LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Liên minh châu Âu (EU hay European Union) là một chủ thể quốc tế có vai trị rất quan trọng
trên bàn cờ chính trị thế giới và cũng là một trụ cột lớn mạnh của nền kinh tế toàn cầu. Với 27 quốc
gia, EU đã phát triển một thị trường chung thông qua một hệ thống pháp luật tiêu chuẩn áp dụng cho
tất cả các nước thành viên và hệ thống tiền tệ chung Euro được chấp nhận tại 16 nước tạo nên khu
vực đồng Euro, nhằm đảm bảo sự lưu thông tự do của con người, hàng hóa, dịch vụ và vốn. EU đã
phát triển một vai trò nhất định trong chính sách đối ngoại, có đại diện trong Tổ chức Thương mại
Thế giới, G8, G20 và Liên hiệp quốc.
Mặc dù chỉ chiếm 7% dân số thế giới nhưng EU vẫn là nền kinh tế đứng đầu với 17,427 tỉ USD
vào năm 2014 (theo số liệu của World Bank), đóng góp 25,2% vào GDP tồn thế giới và khơng ngừng
tăng lên, chứng tỏ tác động mạnh mẽ to lớn đến nền kinh tế toàn cầu. Liên minh châu Âu cũng đạt
được sản lượng xuất khẩu và nhập khẩu lớn nhất thế giới về hàng hóa và dịch vụ, đồng thời cũng là
đối tác thương mại lớn nhất đối với các thị trường lớn trên thế giới như Ấn Độ và Trung Quốc.
Trong quan hệ với Việt Nam, EU hiện đang là một trong những đối tác thương mại hàng đầu với
kim ngạch hai chiều năm 2019 đạt 56,45 tỷ USD, trong đó xuất khẩu đạt 41,5 tỷ USD, nhập khẩu từ
EU đạt 14,9 tỷ USD. Sau khi kí kết Hiệp định thương mại tự do (EVFTA) và Hiệp định bảo hộ đầu
tư (IPA), quan hệ giữa Việt Nam và EU ngày càng được mở rộng cả về kinh tế, thương mại, đầu tư...,
EU trở thành thị trường xuất khẩu đầy tiềm năng và hứa hẹn của Việt Nam. Tuy nhiên, chinh phục
thị trường này không phải là điều dễ dàng khi tồn tại những khác biệt và yêu cầu khắt khe của EU
đối với hàng nhập khẩu. Vì vậy, để góp phần thúc đẩy mối quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam EU sao cho tương xứng với tiềm năng và mong đợi của hai bên, ta cần đi sâu vào tìm hiểu về thị
trường cũng như các hoạt động thương mại quốc tế của khu vực này.
1.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập tài liệu: Các tài liệu, các bài báo và internet về EU, tác
động của EU đến kinh tế
Phương pháp tổng hợp tài liệu: Các tài liệu sau khi được thu thập sẽ được phân tích, tổng hợp và áp
dụng phương pháp so sánh, chọn lọc để sử dụng nghiên cứu.
1.
Bố cục đề tài
Trong tiểu luận này, ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục bảng biểu, tham khảo và Phụ lục, đề
tài có bố cục gồm 3 chương:
Chương I: Tổng quan về Liên minh châu Âu
Chương II: Hoạt động Thương mại quốc tế của EU trong những năm vừa qua
Chương III: Quan hệ giữa thương mại quốc tế giữa Việt Nam và EU
Chúng em xin chân thành cảm ơn Cô Vũ Huyền Phương - giảng viên khoa Kinh doanh Quốc tế
đã nhiệt tình giảng dạy và giúp đỡ chúng em trong q trình học tập mơn Chính sách thương mại
quốc tế đã tạo điều kiện tốt nhất cho chúng em để nhóm hồn thành bài tiểu luận một cách hiệu quả
nhất. Bước đầu làm quen với công tác nghiên cứu khoa học cũng như hạn chế về kiến thức và kinh
nghiệm nên không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định mà bản thân nhóm chưa thấy được. Chúng
em rất mong được sự góp ý của cô và các bạn để bài tiểu luận này được hoàn thiện hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
Chương I: Tổng quan về Liên minh châu Âu – EU
1. Giới thiệu chung
Liên minh châu Âu (the European Union - EU) có tên gọi tiền thân trước năm 1993 là Cộng đồng
châu Âu (the European Communities). Trụ sở chính của EU đặt tại Brussels (Thủ đô của Bỉ)
● EU hiện có 27 nước thành viên, bao gồm: Áo, Bỉ, Bulgaria, Croatia, Síp, Séc, Đan Mạch, Estonia,
Phần Lan, Pháp, Đức, Hy Lạp, Hungary, Ireland, Ý, Latvia, Litva, Luxembourg, Malta, Hà Lan,
Ba Lan, Bồ Đào Nha, Romania, Slovakia, Slovenia, Tây Ban Nha, Thuỵ Điển, với diện tích
4.211.484 km2 (nước có diện tích lớn nhất là Pháp và nhỏ nhất là Malta). Dân số đạt khoảng hơn
400 triệu người, chiếm 7,3% dân số thế giới (nước thành viên có dân số đơng nhất là Đức với hơn
82 triệu người và nhỏ nhất là Malta với 0.4 triệu người). GDP của EU vào khoảng 17,57 nghìn tỷ
USD, thu nhập bình quân đạt 33.248 USD/người/năm
●
1.
Quá trình hình thành và phát triển của EU
Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc để lại một nền kinh tế kiệt quệ cho các nước Tây Âu. Họ
cần thấy sự cần thiết phải hợp tác chặt chẽ hơn nữa giữa các nước trong khu vực với nhau để xây
dựng và ngăn chặn chiến tranh, đặc biệt chú trọng vào phát triển kinh tế. Cũng vào thời điểm này,
bộ mặt nền kinh tế thế giới đã có những thay đổi to lớn. Đó cũng là do sự phát triển lực lượng sản
xuất, sự phát triển vũ bão của cách mạng khoa học kỹ thuật. Thêm vào đó, sau chiến tranh, Mỹ đã
thực sự trở thành siêu cường về kinh tế và chính trị với ý đồ làm bá chủ thế giới. Do vậy, các nước
Tây Âu không thể không hợp tác phát triển kinh tế và thông qua việc tăng cường kinh tế giữa họ
với nhau để thiết lập một tổ chức siêu quốc gia nhằm điều hành phối hợp hoạt động kinh tế khu
vực. Ý tưởng thống nhất châu Âu đã có từ lâu vào thời điểm này đã dần trở thành hiện thực.
● Sau hơn 60 năm hình thành và phát triển, EU được xây dựng từng bước với mức độ liên kết giữa
các thành viên càng mở rộng và sâu sắc trên nhiều lĩnh vực. Cùng với phát triển về chiều sâu, EU
cũng trải qua nhiều đợt mở rộng, kết nạp nhiều thành viên mới. Q trình đó gắn liền với những
mốc phát triển quan trọng.
●
1. Tình hình nền kinh tế EU hiện nay
EU là một thực thể chính trị và kinh tế lớn, quan trọng hàng đầu thế giới. EU có ⅕ nước thành viên
thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc, 3/7 nước cơng nghiệp hàng đầu thế giới (nhóm G7)
và 3/20 nước trong nhóm G20.
● Trong quý II-2020, kinh tế Eurozone đã bị tác động mạnh bởi cuộc khủng hoảng Covid-19 khi
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) giảm 12,1%, mức giảm mạnh nhất kể từ năm 1995. Ðáng lo ngại
là tất cả các nền kinh tế đầu tàu của khu vực, kể cả những nền kinh tế từng đứng vững trước các
cuộc khủng hoảng tài chính trước đây như Ðức và Pháp, cũng chứng kiến sự suy giảm mạnh. Viện
Thống kê quốc gia Pháp cho biết, nền kinh tế Pháp đã giảm 13,8% trong quý II do tác động của
các biện pháp phong tỏa chống dịch. Trong khi đó, số liệu thống kê tại các nền kinh tế lớn khác
của châu Âu cũng đã tô đậm thêm bức tranh kinh tế đen tối của lục địa già. Ðức thông báo GDP
sụt 10,1%, GDP của Italia giảm 12,4%, GDP của Bồ Ðào Nha giảm 14,1% và Tây Ban Nha ghi
nhận GDP giảm tới 18,5%. Trong khi đó, đồng Euro gần đây tăng giá mạnh so với đồng bạc xanh
của Mỹ cũng gây khó khăn cho hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp châu Âu. Kể từ giữa
tháng 5 đến nay, đồng Euro đã tăng hơn 10% so với USD.
●
Chương II: Hoạt động thương mại quốc tế của EU những năm vừa qua
I.
HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA EU
EU là một thị trường rộng lớn, những nước trong khối rất coi trọng hoạt động xuất nhập khẩu đặc biệt
là hoạt động xuất khẩu. Chính vì thế theo báo World trade in goods năm 2018, EU vươn lên đứng thứ hai
thế giới về xuất khẩu (chiếm 15,8% tổng giá trị xuất khẩu thế giới) chỉ đứng sau Trung Quốc với rất cơ cấu
hàng hóa đa dạng, thị trường trao đổi rộng lớn và hàng loạt các chính sách khuyến khích, thúc đẩy xuất khẩu.
1, Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu
Theo Trend Economy, giá trị xuất khẩu của các nước Liên minh châu Âu gần đây đều ở mức rất cao.
Bảng 1: Tổng giá trị xuất khẩu của EU từ 2015 đến 2019
Năm
Tổng giá trị
xuất khẩu (tỷ USD)
2015
1983
2016
1930
2017
2121
2018
2308
2019
2281
(Nguồn: TrendEconomy)
Có thể nhận thấy tổng giá trị xuất khẩu của EU năm 2019 đã tăng 17,1% so với năm 2015 nhưng giảm
nhẹ 2,7% so với năm 2018.
Theo Worldstopexport, 10 ngành hàng xuất khẩu chủ lực của Liên minh Châu Âu chiếm 62,6% tổng giá
trị xuất khẩu năm 2019. Trong đó có thể kể đến:
- Máy móc thiết bị (bao gồm cả máy tính): 894.7 tỷ USD (chiếm 14,2% tổng giá trị xuất khẩu)
- Phương tiện (ô tô, xe motor): 745.2 tỷ USD (11.8%)
- Máy móc, thiết bị điện: 599.3 tỷ USD (9.5%)
- Dược phẩm: 425.5 tỷ USD (6.8%)
- Khoáng sản (bao gồm cả dầu thơ): $342.4 billion (5.4%)
Qua các năm, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của EU cũng có ít nhiều biến động.
