng
những sản xuất phát triển, mà chiến tranh cũng đã xẩy ra thường xuyên. Vì vậy
việc dựng nước và giữ nước nhất thiết phải gắn bó với nhau. Trên cơ sở một nền
kinh tế văn hóa phát triển, các vua Hùng và cư dân Việt đã nhiều lần chiến thắng
các cuộc chiến tranh chống bọn xâm lược, mà truyền thuyết gọi là giặc "Man",
giặc "Mũi đỏ", giặc "Ân".
Cậu bé làng Gióng ba năm nằm trên chõng chẳng nói, chẳng cười, nhưng
vừa nghe tiếng mõ rao cầu hiền tài đi đánh giặc ngoại xâm thì đã vụt lớn như
thổi, ăn hết bẩy nong cơm, với mấy vại cà, rồi lên đường ra trận. Theo Ơng
Gióng ra trận cịn có người dân cày đang cầm vồ đập đất, người câu cá, người đi

săn, đoàn trẻ chăn trâu..., nghĩa là ơng Gióng cùng tồn dân ra trận. Câu truyện
Thánh Gióng biểu hiện tinh thần chiến đấu bất khuất chống giặc ngoại xâm của
dân cư Việt thời cổ, người anh hùng làng Gióng là hình ảnh của dân tộc Việt
Nam thời thơ ấu, sớm trưởng thành trong gian lao, trước nạn lớn của dân tộc.
Đất nước ta, nhân dân ta, như cậu bé làng Gióng, mới ra đời thì hai vai đã nặng
trĩu hai nhiệm vụ dựng nước và đánh giặc để giữ nước. Cộng đồng người Việt
ngay từ đầu đã cố kết lại trong tư thế vừa sản xuất, vừa chiến đấu. Đó là hai mặt
cơ bản nhất trong nội dung của đời sống xã hội cư dân Việt kể từ ngày lập quốc.
Nước Văn Lang bước vào thế kỷ III trước công nguyên là thời kỳ những
đời cuối cùng của thời đại Hùng Vương. Đây là lúc sản xuất và văn hóa đang
trên đà phát triển. Đồ đồng thau phát triển cực thịnh tạo điều kiện quá độ sang
thời kỳ đồ sắt. Nông nghiệp, thủ cơng nghiệp đều phát triển hơn trước. Diện tích
đất đai được khai phá mở rộng ở miền núi và trung du, đồng bằng, dân số đơng
thêm. Trung tâm văn hóa và kinh tế có xu thế dời từ vùng trung du xuống miền
đồng bằng. Đó cũng là lúc mà phương Bắc đang có những biến đổi lớn. Thời
Chiến quốc kết thúc, nhà Tần thống nhất Trung Quốc (221 trước công ngun).
Tần Thủy Hồng lên ngơi hồng đế với tư tưởng "bình thiên hạ" và chủ nghĩa
bành trướng bắt đầu được đẩy mạnh. Nhà Tần liên tục phát quân xâm lược
phương Nam.
Đối với đất Việt phương Nam thời đó, chống ngoại xâm và xây dựng đất
nước là một nhu cầu cấp bách. Trên cơ sở nền kinh tế đã phát triển hơn và trước
5


nguy cơ xâm lược từ phương Bắc, xuất hiện nhu cầu hợp nhất những bộ tộc gần
nhau về địa vực, huyết thống, trình độ phát triển kinh tế và văn hóa. Đó là cơ sở
dẫn tới sự hợp nhất giữa hai bộ tộc Lạc Việt và Âu Việt và sự ra đời nước Âu
Lạc vững mạnh hơn.
An Dương Vương dựng nước Âu Lạc, dời đô xuống miền Cổ Loa. Việc
dời đô từ vùng trung du xuống đồng bằng là một biểu hiện của nhu cầu phát

triển đất nước lớn mạnh. Với việc sử dụng công cụ sản xuất bằng kim loại, miền
đồng bằng đã được khai thác nhiều hơn. Với việc lập đô ở Cổ Loa, miền đồng
bằng của đất nước, thuận lợi cho sự phát triển kinh tế và văn hóa, cư dân Âu Lạc
tỏ rõ ý chí mạnh mẽ, tự tin vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Hai
thành phần cư dân Lạc Việt và Âu Việt hợp nhất, miền xuôi và miền núi nối liền.
Sự thống nhất đó làm cho nước Âu Lạc mạnh lên. Đó là một quốc gia kế tục và
phát triển trên một trình độ cao hơn nước Văn Lang, trên cơ sở nền kinh tế và
văn hóa phát triển thêm một bước. Nền văn hóa Đơng Sơn càng tỏ rõ sức sống
mãnh liệt, độc đáo, lan tỏa ảnh hưởng của nó đến nhiều vùng ở Đơng Nam á.
Thủ cơng nghiệp có những tiến bộ hơn, trước hết là nghề luyện kim. Trên cơ sở
kỹ thuật đồ đồng thau phát triển, người Âu Lạc đã nắm được kỹ thuật rèn sắt.
Một bước tiến mới của Âu Lạc trong kỹ thuật quốc phòng, người Âu Lạc đã chế
tạo được loại nỏ bắn nhiều phát một lần, với mũi tên bằng đồng có ba cạnh sắc.
Thành Cổ Loa được xây dựng. Đây là cơng trình huy động hàng vạn nhân cơng
xây dựng thành chiến luỹ chống xâm lược. Với thành Cổ Loa và nỏ máy, cư dân
Âu Lạc thể hiện rõ tài năng sáng tạo của mình. Nhà Tần và sau đó Triệu Đà hàng
chục năm liền đưa quân đánh phá Âu Lạc, song An Dương Vương cùng cư dân
Âu Lạc đã nhiều lần kháng chiến thắng lợi. Sự thất bại của đội quân xâm lược
nhà Tần và những đợt xâm lược đầu tiên của Triệu Đà chứng tỏ tinh thần đoàn
kết, ý thức tự chủ của cư dân Âu Lạc đã phát triển trên cơ sở nền văn hóa Đơng
Sơn rực rỡ. Nhưng cũng chính thời kỳ này lịch sử đã để lại cho hậu thế một tấn
bi kịch: mất nước để rồi con cháu Lạc Hồng phải chịu sống dưới ách nơ lệ trong
hơn một nghìn năm Bắc thuộc.
Kẻ địch xâm lược hùng mạnh không thể thắng ta về mặt quân sự, nhưng
chúng khơng từ bỏ ý đồ thơn tính nước ta. Thất bại về quân sự, chúng chuyển
sang chiến lược giả vờ cầu hòa, dùng gián điệp phá ta từ bên trong. Triệu Đà cử
con là Trọng Thủy sang hàng phục An Dương Vương, lấy công chúa Mỵ Châu,
ở rể tại thành Cổ Loa, để dị xét tình hình Âu Lạc, học phép chế nỏ của người
Âu Lạc rồi trốn về nước báo cho Triệu Đà. Do chủ quan, mất cảnh giác, Thục
An Dương Vương và Mỵ Châu nhẹ dạ cả tin, mắc mưu kẻ địch. Kết hợp dùng

quân sự và dùng gián điệp, Triệu Đà đã thơn tính được Âu Lạc vào năm 179
trước công nguyên. An Dương Vương thua trận phải tự tử. Nước ta bị mất độc
lập tự do.
6


