Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

Ths CTH xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị cấp cơ sở, thành phố sa đéc, tỉnh đồng tháp hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (429.64 KB, 104 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

MAI QUANG KHẢ

XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
CHỦ CHỐT CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
CẤP CƠ SỞ, THÀNH PHỐ SA ĐÉC, TỈNH
ĐỒNG THÁP HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHÍNH TRỊ HỌC

HÀ NỘI - 2017


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

MAI QUANG KHẢ

XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
CHỦ CHỐT CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
CẤP CƠ SỞ, THÀNH PHỐ SA ĐÉC, TỈNH
ĐỒNG THÁP HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHÍNH TRỊ HỌC
Mã số: 60 31 02 01

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ THANH DUNG

HÀ NỘI - 2017



LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc
rõ ràng. Những kết luận của luận văn chưa từng được công bố
trong bất kỳ cơng trình khoa học nào.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Mai Quang Khả


MỤC LỤC
3
MỞ ĐẦU

1

Chương 1

5

LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
CẤP CƠ SỞ.......................................................................................................6
1.1. HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP CƠ SỞ VÀ VAI TRỊ ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ
CHỐT CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP CƠ SỞ.......................................6
1.2. QUAN NIỆM VÀ TIÊU CHÍ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CỦA
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP CƠ SỞ..........................................................20
Chương 2

37


THỰC TRẠNG XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CỦA HỆ THỐNG
CHÍNH TRỊ CẤP CƠ SỞ, THÀNH PHỐ SA ĐÉC HIỆN NAY....................37
2.1. THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
CẤP CƠ SỞ THÀNH PHỐ SA ÐÉC, TỈNH ÐỒNG THÁP HIỆN NAY.......37
2.2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CỦA
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP CƠ SỞ THÀNH PHỐ SA ÐÉC....................45
Chương 3

60

QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NHẰM XÂY DỰNG..........................60
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP CƠ SỞ, THÀNH PHỐ
SA ĐÉC, TỈNH ĐỒNG THÁP HIỆN NAY....................................................60
3.1. DỰ BÁO SỰ PHÁT TRIỂN CỦA THÀNH PHỐ SA ĐÉC VÀ YÊU CẦU ĐỐI VỚI
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ VÀ CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
CHỦ CHỐT HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP CƠ SỞ CỦA THÀNH PHỐ....60
3.2. QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU, PHƯƠNG HƯỚNG XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
CHỦ CHỐT HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP CƠ SỞ THÀNH PHỐ SA ÐÉC
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY................................................................................64
3.3. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT HỆ
THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP CƠ SỞ Ở THÀNH PHỐ SA ĐÉC......................68
KẾT LUẬN 91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................93



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BHXH


:

Bảo hiểm xã hội

BHYT

:

Bảo hiểm y tế

CBCC

:

Cán bộ chủ chốt

CBCCCCS

:

Cán bộ chủ chốt cấp cơ sở

CNH, HĐH

:

Cơng nghiệp hố, hiện đại hố

HTCT


:

Hệ thống chính trị

QLHCNN

:

Quản lý hành chính nhà nước

UBND

:

Uỷ ban nhân dân


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cán bộ là khâu then chốt, trọng yếu của công tác xây dựng Đảng. Vị trí của
cơng tác cán bộ gắn liền với vai trò của đội ngũ cán bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh,
người sáng lập, rèn luyện và lãnh đạo Đảng ta đã nhấn mạnh: "Cán bộ là cái gốc của
mọi công việc" [50, tr. 269], "công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt
hay kém" [50, tr. 273]. Thấm nhuần tư tưởng của Người, trong suốt hơn 87 năm xây
dựng và phát triển, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi cán bộ và công tác cán bộ là
những nhân tố quyết định sự thành, bại của cách mạng.
Xã, phường, thị trấn là nơi tuyệt đại bộ phận nhân dân cư trú, sinh sống. Hệ
thống chính trị (HTCT) và CBCC của HTCT ở cơ sở có vai trị rất quan trọng trong

việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống của
cộng đồng dân cư. Chính vì vậy, Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa IX về đổi mới và nâng cao chất lượng của HTCT ở cơ sở
xã, phường, thị trấn đã xác định: xây dựng đội ngũ cán bộ ở cơ sở xã, phường, thị
trấn là một trong ba vấn đề cơ bản và bức xúc cần tập trung giải quyết, trong đó yêu
cầu xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở có năng lực tổ chức vận động nhân dân thực
hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, công tâm, thạo việc, tận tụy với
dân, biết phát huy sức dân, không tham nhũng, không ức hiếp dân, trẻ hóa đội ngũ,
chăm lo cơng tác đào tạo, bồi dưỡng, giải quyết hợp lý và đồng bộ chính sách đối
với cán bộ cơ sở [30, tr. 167-168].
Trong những năm gần đây, đội ngũ cán bộ, cơng chức nói chung và đội
ngũ CBCC cấp cơ sở nói riêng đã có bước phát triển về chất lượng. Tuy nhiên, đội
ngũ này vẫn bộc lộ những yếu kém, bất cập về kiến thức, năng lực, trình độ trước
những yêu cầu của tình hình, nhiệm vụ mới. Những bất cập đó đã làm ảnh hưởng
khơng nhỏ đến uy tín và hiệu quả lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, đặt ra đòi hỏi


2
bức thiết phải đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là đội ngũ
CBCC ở cấp cơ sở.
Thành phố Sa Đéc là một thành phố mới được thành lập của tỉnh Đồng
Tháp, nằm ở phía Nam của Tỉnh trên cơ sở nâng cấp thị xã Sa Đéc trước đây. Là
một thành phố mới, trung tâm kinh tế phía Nam của tỉnh, q trình đơ thị hóa diễn
ra nhanh chóng với nhiều dự án, cơng trình trọng điểm, đặt ra hàng loạt các nhiệm
vụ nặng nề, phức tạp về xây dựng và quản lý qui hoạch, quản lý đơ thị, quản lý đất
đai, giải phóng mặt bằng, xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, phát triển
kinh tế, văn hóa - xã hội, phòng chống các tệ nạn xã hội, quản lý dân cư, đảm bảo
an ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội. Nhất là trong thời điểm Tỉnh Đồng Tháp