Hình 1: Cơ cấu các ngành hàng xuất khẩu của EU (Nguồn: Eurosat)
Theo số liệu được lấy từ Trade Map, 10 sản phẩm chiếm tỷ trọng xuất khẩu cao nhất của EU là ô tô
($411,321,782,000), thuốc ($259,315,575,000), dầu mỏ đã qua chế biến ($199,168,970,000), các phần
máu ($137,254,313,000), các thiết bị điện thoại bao gồm cả điện thoại thơng minh ($104,665,057,000),
máy tính ($88,790,333,000), tàu bay, tàu không gian ($88,107,633,000), phản lực ($78,206,500,000),
thiết bị y tế ($59,785,363,000).
Theo số liệu thống kê mới nhất từ trang Europa (Newsrelease, 2020), dịch bệnh covid 19 đã ảnh
hưởng rất lớn đến tình hình kinh tế của EU, đặc biệt là hoạt động xuất nhập khẩu. Về hoạt động xuất
khẩu, từ tháng 1 đến tháng 7 năm 2020, tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa của những nước trong Liên minh
Châu Âu là 1196 tỷ euro (giảm 12,4% so với cùng kỳ năm 2019). Theo ước tính ban đầu, hầu hết các
ngành hàng xuất khẩu chủ lực đều có xu hướng giảm trong 7 tháng đầu năm nay.
Bảng 2: Giá trị xuất khẩu các ngành hàng 7 tháng đầu năm 2019 và 2020
Nguồn: Europa (2020)
Có thể nhận ra, dịch bệnh Covid 19 không chỉ khiến cho hoạt động giao thương giữa EU với các nước
trong khu vực và ngoài khu vực khó khăn mà cịn làm đình trệ hoạt động sản xuất khiến cho nền kinh tế
của Liên minh Châu Âu liên tục bị chao đảo. Tuy nhiên, khi tình hình dịch bệnh đã được kiểm soát, nền
kinh tế của EU nói riêng và thế giới nói chung đang từng bước phục hồi.
2, Cơ cấu thị trường xuất khẩu của EU
Cùng với lượng hàng hóa dồi dào, phong phú, hoạt động trao đổi ngoại thương của EU với các nước
cũng vô cùng sôi nổi. Các nước Liên minh Châu Âu trao đổi hàng hóa với hầu hết các quốc gia trên các
khu vực.
Có thể giá trị xuất khẩu của EU sang các nước Châu Âu là cao nhất (đóng góp 750 tỷ euro vào tổng
giá trị xuất khẩu của EU); trong đó tổng giá trị xuất khẩu sang Anh chiếm 14,9%, sang Liên bang Nga là
4,1%, sang Thụy Sĩ là 6,9% và Thụy Điển là 3,2%. Có thể khẳng định đây là thị trường xuất khẩu rộng
lớn và rất có tiềm lực của EU bởi Châu Âu là một châu lục phát triển với những quốc gia thịnh vượng,
giàu có. Hơn thế nữa, những lợi thế về khoảng cách cùng những hiệp định “ưu đãi” đã thúc đẩy quá trình
xuất khẩu của các nước trong khối Liên minh Châu Âu với các nước khác trong cùng châu lục. Không
chỉ chú trọng vào thị trường Châu Âu, EU còn liên tục mở rộng thị trường sang các nước Châu Á, Châu
Phi và các nước Mỹ Latinh. Bằng chứng chính là giá trị xuất khẩu vào các nước này qua từng năm ngày
càng tăng.
Bảng 3: Tổng giá trị xuất khẩu của EU tới các khu vực từ 2016 đến 2019
Nguồn: Eurostat
Bên cạnh đó, theo số liệu của Eurostat, những nước chiếm thị phần xuất khẩu lớn nhất trong những năm
gần đây là Mỹ, Trung Quốc, Anh, Nga, Thụy Điển, Thụy Sỹ.
Hình 2:Các thị trường xuất khẩu chủ yếu của EU
Nguồn: Eurostat
Trong cả 2 năm 2018 và 2019, có thể nhận thấy Mỹ là thị trường rộng lớn tiếp nhận các mặt hàng xuất
khẩu của EU với tỷ trọng năm 2018 là 16% và 2019 là 18%. Phần trăm xuất hàng hóa sang Mỹ của các
nước Liên minh Châu Âu ln ổn định, thậm chí ngày càng tăng chứng tỏ Mỹ chính là một trong những
bạn hàng quan trọng nhất của EU. Thêm vào đó có thể kể đến Trung Quốc khi tỷ trọng xuất khẩu của Eu
đến quốc gia này trong năm 2009 đến năm 2019 tăng từ 6% lên 9%.
Trong 7 tháng đầu năm 2020, Trung Quốc đã vượt qua Mỹ và trở thành đối tác trao đổi thương mại lớn
nhất của EU. Tình hình dịch bệnh căng thẳng đã khiến cho nhiều nước phải “đóng cửa”, hoạt động trao
đổi bị ngưng trệ.
Bảng 4: Giá trị xuất khẩu của EU đến các nước 7 tháng đầu năm 2019 và 2020
Nguồn: Europa (2020)
Có thể nhận thấy giá trị xuất khẩu từ EU đến các nước đã giảm đi đáng kể trong những tháng đầu năm
2020. Đặc biệt tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa của Liên minh Châu Âu giảm hẳn 20.5%, sau đó là Nhật
Bản giảm 10.1%.
3, Các chính sách xuất khẩu của EU
Là một trong những thị trường có hoạt động thương mại sơi nổi nhất trên thế giới, EU ln có những
chính sách quản lý và khuyến khích xuất nhập khẩu, đặc biệt là hoạt động xuất khẩu. Liên minh Châu
Âu ln có những chính sách thương mại đối những nước ngoài EU giúp mở rộng thị trường, thúc đẩy,
tạo ra cơ hội cho các công ty của các nước thành viên; những chính sách đảm bảo cơng bằng với các
nước thành viên nội khối.
3.1. Những chính sách liên quan đến thuế xuất khẩu
Để khuyến khích xuất khẩu và mở rộng sản xuất của các nước thành viên và các doanh nghiệp, EU không
áp dụng thuế xuất khẩu một cách rộng rãi cho các mặt hàng. Bên cạnh đó, EU liên tục đàm phán những
hiệp định song phương và tham gia mạnh mẽ vào các cuộc đàm phán của WTO, với mục đích mở rộng
phạm vi của các hiệp định thương mại mà EU đàm phán, với hợp tác quy định, tiêu chuẩn lao động và
môi trường, đầu tư, mua sắm chính phủ và chính sách cạnh tranh hiện là những đặc điểm cốt lõi của các
hiệp định đó.
3.2. Những chính sách khuyến khích xuất khẩu
- Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu khơng có nhiều thay đổi nên các nước trong Liên minh Châu Âu vẫn tập
trung sản xuất những sản phẩm xuất khẩu chủ lực (máy móc thiết bị, phương tiện giao thơng, hóa chất...)
- Ngồi ra, theo trang Europa (Support for exporters ,n.d)EU ln có những chính sách hỗ trợ doanh
nghiệp, liên quan trực tiếp đến những thị trường xuất khẩu lớn của EU
+Mạng lưới các doanh nghiệp Liên minh Châu Âu: Mạng lưới giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME)
của EU đổi mới và phát triển trên phạm vi quốc tế; cung cấp chuyên môn kinh doanh quốc tế với kiến
thức địa phương thông qua một loạt các dịch vụ mục tiêu (quan hệ đối tác, tư vấn, hỗ trợ đổi mới)
+Dự án hỗ trợ về quyền sở hữu trí tuệ của EU: Bộ phận trợ giúp quyền sở hữu trí tuệ châu Âu cung cấp
hỗ trợ đầu tiên miễn phí về các vấn đề quyền sở hữu trí tuệ và quyền sở hữu trí tuệ cho những người thụ
hưởng từ các dự án nghiên cứu do EU tài trợ và các doanh nghiệp vừa và nhỏ của EU tham gia vào các
thỏa thuận đối tác xuyên quốc gia, đặc biệt là trong Mạng doanh nghiệp châu Âu (EEN).
+Trung tâm kết nối EU- Nhật Bản: Quản lý các hoạt động liên quan đến chính sách và hỗ trợ kinh doanh
được thiết kế để giúp mang các doanh nghiệp châu Âu và Nhật Bản lại với nhau.
+Trung tâm kinh tế EU-Asean (EABC): Mục tiêu là góp phần cải thiện thương mại và đầu tư cho các
công ty châu Âu tại Thái Lan và tăng cường thương mại và đầu tư của châu Âu vào Thái Lan.
+Mạng lưới liên kết kinh tế EU-Indonesia (EIBN): Thúc đẩy Indonesia và ASEAN là điểm đến đầu tư
và thương mại tiềm năng giữa các công ty từ tất cả các quốc gia thành viên EU28, đặc biệt là các doanh
nghiệp vừa và nhỏ.
+ Mạng lưới liên kết kinh tế EU-Việt Nam (EVBN): Mục tiêu là tăng cường xuất khẩu và đầu tư của EU
vào Việt Nam và các doanh nghiệp Việt Nam.
II.
HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU CỦA EU
1. Cơ cấu nhập khẩu
Sản phẩm thô chiếm khoảng 29,74 kim ngạch nhập khẩu hàng năm, sản phẩm chế tạo chiếm trên
67.19%, các sản phẩm khác chiếm khoảng 3,07%. Trong đó các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là nơng sản
chiếm 11,77%; máy móc thiết bị chiếm 24,27%; thiết bị vận tải chiếm trên 8,19%, hóa chất chiếm 7,59%
và các sản phẩm khác chiếm 27,11% trên tổng kim ngạch nhập khẩu của EU. Trong nhóm sản phẩm khai
khoáng mà EU nhập khẩu, nhiên liệu chiếm tỷ trọng lớn nhất (12,58% tổng kim ngạch nhập khẩu), tiếp
đến là xăng và các sản phẩm của nó. Nhóm hàng máy móc thiết bị, thiết bị văn phịng và viễn thông chiếm
chủ yếu (12,92% tổng kim ngạch nhập khẩu). Cịn nhóm các sản phẩm khác: hàng dệt may chiếm tỷ trọng
lớn nhất (8,23%) tiếp đến là các sản phẩm chế tạo phi kim loại chiếm 2,48% tổng kim ngạch nhập khẩu.
Kim ngạch nhập khẩu các sản phẩm thơ có xu hướng chững lại và giảm nhẹ, nguyên nhân là do kim
ngạch nhập khẩu khoáng sản tăng chậm và kim ngạch nhập khẩu một số hàng bị giảm sút như nhiên liệu
và xăng.