Cuộc đấu tranh giành quyền tự chủ, tiến tới xây dựng quốc gia phong
kiến độc lập (từ cuối thế kỷ II trước công nguyên đến đầu thế kỷ X)
Triệu Đà sáp nhật đất Âu lạc vào Nam Việt, chia Âu Lạc thành hai quận
Giao Chỉ và Cửu Chân. Năm 111 trước công nguyên, nhà Hán chiếm được Nam
Việt, đổi vùng đất Âu lạc thành Giao Châu có 7 quận với chức quan đầu châu là
thứ sử, đầu quận là thái thú. Đế chế Hán áp đặt ách thống trị và bóc lột tàn bạo,
nặng nề lên dân Âu Lạc. Đặc biệt nguy hiểm là chủ trương Hán hóa dân Việt và
biến đất Việt thành đất Hán. Song các cư dân Việt không chịu khuất phục. Từ
đây cho đến đầu thế kỷ X, mặc dầu tương quan lực lượng rất chênh lệch, nhân
dân ta vẫn không ngừng đấu tranh giành quyền tự chủ của dân tộc.
Trước hết, nhân dân ta phải đấu tranh với kẻ thống trị để giữ vững bản sắc
văn hóa, để giữ gìn tiếng nói, phong tục tập quán của mình, đồng thời tranh thủ
tiếp thụ những yếu tố tiến bộ, hợp lý của văn hóa Hán nhằm hồn thiện và nâng
cao nền văn hóa, văn minh của người Việt, củng cố tinh thần tự lực tự cường,
tăng thêm ý chí đấu tranh giành độc lập tự chủ. Đây là giá trị to lớn nhất của sự
nghiệp chuẩn bị cho công cuộc dựng nước sau khi giành được quyền tự chủ.
Chẳng những thế, nhân dân lao động không ngừng cố gắng, bền bỉ phát triển sản
xuất. Lực lượng sản xuất của dân ta ngày càng phát triển trong điều kiện thống
trị của phong kiến phương Bắc. Trong nông nghiệp do phát hiện ra sắt, nghề rèn
sắt thành công cụ sản xuất phát triển; kỹ thuật nông nghiệp tiến bộ, đã sử dụng
trâu bị cày kéo...
Trên cơ sở đó, nhân dân ta liên tiếp đứng lên đấu tranh, xác lập dần nền
tự chủ. Mở đầu là cuộc khởi nghĩa oanh liệt của Hai Bà Trưng có tính chất quần
chúng rộng rãi, giành được thắng lợi trong cả nước với 65 huyện thành. Hai Bà

Trưng và nhân dân ta giữ vững quyền tự chủ trong 3 năm. Tiếp đó là những cuộc
khởi nghĩa lớn như: của Lương Long (178-181); của Triệu Thị Trinh (248); của
Lý Bí với sự thành lập nước Vạn Xuân (544); của Triệu Quang Phục (546-550);
của Mai Thúc Loan (722); của Phùng Hưng (766-791); của Dương Thanh (819820)... Nhân dân ta đã trưởng thành trong cuộc đấu tranh để bảo tồn bản sắc văn
hóa dân tộc và khơng ngừng tiếp thu tinh hoa văn hóa Hán nhằm phát triển sức
mạnh của cộng đồng. Chính các cuộc nổi dậy ấy chuẩn bị tiền đề vật chất và tinh
thần cho cơng cuộc giành lại quyền tự chủ hồn tồn vào đầu thế kỷ X. Năm
906, Khúc Thừa Dụ, nhân chính quyền nhà Đường suy yếu, đã đứng lên cùng
nhân dân giành được quyền tự chủ. Năm 938, chiến thắng Bạch Đằng oanh liệt
của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Ngơ Quyền đã đánh bại ý chí xâm lược
của nhà Nam Hán, kết thúc hoàn toàn thời kỳ mất nước, kéo dài trên một ngàn
năm. Một thời kỳ độc lập, xây dựng đất nước vững mạnh bắt đầu.
Sở dĩ một quốc gia bị nước ngoài thống trị và âm mưu đồng hóa trên một
ngàn năm đã vùng lên và giành lại được quyền tự chủ đó chính là nhờ có ý chí
7


độc lập tự do của cư dân người Việt sớm được khẳng định trên cơ sở những
thành tựu vật chất và tinh thần ngày càng phát triển trong quá trình dựng nước
và giữ nước trước đó. ý chí đó ngày càng được bồi đắp vững chắc và phát triển
trong quá trình bị nơ dịch. Truyền thống dựng nước và giữ nước thấm sâu trong
nhân dân như mạch nước ngầm trong lịng đất, nó bắt nguồn từ mỗi con người,
từ mỗi làng xóm, lặng lẽ đổ vào biển cả tạo thành truyền thống của cả cộng đồng
người Việt. Truyền thống đó lại được ni dưỡng bởi nền văn hóa, văn minh của
người Việt định hình và phát triển trong thời kỳ Văn Lang - Âu lạc.
Công cuộc dựng nước và giữ nước trong thời kỳ phong kiến tập quyền
thịnh trị của dân tộc (từ thế kỷ X đến thế kỷ XV)
Sau chiến thắng Bạch Đằng (938), Ngô Quyền quyết định bỏ chức Tiết độ
sứ của phương Bắc, tự xưng vương, lập nên nước độc lập ngang hàng với
phương Bắc. Cổ Loa (kinh đô của nước Âu Lạc thời An Dương Vương) được

chọn lại làm kinh đơ. Điều đó càng chứng tỏ ý chí lưu giữ truyền thống dựng
nước và giữ nước lâu đời của tổ tiên ta.
Sau nhà Đinh, nhà Tiền Lê đánh giặc giữ nước, phát huy truyền thống của
cha ông, rồi đến nhà Lý. Năm 1010, Lý Thái Tổ dời đơ từ vùng núi non hiểm trở
(Ninh Bình) địa thế chật hẹp ở Hoa Lư về Đại La (Hà Nội) và đổi tên là thành
Thăng Long. Điều này chứng tỏ thế mới của một quốc gia độc lập mà Lý Cơng
Uẩn đã nêu trong Chiếu dời đơ: "Đóng nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính
kế lâu dài cho con cháu mai sau".
Nhà Lý bắt tay vào xây dựng đất nước với quy mô lớn. Năm 1042, Lý Thái
Tông cho ban hành bộ luật thành văn đầu tiên của nước ta: Bộ Hình thư. Năm
1054, nhà Lý đặt tên nước là Đại Việt. Năm 1070 lập Quốc Tử Giám, năm 1075
mở khoa thi đầu tiên chọn nhân tài. Từ đây là thời kỳ củng cố nền độc lập, vừa
chống giặc ngoại xâm, vừa xây dựng đất nước thành một nhà nước phong kiến tập
quyền ngày càng vững mạnh, thời kỳ phát triển của dân tộc Việt Nam cả về kinh tế,
chính trị, văn hóa, qn sự... Thời kỳ văn hóa văn minh Đại Việt bắt đầu.
Sự kết hợp chặt chẽ giữa dựng nước và giữ nước được thể hiện trong
nhiều chủ trương của nhà Lý. Chính sách "ngụ binh ư nơng" (gửi qn lính ở
nhà nơng) nhằm vừa đảm bảo u cầu quốc phịng, vừa duy trì lực lượng lao
động cần thiết cho sản xuất nông nghiệp, xây dựng đất nước. Chế độ đăng ký
quân dịch và ngụ binh ư nông cho phép nhà Lý khắc phục được điều kiện dân số
ít, mà vẫn có lực lượng qn sự hùng hậu có thể huy động nhanh chóng khi có
giặc ngoại xâm. Dựng nước kết hợp với giữ nước đã thấm sâu trong ý thức cảnh
giác đề phòng của nhà Lý. Biết rõ nhà Tống chưa chịu từ bỏ tham vọng xâm
lược nước ta, nhà Lý thường xuyên theo dõi chặt chẽ âm mưu của chúng và
chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống Tống với một tinh thần chủ động, trong đó
8


chính sách đại đồn kết dân tộc đã được vận dụng một cách đúng đắn và có hiệu
quả.