đang quyết tâm đưa du lịch trở thành điểm mạnh kinh tế của Tỉnh, Tỉnh ủy Đồng
Tháp đã ban hành các Nghị quyết: Nghị quyết số 02-NQ/TU ngày 20 tháng 6 năm
2016: về phát triển kinh tế - xã hội thành phố Sa Đéc đến năm 2020, tầm nhìn đến
năm 2030”, Nghị quyết số 03-NQ/TU ngày 01 tháng 8 năm 2016: về “nâng cao chất
lượng hoạt động Đảng bộ xã, phường, thị trấn”, Nghị quyết số 05-NQ/TU ngày 17
tháng 8 năm 2016: về “tạo dựng hình ảnh tỉnh Đồng Tháp”...
Để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ nêu trên, thành phố Sa Đéc phải có
một đội ngũ CBCC nói chung, đội ngũ CBCC cấp cơ sở nói riêng vững mạnh, có
phẩm chất, năng lực, phương pháp, phong cách cơng tác tốt, nhạy bén, năng động,
đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của tình hình mới.
Nhận thức được vai trị then chốt của nhiệm vụ "xây dựng, chỉnh đốn Đảng
trong hệ thống chính trị", với quan điểm "hướng về cơ sở" của Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 5 khóa IX "Về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ
sở xã, phường, thị trấn", cũng như xuất phát từ địi hỏi thực tiễn của q trình xây
dựng và phát triển thành phố Sa Đéc hiện nay, học viên lựa chọn đề tài: "Xây dựng
đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị cấp cơ sở, thành phố Sa Đéc, tỉnh
Đồng Tháp hiện nay" làm luận văn Thạc sĩ Chính trị học.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Vấn đề cán bộ nói chung, CBCC nói riêng là nội dung được nhiều nhà lãnh
đạo, các cấp ủy đảng và các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Trong số các bài


3
viết đã đăng trên các tạp chí, các đề tài, cơng trình nghiên cứu, các luận văn, luận án
đã cơng bố, liên quan đến các vấn đề cán bộ; nhiều cơng trình, bài viết đã có những
đóng góp, những lý giải, những kiến nghị hết sức sâu sắc, có giá trị thực tiễn cao. Ví
dụ như:
- Nhóm đề tài về những yêu cầu đối với cán bộ cơ sở: Mẫu hình và con
đường hình thành người cán bộ lãnh đạo chính trị chủ chốt cấp cơ sở, Học viện
Nguyễn Ái Quốc (1992) [39]; Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt

cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn), Phan Văn Tích (chủ biên) (1993) [66]; Tư tưởng Hồ
Chí Minh về vai trị của đạo đức cách mạng và sự thống nhất giữa đức và tài, Bùi
Đình Phong (2003) [58]; Tiêu chuẩn đạo đức của người cán bộ lãnh đạo chính trị hiện
nay, Trần Văn Phịng (2003) [59].
- Nhóm đề tài về nội dung, phương pháp, cách thức xây dựng đội ngũ
CBCC cấp cơ sở: Nâng cao năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt
cấp xã hiện nay, Hồ Bá Thâm (1994) [62]; Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ
lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị thời kỳ đổi mới, Trần Xuân Sầm (chủ
biên) (1998) [60]; Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã vùng nông thôn đồng
bằng sông Cửu Long hiện nay, Phạm Công Khâm (2000), Xây dựng đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp xã vùng nông thôn đồng bằng sông Cửu Long hiện nay [42]; Xây dựng
đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị cấp huyện ở thành phố Hà Nội trong
giai đoạn hiện nay", Trần Duy Hưng (2002) [40]; Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh
đạo chủ chốt của Đảng bộ các cấp ở Tây Nguyên hiện nay, Nguyễn Mậu Dựng
(2000) [37]; Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở huyện Phú Bình, tỉnh Thái
Nguyên trong giai đoạn hiện nay, Nguyễn Căn Côi (2002) [10]; Xây dựng đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp phường ở thành phố Cần Thơ hiện nay - Thực trạng và giải
pháp", Phan Thị Thúy Vân (2005) [75]; Qui hoạch cán bộ lãnh đạo quản lý cơ sở,
Vĩnh Trọng (2004) [73]; Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt hệ thống chính trị cấp
xã ở huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn hiện nay, Trần Trung
Trực (2005) [74]; Xây dựng đội ngũ nữ cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị cấp
xã (qua khảo sát thực tiễn ở đồng bằng sông Hồng), Trịnh Thanh Tâm (2013) [61];
Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp đáp ứng yêu


4
cầu cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp, nơng thơn, Huỳnh Thị Hồi Thu
(2015) [65] …
Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có luận văn, luận án nào nghiên cứu về đội
ngũ CBCC của HTCT cấp cơ sở, thành phố Sa Đéc trong giai đoạn hiện nay, từ đó,

đưa ra những giải pháp thiết thực, khả thi nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ này,
đáp ứng với yêu cầu ngày càng cao của tình hình mới. Vì vậy, tác giả luận văn chọn
nghiên cứu đề tài này trên cơ sở kế thừa có chọn lọc các cơng trình trên nhằm hệ
thống lại những kiến thức đã học và góp phần nhỏ bé, đáp ứng đòi hỏi thực tiễn của
sự nghiệp xây dựng và phát triển thành phố Sa Đéc.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích: Trên cơ sở làm rõ lý luận, thực tiễn của công tác xây dựng đội
ngũ CBCC cấp cơ sở, luận văn đề xuất các phương hướng, giải pháp nhằm xây dựng
đội ngũ CBCC của HTCT cấp cơ sở, thành phố Sa Đéc đủ khả năng đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ mới trong việc xây dựng, phát triển địa phương giai đoạn hiện nay.
- Nhiệm vụ:
+ Làm rõ những căn cứ lý luận về xây dựng đội ngũ CBCC của HTCT cấp
cơ sở ở thành phố Sa Đéc trong giai đoạn hiện nay.
+ Nghiên cứu thực trạng, nguyên nhân và những kinh nghiệm của quá
trình xây dựng đội ngũ CBCC của HTCT cấp cơ sở ở thành phố Sa Đéc giai đoạn
2010 - 2015.
+ Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất
lượng công tác xây dựng đội ngũ CBCC của HTCT cấp cơ sở ở thành phố Sa Đéc
trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Công tác xây dựng Đội ngũ CBCC của HTCT cấp cơ sở ở thành phố Sa
Đéc, tỉnh Đồng Tháp trong giai đoạn hiện nay.
-

Phạm vi nghiên cứu:


5
-


+ Về lý luận: Luận văn khơng trình bày tồn bộ các vấn đề lý luận về
cán bộ và công tác cán bộ mà tập trung phân tích những vấn đề liên
quan đến xây dựng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là đội ngũ CBCC cấp cơ sở.