2. Chính sách nhập khẩu
2.1. Chính sách thuế quan
2.1.1. Chính sách thuế quan cho các quốc gia đang phát triển
Chế độ GSP là một biện pháp đẩy mạnh thương mại của EU đối với các nước đang phát triển và chậm
phát triển (trong đó có Việt Nam) với mục đích giúp cho hàng hóa của các nước này tăng khả năng thâm
nhập vào thị trường EU thông qua một số ưu đãi thuế quan nhất định, từ đó thúc đẩy kinh tế của các nước
này phát triển. Chế độ GSP được xây dựng dựa trên các nguyên tắc tự nguyện, khơng địi hỏi có đi có lại,
đơn phương quyết định. Chương trình này đã được Hội đồng Châu Âu thông qua quy chế áp dụng cho
từng thời kỳ: 1971-1980, 1981-1990,1991-1994,1994-2005. Trong 8 năm trở lại đây chương trình ưu đãi
thuế quan 4 năm (1995-1998) đối với các sản phẩm cơng nghiệp nhất định có nguồn gốc từ các nước đang
phát triển; (2) Quy định 1256/96 ngày 20/6/1996 về việc áp dụng một chương trình ưu đãi thuế quan trong
4 năm (1996-1999) đối với một số sản phẩm nông nghiệp có nguồn gốc từ các nước đang phát triển; (3)
Quy định số 2820 ngày 21/12/1998 về việc áp dụng một chương trình ưu đãi thuế quan trọng 3 năm (19992001) đối với các sản phẩm có xuất xứ các nước đang phát triển.
Hiện nay EU vẫn đang áp dụng ưu đãi thuế quan phổ cập cho thời kỳ từ 1/7/1999 đến 31/12/2001.
Theo chương trình này EU chia ra các sản phẩm được hưởng GS thành 4 nhóm với mức thuế khác nhau
dựa trên mức độ nhạy cảm đối với bên nhập khẩu, mức độ phát triển của nước xuất khẩu và những văn
hóa thỏa thuận đã ký kết giữa hai bên. Bốn nhóm sản phẩm của các nước đang phát triển được hưởng ưu
đãi thuế quan phổ cập của EU là
1) Nhóm 1: Sản phẩm rất nhạy cảm phần lớn là các nơng sản và một ít sản phẩm công nghiệp tiêu
dùng như: chuối tươi, chuối khô, dứa tươi, dứa hộp, quần áo may sẵn, nguyên liệu thuốc lá, lụa tơ
tằm… được hưởng mức thuế GSP 85% thuế suất MFN. Đây là mặt hàng mà EU hạn chế khuyến
khích nhập khẩu.
2) Nhóm 2: Sản phẩm nhạy cảm chủ yếu là đồ uống, hóa chất, ngun liệu, hàng thủ cơng (gạch
lát nền và đồ sứ), giây dép, hàng điện tử dân dụng, xe đạp, ô tô, đồ chơi trẻ em…… được hưởng
mức thuế GSP 70% thuế suất MFN. Đây là mặt hàng mà EU khơng khuyến khích nhập khẩu.
3) Nhóm 3: Sản phẩm án nhạy cảm: bao gồm phần lớn thủy sản đông lạnh, tôm, cua, mực đông
lạnh, cá tươi ướp lạnh) một số nguyên liệu và hóa chất, hàng cơng nghiệp dân dụng (máy điều hịa,
máy giặt, tủ lạnh) … được hưởng mức thuế GSP 35% thuế suất MFN. Đây là mặt hàng mà
EU khuyến khích nhập khẩu.
4) Nhóm 4: Sản phẩm khơng nhạy cảm chủ yếu một số loại thực phẩm đồ uống (nước khống,
bia, rượu), ngun liệu (than đá, dầu thơ, cao su), nông sản (dừa cả vỏ, hạt điều) … được hưởng
mức thuế GSP 0% đến 10% thuế suất MFN. Đây là mặt hàng mà EU đặc biệt khuyến khích nhập
khẩu.
Mỗi nhóm hàng trên đều gồm nhiều mặt hàng chịu các mức thuế suất khác nhau trong phạm vi giới
hạn của GSP giai đoạn 1/7/1999 đến 31/12/2001 đến cuối năm 2004 sẽ chấm dứt giai đoạn của chương
trình GSP và xóa bỏ hạn ngạch đối với hàng dệt may của các nước là thành viên WTO cịn đối với những
nước khơng phải là thành viên WTO (có Việt Nam) thì chưa có chính sách cụ thể. Cho đến nay, EU vẫn
chưa đưa ra chương trình GSP cho thời kỳ 2005 trở đi, nhưng họ đang từng bước giảm thuế quan và giảm
ưu đãi GSP.
Trong tương lai tới một thời điểm nhất định, hàng xuất khẩu của các nước đang phát triển khi xâm
nhập vào thị trường EU sẽ không được hưởng GSP nữa mà phải cạnh tranh bình đẳng với hàng của các
nước phát triển, chịu cùng mức thuế như hàng của những nước này và không được hưởng các ưu đãi khác.
Như vậy đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU thời 2005-2010 sẽ xảy ra 2
khả năng: thứ nhất, có thể hàng xuất khẩu của Việt Nam vào EU không phải chịu hạn ngạch hoặc phải
chịu hạn ngạch nhưng vẫn được hưởng GSP. Cho dù xảy ra trường hợp nào thì giai đoạn 2001-2010 có
khả năng sẽ rất khó khăn và nhiều thách thức đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU.
Các biện pháp khuyến khích trong GSP của EU so với ưu đãi mà cá nước và khu vực khác dành cho
các nước đang phát triển vào loại thấp nhất. Có lẽ vì thế đã tồn tại trong hệ thống GSP của EU quy định
khuyến khích tăng thêm mức ưu đãi 10%, 20% và cho 35% đối với hàng nông sản và 15% 25% 35% đối
với hàng nông sản và của EU bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/7/1999 thì những trường hợp sau được hưởng
ưu đãi thêm:
-Bảo vệ quyền của người lao động: nước hưởng GSP cần chứng minh trong các văn bản pháp quy
của mình có các quy định về các tiêu chuẩn áp dụng các nguyên tắc về tổ chức, đàm phán tập thể và
tuổi lao động tối thiểu.
-Bảo vệ môi trường: các văn bản pháp quy của nước hưởng GSP phải có các quy định cụ thể áp các
tiêu chuẩn của OIBT về bảo vệ mơi trường.
2.1.2. Chính sách thuế quan cho các quốc gia trong Liên minh Châu Âu
EU áp dụng biểu thuế quan chung (CCT) chủ yếu đối với các mặt hàng công nghiệp. Đây là cơng cụ
chủ yếu trong chính sách thương mại của Liên minh. Các thành phần của CCT bao gồm danh mục các
mặt hàng tính thuế, các quy định về cách tính thuế, miễn hoặc giảm thuế, xuất xứ hàng hoá. Các mức thuế
quan được xây dựng trên cơ sở lấy bình quân các mức thuế áp dụng với từng mặt hàng kể từ ngày 1/1/1957
ở 6 nước của EEC khi mới thành lập là Pháp, Tây Đức, Italy, và Benelux (gồm Bỉ, Hà Lan và
Luxembourg). Theo cách tính này thì phần lớn các mức thuế của Pháp và Italy phải giảm đi, còn các mức
thuế ở Đức và Luxembourg được tăng lên. Trong quá trình xây dựng, CCT được chia thành ba giai đoạn
và kết thúc vào năm 1968, sớm hơn so với thời hạn dự kiến 2 năm.
Hiệp ước Roma có quy định điều khoản theo đó các thành viên EC luôn sẵn sàng đàm phán nhằm
cắt giảm các mức thuế quan chung. Những thoả thuận về những cắt giảm như vậy đã đạt được trong khuôn
khổ một loạt các vòng đàm phán Dillon (1961-1962), mức CCT bình qn được giảm từ 25% vào năm
1958 xuống cịn 11,7% vào năm 1963. Còn kết quả đạt được sau vòng đàm phán Kennedy là các mức
thuế quan được cắt giảm trung bình đối với Hoa Kỳ là 32% và với Anh là 35%. Do có những thoả thuận
cắt giảm như vậy cho nên đến tháng 1/1972, mức trung bình của CCT chỉ còn là 8,1% giảm đi 35% so
với mức ban đầu, 12% và 11,5%. Một khi đã xây dựng được các mức CCT thì các nước thành viên phải
có nghĩa vụ áp dụng chúng theo một cách thức thống nhất. Điều này liên quan đến danh mục các mặt
hàng, thủ tục tính thuế và các quy định về xuất xứ hàng hoá kết hợp với việc thực hiện GSP.
Đặc biệt khi làm rõ đặc điểm trong chính sách ngoại thương EU, cần phải nghiên cứu biểu thuế quan
có liên quan đến xuất xứ của hàng hoá theo quy định của liên minh. Xuất xứ hàng hoá của EU được quy
định cụ thể như sau:
-Đối với các sản phẩm hoàn toàn được sản xuất tại lãnh thổ nước hưởng GSP như: khoáng sản, động
thực vật, thuỷ sản đánh bắt trong lãnh hải và các hàng hố sản xuất từ các sản phẩm đó xem là có xuất xứ
và được hưởng GSP.
- Đối với các sản phẩm sản xuất tại nước hưởng GSP (tính theo giá xuất xưởng) phải đạt 60% tổng
giá trị hàng liên quan. Tuy nhiên, đối với một số nhóm hàng thì hàm lượng này thấp hơn. EU quy định cụ
thể tỷ lệ trị giá và công đoạn gia công đối với một số nhóm hàng mà yêu cầu phần trị giá sáng tạo thấp
hơn 60% (điều hoà nhiệt độ, tủ lạnh khơng dưới 40%: đồ trang trí làm từ kim loại không dưới 30%; giày
dép chỉ được hưởng GSP nếu các bộ phận như: mũi, đế, ở dạng rời sản xuất trong nước hưởng GSP hoặc
nhập khẩu;...)
EU còn quy định xuất xứ cộng gộp, đây là quy định về xuất xứ mà theo đó hàng của một nước có
thành phần xuất xứ từ một nước trong cùng một tổ chức khu vực cũng được hưởng GSP thì các thành
phần đó cũng được xem là có xuất xứ từ nước liên quan. Thí dụ, Việt Nam xuất khẩu sang EU một mặt
hàng trong đó thành phần xuất xứ của Việt Nam chiếm 29% giá trị, còn lại 15% giá trị nhập khẩu của
Indonesia, 10% của Thái lan, 15% của Singapore. Xuất xứ cộng gộp của hàng Việt Nam sẽ là:
20%+15%+10% = 60%. Mặt hàng này sẽ ra khơng được hưởng GSP (vì hàm lượng giá trị của Việt Nam
chưa được 50%), nhưng nhờ cộng gộp (60%) nên đã đủ điều kiện hưởng GSP. Đây là đặc điểm về xuất
xứ của EU mà các doanh nghiệp Việt Nam cần lưu ý và vận dụng.
