Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Tiểu luận cao học, lịch sử triết học hy lạp cổ đại và nhận thức luận trong triết học hy lạp cổ đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.8 KB, 22 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Triết học là hình thái ý thức xã hội ra đời từ khi chế độ cộng sản nguyên thuỷ
được thay thế bằng chế độ chiếm hữu nô lệ. Những triết học đầu tiên trong lịch sử xuất
hiện vào khoảng thế kỷ VIII – VI trước công nguyên ở Ấn Độ cổ đại, Trung quốc cổ đại,
Hy Lạp và La Mã cổ đại và ở các nước khác.
Triết học được xem là một hình thái ý thức xã hội, là học thuyết về những nguyên
tắc chung nhất của tồn tại và nhận thức về thái độ của con người đối với thế giới, là khoa
học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Triết học Phương Tây nói chung và Triết học Phương Tây từ cổ đại đến cận đại
là một bộ phận quan trọng trong hệ thống triết học thế giới. Đối tượng của triết học
phương Tây nói chung ngồi phần siêu hình học bàn về những ý niệm trừu tượng như
bản thể, ý thức, hư vơ... cịn lại là những hành trình vào các vấn đề cụ thể có liên quan
tới con người như cảm giác, nhận thức, ký ức, hạnh phúc, đạo đức…. Các vấn đề về con
người như con người tri thức thế giới xung quanh như thế nào, vai trị của con người
trong q trình nhận thức như thế nào… hay những vấn đề về xã hội như quan hệ giữa
các nhân và xã hội, ai quan trọng hơn, đạo đức là vấn đề xã hội hay vấn đề cá nhân, quan
hệ giữa cá nhân và nhà nước… là trọng tâm trong quan điểm của các triết gia phương
Tây. Hy Lạp là cái nôi của văn minh phương tây, sự hình thành triết học Hy Lạp khơng
diễn ra một cách ngẫu nhiên mà là kết quả tất yếu của việc kế thừa những di sản tinh
tuý của truyền thống trong sáng tác dân gian, trong thần thoại, trong các mầm mống
của tri thức khoa học (khoa học tự nhiên), có thể thấy rằng sự ra đời của triết học Hy
Lạp cổ đại là một tất yếu, là kết quả nội sinh của cả một dân tộc, một thời đại. Thời
kỳ triết học Hy lạp cổ đại, năm vấn đề cơ bản trên tương ứng với năm nhánh của triết
học là siêu hình học, lơgic, nhận thức luận, ln lý học, và mỹ học trong đó nhận thức
luận đã là một trong các chủ đề triết học được nghiên cứu và tranh luận nhiều
nhất.Trong bài tiểu luận này chúng ta sẽ cùng tìm hiểu khái quát về lịch sử triết học
Hy Lạp cổ đại và nhận thức luận trong triết học Hy Lạp cổ đại.


CHƯƠNG I – TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
1.1.



Điều kiện/hoàn cảnh ra đời
Hy Lạp cổ đại là một lãnh thổ rộng lớn bao gồm khu vực miền Nam bán đảo

Ban-căng (thuộc Châu Âu), nhiều hòn đảo nằm trên biển Êgiê và cả một vùng rộng
lớn ở ven biển bán đảo Tiểu á. Yếu tố địa lý tự nhiên này đã tạo điều kiện cơ bản để
nền nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp Hy Lạp cổ đại phát triển từ rất sớm.
Q trình lịch sử lâu dài với khơng ít những thăng trầm của vùng đất Hy Lạp
cổ đại gắn liền với sự phát triển kinh tế - xã hội và tư tưởng triết học của nó trong đó
sự phân chia xã hội thành giai cấp, sự phân công lao động xã hội thành lao động trí óc
và lao động chân tay đã dẫn tới sự hình thành một đội ngũ các nhà trí thức chuyên
nghiệp chuyên nghiên cứu về khoa học, triết học.. Sự hình thành triết học Hy Lạp
không diễn ra một cách ngẫu nhiên mà là kết quả tất yếu của việc kế thừa những di
sản tinh tuý của truyền thống trong sáng tác dân gian, trong thần thoại, trong các mầm
mống của tri thức khoa học (khoa học tự nhiên). Nhưng bên cạnh đó, sự xuất hiện của
những trí thức khoa học và triết học trong thời kỳ này đã tạo nên một bước ngoặt lớn
về nhận thức của con người, phá vỡ ý thức hệ thần thoại và tôn giáo nguyên thuỷ.
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của nền sản xuất, những tri thức về khoa học tự
nhiên phát triển mạnh, được trình bày trong hệ thống triết học - tự nhiên của các nhà
triết học cổ đại, bên cạnh đó, khoa học thời bấy giờ chưa phân ngành nên các nhà triết
học đồng thời cũng là các nhà Toán học, nhà Vật lý học... Từ các yếu tố đó có thể
khẳng định rằng, triết học Hy Lạp cổ đại ngay từ khi ra đời đã có sự gắn bó với nhu
cầu thực tiễn và gắn với khoa học.
Triết học Hy Lạp cổ đại phát triển qua 3 thời kỳ sau:
- Triết học thời kỳ tiền Socrates (thời kỳ sơ khai)
- Triết học thời kỳ Socrates (thời kỳ cực thịnh)
- Triết học thời kỳ Hy Lạp hố
1.2.