Sau khi hạ được thành, quân ta rút hết về nước và dốc sức vào chuẩn bị
đối phó với cuộc xâm lược mới của nhà Tống mà Lý Thường Kiệt biết là không
thể nào tránh được. Sau hai lần tiến công hùng hổ sang nước ta, đạo quân Quách
Quỳ đã bị thất bại. Chiến thắng trên sông Như Nguyệt đã trở thành nét son trong
lịch sử chống ngoại xâm của nhân dân ta. Từ đó và mãi 200 năm sau, "Thiên
triều" khơng dám đụng đến bờ cõi nước ta. Và năm 1164, không thể khác được,
nhà Tống phải công nhận cả trên danh nghĩa lẫn thực tế mối quan hệ bang giao
với nước ta và thừa nhận nước ta là nước độc lập (An Nam Quốc), trước đây
chúng chỉ gọi là quận Giao Chỉ. Nhà Lý đã có chính sách đồn kết dân tộc đúng
đắn, tranh thủ các tù trưởng thuộc các sắc tộc phía bắc và đơng bắc, có chính
sách củng cố phên giậu nước ta, làm thất bại âm mưu liên kết của nhà Tống với
vương quốc Chămpa trước khi bước vào cuộc kháng chiến chống Tống (10751077). Tư tưởng chính trị, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng của nhân
dân ta, của dân tộc ta thể hiện rõ trong bài thơ “Nam quốc sơn hà”, được coi là
bản Tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất của dân tộc. Trong bài thơ này, nhận thức
về nền độc lập, chủ quyền và lãnh thổ của dân tộc ta được khẳng định và tun
bố cơng khai. Đó là sự khẳng định về ý thức dân tộc, ý chí của dân tộc Việt Nam
quyết tâm bảo vệ độc lập chủ quyền dân tộc mà bao thế hệ đã hy sinh xương
máu và đấu tranh bền bỉ mới tạo lập được.
Vào những năm cuối đời Lý, nền kinh tế của nước nhà sa sút, đời sống
nhân dân xuống thấp. Nhà Trần thay thế nhà Lý. Trong đời Trần, do những cải
cách của Trần Thủ Độ, sức sản xuất được khơi phục nhanh chóng và tiếp tục
phát triển. Việc kết hợp dựng nước và giữ nước lại có những thành cơng lớn.
Những cuộc khẩn hoang và cơng trình thủy lợi mới được mở mang, góp phần
thúc đẩy nơng nghiệp phát triển hơn. Cơng thương nghiệp cũng có những bước
tiến mới, nhiều làng nghề, phường thủ công, chợ và phố xá buôn bán tấp nập.
Các đường giao thông thủy bộ, thương cảng được sửa sang, mở rộng thêm.
Những tiến bộ mới trong phát triển kinh tế của đất nước đã nâng cao thêm đời
sống của nhân dân, góp phần củng cố quốc phịng. ý thức bảo vệ Tổ quốc, giữ
gìn nền độc lập dân tộc ngày một củng cố thêm trên cơ sở chính sách đại đoàn
kết toàn dân cùng dựng nước và giữ nước. Đúng như Hưng Đạo Vương Trần

Quốc Tuấn tổng kết: "Vua tơi đồng tâm, anh em hịa thuận, cả nước góp sức", và
"khoan thư sức dân để làm kế bền gốc, sâu rễ, đó là thượng sách giữ nước".
Dưới thời Trần, ba lần quân Nguyên - Mông sang xâm lược. Kẻ thù đã
từng khua vó ngựa từ Đơng sang Tây, từ á sang Âu, đánh đâu được đấy nhưng
xâm lược Đại Việt thì cả ba lần đều bị đánh bại. Các chiến thắng Đông Bộ Đầu,
Hàm Tử Quan, Bạch Đằng vào các năm 1258, 1285, 1288 đã được ghi vào trang
9


sử vàng chói lọi chống ngoại xâm của dân tộc như những chiến cơng hiển hách.
Từ đó đất nước được thanh bình, nhân dân có điều kiện sinh sống, làm ăn, đất
nước phát triển... Song, từ giữa thế kỷ XIV, triều Trần lún sâu vào con đường ăn
chơi vô độ, lịng dân phân tán. Trong đời sống chính trị, kinh tế và xã hội của đất
nước, nhiều mặt đòi hỏi phải cải cách, phải thay đổi, nhưng nhà Trần đã tỏ ra bất
lực. Trong khi đó nhà Minh lại có ý đồ xâm lược nước ta. Hồ Quý Ly lập ra triều
Hồ năm 1400 để thay thế nhà Trần. Sau khi xưng đế, ơng có chú trọng đến việc
xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện nhiều cải cách trong đời sống
xã hội... ra sức chuẩn bị lực lượng để chống nguy cơ xâm lược của nhà Minh.
Lịng tự tin dân tộc, ý chí quyết tâm bảo vệ độc lập và chủ quyền của dân tộc
Việt Nam không bao giờ mất. Truyền thống dựng nước và giữ nước đã tạo nên
sức sống mãnh liệt trong nhân dân, và mùa xuân 1418, Lê Lợi người tiêu biểu
cho ý chí đó của nhân dân đã dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, Thanh Hóa. Thắng
lợi oanh liệt của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XV lại một lần
nữa chứng minh tinh thần quật khởi, sức sống mãnh liệt và năng lực sáng tạo phi
thường của dân tộc ta. "Bình Ngơ đại cáo", bản Tun ngơn độc lập thứ hai của
dân tộc .
Công cuộc dựng nước và giữ nước từ thế kỷ XV đến cách mạng tháng
Tám thành công (tháng 8-1945)
Từ thế kỷ XV đến trước khi Pháp xâm lược Việt Nam (1858)
Vào khoảng nửa sau thế kỷ XV, chế độ phong kiến tập quyền Việt Nam

phát triển mạnh mẽ vào thời Lê Thánh Tông. Sự phát triển ấy có mặt tích cực là
đã khẳng định và củng cố những thành quả của sự nghiệp dựng nước và giữ
nước lâu dài của dân tộc. Bộ máy hành chính các cấp được cải tổ theo hướng
tăng cường sự chi phối của triều đình và hạn chế quyền lực của địa phương,
nhằm phát triển chế độ trung ương tập quyền. Năm 1483, bộ luật Hồng Đức ra
đời.
Về kinh tế, bộ luật Hồng Đức bảo vệ chế độ sở hữu ruộng đất tư, nhờ đó
từ thế kỷ XV, bộ phận ruộng đất tư đã phát triển mạnh mẽ, chế độ điền trang thái
ấp dần dần bị thủ tiêu, ruộng cơng bị co hẹp. Bộ luật Hồng Đức khuyến khích
khai hoang, tăng vụ, do vậy chế độ đồn điền ra đời... Đến thời kỳ nhà Nguyễn
thì chính sách khai hoang và chính sách ruộng đất tiến bộ đã tạo được những
vùng đất mới và xóm làng mới. Diện tích ruộng đất canh tác của quốc gia mở
rộng nhất từ trước tới lúc bấy giờ.
Tuy vậy, sang thế kỷ XIX chế độ phong kiến Việt Nam trong giai đoạn
suy vong đã để đất nước tụt hậu rất xa so với thế giới. Những xu hướng cải cách
và những đề án canh tân đất nước bị vua tôi nhà Nguyễn bác bỏ. Đất nước chìm
10


đắm trong các mối quan hệ xã hội phong kiến trì trệ, hủ lậu, thối nát. Đó cũng là
ngun nhân dẫn đến mất nước khi chủ nghĩa thực dân xâm lược.
Về văn hóa, trong thời kỳ này nền văn học phát triển rực rỡ với hàng loạt
tác phẩm nổi tiếng bằng chữ Nơm, chữ Hán, có giá trị cả về nội dung và nghệ
thuật (Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc, thơ Hồ Xuân Hương, thơ bà
Huyện Thanh Quan, Truyện Kiều,...) đặc biệt là dân ca, hò vè,... của quần chúng
nhân dân. Các làn điệu chèo, tuồng ả đào, trống qn... cũng phát triển phong
phú. Các cơng trình sử học, y học, dược học, địa lý với những tác giả nổi tiếng
như Lê Quý Đôn, Lê Hữu Trác,... xuất hiện. Một nền văn hóa gắn liền với cuộc
đấu tranh của quần chúng, mang tính chiến đấu sắc bén, có nội dung xã hội tiến
bộ, đậm đà phong cách dân gian đã được xây dựng.