+ Về thực tiễn: Luận văn tập trung phân tích thực trạng xây dựng đội ngũ
CBCC và công tác xây dựng đội ngũ CBCC của HTCT cấp cơ sở ở thành phố Sa
Đéc từ năm 2010 đến năm 2015 (bao gồm các chức danh theo quan điểm của Nghị
quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa IX, Nghị định 114/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của
Chính phủ và Quyết định 04/2004/QĐ-BNV ngày 16/01/2004 của Bộ Nội vụ về tiêu
chuẩn đối với cán bộ công chức xã, phường, thị trấn).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử;
Phương pháp nghiên cứu khác: phương pháp phân tích, tổng hợp; phương
pháp lơgíc và lịch sử, đặc biệt coi trọng phương pháp tổng kết thực tiễn.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Luận văn nghiên cứu dựa trên quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước về hệ thống chính trị và cơng tác cán bộ của hệ thống
chính trị cấp cơ sở.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho
Thành ủy, Ủy ban nhân dân (UBND) thành phố, các đồn thể chính trị - xã hội của
thành phố; cho Đảng ủy, UBND, các đoàn thể chính trị - xã hội cấp cơ sở ở thành
phố Sa Đéc trong công tác cán bộ, công tác xây dựng Đảng và xây dựng HTCT.
- Luận văn còn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu,
giảng dạy và học tập về công tác cán bộ, công tác xây dựng Đảng và xây dựng
HTCT cấp cơ sở ở trung tâm bồi dưỡng cán bộ thành phố và Trường Chính trị tỉnh
Đồng Tháp.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn gồm 3 chương, 7 tiết.
Chương 1


6
LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT
CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP CƠ SỞ
1.1. HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP CƠ SỞ VÀ VAI TRÒ ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
CHỦ CHỐT CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP CƠ SỞ

1.1.1. Vị trí, đặc điểm của hệ thống chính trị cấp cơ sở
* Vị trí của hệ thống chính trị cấp cơ sở
Xã, phường, thị trấn là đơn vị hành chính nhà nước ở địa phương cơ sở, có vị
trí hết sức quan trọng trong bộ máy hành chính bốn cấp ở nước ta. Nói về vai trị, vị
trí của cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn), Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Cấp xã
là cấp gần gũi dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi
cơng việc đều xong xi" [50, tr. 371].
Điều 110, Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam chỉ rõ:
“1. Các đơn vị hành chính của nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
được phân định như sau:
Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
Tỉnh chia thành huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh; thành phố trực thuộc
trung ương chia thành quận, huyện, thị xã và đơn vị hành chính tương đương;
Huyện chia thành xã, thị trấn; thị xã và thành phố thuộc tỉnh chia thành
phường và xã; quận chia thành phường.
Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập.
2. Việc thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính phải
lấy ý kiến Nhân dân địa phương và theo trình tự, thủ tục do luật định.

Như vậy, xã, phường, thị trấn là đơn vị hành chính cuối cùng trong hệ thống
hành chính bốn cấp ở nước ta. Xã, phường, thị trấn là hình ảnh của một xã hội thu
nhỏ, nơi tổ chức thực hiện mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước và biến nghị quyết thành hiện thực sinh động. Thông qua HTCT,
xã, phường, thị trấn nắm bắt tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, phản
ánh với Đảng và Nhà nước, tạo nên cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân,


7
đồng thời kiểm nghiệm tính đúng đắn của đường lối, chính sách của Đảng, Nhà
nước. Từ thực tiễn, phường, xã, thị trấn đóng góp những sáng kiến, kinh nghiệm, đề
xuất, báo cáo với Đảng và Nhà nước để sửa đổi, bổ sung và đề ra đường lối, chủ
trương, chính sách sát với thực tế cơ sở.
Các tổ chức của HTCT cấp cơ sở là một bộ phận quan trọng tạo nên HTCT ở
nước ta. Các tổ chức của HTCT cấp cơ sở vững mạnh, hoạt động có hiệu quả phụ
thuộc rất lớn vào đội ngũ CBCC của HTCT cấp cơ sở. Đội ngũ này có chất lượng tốt,
năng động, sáng tạo, có năng lực, phẩm chất đạo đức, phương pháp, phong cách công
tác tốt sẽ làm cho HTCT cấp cơ sở vững mạnh.
Phạm trù hệ thống chính trị (HTCT) ra đời trong thời kỳ hiện đại. Ở Việt Nam
từ Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (1989) Đảng ta mới dùng khái niệm HTCT với nội
hàm là một chỉnh thể về cấu trúc theo chiều ngang bao gồm: Đảng Cộng sản Việt
Nam; Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức chính trị - xã hội. Về cấu trúc theo quan hệ dọc bao gồm các mối quan hệ trong
hệ thống được thành lập giống nhau ở cả 4 cấp hành chính: Trung ương, tỉnh (thành
phố trực thuộc Trung ương), huyện (quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh) và xã
(phường, thị trấn) [22].
Theo quan niệm này, HTCT Việt Nam gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam (đóng
vai trị cầm quyền); Nhà nước; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội cùng các mối quan hệ giữa chúng trong việc phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, xây dựng khối đại đồn kết tồn dân tộc trong q trình thực hiện quyền
lực của nhân dân theo định hướng XHCN.

Trước hết, việc phân chia đơn vị hành chính là việc chia lãnh thổ quốc gia
thành các đơn vị (cấp) hành chính để tổ chức quyền lực nhà nước (hay quản lý nhà
nước) từ trung ương đến các địa phương. Nhằm thực hiện tốt mục đích đó, nhà
nước chia lãnh thổ ra các phần nhất định và đặt cơ quan cai trị, quản lý, đảm bảo
liên hệ giữa bộ máy quyền lực Trung ương, địa phương và thực hiện chính sách
quản lý của Nhà nước tại địa phương.
Ngày 03/02/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, Đảng đã lãnh đạo nhân
dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, đầy gian khổ, hy sinh làm nên
thành công cuộc cách mạng tháng Tám. Ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa, Nhà nước