Nội dung/đặc điểm chính

Triết học Hy Lạp cổ đại xuất hiện vào lúc xã hội này đã phát triển lên chế độ

chiếm hữu nô lệ với hai giai cấp chủ yếu là chủ nô và nô lệ nên nó là hệ tư tưởng, là
thế giới quan của giai cấp chủ nơ thống trị, đồng thời nó cịn là cơng cụ bảo vệ, duy trì


địa vị, quyền lợi của giai cấp chủ nô, là công cụ nô dịch, đàn áp các giai cấp khác về
mặt tư tưởng. Bên cạnh tính giai cấp rõ rệt đó, triết học Hy Lạp cổ đại coi trọng, đề
cao vai trò của con người, coi con người là tinh hoa của tạo hoá. Do là một trong
những nền triết học mở đường trong lịch sử triết học nhân loại hơn nữa các quan niệm
triết học được rút ra trên cơ sở suy luận, suy đoán từ sự quan sát trực tiếp các sự kiện
xảy ra trong tự nhiên, trong xã hội nên triết học Hy Lạp cổ đại mang nặng tính sơ
khai, chất phác, ngây thơ. Tuy nhiên, từ trong sự khởi đầu đó, các nhà triết học sau
này đã nhìn thấy ở triết học Hy Lạp cổ đại mầm mống của tất cả các kiểu thế giới
quan sau này và xem nó là một đỉnh cao của triết học nhân loại. Tuỳ thuộc vào từng
thời kỳ lịch sử, tuỳ từng không gian địa lý cụ thể mà triết học Hy Lạp cổ đại chia
thành các trường phái và các giai đoạn phát triển khác nhau.
Trên thực tế, mặc dù triết học duy vật Hy Lạp ra đời trên nền tảng thần thoại và
tôn giáo nhưng thế giới quan lại hồn tồn mới lạ dựa trên cơ sở trí tuệ sâu sắc đã đem
lại cho con người giải quyết đúng đắn những vấn đề do cuộc sống con người đặt ra,
giúp họ có cách sống hợp lý trong xã hội. Có thể coi triết học Hy Lạp cổ đại là đỉnh
cao của văn minh Hy Lạp, với các đặc trưng cơ bản:
-

Triết học Hy Lạp đã có sự phân chia và đối lập rõ ràng giữa các trào lưu,
trường phái, duy vật và duy tâm, biện chứng và siêu hình, vơ thần và hữu thần.
Tồn bộ nền triết học thế giới sau này cũng dựa trên những nền tảng cơ bản đó.

-


Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã biết gắn bó chặt chẽ triết học với khoa học
tự nhiên để tổng hợp mọi hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau để hướng tới việc
xây dựng thế giới quan tổng thể, biến triết học thành "khoa học của các khoa
học".

-

Triết học Hy Lạp cổ đại mang tính chất duy vật tự phát và biện chứng sơ khai,
cố gắng giải thích các sự vật hiện tượng trong một khối duy nhất thường xuyên
vận động và biến đổi không ngừng. Với ý nghĩa đó, những tư tưởng biện chứng
của triết học Hy Lạp cổ đại đã làm thành hình thức đầu tiên của phép biện
chứng.

-

Thể hiện tính giai cấp sâu sắc, đã thể hiện nó là thế giới quan và ý thức hệ của
giai cấp chủ nô thống trị trong xã hội bấy giờ.Vì thế dễ hiểu tại sao phần lớn
các nhà triết học thời kì này đều coi nô lệ không phải là con người mà chỉ là


cơng cụ biết nói.