Mục tiêu độc lập dân tộc không tách rời với thống nhất đất nước cũng là
truyền thống của dân tộc Việt Nam. Yêu cầu thống nhất quốc gia trở nên vô
cùng bức xúc, phong trào nông dân Tây Sơn bùng nổ mãnh liệt ở Bình Định
(1771). Sau khi dẹp xong thế lực cát cứ họ Nguyễn Đàng Trong (1783), nghĩa
quân Tây Sơn đã vươn lên làm nhiệm vụ giải phóng dân tộc, thống nhất quốc
gia. Thất bại thảm hại, Nguyễn Ánh rước quân Xiêm vào giày mả tổ. Nghĩa
quân Tây Sơn với truyền thống giữ nước oanh liệt đã lập nên chiến cơng ở Rạch
Gầm - Xồi Mút, đuổi 5 vạn quân Xiêm ra khỏi bờ cõi nước ta.
Năm 1788, tên vua bù nhìn Lê Chiêu Thống đã "cõng rắn cắn gà nhà"
rước 20 vạn quân Thanh vào xâm lược nước ta. ý chí độc lập dân tộc và truyền
thống chống giặc giữ nước thôi thúc, nghĩa quân Tây Sơn lại "thần tốc" tiến
công ra Bắc lập nên những chiến công ở Hạ Hồi, Ngọc Hồi, Khương Thượng,
Gò Đống Đa với sức mạnh kỳ diệu, quét sạch 20 vạn quân Thanh ra khỏi bờ cõi
nước ta. Đây là một trong những chiến công hiển hách vào bậc nhất trong lịch sử
chống ngoại xâm của dân tộc. Truyền thống giữ nước Việt Nam một lần nữa
được viết tiếp một trang oai hùng mới.
Sau khi đại phá quân Thanh, Tây Sơn thống nhất quốc gia, những tiền đề
quan trọng nhất cho việc thiết lập một quốc gia độc lập tự chủ, thống nhất và
hùng mạnh được hình thành. Quang Trung có đề ra một số chính sách tích cực.
Nhưng đáng tiếc ơng mất sớm, và sau đó đến thời kỳ Quang Toản thì cuộc đấu
tranh giữa Nguyễn Ánh và Tây Sơn đã chuyển hóa, có lợi cho tập đồn Nguyễn
Ánh. Kết quả là Nguyễn Ánh đã lên ngơi Hồng đế và triều Nguyễn thành lập
(1802).
Triều Nguyễn xuất hiện có những mặt hạn chế của nó phải phê phán, song
cũng có những mặt tích cực cần được khẳng định. Tuy nhiên, so với yêu cầu của
lịch sử, nhà Nguyễn ngày càng trở nên bất cập, thậm chí nhà Nguyễn lại không
chấp nhận xu hướng cải cách và những đề án của Đặng Huy Trứ, của Nguyễn Lộ
11



Trạch, của Nguyễn Trường Tộ..., những đề án canh tân đất nước rất có hệ thống
và tiến bộ. Lúc ấy muốn giữ nước, giữ vững nền độc lập thì phải cải cách, đổi
mới đất nước và mở rộng giao lưu với bên ngồi, khép kín là tự sát. Song nhà
Nguyễn lại không chấp nhận cải cách ở bên trong, bế quan tỏa cảng với bên
ngoài, làm hủy hoại các tiềm lực bên trong, dẫn tới trì trệ, khủng hoảng, khơng
bắt nhập được xu thế tiến bộ của thời cuộc, và vì vậy khơng có đủ sức mạnh để
giữ vững nền độc lập.
Từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta đến Cách mạng tháng Tám năm
1945
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược nước ta. Sau những cuộc chiến đấu
rời rạc, yếu kém, thiếu tự tin, bọn phản động trong giới cầm quyền nhà Nguyễn
đã vứt bỏ ngọn cờ dân tộc, lần lượt ký những điều ước, hòa ước đầu hàng, rồi
cam tâm làm tay sai cho thực dân Pháp. Nhân dân ta lại bị chủ nghĩa thực dân
Pháp nô dịch.
Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược cho đến khi giới cầm quyền phản
động nhà Nguyễn đầu hàng, với truyền thống yêu nước, rất nhiều lực lượng gồm
các văn thân, sĩ phu yêu nước và các tầng lớp nhân dân đã lần lượt đứng lên đấu
tranh chống lại sự xâm lược của thực dân Pháp.
Đây là một chặng đường đầy gian nan của dân tộc. Lực lượng chủ yếu của
dân tộc lúc bấy giờ là giai cấp nông dân bị mòn mỏi và kiệt quệ bởi các cuộc
chiến tranh liên miên từ thời Nam - Bắc triều, rồi Đàng Trong - Đàng Ngồi, bởi
chính sách bóc lột kinh tế, đàn áp xã hội của nhà Nguyễn. Trong khi đó thì kẻ
thù lại là một lực lượng mạnh thuộc một phương thức sản xuất cao hơn hẳn
phương thức sản xuất phong kiến Việt Nam đương thời, và giới cầm quyền
thống trị nhanh chóng vứt bỏ ngọn cờ dân tộc, đầu hàng Pháp. Các cuộc khởi
nghĩa của Trương Định ở Gị Cơng; của Nguyễn Trung Trực ở Rạch Giá, Hà
Tiên; rồi đến phong trào Cần Vương của Tôn Thất Thuyết; khởi nghĩa Ba Đình ở
Thanh Hóa; khởi nghĩa Bãi Sậy ở Hưng Yên; khởi nghĩa Hương Khê của Phan
Đình Phùng... nhân dân cả nước đứng lên chống Pháp.
Bước vào những năm cuối thế kỷ XIX, phong trào đấu tranh vũ trang dưới

sự chỉ huy của các văn thân sĩ phu yêu nước chống Pháp đã thất bại. Nhưng kẻ
trước ngã xuống đã có người sau nối bước. Hồng Hoa Thám cầm đầu cuộc khởi
nghĩa của nông dân Yên Thế - Bắc Giang (1887-1913), làm cho kẻ thù thất điên
bát đảo. Rồi khởi nghĩa của Trịnh Văn Cấn ở Thái Nguyên, của Việt Nam quốc
dân đảng do Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu... khởi xướng ở n Bái.
Vượt qua mn vàn khó khăn gian khổ do kẻ thù gây nên, phong trào yêu nước
chống Pháp của nhân dân ta sau đó vẫn tiếp tục sôi nổi, từ phong trào Đông Du,
vận động cứu nước của Phan Bội Châu và phong trào cải cách của Phan Chu
12