8
công nông đầu tiên ở Đông Nam Châu Á. Sau khi nhà nước ra đời, toàn dân tiến
hành tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hồ,
Quốc hội đã thơng qua Hiến pháp (Hiến pháp năm 1946). Trong Hiến pháp năm
1946 đã nêu: về phương diện hành chính, nước Việt Nam chia ra làm ba bộ: Bắc,
Trung, Nam. Mỗi bộ chia thành tỉnh, mỗi tỉnh chia thành huyện, mỗi huyện chia
thành xã. Do điều kiện khách quan lúc bấy giờ nên đơn vị hành chính từ tỉnh,
huyện, xã được nêu là cấp hành chính cụ thể; cịn Trung ương thì chỉ đặt vấn đề ở
góc độ ba bộ ở ba miền trong cả nước.
Cùng với sự phát triển của mỗi giai đoạn cách mạng, các bản Hiến pháp nước
ta xác định đơn vị hành chính trong cả nước ngày càng rõ và phù hợp với điều kiện
quản lý của cơ quan quyền lực nhà nước (hay quản lý nhà nước) hơn. Hiến pháp năm
1959 xác định: nước chia thành tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc trung ương; tỉnh
chia thành huyện, thành phố, thị xã; huyện chia thành xã, thị trấn. Hiến pháp năm
1980: tỉnh chia thành huyện, thành phố thuộc tỉnh và thị xã; thành phố trực thuộc
trung ương chia thành quận, huyện và thị xã; huyện chia thành xã, thị trấn; thành phố
thuộc tỉnh, thị xã chia thành phường và xã; quận chia thành phường.
Như vậy, xét về quá trình phát triển, việc phân chia đơn vị hành chính nước

ta, từng bước đã thể hiện rõ ở nước ta có 4 cấp hành chính: trung ương, tỉnh, huyện,
xã và mỗi cấp đều có các đơn vị tương đương.
Trong hệ thống hành chính bốn cấp ở nước ta, xã, phường, thị trấn là đơn vị
hành chính cấp cơ sở, có vai trò là nền tảng vững chắc của hệ thống đó. Bên cạnh đó,
đây là nơi kiểm nghiệm tính đúng đắn của đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước và từ đó đóng góp những kinh nghiệm quý báu, phát hiện, đề xuất,
kiến nghị với Đảng, Nhà nước điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện đường lối, chủ
trương, chính sách, pháp luật phù hợp với cơ sở, với điều kiện khách quan của mỗi
giai đoạn cách mạng và tâm tư, nguyện vọng, tình cảm của quần chúng nhân dân,
phát huy vai trị dân chủ ở cơ sở.
Chính vì vậy, khi nói về vị trí, vai trị của cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn),
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Cấp xã là cấp gần gũi dân nhất, là nền tảng của
hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi cơng việc đều xong xi” [72, tr.371].


9
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, Đảng ta chủ trương hướng mạnh về cơ
sở, quan tâm củng cố cơ sở xã hội của chính trị, đề cao các sáng kiến, sáng tạo từ cơ
sở. Đảng ta còn nhấn mạnh cơ sở là nơi chính quyền trong lịng dân, nơi đưa đường
lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào thực tiễn cuộc sống; phát huy
mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân, phát triển kinh tế - xã hội; giữ vững ổn định
chính trị, v.v…
Tóm lại, xã, phường, thị trấn là đơn vị hành chính cấp cơ sở, nơi thiết lập và
hoạt động của HTCT cơ sở và các tổ chức kinh tế, xã hội khác nhau, đặt dưới sự
lãnh đạo trực tiếp của tổ chức cơ sở Đảng. Xã, phường, thị trấn phát triển toàn diện
và vững mạnh thì huyện mạnh; huyện mạnh thì tỉnh mạnh và tỉnh mạnh góp phần
cùng cả nước phát triển mạnh, bền vững sánh vai cùng các nước trong khu vực và
trên thế giới. Ngược lại, cấp cơ sở yếu kém, khơng ổn định, phát triển thiếu bền
vững, tình hình an ninh chính trị diễn biến phức tạp, thì sẽ ảnh hưởng rất lớn và trực
tiếp đến huyện, tỉnh và cả nước.

Cấu trúc HTCT cơ sở gồm: Đảng ủy; Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân;
Mặt trận Tổ Quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
Đặc điểm HTCT cơ sở:
Hệ thống chính trị ở cơ sở là một bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị
nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nên nó có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, hệ thống chính trị cơ sở là cấp thấp nhất trong hệ thống chính trị
ở Việt Nam hiện nay. Đây là đặc điểm nhìn từ góc độ quan hệ thứ bậc mang tính
pháp lý của chỉnh thể hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay. Song không phải cấp
thấp nhất là cấp kém quan trọng nhất. Mà xét theo khía cạnh thực thi đường lối
chính sách của Đảng và nhà nước thì đây lại là cấp quan trọng nhất. Bởi vì, mọi
chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước chỉ phát
huy được sức mạnh khi nó thâm nhập được vào quần chúng và được quần chúng
ủng hộ, thực hiện.
Thứ hai, hệ thống chính trị ở cơ sở có bộ máy đơn giản nhất và cán bộ biên
chế được hưởng lương, sinh hoạt phí thấp nhất.
Theo các quy định hiện hành thì hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị
trấn được biên chế và hưởng lương không quá 25 người. Các mối quan hệ ở đây


10
khơng phải là khơng phức tạp. Tính phức tạp ở đây được tác động bởi các yếu tố gia
tộc, dòng họ, tơn giáo, văn hố, truyền thống…
Thứ ba, hệ thống chính trị ở cơ sở là cấp có đội ngũ cán bộ biến động nhất,
ít chun nghiệp nhất, trình độ học vấn, trình độ lý luận chính trị và chun mơn
thấp nhất.
Đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị ở cơ sở biến động nhất là vì do cơ chế
họ không được biên chế cố định mà chủ yếu lệ thuộc vào lá phiếu bầu chọn trong
các cuộc bầu cử nên thời gian này làm cán bộ, thời gian sau làm dân thường. Tâm lý
không ổn định, chi phối lớn đến từng người ở từng thời kỳ khác nhau. Họ ít được
chun mơn hố, ít được đào tạo cơ bản vì phần lớn những người được đào tạo cơ