2.2. Chính sách phi thuế quan
2.2.1. Hạn ngạch
Là một cơng cụ được EU sử dụng để hạn chế số lượng hoặc giá trị một số mặt hàng nhập khẩu vào
EU và phân bổ theo hạn ngạch theo chương trình hỗ trợ các nước đang phát triển trong khung khổ của
GSP. Những hạn ngạch này nằm cho quy chế 519/94 (của khối EU cũ) áp dụng cho một số nước chưa
phải là thành viên của WTO. Tuy nhiên, sau khi gia nhập WTO, những hạn chế về định lượng được thoả
thuận là phải dỡ bỏ vào năm 2005. Hiện nay, một số mặt hàng của Việt Nam như hàng dệt may, một số
loại thuỷ sản xuất khẩu sang thị trường EU cũng phải chịu sự quản lý bằng hạn ngạch.
2.2.2. Hàng rào kỹ thuật
Rào cản kỹ thuật chính là quy mơ chế nhập khẩu chung và các biện pháp bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng của EU, được cụ thể hoá ở 5 tiêu chuẩn bắt buộc của sản phẩm: tiêu chuẩn chất lượng, tiêu chuẩn
vệ sinh thực phẩm, tiêu chuẩn an toàn cho người sử dụng, tiêu chuẩn bảo vệ môi trường và tiêu chuẩn về
lao động. Những mặt hàng xuất khẩu như hải sản, nông sản thực phẩm và dược liệu của Việt Nam phải
thực hiện nghiêm chỉnh 5 tiêu chuẩn này của EU. Năm tiêu chuẩn bắt buộc đối với sản phẩm nhập khẩu
vào thị trường EU cụ thể như sau:
1) Tiêu chuẩn chất lượng:
2) Tiêu chuẩn 2: tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm.
3) Tiêu chuẩn 3: tiêu chuẩn an tồn cho người sử dụng EU đã thơng qua những quy định về độ an
toàn chung của sản phẩm hay các định chuẩn.
4) Tiêu chuẩn 4: tiêu chuẩn bảo vệ môi trường.
5) Tiêu chuẩn 5: tiêu chuẩn về lao động
2.2.3. Chính sách chống bán phá giá.
Các quy định về chống bán phá giá của EU được đưa ra từ những ngày đầu thành lập và được xây
dựng trên cơ sở điều khoản của WTO, EU chỉ được áp dụng các biện pháp chống bán phá giá trong trường
hợp các ngành công nghiệp của EU bị tổn hại do việc nhập khẩu các sản phẩm phá giá. Đây là những sản
phẩm được bán trên thị trường nội địa với mức giá "thông thường". Tuy nhiên, việc so sánh các mức giá
này thường gặp khó khăn. Cách tính giá "thơng thường" của EU dựa vào chi phí sản xuất cộng với lợi
nhuận cận biên. Vấn đề là mức lợi nhuận như thế nào mới được coi là thích hợp. Xu hướng của EU là tính
mức lợi nhuận cao, có khi tới 30%.
Các quy định chống bán phá giá của EU được xác định trong Quy chế chống phá giá có hiệu lực từ
năm 1995 và sau đó được cập nhật bằng quy chế 384/96 có hiệu lực từ ngày 6/3/1996. Quy chế mới lồng
ghép tất cả các biện pháp được thoả thuận tại vòng đàm phán Urugoay của GATT. Quy chế chống phá
giá năm 1996 quy định việc áp dụng thuế chống bán phá giá và chỉ được áp dụng thuế này trong các đìều
kiện.
- Có phát hiện bán phá giá: giá xuất khẩu của sản phẩm trên thị trường EU thấp hơn giá bán tại thị
trường của nhà xuất khẩu.
- Có tổn hại vật chất cho doanh nghiệp của EU; hàng nhập khẩu gây ra hoặc đe doạ gây tổn thất cho
phần lớn ngành kinh doanh EU.
- Lợi ích của EU: chi phí mà EU bỏ ra để thực hiện các biện pháp khơng được tỉ lệ nghịch với lợi ích
thu được.
Sau khi các mức giá xuất khẩu và giá thông thường đã được xác định thì chúng được so sánh với
nhau để xác định mức phá giá. Luật pháp của EU cho phép thực hiện điều chỉnh đối với các mức chênh
lệch liên quan đến công dụng của các sản phẩm, thuế nhập khẩu, các loại thuế gián tiếp, các chi phí bán
hàng như vận chuyển vận chuyển và tiền trả hoa hồng. Tuy nhiên, EU bị phê phán là khơng tính đến
nhưng mức khác biệt lớn hơn về sản lượng bán ra trên thị trường nội địa hoặc về hoạt động Marketing khi
bán hàng. Phương pháp so sánh các mức giá của EU cũng bị phê phán (đặc biệt từ phía Nhật Bản) vì các
chi phí bán khơng được tính đến trên thị trường EU nhưng lại được tính đến trên thị trường nội địa, dẫn
đến làm tăng thêm mức chênh lệch giá.
Khi mức bán phá giá được tính đến trên thị trường đó có làm tổn hại đến ngành sản xuất nội địa hay
không. Mức độ gây tổn hại thường được đo bằng các chỉ số như lợi nhuận công suất hoạt động và thị
phần. Quá trình này cần đến việc thu nhập và xử lý một lượng thông tin lớn về kinh tế, tài chính và thương
mại.
Sau khi xác định được mức bán phá giá và mức độ tổn hại đối với các ngành sản xuất nội địa, EU áp
dụng các mức thuế chống phá giá hoặc chấp nhận đề nghị từ phía người xuất khẩu lên. Thơng thường, các
bên không nên áp dụng đặt mức thuế chống phá giá ở mức tối đa nếu như điều này không cần thiết cho
việc ngăn chặn tổn hại do bán phá giá gây ra. EU thường tính tốn ở mức độ tổn thất và áp đặt mức thuế
đúng bằng mức đó. Về nguyên tắc, các biện pháp chống bán phá giá thường là các mức thuế tính theo giá
trị. Tuy nhiên, đối với những mặt hàng đồng nhất như nguyên liệu, nơng sản thì thuế tính theo số lượng
thường được áp dụng. Trong trường hợp mức thuế áp dụng vượt quá mức phá giá thì khoản chênh lệch sẽ
phải được hồn trả cho nhà xuất khẩu.
2.2.4. Các biện pháp về quản lý hành chính
Một đặc điểm nổi bật trên thị trường EU là quyền lợi của người tiêu dùng được bảo vệ nghiêm ngặt,
khác hẳn với thị trường của các nước đang phát triển. Để đảm bảo quyền lợi cho người tiêu dùng, EU tiến
hành kiểm tra các sản phẩm ngay từ nơi sản xuất và có các hệ thống báo động giữa các nước thành viên,
đồng thời bãi bỏ việc kiểm tra các sản phẩm ở biên giới. EU đã thông qua những quy định bảo vệ quyền
lợi của người tiêu dùng về độ an toàn chung của các sản phẩm được bán ra, các hợp đồng quảng cáo, bán
hàng tận nhà, nhãn hiệu, vv... các tổ chức chuyên nghiên cứu đại diện cho giới tiêu dùng sẽ đưa ra các
quy chế định chuẩn Quốc gia hoặc châu Âu. Hiện nay, ở EU có 3 tổ chức định chuẩn: Uỷ ban châu Âu về
định chuẩn, Uỷ ban châu Âu về định chuẩn điện tử, Viện Định chuẩn viễn thông châu Âu. Tất cả các sản
phẩm chỉ có thể bán được ở thị trường này với điều kiện phải bảo đảm tiêu chuẩn an toàn chung của EU,
các luật và định chuẩn quốc gia được sử dụng chủ yếu để cấm bn bán sản phẩm được sản xuất từ các
nước có những điều kiện sản xuất chưa đạt được mức an toàn ngang với tiêu chuẩn của EU. Quy chế bảo
đảm an toàn của EU đối với một số loại sản phẩm tiêu dùng biểu hiện cụ thể như sau:
- Các sản phẩm thực phẩm, đồ uống đóng gói sản phẩm phải ghi rõ tên sản phẩm, nhãn mác, danh
mục thành phẩm, thành phần, trọng lượng tịnh, thời gian sử dụng, cách sử dụng, địa chỉ của nước sản xuất
hoặc nơi bán, nơi sản xuất, các điều kiện đặc biệt để bảo quản, để chuẩn bị sử dụng hoặc các thao tác bằng
tay, mã số và mã vạch để dễ nhận dạng lô hàng.
- Các loại thuốc men đều phải được kiểm tra chặt chẽ, phải đăng ký và được các cơ quan có thẩm
quyền của các quốc gia thuộc EU cho phép trước khi sản phẩm được bán ra trên thị trường EU. Giữa các
cơ quan có thẩm quyền này và Uỷ ban châu Âu về định chuẩn thiết lập một hệ thống thơng tin trao đổi
tức thời, có khả năng nhanh chóng thu hồi bất cứ loại thuốc nào có tác dụng phụ đang được bán trên thị
trường.
- Đối với các loại vải lụa, EU lập ra một hệ thống nhất về mã hiệu cho biết các loại sợi cấu thành nên
loại vải hay lụa được bán ra trên thị trường EU. Bất cứ loại vải hay lụa nào được sản xuất ra trên cơ sở
hai hay nhiều loại sợi mà trong các loại ấy chiếm tối thiểu 85% tổng trọng lượng thì trên mã hiệu có thể
đề tên của loại sợi đó kèm theo tỷ lệ về trọng lượng hoặc đề tên của loại sợi đó kèm tỷ lệ tối thiểu 85%,
hoặc ghi cấu thành chi tiết của sản phẩm. Nếu sản phẩm gồm hai hoặc nhiều loại sợi mà không loại sợi
nào đạt tỷ lệ 85% tổng trọng lượng thì trên mã hiệu ít nhất cũng phải ghi tỷ lệ của hai loại sợi quan trọng
nhất, kèm theo tên các loại sợi khác đã được sử dụng. Nếu các sản phẩm khơng ghi đúng như vậy thì
khơng được bán trên thị trường bất cứ nước EU nào. EU ngày nay được xem như là một "đại quốc gia" ở
châu Âu chính sách thương mại chung của EU cũng giống như chính sách thương mại của một quốc gia.