Trinh, đến các cuộc khởi nghĩa của đồng bào các dân tộc thiểu số anh em trên
mọi miền đất nước...
Các cuộc khởi nghĩa và các phong trào đó đều bị dìm trong biển máu,
song nhân dân ta, dân tộc ta quyết không chịu mất nước, nhất định không chịu
làm nô lệ. Truyền thống dựng nước và giữ nước không ngừng được phát huy và
tơ thắm thêm, đã góp phần vào việc tìm ra con đường cách mạng đúng đắn mà
Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương về sau này.
Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội II của Đảng lao động Việt Nam (21951) Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Dân ta có một lịng nồng nàn yêu nước. Đó
là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm
lăng, thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to
lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước
và lũ cướp nước". Chính nhờ kế thừa và phát huy truyền thống yêu nước trên cơ
sở tiếp thu và vận dụng sáng tạo những tinh hoa của triết học và văn hóa phương
Đơng và phương Tây mà Nguyễn ái Quốc đã ra đi tìm đường cứu nước (1911)
và đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin (1920). Con đường cứu nước đúng đắn đã
được tìm thấy. Đó là con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Con đường cứu nước bắt đúng xu thế của lịch sử, nhờ đó Hồ Chí Minh và Đảng
Cộng sản Việt Nam đã tập hợp được sức mạnh của dân tộc và của thời đại.
Ngay sau khi ra đời (1930), Đảng ta đã tuyên truyền, giác ngộ, xây dựng

lực lượng cho cuộc cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam. Qua các phong trào
1930-1931, 1936-1939, Đảng ta đã tập hợp quần chúng, tôi luyện họ trong cuộc
đấu tranh cách mạng, phát triển lực lượng mọi mặt của nhân dân ta, chuẩn bị
đón thời cơ giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc. Với đường lối chiến lược đúng
đắn, với những chính sách kịp thời và linh hoạt, nhất là từ sau Hội nghị Trung
ương lần thứ tám (5-1941), cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 đã thành
công. Cách mạng tháng Tám (1945) ở Việt Nam là cuộc cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân điển hình ở một nước thuộc địa nửa phong kiến do giai cấp công
nhân lãnh đạo. Thắng lợi ấy đã đưa dân tộc Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới,
kỷ nguyên độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội. Đó là thắng lợi của đường lối
giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, dân chủ của giai cấp công nhân, kết hợp
chặt chẽ hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến. Đó là thắng lợi của
đường lối phát huy truyền thống dân tộc với sức mạnh của thời đại, tài tình tạo
thời cơ, nắm vững thời cơ, khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Ngày 29-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngơn độc lập tại vườn hoa Ba
Đình, khai sinh ra nước Cộng hòa dân chủ Việt Nam. Người trịnh trọng tuyên
bố: "Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để xây dựng
nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế
kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hịa". Bản Tun ngơn độc lập là một trang
13


vẻ vang trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Nó chấm dứt chính thể quân chủ và chế
độ thực dân áp bức. Nó mở ra một kỷ nguyên mới dân chủ cộng hịa. Đó là bản
Tun ngơn độc lập thứ ba của dân tộc sau bản Tuyên ngôn độc lập thời Lý và
Bình Ngơ đại cáo thời Lê Lợi - Nguyễn Trãi.
Truyền thống dựng nước và giữ nước trong thời kỳ từ cách mạng tháng
Tám thành công đến nay
Ngay sau khi giành được chính quyền, chúng ta chưa có thời gian để tổ
chức và củng cố lực lượng thì tai họa đã dồn dập kéo đến. ở miền Bắc, 18 vạn
quân Tưởng (Trung Quốc) kéo vào mượn cớ tước vũ khí quân Nhật, kỳ thật là

thực hiện âm mưu tiêu diệt Đảng ta, lật đổ chính quyền cách mạng, giúp bọn
phản động tay sai như "Việt Nam quốc dân Đảng", "Việt Nam cách mệnh đồng
minh hội"... lên nắm chính quyền. ở miền Nam, được quân Anh che chở, quân
Pháp quay trở lại đánh chiếm nước ta một lần nữa.
Trong khi đó, đất nước vừa trải qua nạn đói khủng khiếp do thực dân Pháp
và phát xít Nhật gây ra vào đầu năm 1945. Nạn lụt lội cũng vừa xẩy ra ở miền
Bắc; kinh tế, tài chính nước ta kiệt quệ. Đất nước cịn bị bao vây bốn phía. Hơn
lúc nào hết, lúc này dựng nước và giữ nước phải gắn bó chặt chẽ với nhau.
Chính phủ đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra những nhiệm vụ quan
trọng để xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân; phát động chiến dịch tăng gia
sản xuất chống giặc đói, xóa nạn mù chữ, chống giặc dốt; củng cố lực lượng vũ
trang chống giặc ngoại xâm. Về đối ngoại, chính quyền cách mạng vận dụng
chính sách, sách lược khơn khéo, mềm dẻo, thêm bạn bớt thù, tranh thủ thời gian
để chuẩn bị kháng chiến lâu dài. Chính nhờ đó mà đất nước có thể vượt được
thời kỳ cực kỳ khó khăn "ngàn cân treo sợi tóc", chuẩn bị lực lượng để tiến hành
cuộc kháng chiến tất yếu sẽ xẩy ra.
Ngày 19-12-1946, cuộc kháng chiến toàn quốc bắt đầu. Nhân dân cả nước
nhất tề đứng dậy đánh giặc cứu nước trong chín năm kháng chiến trường kỳ với
hàng trăm trận đánh, nhân dân ta đã đẩy kẻ địch từ thế mạnh với âm mưu đánh
nhanh, sang thế yếu buộc phải đánh lâu dài với ta và cuối cùng đã thất bại hoàn
toàn ở Điện Biên Phủ (1954). Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ được ghi vào
lịch sử dân tộc ta và đi vào lịch sử thế giới như một chiến cơng chói lọi.
Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ (19461954), Đảng lãnh đạo nhân dân ta thực hiện chủ trương vừa kháng chiến vừa
kiến quốc, xây dựng nhà nước dân chủ tiến bộ, dần dần xóa bỏ những tàn tích
của chế độ phong kiến; hoàn thiện từng bước nhà nước của dân, do dân và vì
dân bằng cách phát huy hiệu lực của Hiến pháp 1946; xây dựng dần đời sống
kinh tế văn hóa, phát triển khoa học kỹ thuật, tạo cơ sở vật chất kỹ thuật cho một
xã hội tiến bộ.
14



Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, đế quốc Mỹ đưa bè lũ tay sai Ngơ Đình
Diệm, thay chân thực dân Pháp về miền Nam lập ra chính phủ tay sai, rồi chính
thức xâm lược nước ta. Dưới ngọn cờ của Đảng, nhân dân ta đã phát huy cao độ
truyền thống yêu nước bất khuất, đứng lên đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân
mới của Mỹ và bè lũ tay sai.
1.2. Đặc trưng truyền thống dựng nước và giữ nước
Trải qua các thời đại với chế độ chính trị - xã hội khác nhau, dưới thời
phong kiến độc lập, tự chủ, các triều đại Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Lê (hậu Lê)
đến triều Tây Sơn đã lãnh đạo nhân dân xây dựng và bảo vệ vững chắc giang
sơn. Lịch sử đã chứng minh rằng, ở các mức độ khác nhau, các triều đại phong
kiến đã có những đóng góp quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an
ninh, quốc phịng và đối ngoại, góp phần giữ n bờ cõi trước sự xâm lăng của
ngoại bang, khẳng định tinh thần độc lập, tự chủ, tự cường của dân tộc. Tinh hoa
đặc sắc về nghệ thuật cầm quyền, trị quốc trong lịch sử dân tộc Việt Nam, đặc
biệt là ở các thời thịnh, các triều đại phong kiến luôn thể hiện những tư tưởng và
thực hành nhiều chính sách quan trọng trong nghệ thuật cầm quyền, trị quốc, đó
là:
Một là, ln đề cao vai trị của nhân dân, coi "dân là gốc", từ đó tạo nên
sức mạnh cố kết cộng đồng trong tiến trình lịch sử Việt Nam để ứng phó và vượt
qua các thử thách. Trong lịch sử dân tộc ta đã có nhiều thử thách khắc nghiệt,
nhưng chính quyền luôn biết dựa vào dân, phát huy sức mạnh trong nhân dân cội nguồn sức mạnh của dân tộc.
Những điển hình trong lịch sử, như Ngơ Quyền dựa vào quân và các hào
trưởng địa phương mà đánh tan quân Nam Hán; triều Trần với Hội nghị Diên
Hồng kêu gọi toàn dân kháng chiến và ba lần đánh bại ý chí xâm lược của đế
chế Ngun - Mơng hùng mạnh nhất thế giới ở thế kỷ XIII là "nhờ cả nước giúp
sức" như lời của Quốc công tiết chế Trần Hưng Đạo.... Thời hiện đại dưới sự
lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã chiến thắng các đế quốc, thực dân hùng mạnh