bản cả về lý luận và chun mơn nghiệp vụ thì họ tìm cách thốt ly khỏi xã,
phường, thị trấn để lại hệ thống chính trị ở cơ sở với đội ngũ cán bộ nổi bật đặc
điểm này.
Thứ tư, hệ thống chính trị ở cơ sở là cấp trực tiếp nhất chịu sự chi phối của
nhân dân.
Mọi đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước quán triệt, triển khai đến
dân đều qua cấp cơ sở. Vì vậy, cơ sở là cấp gần dân nhất và thể hiện tính nhân dân
một cách rõ ràng, trực tiếp nhất. Song đây là cấp đầu tiên đối mặt với những yêu
cầu bức xúc của dân chúng với những mâu thuẫn, thậm chí cả những xung đột nảy
sinh trong đời sống dân cư.
Thứ năm, hệ thống chính trị ở cơ sở nhất là ở cơ sở nơng thơn là cấp mà
quan hệ dịng họ, văn hố làng xã, quan hệ dân tộc, tơn giáo tác động mạnh nhất.
Hệ thống chính trị ở cơ sở là cấp mà quan hệ dịng họ, văn hố làng xã có thể
tác động mạnh nhất có ảnh hưởng đáng kể đến quan hệ nội bộ trong tổ chức và hiệu
quả hoạt động của HTCT ở cơ sở. Trong quan hệ với dân, cán bộ ở cơ sở có thể bị
chi phối, ràng buộc rất lớn bởi quan hệ họ hàng, thân tộc, bởi các truyền thống,
phong tục, tập quán, lối sống làng xã.
Những đặc điểm trên của hệ thống chính trị ở cơ sở, phản ánh một mặt ở sự
thống nhất, duy nhất của cả hệ thống chính trị được tổ chức và hoạt động theo tính
thống nhất về mục tiêu và nguyên tắc. Mặt khác nó cũng phản ánh nhiều mâu thuẫn.


11
Vấn đề là phát hiện mâu thuẫn và có những giải pháp cụ thể xử lý những mâu thuẫn
một cách cụ thể để đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị ở cơ sở đáp ứng vị trí,
vai trị quan trọng của nó trong từng giai đoạn cách mạng.
* Vai trị của hệ thống chính trị cấp cơ sở
HTCT ở cơ sở bao gồm xã, phường, thị trấn. Nước ta có trên 10.000 đơn vị
cơ sở, trong đó có gần 9.000 xã. Với con số đó, cấp cơ sở được gọi chung là cấp xã.
Tính đến năm 2015, nước ta có 11.162 đơn vị hành chính cấp xã [Xem mạng

lưới điểm giao dịch xã của Ngân hàng Chính sách xã hội, bao
gồm 1.567 phường, 597 thị trấn và 9064 xã, với tổng số trên 222.735 cán bộ, công
chức và 317.766 cán bộ không chuyên trách cấp xã. Đây là những người trực tiếp
thực hiện và đưa chủ trương, đường lối, nghị quyết của Ðảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước đến với nhân dân, tuyên truyền, vận động và tổ chức nhân dân
thực hiện.
Hiện nay, chúng ta có trên 2 triệu cán bộ cơ sở ở nông thôn từ xã tới thơn, có
hưởng lương và phụ cấp sinh hoạt phí từ nguồn ngân sách nhà nước, mỗi năm chi
khoảng 2.400 tỷ đồng. 50% đảng viên và hơn 20% số tổ chức cơ sở Đảng trong
tổng số 2 triệu 60 vạn đảng viên của Đảng là đảng viên nông dân và tổ chức Đảng ở
nông thôn [53, tr.313-314].
Kinh nghiệm lịch sử và bài học của ông cha ta về việc an dân, trị quốc, cũng
như kinh nghiệm đấu tranh cách mạng qua các thời kỳ do Đảng lãnh đạo đã cho
thấy: việc giữ dân, giành dân có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự bền vững của
chế độ. Chính quyền trong lịng dân, cơ sở xã hội của chế độ là lòng dân, là sức
mạnh đồng thuận xã hội của dân chúng từ cơ sở. Do vậy để ổn định chính trị và
phát triển xã hội, nhất thiết phải sớm khắc phục những yếu kém của HTCT ở cơ sở,
phải xây dựng HTCT ở cơ sở trở thành HTCT thực sự của dân, do dân và vì dân.
Dân chủ hoá đời sống xã hội ở cơ sở, thực hiện có hiệu quả Pháp lệnh dân
chủ ở cơ sở và đưa Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 - khoá IX về đổi mới và nâng
cao chất lượng HTCT ở cơ sở xã, phường, thị trấn vào cuộc sống. Theo Chủ tịch Hồ
Chí Minh: dân chỉ biết đến giá trị của dân chủ, của độc lập tự do khi dân được ăn
no, mặc ấm. Nước nhà có độc lập tự do mà dân chúng vẫn đói rét, nghèo nàn, lạc


12
hậu thì độc lập tự do đó phỏng có ích gì. Phải làm cho dân có ăn, có mặc, có chỗ ở,
được học hành, được chăm sóc sức khỏe, được hưởng tự do và hạnh phúc. Chỉ có
thực hành dân chủ rộng rãi mới là chiếc chìa khố vạn năng để giải quyết mọi khó
khăn.

Tóm lại, tiếp cận và nghiên cứu hệ thống chính trị như một hệ thống chỉnh
thể các tổ chức, thiết chế, hệ thống các quan hệ và các cấp độ khác nhau như trên
cho thấy rõ được cấu trúc, bản chất và mục tiêu của hệ thống chính trị ở nước ta. Hệ
thống chính trị mà chúng ta đang đổi mới, hoàn thiện nhằm xây dựng chế độ dân
chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân chủ, phát huy vai trò làm chủ của các tầng lớp
nhân dân lao động. Tiếp cận và nghiên cứu hệ thống chính trị như vậy sẽ thấy rõ
được mối quan hệ máu thịt giữa hệ thống chính trị với dân và giữa dân với hệ thống
chính trị: Đảng của dân tộc, của nhân dân; nhà nước của dân, do dân; các tổ chức
chính trị- xã hội của dân và tất cả đều vì dân. Như vậy, hệ thống chính trị của chúng
ta đang xây dựng về thực chất là của dân, do dân và vì dân. Những căn cứ lý luận
như vậy sẽ là công cụ nhận thức quan trọng để luận văn khảo sát hệ thống chính trị
ở cơ sở trên địa bàn thành phố Sa Đéc tỉnh Đồng Tháp.
1.1.2. Khái niệm, vai trò, đặc điểm của đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ
thống chính trị cấp cơ sở
1.1.2.1. Khái niệm về cán bộ chủ chốt
Hiện nay đang có nhiều quan niệm khác nhau về CBCC. Để nhận thức đầy
đủ và đúng đắn vấn đề này, cần làm rõ một số khái niệm sau đây:
- Thứ nhất, khái niệm "cán bộ"
Theo cuốn Đại từ điển tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên thì: "Cán bộ: 1.
Người làm việc trong cơ quan nhà nước - cán bộ nhà nước. 2. Người giữ chức vụ,
phân biệt với người bình thường, không giữ chức vụ trong các cơ quan, tổ chức nhà
nước" [77, tr. 249]. Theo Điều 1 của Pháp lệnh Công chức do Ủy ban Thường vụ
Quốc hội ban hành ngày 9/3/1998: "Cán bộ, công chức là công dân Việt Nam, trong
biên chế và hưởng lương từ ngân sách".
Từ những định nghĩa nêu trên, có thể hiểu "cán bộ" là khái niệm dùng để chỉ
những người ở trong cơ cấu của một tổ chức nhất định, có trọng trách hồn thành
nhiệm vụ theo chức năng được tổ chức đó phân công.