Nói một cách chung nhất, tác động trực tiếp của chính sách bảo hộ nói trên là đem lại lợi ích cho nhà
sản xuất, cịn người tiêu dùng của EU thì bị đánh thuế. Tuy nhiên, sự bảo hộ như vậy chỉ là bề ngồi vì
nó phụ thuộc khơng chỉ vào các mức thuế linh hoạt và các chính sách, cơng cụ khác. Đây chỉ là hình thức
bảo hộ danh nghĩa vì các mức thuế linh hoạt và các chính sách, cơng cụ khác còn phụ thuộc vào các yếu
tổ tiền tệ tỷ giá hối đối nữa. Do các mức giá nói trên được tính bằng EURO trong khi giá thế giới nhìn
chung lại được tính bằng USD, nên khi USD lên giá so với EURO thì các mức đó sẽ giảm xuống hoặc
ngược lại. Có chế giá cả và kiểm sốt đối với từng sản phẩm cũng có tác động đến quan hệ thương mại
với các nước ngồi EU. Lý do là vì cơ chế này ảnh hưởng không chỉ tới nhu cầu nhập khẩu và lượng hàng
hoá dành cho xuất khẩu. Do các cơ chế kiểm sốt nói trên làm mức giá nội địa cao hơn mức giá trên thị
trường thế giới cho nên sản xuất có xu hướng gia tăng, và tiêu dùng có xu hướng giảm sút. Kết quả là
nhập khẩu của EU có xu hướng giảm trong mức cung xuất tăng lên. Tuy mức giá chung cao hơn mức giá
thế giới. Nhưng nhập khẩu lại có xu hướng giảm sút vì tác dụng của các mức thuế quan linh hoạt, cịn
xuất khẩu được khuyến khích bởi cơ chế tài chính, thuế quan. Nên có khuynh hướng tăng lên.
2.2.5. Biện pháp thể chế, quản lý nhập khẩu
Các công cụ hành chính khác nhằm quản lý nhập khẩu: hiện nay để đảm bảo cạnh tranh công bằng
trong thương mại và để khắc phục với những trở ngại trong buôn bán với thế giới thứ ba, EU cịn ban
hành chính sách chống bán phá giá (anti - dumping), chống trợ cấp xuất khẩu và áp dụng thuế "chống
xuất khẩu bán phá giá". Trong khi đó, các biện pháp chống hàng giả của EU lại cho phép ngăn chặn không
cho nhập khẩu những sản phẩm đánh cắp bản quyền. và trên cơ sở các chỉ tiêu nhân đạo và bảo vệ môi
trường, EU cũng cấm nhập khẩu lông thú động vật bị gãy bằng các dụng cụ đúc bằng thép từ (1/12/1979).
Ngoài những cơng cụ hành chính quản lý nhập khẩu, EU cịn phân biệt hai nhóm nước: nhóm áp dụng
cơ chế kinh tế thị trường (nhóm I) và nhóm có nền thương nghiệp quốc doanh (nhóm II). (trong đó có
Việt Nam) chịu sự quản lý chặt và thường phải xin phép trước khi nhập khẩu vào thị trường EU. Đây là
một sự phân biệt đối xử bất lợi cho hàng Việt Nam xuất khẩu sang EU trong suốt một thời gian dài. Cho
đến ngày 14/5/2000, EU mới chính thức "cơng nhận Việt Nam áp dụng kinh tế thị trường".
2.2.6. Chính sách tỷ giá hối đoái
Khu vực các nước sử dụng đồng tiền chung châu Âu là một nhóm các quốc gia thành viên của Liên
minh Châu Âu sử dụng đồng Euro làm đơn vị tiền tệ chính thức của mình.
Các thành viên chính thức
Khu vực Euro:
Khu vực Euro (17)
Những quốc gia thuộc Liên Âu quy định sẽ phải gia nhập hệ thống Euro (8)
Quốc gia thuộc Liên Âu có quyền rút khỏi hệ thống Euro (1)
Quốc gia Liên Âu dự định mở cuộc trưng cầu dân ý về việc gia nhập hệ thống Euro nhưng với quyền
rút khỏi hệ thống (1)
Khu vực ngoài khối Liên Âu dùng Euro theo thỏa hiệp riêng (5)
Khu vực ngồi khối Liên Âu dùng Euro mà khơng có thỏa hiệp (4)
Các nước hay lãnh thổ ngồi Liên minh châu Âu nhưng sử dụng đồng Euro được tô đậm bằng đường
gạch màu xanh.
Có 17 nước sau đây đã đưa đồng Euro làm tiền tệ chính thức vào lưu hành: Áo, Bỉ, Bồ Đào Nha,
Cyprus, Đức, Hà Lan, Hy Lạp, Ireland, Luxembourg, Malta, Pháp, Phần Lan, Tây Ban Nha, Ý, Slovenia,
Slovakia, Estonia.
Tháng 11 năm 2004, Hy Lạp đã không thỏa mãn đủ các điều kiện gia nhập theo thời điểm quy định
trong Hiệp định Maastricht. Hơn nữa Hy Lạp đã che dấu vụ thâm hụt ngân sách quốc gia và báo cáo giả
mạo các số liệu cho Ủy ban châu Âu. Tuy nhiên sự việc này khơng có hậu quả pháp lý vì các hiệp định
đều khơng đề cập đến những trường hợp kể trên. Một vài quốc gia khác đã tham gia vào liên minh tiền tệ
với thành viên trong vùng Euro và vì vậy cũng đưa đồng Euro vào sử dụng như là tiền tệ chính thức. Các
quốc gia này là: Monaco, San Marino, Toà thánh Vatican. Thành viên khơng chính thức
Bên cạnh các thành viên chính thức, một số quốc gia hay địa phận khác cũng đã tự quyết định chọn
Euro làm tiền tệ chuẩn (khơng có quyết định của EU): Andorra (có ý định phát hành tiền kim loại Euro,
cho đến nay vẫn khơng có sự đồng ý của EU), Kosovo, Montenegro. Các thành viên khơng chính thức
này đã từ bỏ tiền tệ riêng hay từ bỏ một trong số những tiền tệ trước đây và thay vào đó là dùng Euro, vì
thế mà (về mặt đồng Euro) các thành viên này khơng cịn độc quyền tiền tệ nhưng lại khơng có ảnh hưởng
đến chính sách lãi suất của Ngân hàng Trung ương châu Âu. Các quốc gia có tỷ giá hối đoái cố định với
Euro
Hai quốc gia trong vùng Euro, Hà Lan và Pháp, có địa phận ở hải ngoại. Tiền tệ của các địa phận
thuộc Hà Lan (đồng Florin của Aruba và đồng Gulden của Antillen) đã và vẫn đang gắn với đồng Đô la
Mỹ và không bị tác động bởi việc đưa đồng Euro vào lưu hành tại Hà Lan cũng như trong các nước thành
viên khác.
Tại các địa phận thuộc Pháp phải phân biệt giữa các khu hành chính hải ngoại (tiếng Pháp:
Départements d’Outre-Mer) bao gồm Guyane thuộc Pháp, Guadeloupe, Martinique, Réunion, và các lãnh
thổ đặc biệt (tiếng Pháp: Collectivités Territoriales) là Saint Pierre và Miquelon và Mayotte. Trong tất cả
các địa phận nói trên đồng Euro có giá trị từ ngày 1 tháng 1 năm 1999. Các départements được "tự động"
bao gồm trong việc đưa đồng Euro vào lưu hành thông qua các hiệp định với Pháp. Các collectivités
territoriales đã phải cần đến một quyết định riêng của hội đồng hành chính (quyết định của hội đồng vào
ngày 31 tháng 12 năm 1998 về các quy định tiền tệ trong các lãnh địa thuộc Pháp Saint-Pierre và Miquelon
và Mayotte).
Các quốc gia châu Phi dùng đồng CFA-Franc có tỷ giá cố định với Euro Thêm vào đó, đồng Euro đã
trở thành một ngoại tệ quan trọng trong nhiều nước như là một sự lựa chọn khác thay cho đồng Đô la Mỹ.
Một vài loại tiền tệ trước đây gắn liền với các tiền cũ trước Euro nay có tỷ giá hối đối cố định với Euro:
• Bosna và Hercegovina, 1 EUR = 1,95583 Mark Bosna và Hercegovina (đồng mark chuyển đổi),
tương ứng với tỷ giá của đồng Mark Đức.
• Bulgaria, 1 EUR = 1,95583 BGN, tương ứng với tỷ giá của đồng Mark Đức.
• CFA-Franc, 1 EUR = 655,957 XAF/XOF (tương ứng với tỷ giá của đồng Franc Pháp cũ trước
1960).
• CFP-Franc, 1 EUR= 119,2529826 XPF
• Cabo Verde, 1 EUR = 110,265 CVE.
• Comores, 1 EUR = 491,9677 KMF.
• Latvia, 1 EUR= 0,702804 LVL.
• Litva, 1 EUR = 3,4528 LTL.
Các thành viên EU như Đan Mạch, Estonia, Latvia, Litva gắn kết đồng nội tệ vào đồng Euro thơng
qua Cơ chế Tỷ giá hối đối II (ERM II), quy định khoảng dao động của các đồng nội tệ này so với đồng
Euro. Đồng Kroon của Estonia được gắn kết với đồng Mark Đức từ trước khi có Euro và vì thế đã gắn kết
với đồng Euro trước khi gia nhập Cơ chế Tỷ giá hối đoái II. Các quốc gia này đã thực hiện bước đầu tiên
để có thể đưa tiền tệ chính thức của cộng đồng vào lưu hành ngay từ năm 2006.
Các quốc gia trong EU tạm thời không sử dụng đồng Euro
Anh, Đan Mạch và Thụy Điển đã quyết định không dùng tiền tệ mới và vẫn giữ tiền tệ chính thức
của quốc gia. Ngày 14 tháng 9 năm 2003, qua một cuộc trưng cầu dân ý, Thụy Điển từ chối không tham
gia Liên hiệp Kinh tế và Tiền tệ châu Âu. Theo hiệp định gia nhập vào EU của Thụy Điển, đất nước này
phải đưa đồng Euro vào lưu hành như là tiền tệ chính thức và như thế là thật ra khơng có khả năng lựa
chọn. Thụy Điển hiện thời đang ngăn trở việc đưa đồng Euro vào sử dụng bằng cách khơng hồn thành
việc gia nhập vào Cơ chế Tỷ giá hối đoái II. Ngược lại Anh và Đan Mạch có quyền dứt khốt khơng tham
gia đã được thỏa thuận trong hiệp định.