15



trong thế kỷ XX cũng là nhờ vào đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh
giặc để giành và bảo vệ độc lập, tự do của dân tộc.
Hai là, coi lợi ích của dân tộc là tối thượng. Trong những giá trị thuộc
phạm trù lợi ích dân tộc thì độc lập và chủ quyền quốc gia được coi là thiêng
liêng nhất. Vua Lê Thánh Tơng với câu nói nổi tiếng "Nếu kẻ nào dám đem một
tất đất của vua Thái Tổ để lại làm mồi cho giặc, thì tội phải tru di". Hồ Quý Ly
để mất độc lập và chủ quyền vào tay quân Minh, Lê Chiêu Thống cầu cứu quân
Mãn Thanh, Nguyễn Ánh cầu cứu quân Xiêm đánh đổi chủ quyền, Bảo Đại và
ngụy quyền Sài Gòn trước năm 1975... đều bị dân tộc coi là những kẻ tội đồ với
lịch sử vì đã làm mất hoặc bán rẻ những giá trị thiêng liêng đó. Xét về góc độ trị
quốc, các triều đại hưng thịnh đều thu phục được lịng dân, huy động được sức
mạnh tồn dân khi biết đặt lợi ích quốc gia, dân tộc là tối thượng.
Ba là, cai trị mềm dẻo, khoan dung, trọng hòa hiếu. Đây là một trong
những tính cách đặc trưng của người Việt: "Nhu viễn" (mềm với phương xa), lý
đi đôi với tình là chính sách đối xử đặc biệt với các dân tộc thiểu số, nhất là ở
vùng biên viễn được thực thi từ thời Lý và trở thành nét độc đáo trong chính
sách cai trị của hầu hết các chính quyền ở Việt Nam. Bộ Luật Hồng Đức thể hiện
đậm chất nhân văn, phản ánh sinh động đặc trưng này - "Những người miền
Thượng phạm tội với nhau thì lấy tục lệ xứ ấy mà xử". Ngoại giao triều cống,
thực hiện chính sách "thần phục giả vờ, nhận sắc phong nhưng độc lập thật
sự" trong quan hệ bang giao với các triều đại phong kiến Trung Hoa là nhằm tạo
lập một cách ứng xử phù hợp và có lợi nhất cho quốc gia - dân tộc.
Bốn là, phát huy đại đồn kết dân tộc, khoan dung tơn giáo. Việt Nam là
quốc gia có nhiều tơn giáo và tín ngưỡng; là quốc gia luôn giải quyết tốt vấn đề
tôn giáo từ ngàn xưa đến nay, hầu như khơng có xung đột tôn giáo mà trái lại,
các tôn giáo quan hệ với nhau trong hợp tác và hịa thuận. Có được những kết
quả đặc sắc như vậy do những chính sách khoan dung tôn giáo, kiến tạo môi
trường hỗn dung cùng tồn tại trong hịa bình, ổn định và phát triển của nhiều tơn

giáo trong khối đại đồn kết tồn dân tộc.
16


Năm là, trọng hiền tài, coi hiền tài là nguyên khí quốc gia, là nét đặc sắc
trong nghệ thuật cầm quyền, trị quốc của Việt Nam, thể hiện qua việc mở khoa
thi kén chọn nhân tài, dụng nhân tài không kể xuất thân, không kỳ thị lỗi lầm
trong quá khứ; dựng bia đá, trọng đãi nhân tài, vun đắp nguyên khí quốc gia;
cảm hóa thu phục nhân tài tham gia kháng chiến cứu nước.
Sáu là, mở rộng dân chủ. Dân chủ dường như khơng tồn tại dưới chính thể
qn chủ, nhưng khơng ít lần các chính quyền phong kiến đã mở rộng dân chủ
để cố kết nhân tâm và tranh thủ trí tuệ của nhân dân và của quần thần, hạn chế
độc đốn, chun quyền. Đây là hiện tượng khơng hiếm gặp dưới các triều đại
quân chủ, tập quyền chuyên chế, như Hội nghị Bình Than, Hội nghị Diên Hồng
thời Trần để lấy ý kiến các vương hầu và đại diện bô lão trong cả nước để bàn kế
sách đánh giặc khi giặc Nguyên - Mông chuẩn bị kéo sang xâm lăng bờ cõi nước
ta; định chế cộng đồng, chế độ Đình nghị dưới triều Minh Mạng để thảo luận,
bàn bạc đề xuất với vua về những vấn đề liên quan đến đất nước, làng xã...
II. PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG DỰNG NƯỚC VÀ GIỮ NƯỚC
TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI HIỆN NAY
2.1. Một số yêu cầu phát huy truyền thống dựng nước và giữ nước
của dân tộc trong sự nghiệp đổi mới, hội nhập và phát triển đất nước.
Kế thừa những tinh hoa đặc sắc về nghệ thuật cầm quyền, trị quốc trong
lịch sử dân tộc Việt Nam, trong hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo, các cấp ủy, chính
quyền cần phải quan tâm và thực thi những vấn đề trọng yếu sau:
Thứ nhất, phải ln đặt lợi ích quốc gia - dân tộc là tối thượng. Bất kể chế
độ chính trị nào muốn tồn tại, ổn định và phát triển lâu dài khơng thể khơng
quan tâm đến lợi ích quốc gia - dân tộc, vận mệnh của đất nước. Vì thế, trong
bối cảnh tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có những diễn biến nhanh chóng,
phức tạp, khó lường, có sự đan xen giữa “phát triển và bất ổn”, “biến động và

khủng hoảng”, “hợp tác và cạnh tranh”, các cấp ủy đảng, chính quyền, mọi tổ
chức, cá nhân khơng được phép xem nhẹ lợi ích của quốc gia - dân tộc, phải
17


tránh những tư tưởng, hành động vì lợi ích cục bộ của ngành, lĩnh vực mà bỏ
qua, bất chấp làm ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia - dân tộc. Bất luận ở hoàn
cảnh nào cũng phải bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ quốc gia; bảo vệ chế độ và thành quả cách mạng xã hội chủ nghĩa;
bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân. Đồng thời, phải kiên quyết đấu tranh làm
thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn và hành động chống phá của các thế lực thù địch,
phản động làm phương hại đến lợi ích quốc gia - dân tộc Việt Nam.
Thứ hai, tăng cường, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Ngay từ khi mới ra đời và trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta ln xác
định đại đồn kết tồn dân tộc là đường lối chiến lược, là nguồn sức mạnh, động
lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định thắng lợi của cách mạng Việt
Nam. Trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước hiện nay, càng
phải tăng cường hơn nữa khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy mạnh mẽ mọi
nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân; đề cao tinh thần dân tộc,
truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người
Việt Nam ở trong và ngoài nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc.
Để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thì mọi chủ trương, chính
sách của các cấp ủy đảng, chính quyền phải xuất phát từ lợi ích của nhân dân,
quan tâm thực sự đến cuộc sống của nhân dân; bảo vệ quyền và lợi ích chính
đáng, hợp pháp của nhân dân; không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần
của nhân dân. Đồng thời, tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công tác tôn giáo, cơng tác dân tộc;
các chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi; tơn trọng
quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo của mọi người theo quy định của pháp luật.