13

Như vậy, có nhiều quan niệm về cán bộ, nhưng tựu trung lại, có hai cách hiểu
cơ bản:
Một là, cán bộ bao gồm những người trong biên chế nhà nước, làm việc trong
các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể chính trị - xã hội, các doanh nghiệp nhà nước
và các lực lượng vũ trang nhân dân từ Trung ương đến địa phương và cơ sở.
Hai là, cán bộ là những người giữ chức vụ trong một cơ quan hay một tổ
chức để phân biệt với người khơng có chức vụ.
Từ những khái niệm về cán bộ nêu trên cho thấy, người cán bộ có bốn đặc
trưng cơ bản:
+ Cán bộ được sự ủy nhiệm của Đảng, Nhà nước và các tổ chức khác trong
HTCT... lấy danh nghĩa của các tổ chức đó để hoạt động.
+ Cán bộ giữ một chức vụ, một trọng trách nào đó trong một tổ chức của
HTCT.
+ Cán bộ phải thông qua tuyển chọn hay phân cơng cơng tác sau khi hồn
thành chương trình đào tạo tại các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên
nghiệp, dạy nghề; cán bộ được bổ nhiệm, đề bạt hoặc bầu cử.
+ Cán bộ được hưởng lương và chính sách đãi ngộ căn cứ vào nội dung, chất
lượng hoạt động và thời gian công tác của họ.
Như vậy, hiểu theo nghĩa chung nhất, cán bộ là người lãnh đạo, quản lý
hoặc người làm chuyên môn, nhà khoa học hay công chức, viên chức làm việc,
hưởng lương từ ngân sách nhà nước hoặc từ các nguồn khác. Họ được hình thành
từ tuyển dụng, phân công công tác sau khi tốt nghiệp ra trường, từ bổ nhiệm, đề
bạt hoặc bầu cử.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra định nghĩa về cán bộ hết sức khái quát, giản
dị và dễ hiểu. Theo Người: "Cán bộ là người đem chính sách của Đảng, Chính phủ
giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành, đồng thời đem tình hình dân chúng
báo cáo cho Đảng, Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng" [49, tr. 33].
- Thứ hai, khái niệm "chủ chốt"
Theo Từ điển tiếng Việt - 2000 của Nhà xuất bản Đà Nẵng, từ "chủ chốt"
là "quan trọng nhất, có tác dụng làm nòng cốt. Cán bộ chủ chốt của phong trào"

[76, tr. 174].


14
- Thứ ba, khái niệm "cán bộ chủ chốt"
Từ những nội dung trình bày nêu trên, có thể hiểu "cán bộ chủ chốt" là người
có chức vụ, nắm giữ các vị trí quan trọng, có tác dụng làm nịng cốt trong các tổ
chức thuộc hệ thống bộ máy của một cấp nhất định; người được giao đảm đương
các nhiệm vụ quan trọng để lãnh đạo, quản lý, điều hành bộ máy thực hiện chức
năng, nhiệm vụ được giao; chịu trách nhiệm trước cấp trên và cấp mình về lĩnh vực
cơng tác được giao.
Cán bộ chủ chốt có những đặc trưng cơ bản như sau:
+ Cán bộ chủ chốt là người có vị trí quan trọng, giữ vai trị quyết định trong
việc xác định phương hướng, mục tiêu, phương pháp công tác; đề ra các quyết định
và tổ chức thực hiện tốt các quyết định của cấp mình hoặc cấp trên giao. Đồng thời,
CBCC cịn là người giữ vai trị đồn kết, tập hợp, phát huy sức mạnh của quần chúng
thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị và xây dựng nội bộ tổ chức vững mạnh.
+ Cán bộ chủ chốt là những người đại diện một tổ chức, một tập thể... chủ
yếu do bổ nhiệm hoặc bầu cử, giữ một chức vụ trọng yếu trong cơ quan Đảng, chính
quyền (cấp trưởng, cấp phó); trưởng các đồn thể và là những người chịu trách
nhiệm trước cấp trên và cấp mình về mọi hoạt động của địa phương, đơn vị hoặc
lĩnh vực cơng tác được đảm nhận.
Từ nhận thức đó, đặc biệt theo quan điểm của Nghị quyết Trung ương 5 khóa
IX về đổi mới và nâng cao chất lượng HTCT ở cơ sở xã, phường, thị trấn; Nghị
định 114/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ về cán bộ, cơng chức xã,
phường, thị trấn; Quyết định 04/2004/QĐ-BNV ngày 16/1/2004 của Bộ trưởng Bộ
Nội vụ về tiêu chuẩn đối với cán bộ công chức xã, phường, thị trấn; tác giả luận văn
đề cập đến đội ngũ CBCC của HTCT cấp cơ sở ở thành phố Sa Đéc bao gồm các
chức danh: Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy phường, xã; Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND
phường, xã; Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND phường, xã; Chủ tịch Ủy ban Mặt trận

Tổ quốc; Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ; Chủ tịch Hội Cựu chiến binh; Bí thư Đồn
Thanh niên; Chủ tịch Hội Nơng dân các phường, xã.
1.1.2.2. Vai trò, đặc điểm của đội ngũ cán bộ chủ chốt hệ thống chính trị
cấp cơ sở
* Vai trò của đội ngũ CBCC HTCT cấp cơ sở
Luận bàn về vị trí, vai trị của cán bộ lãnh đạo đối với sự nghiệp cách mạng,
C.Mác và Ph. Ăngghen là người đầu tiên nêu ra quan điểm khoa học về cán bộ. Hai