-

Triết học Hy Lạp đặc biệt quan tâm đến vấn đề con người, khẳng định con
người là vốn quý, là trung tâm hoạt động của thế giới, là tinh hoa cao quý nhất
của tạo hóa.”Con người là thước đo tất thảy mọi vật”(Pitago). Mặc dù vậy, con
người ở đây cũng chỉ là con người cá thể, giá trị thẩm định chủ yếu ở khía cạnh
đạo đức, giao tiếp và nhận thức.


1.3.

Các triết gia tiêu biểu
Hy Lạp là một trong những chiếc nơi của nền văn minh nhân loại. Ở đó xuất

hiện rất sớm và đạt được những thành tựu rực rỡ mà ảnh hưởng của nó cịn in đậm đối
với sự phát triển của tư tưởng triết học sau này. Thời kì này nổi bật lên với tên tuổi của
các nhà duy vật như Đêmôcrit, Hêraclit, Arixtôt, Êpiquya… Trong nội dung của bài
tiểu luận này, chúng ta sẽ xem xét những thành tựu của nền triết học này thông qua sự
đóng góp của các triết gia tiêu biểu như Hêraclit, Đêmôcrit, Platon và Arixtôt,
Socrates.
1.3.1. Hêraclit
Hêraclit đã đứng trên lập trường duy vật cổ đại để giải quyết vấn đề “cơ sở đầu
tiên” của thế giới từ một dạng vật chất cụ thể. Ơng cho rằng lửa chính là bản ngun
của thế giới, là cơ sở duy nhất và phổ biến của tất cả mọi sự vật, hiện tượng tự nhiên.
Lửa là cơ sở làm nên sự thống nhất của thế giới. Thế giới vận động theo trật tự mà ông
gọi là logos: logos khách quan và logos chủ quan quan hệ với nhau như là quan hệ
giữa khách thể và nhận thức. Và như vậy thì sự phù hợp với logos khách quan là tiêu
chuẩn để đánh giá tư duy con người. Đây là một đóng góp có giá trị của Heraclit cho
phép biện chứng sau này.
Tuy chưa được trình bày dưới dạng một hệ thống các luận điểm như sau này
nhưng phép biện chứng của Hêraclit đã đề cập tới hầu hết những luận điểm cốt lõi của
phép biện chứng dưới dạng các câu danh ngơn mang tính thi ca và triết lý. Ông quan
niệm về vận động vĩnh viễn của vật chất. Quan niệm về vận động đã được một số nhà
triết học trước đó đề cập nhưng phải đến Heraclit thì mới tồn tại với tư cách là học
thuyết về vận động với câu nói nổi tiếng “khơng ai có thể tắm hai lần trên cùng một
dịng sơng”. Quan niệm về vận động của ơng có nội dung cốt lõi là tư tưởng về sự
thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
Hêraclit đã đưa triết học Hy Lạp cổ đại nói chung và triết học duy vật cổ đại

nói riêng tiến lên một bước mới với những quan điểm duy vật và những yếu tố biện


chứng. Học thuyết của ông được nhiều nhà triết học sau này kế thừa. Mác và Ăng
ghen coi ông là đại biểu xuất sắc của phép biện chứng Hy Lạp cổ đại, đồng thời hai
ông cũng vạch rõ những hạn chế, sai lầm của Hêraclit về mặt chính trị trong quan
niệm phản dân chủ, thù địch với nhân dân do ông chủ trương.
1.3.2. Đêmôcrit:
Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, Đêmocrit nêu ra khái niệm không gian.
Theo ông, không gian là khoảng chân khơng rộng lớn, trong đó những nguyên tử vận
động vĩnh viễn. Không gian là những khoảng trống giữa các vật thể, nhờ đó các vật
thể có thể tụ lại hoặc giãn ra. Xuất phát từ học thuyết nguyên tử, Đêmocrit cho rằng
không gian là gián đoạn và có thể phân chia vơ tận.
Đặc điểm nổi bật của chủ nghĩa duy vật Đêmôcrit là quyết định luận (thừa nhận
sự ràng buộc theo luật nhân quả và tính quy luật của các hiện tượng tự nhiên) nhằm
chống lại mục đích luận (là quan điểm duy tâm cho rằng cái thống trị trong tự nhiên
khơng phải là tính nhân quả mà có tính mục đích). Sự thừa nhận tính nhân quả, tính tất
yếu và tính quy luật trong giới tự nhiên là một trong những thành quả có giá trị nhất
của triết học duy vật Hy Lạp cổ đại.
Đêmocrit có nhiều cơng lao trong việc xây dựng lý luận về nhận thức. Ông đặt
ra và giải quyết một cách duy vật vấn đề đối tượng của nhận thức, vai trị của cảm giác
với tính cách là điểm bắt đầu của nhận thức và vai trò của tư duy trong việc nhận thức
tự nhiên.
Nét đặc sắc trong triết học duy vật của Đêmơcrit là chủ nghĩa vơ thần. Ơng cho
rằng sở dĩ con người tin vào thần thánh là vì con người bất lực trước những hiện tượng
khủng khiếp của tự nhiên. Theo ông, thần thánh chỉ là sự nhân cách hoá những hiện
tượng tự nhiên hay là những thuộc tính của con người. Thí dụ, mặt trời mà tơn giáo
Hy Lạp đã thần thánh hố thì ơng cho đó chỉ là một khối lửa.
Cơng lao có ý nghĩa lịch sử của Đêmôcrit là ông đã bền bỉ đấu tranh cho quan
niệm duy vật về tự nhiên. Nó đã có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển tiếp theo của