Các quốc gia Ba Lan, Cộng hòa Séc, Estonia, Hungary, Latvia, Litva, Malta, Slovakia, Slovenia và
Cộng hịa Síp gia nhập EU ngày 1 tháng 1 năm 2004, Bulgaria và Romania mới gia nhập EU vào ngày 1
tháng 1 năm 2007. Các quốc gia EU mới này khơng có khả năng từ chối đồng Euro như Anh và Đan
Mạch, nhưng lại chỉ có thể gia nhập vào Liên minh Kinh tế và Tiền tệ châu Âu sau khi thỏa mãn được các
điều kiện hội tụ (qua 2 năm là thành viên của Cơ chế Tỷ giá hối đoái II và các điều kiện khác). Sau khi
thỏa mãn các điều kiện, Slovenia là nước đầu tiên được chấp nhận vào khu vực Euro, từ ngày 1 tháng 1
năm 2007, Malta, Cộng hịa Síp từ ngày 1 tháng 1 năm 2008, và mới đây nhất là Slovakia từ ngày 1 tháng
1 năm 2009.
Như vậy, tính tại thời điểm tháng 1 năm 2009, có 11 quốc gia thành viên Liên minh châu Âu sau đây
vẫn chưa tham gia vào khu vực đồng Euro: Anh, Ba Lan, Bulgaria, Cộng hòa Séc, Đan Mạch, Hungary,
Latvia, Litva, Romania, Thụy Điển. Việc sử dụng đồng Euro ngoài khu vực Trong 13 quốc gia của 25
nước thuộc EU, Euro là tiền tệ chính thức. Ngồi ra cũng có thể trả bằng tiền Euro tại nhiều nước khác
trong châu Âu như tại Cộng hòa Séc, Ba Lan, Hungary, Thổ Nhĩ Kỳ và Thụy Sĩ. Nhưng điều này thường
là có hai bất lợi: Một là giá bán thường hay được tính chuyển thành đồng Euro với một tỷ giá hối đối
khơng hấp dẫn và hai là tiền thối lại thường là tiền bản xứ, vì thế nếu thời gian cư trú không quá ngắn nên
dùng tiền bản xứ để thanh toán.
III.
CÁN CÂN THƯƠNG MẠI CỦA EU
Cán cân thương mại (balance of trade) là mức chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu hàng hoá (XM), còn gọi là xuất khẩu ròng (NX). Các nước quan tâm đến cán cân thương mại (có thể bao gồm cả dịch
vụ phi nhân tố) vì cán cân thương mại ảnh hưởng tới sản lượng trong nước (NX là thành tố của GDP),
việc làm và cán cân đối ngoại.
EU-27 chiếm khoảng 15% thương mại hàng hoá thế giới. Giá trị thương mại quốc tế hàng hóa vượt
đáng kể so với dịch vụ (khoảng ba lần), phản ánh bản chất của một số dịch vụ khiến chúng khó giao dịch
qua biên giới hơn. Vì vậy, chúng ta sẽ xem xét về sự phát triển của thương mại quốc tế của Liên minh
Châu Âu (EU) các năm gần đây, tập trung hơn về thương mại hàng hóa qua từng thời kì của EU để đưa
ra nhận xét về cán cân thương mại.
1. Cán cân thương mại hàng hóa:
Vào năm 2009, sản lượng kinh tế của Liên minh châu Âu chiếm khoảng 21% tổng sản lượng kinh tế
tồn cầu, ước tính vào khoảng 14,8 nghìn tỉ USD, trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới. Cán cân thương
mại hàng hóa của EU lên xuống theo từng thời kì: giai đoạn 2009-2011 nhập siêu và từ 2011 đến nay tuy
có lên xuống nhưng vẫn ln trong trạng thái xuất siêu.
Thương mại hàng hóa của EU-27 theo từ 2009-2019:
Theo số liệu từ Eurostat, từ năm 2009 đến 2012 chứng kiến xuất khẩu của EU-27 tăng nhanh từ 1184 tỷ EUR
lên 1771 tỷ EUR. Trong khoảng thời gian từ 2012 đến 2016, xuất khẩu vẫn tương đối ổn định nhưng trong
ba năm tiếp theo đã tăng từ 1867 tỷ EUR năm 2016 lên 2132 tỷ EUR năm 2019. Nhập khẩu gần giống như
xuất khẩu, tăng từ 1193 tỷ EUR vào năm 2009 lên 1666 tỷ EUR vào năm 2011. Từ năm 2011 đến 2016, xuất
khẩu vẫn tương đối ổn định nhưng trong ba năm tiếp theo đã tăng từ 1602 tỷ EUR lên 1935 tỷ EUR vào năm
2019. Như vậy, cán cân thương mại hàng hóa của EU nhập siêu nhiều nhất vào năm 2011 và sau đó chuyển
dần sang xuất siêu và xuất siêu 197 tỉ EUR vào năm 2019.
EU-27, Trung Quốc và Hoa Kỳ là ba nước tham gia thương mại quốc tế lớn nhất toàn cầu kể từ năm 2004
khi Trung Quốc vượt qua Nhật Bản. Năm 2018, tổng mức thương mại hàng hóa (xuất khẩu và nhập khẩu)
được ghi nhận đối với EU-27 là 3967 tỷ EUR (lưu ý rằng con số này không bao gồm thương mại nội khối
EU), cao hơn 50 tỷ EUR so với giá trị của Trung Quốc và 342 tỷ EUR cao hơn mức ghi nhận của Hoa Kỳ;
Nhật Bản có mức trao đổi hàng hóa cao thứ tư, với 1260 tỷ EUR.
Thương mại hàng hóa quốc tế EU-27 với phần còn lại của thế giới (tổng kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu
ngoài EU) đạt trị giá 4067 tỷ EUR vào năm 2019. Nhập khẩu và xuất khẩu đều cao hơn so với năm 2018,
với mức tăng của nhập khẩu (27 tỷ EUR) nhỏ hơn mức tăng của xuất khẩu (73 tỷ Euro). Kết quả là, thặng
dư thương mại 152 tỷ EUR của EU-27 trong năm 2018 đã tăng lên 197 tỷ EUR vào năm 2019.
Thặng dư thương mại hàng hóa lớn nhất từ EU-27, trị giá 224,3 tỷ EUR vào năm 2019, được ghi nhận bởi
Đức, tiếp theo là Ý (51,9 tỷ EUR), Ireland (40,6 tỷ EUR) và Pháp (39,2 tỷ EUR). Thâm hụt thương mại lớn
nhất đối với thương mại hàng hóa ngồi EU là 118,7 tỷ EUR đối với Hà Lan và 30,7 tỷ EUR đối với Tây
Ban Nha.
●
Thặng dư thương mại lớn đối với máy móc, phương tiện và hóa chất:
Theo số liệu từ Eurostat, từ năm 2014 đến năm 2019, giá trị xuất khẩu ngoài EU của EU-27 đã tăng đối với
hầu hết các nhóm sản phẩm được thể hiện trong hình, ngoại trừ xuất khẩu năng lượng giảm 8,2%. Tỷ lệ tăng
trưởng xuất khẩu cao nhất là hóa chất với mức tăng 35,8%. Nhóm thực phẩm và đồ uống (22,7%) và ngun
liệu thơ (20,1%) cũng tăng hơn 20%.
Về phía nhập khẩu, giảm tổng thể lớn về mức nhập khẩu năng lượng ngoài EU (-15,2%) từ năm 2014 đến
năm 2019 (lưu ý rằng một số thiệt hại có thể do thay đổi giá hoặc biến động tỷ giá hối đoái, với giá dầu trên
thị trường tồn cầu bằng đơ la Mỹ). Ngược lại, nhập khẩu máy móc và phương tiện vận tải ngồi EU tăng
45,4%, với tốc độ tăng tương đối cao cũng được ghi nhận đối với hóa chất (28,6%) và hàng hóa sản xuất
khác (24,1%).
Thặng dư thương mại ngoài EU của EU-27 đối với hàng hóa là 197,1 tỷ EUR trong năm 2019 được thúc đẩy
bởi thặng dư thương mại lớn đối với máy móc và phương tiện (237,1 tỷ EUR) và hóa chất (171,6 tỷ EUR)
và thặng dư nhỏ hơn trong thực phẩm và đồ uống và các thành phẩm khác. Những khoản này không thể được
bù đắp bởi thâm hụt thương mại lớn đối với năng lượng (-258,2 tỷ EUR) và thâm hụt nhỏ hơn đối với nguyên
liệu thô (-26,1 tỷ EUR).
Đến năm 2020, Thặng dư thương mại của EU tăng lên 27,9 tỷ EUR vào tháng 7 năm 2020 từ 23,2 tỷ EUR
trong tháng tương ứng của năm trước. Xuất khẩu giảm 10,4%, dẫn đầu là do doanh số bán nhiên liệu khoáng,
dầu nhờn và các vật liệu liên quan giảm (-41,6%), hàng hóa sản xuất được phân loại chủ yếu theo vật liệu (15,0%), máy móc và thiết bị vận tải (-11,7%), các sản phẩm chế tạo khác (- 11,7%), nguyên liệu thô, không
ăn được, trừ nhiên liệu (-7,0%) và hóa chất và các sản phẩm liên quan (-3,0%). Nhập khẩu giảm 14,3% do
mua nhiên liệu khoáng, dầu nhờn và các vật liệu liên quan (-42,1%), máy móc và thiết bị vận tải (-11,4%),
các sản phẩm chế tạo khác (-11,3%), hóa chất và các sản phẩm liên quan (-10,6%), hàng hóa sản xuất được
phân loại chủ yếu theo nguyên liệu (-10,5%), nguyên liệu thô, không ăn được, trừ nhiên liệu (-12,2%) và
thực phẩm, đồ uống và thuốc lá (-7,9%).
2. Cán cân thương mại dịch vụ
EU-27 là nhà xuất khẩu và nhập khẩu dịch vụ lớn nhất thế giới vào năm 2018:
Theo số liệu của Eurostat, xuất khẩu ngoài EU trị giá 969 tỷ EUR và nhập khẩu là 824 tỷ EUR, dẫn đến
thặng dư thương mại dịch vụ là 145 tỷ EUR. EU-27 có thặng dư thương mại cho các dịch vụ trong năm 2018
với tất cả các thành viên G20 ngoại trừ Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ và Hoa Kỳ. EU-27 thặng dư thương mại dịch vụ
với Vương quốc Anh đạt 45,1 tỷ EUR trong năm 2018, mức thặng dư thương mại lớn nhất với bất kỳ thành
viên G20 nào.