15
ơng khẳng định: "Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng lực
lượng thực tiễn" [48, tr. 184].
Theo quan điểm của C.Mác và Ph. Ăngghen, cán bộ là những người tiêu biểu
cho phong trào cách mạng; có tri thức và trình độ nhận thức cao, biết kết hợp vận
dụng lý luận cách mạng với thực tiễn để tổ chức phong trào cách mạng của quần
chúng, lãnh đạo quần chúng thực hiện các cuộc cải cách có ý nghĩa cách mạng. Họ
phải là những người tuyệt đối trung thành với lợi ích của giai cấp cơng nhân, nhân
dân lao động, có trách nhiệm cao và được quần chúng noi theo.
Kế thừa và phát triển sáng tạo tư tưởng của Mác và Ăngghen về Đảng của
giai cấp công nhân, V.I.Lênin đã đề ra những quan điểm quan trọng về cán bộ trong
quá trình xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp cơng nhân. Theo V.I. Lênin, vai trị
quan trọng của đội ngũ cán bộ trước hết là ở chỗ đảm bảo tổ chức thực hiện thắng
lợi đường lối chính trị của Đảng. Bởi vì họ vừa là người xây dựng đường lối, vừa
tiến hành lựa chọn phương pháp chỉ đạo, tổ chức thực hiện và kiểm tra quá trình
vận động cách mạng, hướng tới mục tiêu đã đề ra. Vì thế, Người nhấn mạnh: "Mấu
chốt là vấn đề người, vấn đề lựa chọn người" [46, tr. 132] và "trong lịch sử, chưa hề
có một giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó khơng đào tạo ra được,
trong hàng ngũ của mình, những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có khả
năng tổ chức và lãnh đạo phong trào" [43, tr. 473].
V.I. Lênin, lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân, nhân dân lao động Nga,

của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã tổ chức và lãnh đạo Cách mạng
tháng Mười Nga giành thắng lợi to lớn. Khi giành được chính quyền, Đảng kiểu
mới của V.I. Lênin trở thành Đảng cầm quyền. Lúc này, vấn đề cán bộ càng trở nên
quan trọng và cấp bách hơn. Ở giai đoạn này, nhiệm vụ mới vơ cùng khó khăn của
Đảng Cộng sản và giai cấp công nhân là quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, xã hội
nhằm xây dựng thành công xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa. V.I. Lênin yêu cầu
đội ngũ cán bộ phải nỗ lực cao hơn thời nội chiến để hoàn thành sứ mệnh mới là
quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Người khẳng định: "Nghiên cứu con người, tìm ra
cán bộ có bản lĩnh; hiện nay đó là then chốt, nếu khơng thì tất cả mọi mệnh lệnh và
quyết định sẽ chỉ là mớ giấy lộn" [45, tr. 449].


16
Để có được đội ngũ cán bộ am hiểu nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực quản
lý nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội, đáp ứng yêu cầu xây dựng chủ nghĩa
xã hội, một nhiệm vụ lâu dài, khó khăn và phức tạp, V.I. Lênin đã coi trọng công tác
đào tạo, bồi dưỡng, lựa chọn, đề bạt cán bộ vào các cương vị công tác, thường
xuyên kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ của họ, chú ý giáo dục, rèn luyện, nâng cao
phẩm chất đạo đức cách mạng và năng lực công tác cho cán bộ, chống bệnh quan
liêu, xa dân, kiêu ngạo, thối hóa biến chất.
Chủ tịch Hồ Chí Minh ln coi trọng cơng tác cán bộ nhằm xây dựng đội
ngũ cán bộ vừa hồng, vừa chuyên, đủ sức đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đấu tranh
giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Người coi: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc" [50, tr. 269]. Vai trò của người
cán bộ, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, được thể hiện trong bốn mối quan hệ chủ yếu:
cán bộ với đường lối chính sách, cán bộ với tổ chức bộ máy, cán bộ với công việc
và cán bộ với quần chúng. Trong quan niệm của Người, cán bộ không chỉ là người
vạch ra đường lối mà cịn có vai trị quyết định trong việc tổ chức thực hiện đường
lối. Người nói: "Cán bộ là người đem chính sách của Chính phủ, của đồn thể thi
hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thể thực hiện

được"; "Cán bộ là dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy
thì động cơ dù tốt, dù chạy, tồn bộ máy cũng tê liệt" [50, tr. 54].
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn yêu cầu cán bộ phải sâu sát quần chúng, nắm bắt
kịp thời và phản ánh tình hình đời sống, tâm tư, nguyện vọng của nhân dân với
Đảng và Nhà nước để quyết định đường lối, chủ trương, chính sách hợp lòng dân.
Đối với cơ sở, điều này càng đặc biệt quan trọng. Người chỉ rõ: "Sự lãnh đạo trong
mọi công tác thiết thực của Đảng, ắt phải từ trong quần chúng mà ra và trở lại nơi
quần chúng" [50, tr. 290]. Và Người kết luận: "Muôn việc thành công hay thất bại,
đều do cán bộ tốt hay kém" [50, tr. 273]. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi cán bộ
phải là người lãnh đạo, dẫn dắt quần chúng nhân dân thực hiện mục tiêu, lý tưởng
của Đảng, là người tận tụy phục vụ nhân dân, đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc cho nhân dân. Trong Di chúc, Người căn dặn toàn Đảng ta rằng: "Mỗi đảng
viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm,


17
chính, chí cơng vơ tư. Phải giữ gìn Đảng ta trong sạch, phải xứng đáng là người
lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân" [49, tr. 131].
Thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề cán
bộ, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta ln chú trọng và
đặc biệt quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm với đòi hỏi của từng thời kỳ
cách mạng, đó chính là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Đảng ta xác định phải "có một đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất và năng lực xây dựng
đường lối chính trị đúng đắn và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, đó là vấn đề
cốt tử của lãnh đạo, là sinh mệnh của Đảng cầm quyền" [20, tr. 27]. Trong công
cuộc đổi mới đất nước, thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH, Đảng ta nhấn mạnh vai trò
của cán bộ trong chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH: "Cán bộ là nhân
tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất
nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng" [20, tr. 66]. Theo
quan điểm của Đảng, trong khi phải xây dựng đội ngũ cán bộ một cách đồng bộ,

đáp ứng với yêu cầu của từng giai đoạn cách mạng, cần đặc biệt chú trọng xây dựng
đội ngũ CBCC các cấp, nhất là cấp chiến lược và cấp cơ sở.
Như vậy, bất kỳ lúc nào và ở đâu, vai trò của đội ngũ CBCC cũng rất quan
trọng đối với sự nghiệp cách mạng. Trong giai đoạn hiện nay, vai trò của CBCC
càng đặc biệt quan trọng. Vai trò của đội ngũ CBCC HTCT cấp cơ sở được thể hiện
ở những điểm sau:
- Đội ngũ CBCC của HTCT cấp cơ sở giữ vai trò quyết định trong việc triển
khai tổ chức thực hiện thắng lợi các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước tại cơ sở. Là những người giữ vai trị trụ cột, có tác dụng chi phối mọi
hoạt động tại cơ sở, CBCC cấp cơ sở không những phải nắm vững đường lối, chủ
trương, chính sách của các tổ chức Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội cấp
trên để tuyên truyền, phổ biến, dẫn dắt, tổ chức cho quần chúng thực hiện mà cịn
phải am hiểu sâu sắc đặc điểm, tình hình của địa phương để đề ra những nhiệm vụ,
giải pháp cụ thể hóa đường lối, chủ trương chính sách ấy cho phù hợp với điều kiện
đặc thù của cơ sở.
- Đội ngũ CBCC của HTCT cấp cơ sở là những người trực tiếp gần gũi, gắn
bó với nhân dân, sống, làm việc và hàng ngày có mối quan hệ chặt chẽ với dân. Họ
thường xuyên lắng nghe, tham khảo ý kiến của nhân dân, họ tạo ra cầu nối giữa