Qua đó, tăng cường sự đồng thuận giữa những người có tín ngưỡng, tơn giáo và
những người khơng tín ngưỡng, tơn giáo, giữa những người có các tín ngưỡng,
tơn giáo khác nhau; đồng thời, tích cực đấu tranh chống những biểu hiện, hành
18


vi tà đạo, mê tín, dị đoan, lợi dụng tơn giáo làm phương hại đến lợi ích của Tổ
quốc và nhân dân.
Thứ ba, trong nhận thức và hành động phải đảm bảo nhất quán quan
điểm "Dân là gốc", "Dân là chủ"; tiếp tục quán triệt nâng cao nhận thức trong
các cấp ủy đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân chỉ
dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích
đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân” [1], “Thực hành dân chủ là cái
chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn” [2] và các quan điểm, nghị
quyết, chỉ thị của Đảng về thực hành và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo
đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; về vai trò, sức mạnh to lớn
của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong mọi hoạt động của cấp ủy đảng, chính quyền phải bảo đảm dân chủ
được thực hiện một cách đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội; bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa
ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân; thực hiện tốt
phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; tăng cường xây dựng
đội ngũ đảng viên thật sự tiên phong, gương mẫu, phải thật sự trọng dân, gần
dân, hiểu dân, học dân, có trách nhiệm cao với dân; khắc phục tệ quan liêu, tham
nhũng, mất dân chủ, xa rời quần chúng nhân dân.
Thứ tư, quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng đội ngũ cán bộ trong sạch,
vững mạnh; thu hút, trọng dụng nhân tài. Truyền thống coi trọng nhân tài được
kế thừa, phát huy qua nhiều thời kỳ lịch sử và tiếp tục được Chủ tịch Hồ Chí
Minh vận dụng để thu hút, trọng dụng nhân tài. Để tiếp tục thực hiện có hiệu quả

vấn đề này trong thời gian tới, các cấp ủy, chính quyền cần quan tâm phát hiện,
thu hút và trọng đãi người tài; chú trọng đầu tư phát triển giáo dục - đào tạo,
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao để
thích ứng với cuộc cách mạng cơng nghiệp lần thứ tư; xây dựng và nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ các cấp có đạo đức và tài năng; ngăn chặn, đẩy lùi
19


suy thối tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến",
"tự chuyển hóa" trong nội bộ; tăng cường kiểm soát và đấu tranh chống sự suy
thối, tha hóa quyền lực, gia trưởng, mất dân chủ; chú trọng công tác tuyển
dụng, đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bố trí, sử dụng cán bộ, có chính sách trọng
dụng, đãi ngộ, tôn vinh thỏa đáng đối với người có tài năng theo tinh thần Nghị
quyết số 26-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII) về tập trung
xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực
và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước.
Thứ năm, lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, tăng cường quốc phịng, an ninh, đối ngoại. Nhìn lại lịch sử dân
tộc Việt Nam, ông cha ta đều rất chú trọng "Dựng nước phải đi đôi với giữ
nước", "Giữ nước từ khi nước chưa nguy", thực hiện chính sách "trong ấm
ngồi êm", "Vua tơi đồng lịng, anh em hòa thuận... Khoan thư sức dân làm kế
sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước"... vì vậy, ngày nay, các cấp ủy,
chính quyền phải quan tâm phát huy sức mạnh bên trong của đất nước, bảo vệ
Tổ quốc bằng sức mạnh tổng hợp của đất nước về chính trị, tư tưởng, sức mạnh
của nền kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, bằng sự trong sạch của
đội ngũ cán bộ, đảng viên, bằng sức mạnh của cả hệ thống chính trị và phát huy
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, sức mạnh thời đại, đề cao văn hóa dân tộc.
Tiếp tục chăm lo xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong
sạch, vững mạnh, củng cố hệ thống chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, tăng
cường khối đại đoàn kết tồn dân, xây dựng tiềm lực quốc phịng - an ninh, xây

dựng thế trận quốc phịng tồn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc, thực
hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hợp tác và phát
triển, đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại, chủ động và tích cực
hội nhập quốc tế, là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng
đồng quốc tế là những yêu cầu cấp bách, nhiệm vụ thường xuyên đặt ra cho các
cấp ủy đảng, chính quyền trong giai đoạn hiện nay.

20


Lịch sử là một quá trình vận động liên tục từ quá khứ tới hiện tại và tương
lai, trong đó nổi bật lên là quy luật kế thừa, kế thừa những tinh hoa mà cha ơng
đã để lại. Vì vậy, việc vận dụng và phát huy những di sản truyền thống đó trong
hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền là vấn đề có ý
nghĩa hết sức quan trọng đối với việc xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.
2.2. Một số giải pháp phát huy truyền thống dựng nước và giữ nước
của dân tộc trong sự nghiệp đổi mới, hội nhập và phát triển đất nước.
Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý của Nhà nước đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Thực hiện phương châm “Phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng
là then chốt, xây dựng, củng cố quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu,
thường xuyên”, chúng ta cần tập trung xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị,
tư tưởng, tổ chức và đạo đức; tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong toàn
Đảng. Tiếp tục kiện toàn, đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của
các tổ chức cơ sở đảng; làm tốt công tác bảo vệ Đảng, bảo vệ chính trị nội bộ,
ngăn chặn cài cắm, móc nối, chống các biểu hiện tiêu cực trong công tác cán bộ.
Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ
phẩm chất, năng lực và uy tín ngang tầm nhiệm vụ. Tăng cường kiểm tra, kiểm
soát của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, giám sát, phản biện xã hội, cơ chế kiểm

soát quyền lực, giữ nghiêm kỷ luật của Đảng, pháp luật Nhà nước; khắc phục
triệt để tình trạng “trên nóng, dưới lạnh” - Trung ương lãnh đạo, chỉ đạo quyết
liệt, chặt chẽ, nhưng cơ sở lại chần chừ, buông lỏng hoặc đường lối, chính sách
thì đúng, triển khai thực hiện không triệt để, hiệu quả. Chú trọng thực hiện tốt
công tác dân vận, xây dựng mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, củng
cố vững chắc niềm tin của nhân dân với Đảng, tăng cường khối đại đoàn kết
toàn dân tộc.
21


Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận, hoàn thiện phương
thức, cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quốc phòng. Nghiên cứu những vấn đề
mới, phát triển lý luận về xây dựng Đảng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc để tham
mưu, đề xuất với Trung ương trong nhiệm kỳ tới. Tiếp tục quán triệt, thực hiện
nghiêm túc Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng;
Quy định 47-QĐ/TW, ngày 01-11-2011 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
về những điều đảng viên không được làm; Quy định 101-QĐ/TW, ngày 07-62012 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về trách nhiệm nêu gương của cán bộ,
đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp; Chỉ thị 05-CT/TW, ngày
15-5-2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh; Quy định 205-QĐ/TW, ngày 23-9-2019 của Bộ Chính
trị về việc kiểm sốt quyền lực trong cơng tác cán bộ và chống chạy chức, chạy
quyền, v.v. Tích cực đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hịa
bình” của các thế lực thù địch, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thối về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa”, kiên quyết khơng để hình thành các tư tưởng, tổ
chức chính trị đối lập, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và hoạt động của chính
quyền các cấp; thực hiện nghiêm chỉnh Hiến pháp, Luật Quốc phòng, các chiến
lược về quốc phòng, an ninh cả trong thời bình và thời chiến; củng cố, kiện tồn
cơ quan, cán bộ làm cơng tác quốc phịng ở các bộ, ngành, địa phương. Nâng

cao năng lực hoạch định đường lối, thể chế hóa và tổ chức thực hiện chủ trương,
nghị quyết về quốc phòng của các cấp, các ngành từ Trung ương đến cơ sở; khả
năng hiện thực hóa mục tiêu, quan điểm, phương châm, nhiệm vụ, giải pháp của
các chiến lược quốc phòng, an ninh7 vào thực tiễn. Thường xuyên giữ vững
nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội nhân
dân, Công an nhân dân và nhiệm vụ quốc phòng, an ninh; phát huy vai trò nòng
cốt của Quân đội nhân dân trong sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ
quốc.
22