Vào năm 2018, các đối tác thương mại lớn nhất của EU-27 (xuất khẩu và nhập khẩu kết hợp) đối với dịch
vụ trong số các thành viên G20 EU trên thế giới là Hoa Kỳ và Vương quốc Anh, cả hai đều có tổng kim
ngạch thương mại vượt quá 370 tỷ EUR. Các đối tác thương mại dịch vụ nhỏ nhất của EU-27 trong số các
thành viên G20 cũng giống như đối với hàng hóa, cụ thể là Argentina và Indonesia.
Chương III: QUAN HỆ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ GIỮA VIỆT NAM VÀ EU
I. Quan hệ thương mại quốc tế giữa Việt Nam và EU
EU là khu vực chiếm tỷ trọng lớn trong quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Châu Âu. Quan hệ thương
mại Việt Nam - EU đã và đang phát triển rất nhanh chóng và hiệu quả.
Biểu đồ 1: Diễn biến kim ngạch hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu và cán cân thương mại giữa Việt
Nam và EU giai đoạn 2011-2019 (Nguồn: Tổng cục Hải quan)
Kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam với EU tăng liên tục với mức tăng trưởng cao trong giai đoạn
2011-2019. Đồng thời, cán cân thương mại của EU đối với Việt Nam thời gian qua liên tục ở trạng thái thâm
hụt cho EU và thặng dư cho Việt Nam.. Năm 2019, kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và EU đạt trên
56,45 tỷ USD, tăng 1,11% so với cùng kỳ năm 2018, trong đó xuất khẩu đạt trên 41,54 tỷ USD (giảm 0,81%)
và nhập khẩu đạt 14,90 tỷ USD (tăng 6,84%).
1. Hoạt động xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và EU
Bảng 1. Kim ngạch xuất nhập khẩu một số hàng hóa giữa Việt Nam và EU
( Đơn vị: Triệu USD)
( Nguồn: Tổng cục Hải quan)
1.1 Hoạt động xuất khẩu
Trong giao dịch thương mại quốc tế, mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang thị trường EU là các
sản phẩm truyền thống dựa trên lợi thế lao động như hàng dệt may, giày dép các loại, cà phê, hải sản, máy
vi tính...Tuy nhiên, những năm gần đây, xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang EU có xu hướng chững lại,
thậm chí là bị giảm. Các mặt hàng chủ lực như điện thoại và linh kiện, hàng nông sản, thủy hải sản đều cho
thấy sự sụt giảm. Một trong những nguyên nhân khiến kim ngạch xuất khẩu giảm là do xuất khẩu hàng hóa
của Việt Nam đã qua giai đoạn phát triển nóng. Các mặt hàng nơng sản như cà phê, hạt tiêu, chủ yếu là sản
xuất thô bị tác động mạnh từ giá cả thế giới giảm mạnh do nguồn cung tăng cao. Bên cạnh đó là các hàng
rào kỹ thuật đối với các quy định nghiêm ngặt về vệ sinh an toàn thực phẩm của EU. Đối với mặt hàng thủy
hải sản, việc bị EU rút thẻ vàng do chưa tuân thủ các quy định của EC về việc đánh bắt cá trái phép cũng gây
ảnh hưởng khơng nhỏ. Ngồi ra, việc sụt giảm kim ngạch mặt hàng máy tính, linh kiện điện tử mà nguyên
nhân được cho là do phụ thuộc vào doanh nghiệp đầu tư nước ngoài cũng tác động tới kết quả xuất khẩu của
nước ta sang EU.
1.2. Hoạt động nhập khẩu
Về nhập khẩu, Việt Nam nhập khẩu từ hầu hết các nước thành viên EU, mặt hàng nhập khẩu từ EU chủ
yếu là máy móc - thiết bị - dụng cụ, dược phẩm...Tuy nhiên, tổng kim ngạch nhập khẩu các mặt hàng này
năm 2019 chỉ đạt 14,91 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 5,89% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước. Một trong
những lý do khiến hàng EU vào Việt Nam ít là bởi thuế đánh vào mặt hàng các nước khi vào Việt Nam (chưa
có EVFTA) vẫn rất cao, từ trên 55% đến 75% theo mức thuế tối huệ quốc (MFN) dành cho các nước là thành
viên WTO. Bên cạnh đó, do địa lý xa xơi, những sản phẩm của EU như nơng sản khơng có lợi thế ở Việt
Nam, trong khi đó lợi thế lớn nhất của họ là máy móc, dây chuyền thiết bị, cơng nghệ thì khi vào Việt Nam
lại gặp phải hai vấn đề: giá cao và sở hữu trí tuệ. Các mặt hàng các nước EU vào Việt Nam đòi hỏi yêu cầu
khắt khe về bảo mật cơng nghệ, sở hữu trí tuệ, điều đó khiến giá cao hơn so với các sản phẩm công nghệ của
các nước khác như Nhật, Hàn hay Trung Quốc ở Việt Nam. Cũng chính vì vậy, kim ngạch nhập khẩu của
Việt Nam từ EU chỉ chiếm tỉ trọng nhỏ trong kim ngạch nhập khẩu của cả nước.
2. Hiệp định thương mại tự do Việt Nam và Liên minh châu Âu - EU (EVFTA)
Ngày 1/8/2020, Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA) chính thức đi vào
hiệu lực, đánh dấu mốc quan trọng trong quan hệ Việt Nam - Liên minh châu Âu (EU). EVFTA được kỳ
vọng mở ra nhiều cơ hội mới cho các doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập sâu rộng hơn thị trường EU:
Thứ nhất, EVFTA có tác động tích cực đối với việc nâng cao năng lực cạnh tranh và công tác phát triển
thị trường xuất khẩu. Các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU kỳ vọng hưởng lợi bao gồm:
hàng dệt may, giày dép các loại, các sản phẩm nông - lâm - thủy sản...
Thứ hai, EVFTA tạo điều kiện cơ cấu lại thị trường xuất khẩu, nhập khẩu. Hiện nay, hoạt động xuất nhập
khẩu của Việt Nam chủ yếu với khu vực châu Á (chiếm khoảng 80% kim ngạch nhập khẩu và 50% kim
ngạch xuất khẩu). EVFTA sẽ giúp doanh nghiệp có điều kiện thâm nhập, khai thác các thị trường mới, thị
trường còn nhiều tiềm năng cho xuất khẩu của Việt Nam.
Thứ ba, EVFTA tạo cơ hội tham gia chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu.
Thứ tư, EVFTA tạo động lực phát triển cơng nghiệp phụ trợ.
Cùng với đó, doanh nghiệp Việt Nam cũng sẽ phải đối mặt với những khó khăn thách thức khi EVFTA
có hiệu lực. Cụ thể, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải vượt qua các yêu cầu bắt buộc về rào cản kỹ thuật
như an toàn thực phẩm, dán nhãn, môi trường,.. của EU. Các quy định này rất chặt chẽ, u cầu cao địi hỏi
hàng hóa của Việt Nam phải hoàn thiện nhiều về chất lượng để có thể vượt qua các rào cản này. Hàng hóa
Việt Nam cần đáp ứng tiêu chí xuất xứ mới có thể được hưởng thuế nhập khẩu ưu đãi theo FTA vào EU theo
EVFTA. Tuy nhiên, đây vừa là thách thức, vừa là động lực để thúc đẩy doanh nghiệp nâng cao tỷ lệ nội địa
hóa, giá trị gia tăng trong sản phẩm xuất khẩu.
II. Giải pháp
Để tăng cường quan hệ thương mại Việt Nam - EU hơn nữa không chỉ một bên tham gia mà cần có sự
hợp tác tích cực của hai bên
1. Về phía EU
Phía EU cần phải ưu tiên hơn nữa trong chính sách của mình đối với Việt Nam trong việc thúc đẩy hơn
nữa quan hệ thương mại hai bên như tăng thêm hạn ngạch cho một số hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam
cũng như cho Việt Nam hưởng hệ thống ưu đãi (GSP); Tạo thuận lợi cho phía Việt Nam trong việc công
nhận kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế thị trường.
Trong việc tiếp cận thị trường: EU là một thị trường đơn nhất nhưng lại rất đa dạng bởi vì: EU bao gồm
27 nước thành viên, và mỗi nước có một u cầu, địi hỏi về chủng loại khác nhau. Do vậy, việc EU tích cực
trao đổi thơng tin cùng với phía Việt Nam về thị hiếu thị trường của nhau là cần thiết. EU cũng nên tạo điều
kiện hơn nữa cho hàng hóa Việt Nam được xuất khẩu trực tiếp vào thị trường của mình. Về phía Việt Nam
coi vấn đề thông tin hai chiều về thị trường là vô cùng quan trọng đối với lợi thế của hàng hóa Việt Nam
cũng như hàng của EU. Vấn đề này cần được giúp đỡ tích cực từ hai phía, đặc biệt nên chủ động hơn từ phía
EU như cung cấp các thông tin cần thiết về các mặt hàng để những nhà sản xuất Việt Nam có thể chủ động
đáp ứng những tiêu chuẩn của EU Đây là sự giúp đỡ cụ thể trong yêu cầu giúp đỡ rộng hơn về xúc tiến
thương mại - giới thiệu cho phía Việt Nam về thị trường đơn nhất châu Âu với hệ thống thuế quan phổ cập,
các biện pháp phi hạn ngạch, thủ tục xuất - nhập khẩu, tiêu chuẩn chất lượng, giá cả,... EU cần phải tích cực
hơn nữa trong việc hợp tác Việt Nam trong việc kiểm định lại nguyên tắc xuất xứ của hàng hóa để tránh gian
lận trong thương mại của hàng xuất khẩu Việt Nam sang EU.
Trao đổi kinh nghiệm: phía EU nên chủ động hơn trong việc dẫn dắt, tạo điều kiện thuận lợi và thúc đẩy
chương trình hợp tác với Việt Nam vì những lợi ích chung và lợi ích của chính mình. Điều này giúp cho các
thành viên EU trong buôn bán, kinh doanh tại thị trường Việt Nam làm quen, tránh bỡ ngỡ, cảm giác về Việt
Nam là thị trường rủi ro. Nhiều những quan niệm khác nhau và các vấn đề chính trị nhạy cảm như dân chủ,
nhân quyền và khác biệt văn hóa. Do vậy cần loại bỏ các rào cản về nhân quyền, dân chủ mà EU thường hay
kèm trong các hợp đồng. Điều quan tâm nhất, về phía EU nên nỗ lực hơn trong sự tăng cường hiểu biết của
các doanh nghiệp cả hai bên về thị trường của nhau. Bên cạnh đó thúc đẩy việc thực hiện đầy đủ, có hiệu quả
những điều khoản mà EU và Việt Nam đã ký kết trong các hiệp định.