18
Đảng, Nhà nước với nhân dân. Thông qua họ mà ý Đảng, lòng dân tạo thành một
khối thống nhất, làm cho Đảng, Nhà nước "ăn sâu, bám rễ" trong quần chúng, tạo
nên quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, củng cố niềm tin của nhân dân đối
với Đảng, Nhà nước và chế độ.
- Đội ngũ CBCC của HTCT cấp cơ sở có vai trị quyết định trong việc xây
dựng, củng cố tổ chức bộ máy của HTCT cấp cơ sở vững mạnh và phát động, lãnh
đạo, phát triển phong trào cách mạng của quần chúng ở cơ sở. Thực tế cho thấy, sự
mạnh, yếu của HTCT và phong trào cách mạng của quần chúng gắn liền với vai trò
của đội ngũ CBCC. Họ là trụ cột, tổ chức sắp xếp, tập hợp lực lượng, là linh hồn

của các tổ chức trong HTCT cấp cơ sở, là trung tâm đoàn kết, tập hợp mọi tiềm
năng, nguồn lực ở địa phương, động viên mọi tầng lớp nhân dân ra sức thi đua
hồn thành thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của cơ sở. Đội ngũ CBCC của HTCT
cấp cơ sở có vai trị quan trọng đối với năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
đảng bộ cơ sở, đối với năng lực và hiệu quả quản lý, điều hành của chính quyền cơ
sở và mọi hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng ở cơ sở.
Qua đó, họ đóng góp tích cực vào việc xây dựng, hồn thiện chủ trương, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước cũng như những chủ trương, chính sách
của cấp huyện và tỉnh.
- Đội ngũ CBCC của HTCT cấp cơ sở còn là một trong những nguồn quan
trọng cung cấp cán bộ cho cấp huyện và tỉnh. Qua thực tế, có thể khẳng định rằng,
cơ sở là mơi trường rèn luyện, giáo dục, tạo điều kiện cho cán bộ phấn đấu, tu
dưỡng và trưởng thành. Thông qua hoạt động ở cơ sở, cán bộ tích lũy được nhiều
kinh nghiệm thực tiễn, kiến thức không ngừng được bổ sung, năng lực lãnh đạo,
quản lý, phương pháp, phong cách công tác được nâng lên rõ rệt.
Những cán bộ đã kinh qua công tác ở cơ sở khi được luân chuyển về cấp
huyện, tỉnh hoặc Trung ương, được phân công, đảm nhiệm các vị trí cơng tác cao hơn
thường vững vàng, có bản lĩnh, thích ứng nhanh với nhiệm vụ mới và có khả năng
hồn thành tốt nhiệm vụ mới được giao. Khi đề cập đến vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí
Minh cho rằng, CBCC cơ sở "khơng những là cái khâu liên hệ, mà còn là cái kho dồi
dào cho Đảng lấy thêm lực lượng mới. Nếu đội ngũ này phát triển và củng cố thì
Đảng sẽ phát triển và củng cố, bằng không, Đảng sẽ khô héo" [55, tr. 273].


19
Với ý nghĩa đó, có thể nói xây dựng đội ngũ CBCC của HTCT cấp cơ sở là
một mắt xích quan trọng thúc đẩy quá trình đổi mới, CNH, HĐH trong cả nước.
Để thực hiện tốt vai trị, vị trí của mình, đội ngũ CBCC của HTCT cấp cơ sở
phải thường xuyên nghiên cứu, học tập, nâng cao trình độ, kiến thức về lý luận
chính trị, chun mơn, nghiệp vụ, năng lực lãnh đạo, quản lý và kinh nghiệm thực

tiễn; ln tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống trong sạch;
kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí; thực hành tiết kiệm;
nêu cao vai trị tiên phong, gương mẫu trước nhân dân; đồn kết gắn bó và có mối
quan hệ mật thiết với nhân dân.
* Đặc điểm chủ yếu của đội ngũ CBCC HTCT cấp cơ sở
- Đa số cán bộ chủ chốt ở cơ sở là những cán bộ, công chức nhà nước có tri
thức, có kinh nghiệm, có nhiệt tình nên họ am hiểu và nắm vững đường lối, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nhiệt tình, tâm huyết với cơng việc, có kinh
nghiệm cơng tác, khả năng thuyết phục, vận động quần chúng tốt, được hội viên và
nhân dân tín nhiệm.
- Xu hướng trẻ hóa đội ngũ CBCC HTCT cấp cơ sở được các cấp ủy Đảng,
chính quyền quan tâm, diễn ra khá nhanh; tạo nên sự đổi mới của đội ngũ cán bộ và
phong cách lãnh đạo, quản lý điều hành của các tổ chức trong HTCT.
- Đội ngũ CBCC HTCT cấp cơ sở hoạt động trong điều kiện địa phương
đang phát triển, đơ thị hóa nhanh, với những đòi hỏi ngày càng cao của cấp huyện,
tỉnh và của cả nước, cho nên họ khá năng động, ln tìm tịi, sáng tạo trong các hoạt
động kinh tế, quản lý đơ thị, văn hóa - xã hội và quốc phịng - an ninh, ln cố gắng
phấn đấu vươn lên nhằm đáp ứng với yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp xây
dựng và phát triển địa phương ở cơ sở.
- Trong điều kiện hội nhập, phát triển, kế thừa các thành tựu từ nhiều thế hệ,
đội ngũ CBCC HTCT cấp cơ sở được đào tạo bài bản, đầy đủ về nghiệp vụ và lý
luận chính trị nên thuận lợi cho công tác luân chuyển cán bộ giữa các cơ sở với
nhau hoặc giữa cơ sở với cấp huyện.
* Yêu cầu đồi với CBCC cấp cơ sở
- Về phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức: Có tinh thần yêu nước sâu sắc,
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; có năng lực tổ chức vận động


×