Hai là, chú trọng phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng đất nước giàu mạnh,
nâng cao chất lượng cuộc sống và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Để thực hiện mục tiêu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại, tăng cường tiềm lực kinh tế, sẵn sàng huy động cho
nhiệm vụ quốc phịng khi có tình huống, chúng ta cần thực hiện đồng bộ nhiều
giải pháp khoa học, phù hợp. Trong đó, cần tiếp tục đổi mới, sáng tạo cơng tác
lãnh đạo, quản lý kinh tế - xã hội, tập trung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập
quốc tế, đa dạng hóa các mơ hình kinh tế, hình thức sở hữu, vận hành đầy đủ,
đồng bộ, hiệu quả theo quy luật kinh tế thị trường. Thực hiện nhiều biện pháp
bảo đảm phát triển nhanh, bền vững đất nước trên cơ sở ổn định kinh tế vĩ mô,
không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh. Tập
trung xây dựng thể chế, cơ chế, chính sách, tạo mơi trường, điều kiện ngày càng
thuận lợi, an toàn cho người dân, doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân tự
do sáng tạo, đầu tư, kinh doanh và tự chủ, cạnh tranh bình đẳng, minh bạch
trong kinh tế thị trường, tạo động lực phát triển các thành phần kinh tế khác.
Quá trình phát triển phải bảo đảm hài hòa cả chiều rộng và chiều sâu, ưu tiên
phát triển chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức, kinh tế xanh; chú trọng kết hợp
phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ mơi trường, ứng phó với

biến đổi khí hậu. Chủ động tham gia và tận dụng cơ hội của cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư để gia tăng tốc độ phát triển kinh tế nhanh và bền vững.
Đặc biệt là kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc
phòng, an ninh trong các quy hoạch, kế hoạch, định hướng phát triển; mọi mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội đều phải gắn chặt với mục tiêu quốc phòng, an
ninh, chú trọng bảo đảm an ninh kinh tế, xây dựng, mở rộng và nâng cao hiệu
quả hoạt động các khu kinh tế quốc phòng, nhất là ở địa bàn trọng điểm, chiến
lược. Chuẩn bị đầy đủ, chu đáo kế hoạch, phương án động viên các lĩnh vực của
xã hội, trọng tâm là lĩnh vực kinh tế cho chiến tranh và tổ chức kiểm tra chặt
chẽ, rà soát bổ sung thường xuyên. Cùng với kinh tế, phải coi trọng xây dựng
23


tiềm lực khoa học - công nghệ, tiềm lực quốc phòng, an ninh,… vững mạnh, đáp
ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống.
Thực hiện dân chủ, tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội,
từng bước nâng cao phúc lợi xã hội, chăm lo cải thiện đời sống của nhân dân;
tiếp tục nghiên cứu, thực hiện các chính sách giảm thuế nơng nghiệp, quyết tâm
từng bước thu hẹp khoảng cách giàu nghèo; đẩy mạnh thực hiện các chương
trình, cuộc vận động, phong trào, như: “Xây dựng nông thôn mới”, “Cả nước
chung tay vì người nghèo - khơng để ai bị bỏ lại phía sau”,… bảo đảm cho nhân
dân tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của chính
quyền; từ đó, phát huy trách nhiệm, tâm huyết, trí tuệ trong sản xuất, kinh
doanh, xây dựng, phát triển kinh tế, giữ gìn an ninh trật tự, bảo vệ địa bàn. Phát
huy cao độ quyền dân chủ của nhân dân trong hoàn thiện và thực thi pháp luật,
cơ chế, chính sách phát triển kinh tế - xã hội; bảo đảm quyền con người, quyền
công dân; xây dựng nền hành chính hiện đại, chuyên nghiệp, năng động, trách
nhiệm, lấy phục vụ nhân dân và lợi ích quốc gia - dân tộc là mục tiêu cao nhất.
Trong quá trình thực hiện, cần tận dụng tối đa các nguồn lực trong nước với chủ
động hội nhập quốc tế, nhằm huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực bên

ngoài, hoàn thành các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Đó chính là mục tiêu
xây dựng đất nước giàu mạnh, củng cố “thế trận lòng dân” ngày càng vững chắc.
Ba là, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, làm nòng cốt
trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”.
Tăng cường sức mạnh quốc phòng, nâng cao khả năng phòng thủ đất
nước, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng
yếu, thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, tồn qn, của cả hệ thống chính
trị, trong đó lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt. Trên cơ sở phát huy sức
mạnh tổng hợp giữ nước, với sức mạnh quân sự là đặc trưng và sức mạnh của
Quân đội là chủ yếu, kết hợp quốc phòng với an ninh, chính trị, kinh tế, văn hóa,
24


khoa học và đối ngoại, nhằm ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, đánh bại
mọi âm mưu và hành động phá hoại, lấn chiếm, khuất phục, lật đổ của các thế
lực thù địch trong thời bình, giữ vững hịa bình, tạo mơi trường thuận lợi để phát
triển đất nước về mọi mặt, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược dưới mọi
quy mơ, hình thức. Muốn vậy, trước hết, cần tập trung xây dựng Quân đội nhân
dân “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, lấy xây dựng về
chính trị làm cơ sở, nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, hồn
thành tốt vai trị nòng cốt trong bảo vệ Tổ quốc. Tập trung xây dựng cho cán bộ,
chiến sĩ có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, có ý chí quyết tâm cao; trung thành tuyệt đối, sẵn sàng chiến
đấu hy sinh, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi
ích quốc gia - dân tộc. Cùng với đó, cần tăng cường cảnh giác, chủ động phịng,
chống có hiệu quả âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hịa bình”, thúc đẩy “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” Quân đội; kiên quyết đấu tranh
chống “dân sự hóa”, hạ thấp, phủ nhận vai trị của Qn đội, gây mâu thuẫn giữa
Quân đội với Công an của các thế lực thù địch,… tiếp tục bảo vệ, phát huy phẩm
chất, truyền thống của Quân đội trong điều kiện mới.

Đẩy mạnh quán triệt, thực hiện Kết luận 16-KL/TW, ngày 07-7-2017 của
Bộ Chính trị về tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam đến năm 2021, xây dựng
Quân đội theo hướng “tinh, gọn, mạnh, linh hoạt”, có cơ cấu tổ chức hợp lý,
chất lượng tổng hợp, sức chiến đấu ngày càng cao, hồn thành tốt sứ mệnh được
giao. Theo đó, cấp ủy, chỉ huy các cấp trong toàn quân cần tập trung lãnh đạo,
chỉ đạo đồng bộ, quyết liệt các giải pháp, kết hợp chặt chẽ công tác tư tưởng, tổ
chức với cơng tác chính sách; đổi mới nội dung, phương pháp huấn luyện, nâng
cao trình độ, khả năng sẵn sàng chiến đấu cho bộ đội chủ lực, bộ đội địa
phương, dự bị động viên và dân quân tự vệ. Đồng thời, tiếp tục quán triệt, thực
hiện hiệu quả các nội dung, chỉ tiêu huấn luyện, đào tạo trong Nghị quyết 765NQ/QUTW, ngày 20-12-2012 về nâng cao chất lượng huấn luyện giai đoạn 2013
- 2020 và những năm tiếp theo và Chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong
25


×