2. Về phía Việt Nam
Để đáp lại Việt Nam cần phải có những ưu tiên hơn nữa trong chính sách của mình đối với các đối tác của
EU. Cụ thể coi vai trò của nhà nước là cực kỳ quan trọng như công khai và thể chế hóa những chủ trương,
chính sách, cải tiến cơ chế xuất - nhập khẩu không phải chỉ trên định hướng chung mà cả trong các nghiệp
vụ mang tính thủ tục hành chính - cần phải thơng thống hơn - “một cửa”. Việt Nam cần phải ban hành hệ
thống luật trong đó có luật thương mại phù hợp với các quy định trong tiến trình tham gia WTO mà cả Việt
Nam và EU thảo luận.
Trong chủ động tìm hiểu về thị trường EU: các doanh nghiệp Việt Nam thường thiếu thông tin, hiểu biết
kịp thời về thị trường EU nên chúng ta thường hay thiệt thòi trong thương mại. Việt Nam cần phải bảo đảm
một thị trường ổn định như ban hành chính sách phù hợp với các “luật chơi”, giá cả, cung cầu,… Việt Nam
cũng cần phải có những chiến lược phù hợp đối với mỗi mặt hàng chủ lực của Việt Nam, có như vậy mới tận
dụng được các lợi thế mà EU dành cho và hình ảnh (uy tín) hàng xuất khẩu của Việt Nam được nâng cao.
* Các giải pháp cụ thể:
●
Đối với thị trường
Liên minh châu Âu là một thị trường rộng lớn, đầy tiềm năng đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam trong
thời gian tới. Hiện tại, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam luôn tăng cao, ở mức xuất siêu. Bên cạnh đó, hàng
xuất khẩu của việt Nam đã xâm nhập hầu hết các nước trong liên minh châu Âu và được hưởng mức thuế ưu
đãi của EU. Tuy nhiên, trong thời gian tới hàng hóa của Việt Nam sẽ gặp khó khăn. Do vậy, để nâng cao
xuất khẩu lâu dài và ổn định nhất thiết các doanh nghiệp Việt Nam phải có những giải pháp hợp lý.
Trước hết qua thực tiễn buôn bán với bạn hàng, chúng ta thấy một điều EU tuy rộng lớn, dễ dãi nhưng
cũng rất khắt khe. Do vậy để đáp ứng những địi hỏi này thì doanh nghiệp Việt Nam phải tìm hiểu kỹ lưỡng
về thị hiếu thay đổi theo mùa, mốt, thị hiếu của từng nước thành viên EU. Chúng ta thấy rõ điều hiển nhiên
khi hàng hóa xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian qua chúng ta đã gặp khơng ít khó khăn
do khơng tìm hiểu kỹ lưỡng về thị trường, do công tắc chạy quảng cáo sản phẩm của chúng ta còn yếu kém
nhạy cảm đối với sự thay đổi của thị hiếu. Do đây là một thị trường với nhiều quốc gia và tất nhiên thị hiếu
của từng nước thành viên của EU cũng rất khác nhau. Đây là một khó khăn mà trong thời gian tới chúng ta
phải làm tốt. Các doanh nghiệp Việt Nam còn mắc ở chỗ là kinh phí cho quảng cáo, nghiên cứu thị trường
rất hạn chế. Do vậy để bù đắp được những hạn chế này, chính phủ và các doanh nghiệp hai bên cần tăng
cường trao đổi về những khó khăn. Khai thác lợi thế trong các cam kết đầu tư từ EVFTA nhằm tăng cường hợp
tác công nghệ để tiếp thu khoa học công nghệ tiên tiến trong sản xuất; Phát triển mạnh hình thức th mua tài
chính trong mua sắm máy móc, thiết bị, cơng nghệ cho các DN xuất khẩu nhằm nâng cao khả năng phát triển và
sức cạnh tranh của các DN; Tăng cường đầu tư công nghệ phục vụ công tác kiểm tra, quản lý chất lượng an toàn
vệ sinh thực phẩm và các tiêu chuẩn kỹ thuật khác.
Thứ hai phải các doanh nghiệp Việt Nam chúng ta đã có phần “chống ngợp” với thị trường rộng lớn
trong tương lai khi EU mở rộng cửa cho các thành viên mới tham gia. Tuy nhiên đây cũng là dấu hiệu cho
thấy quan hệ thương mại Việt Nam - EU sẽ có phần nào giảm đi do sớm muộn các nước thành viên mới sẽ
là thành viên của EU và tất nhiên EU cũng sẽ dành những ưu đãi cho những nước này. Do vậy trong thời
gian tới để giành được thi trường này chính phủ Việt Nam cần phải tăng cường hợp tác về mọi mặt với EU.
Đây chính là sự hỗ trợ rất lớn trong quan hệ buôn bán mà hai bên dành cho nhau. EU cũng đã nhận thấy thị
trường Việt Nam có những lợi thế cho các sản phẩm xuất khẩu của EU.
Thứ ba là doanh nghiệp Việt Nam phải tích cực và chủ động hơn nữa trong việc tiếp cận thị trường cũng
như việc đẩy nhanh tốc độ xuất khẩu trực tiếp vào thị trường EU. Ngoài ra, để triển khai thi hành có hiệu quả
Hiệp định EVFTA, nhiệm vụ xây dựng và hồn thiện cơ chế kiểm sốt, phịng ngừa tranh chấp giữa Nhà
nước và nhà đầu tư theo hướng nâng cao tính minh bạch, hiệu quả của cơng tác thi hành và giám sát thi hành
pháp luật nhằm hạn chế tranh chấp phát sinh với nhà đầu tư nước ngoài cần được chú trọng
Tóm lại, để đẩy mạnh kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với EU cần thực thi tốt các hiệp định IPA,
EVFTA,... chủ động xâm nhập tiếp cận thị trường, kết hợp đầu tư của EU vào Việt Nam với phát triển quan
hệ thương mại Việt Nam - EU, tạo ra nguồn hàng xuất khẩu của Việt Nam theo tiêu chuẩn EU. Đẩy mạnh
xúc tiến thương mại, tăng cường hoạt động thông tin về thị trường EU, áp dụng nhiều biện pháp hỗ trợ,
khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng nhập khẩu với EU, đặc biệt khuyến khích các mặt
hàng có lợi thế trên thị trường EU. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất hàng xuất khẩu
đạt các tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế như ISO 9000, ISO 14000, HACCP (điểm kiểm sốt tới hạn và phân tích
mối nguy hại trong chế biến thành phần) nhằm vượt qua những rào cản kỹ thuật của thị trường EU.
●
Giải pháp về sản phẩm
Phải cải thiện hàng hóa của Việt Nam đó khơng chỉ là sản phẩm đạt tiêu chuẩn châu Âu mà cịn giá cả
có khả năng cạnh tranh với phương thức kinh doanh linh hoạt. Trong thời gian tới các doanh nghiệp Việt
Nam nếu muốn tăng kim ngạch xuất khẩu vào EU, thì trước hết họ phải có một chiến lược sản phẩm cụ thể,
thích ứng với những thay đổi của tình hình thị trường. Ở đây họ khơng chỉ lập kế hoạch từ khi đầu vào và
đầu ra của sản phẩm, trong đó cần phải đáp ứng đầy đủ nguyên liệu, giá cả nguyên liệu, không ngừng cải
tiến các trang thiết bị máy móc đáp ứng các tiêu chuẩn của EU, đào tạo nâng cấp tay nghề cho cơng nhân,
tìm được thị trường đầu ra cho sản phẩm. Có như vậy, hàng xuất khẩu của Việt Nam mới có thể cạnh tranh
được trên thị trường EU. Đối với từng loại mặt hàng xuất khẩu chiến lược cũng cần được chú ý. Đó là, các
doanh nghiệp Việt nam phải đa dạng hóa các chủng loại mặt hàng xuất khẩu sang EU. Ngồi ra cần phát
triển cơng nghiệp phụ trợ nhằm đảm bảo thỏa mãn yêu cầu về xuất xứ. Nhà nước cần xác định về các ngành
xuất khẩu mũi nhọn và quy hoạch phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ. Với nguồn lực có hạn, Việt Nam
khơng thể phân tán lực lượng mà phải tập trung phát triển các ngành cơng nghiệp phụ trợ mũi nhọn mà mình
có khả năng như: dệt may, giày dép… và lắp ráp (như ôtô, xe máy, thiết bị điện và điện tử).
Tựu chung lại, chỉ cần cả hai phía Việt Nam và EU có một chương trình cụ thể gỡ bỏ các trở ngại để hiểu
nhau hơn đã là một đam bảo đáng kể tạo cơ sở cho sự tiếp tục phát triển vững chắc hơn quan hệ hợp tác trong
những thập niên đầu thế kỉ XXI. Đó là điều trong tầm tay và cả hai phía có thể làm được.
KẾT LUẬN
EU là một khối liên kết kinh tế chặt chẽ và sâu sắc, có đồng tiền riêng vững chắc và là thị trường tự
do lưu thơng hàng hóa nhất thế giới hiện nay. Mặt khác, đây còn là thị trường có sức mua rất lớn, địi hỏi u
cầu chất lượng cao, điều kiện thương mại nghiêm ngặt và được bảo hộ đặc biệt. Qua bài nghiên cứu trên,
chúng ta càng thêm cơ sở để khẳng định EU đang là thị trường kinh tế hàng đầu thế giới và có tiềm năng
phát triển rất mạnh, là một đối tác kinh tế, thương mại vô cùng quan trọng của Việt Nam. Từ những thông
tin về đặc điểm thị trường, cơ cấu hàng hoá xuất nhập khẩu cũng như các quy định, chính sách đối với hàng
hố này, ta có cái nhìn sâu hơn, toàn diện hơn về thị trường EU, để từ đó rút ra những bài học, những kiến
nghị nhằm thúc đẩy mối quan hệ hai bên, bao gồm việc củng cố mối quan hệ chính trị giữa Việt Nam và EU,
đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng, sản phẩm lợi thế và không thể bỏ qua vấn đề phát triển những nguồn
nguyên liệu để giảm nhập khẩu từ EU. Để duy trì mối quan hệ thương mại Việt Nam - EU ngày càng tốt đẹp
và phát triển, chính phủ cũng như các doanh nghiệp, cá nhân cần thực hiện tốt, đáp ứng được các biện pháp,
ngồi ra cịn khắc phục những nhược điểm và thiếu sót cịn xảy ra.