triết học duy vật.
1.3.3. Platon:
Platon là một nhà triết học duy tâm khách quan. Ông là người đầu tiên xây
dựng hệ thống hoàn chỉnh đầu tiên của chủ nghĩa duy tâm khách quan, đối lập với thế
giới quan duy vật. Ông đã tiến hành đấu tranh gay gắt chống lại chủ nghĩa duy vật đặc


biệt là chống lại những đại biểu của chủ nghĩa duy vật thời bấy giờ như Hêraclit,
Đêmôcrit. Theo Platon, giới tự nhiên thế giới của những vật cảm tính bắt nguồn từ
những thực thể tinh thần tức là từ những ý niệm; vật thể cảm tính chỉ là cái bóng của ý
niệm. Ông cho rằng, để nhận thức được chân lý người ta phải từ bỏ mọi cái hữu hình
cảm tính; phải “hồi tưởng” lại những gì mà linh hồn bất tử quan sát được trong thế
giới ý niệm. Thuyết hồi tưởng thần bí này được xây dựng trên cơ sở học thuyết về linh
hồn bất tử, tính độc lập của linh hồn với thể xác.
Nếu ở Đêmocrit, phép biện chứng được sử dụng để phục vụ khoa học thì ở
Platon phép biện chứng lệ thuộc vào triết học duy tâm. Đường lối Platon chống lại
đường lối Đêmôcrit trong triết học Hy Lạp cổ đại, chống lại thuyết nguyên tử của
Đêmôcrit. Các hiện tượng tự nhiên bị ông quy về các quan hệ tốn học. Đạo đức học
của ơng được xây dựng trên học thuyết về linh hồn bất tử là một hình thức của lý luận
tơn giáo, là bộ phận quan trọng nhất của ý thức tư tưởng của tầng lớp chủ nô quý tộc.
Platon là một trong những nhà triết học xuất sắc nhất trong nền triết học Hy
Lạp cổ đại, hệ thống triết học của ông đề cập đến nhiều học thuyết như ý niệm, nhận
thức luận... và dù cho cịn có hạn chế nhưng ơng là người có cơng lớn trong việc
nghiên cứu các vấn đề về ý thức xã hội, đặt nền tảng cho việc xây dựng các khái niệm,
phạm trù và tư duy lý luận.
1.3.4. Arixtơt:
Ơng đã nêu lên học thuyết bốn ngun nhân, trong đó ơng cho rằng bất kỳ sự
vật nào, nếu tồn tại bao giờ cũng xuất phát và được tạo thành từ bốn nguyên nhân:
nguyên nhân hình dạng, nguyên nhân mục đích, nguyên nhân vật chất, nguyên nhân
vận động. Bên cạnh học thuyết bốn ngun nhân, Arixtơt cịn xây dựng học thuyết về

linh hồn và nhận thức luận. Ông phê phán quan niệm của Platon về linh hồn bất tử,
ông cho rằng khơng chỉ có con người mà mọi thực thể sống đều có linh hồn và khơng
phải mọi linh hồn đều bất tử. Lý luận nhận thức của Arixtôt chứa đựng nhiều tư tưởng
hợp lý và nhiều yếu tố duy vật. Theo ông, đối tượng của nhận thức là ở bên ngồi con
người, q trình nhận thức là q trình phản ánh đối tượng bên ngồi ấy và trải qua
nhiều cấp độ từ thấp đến cao, chưa hoàn thiện đến hồn thiện theo trình tự : Cảm giác,
biểu tượng, kinh nghiệm, nghệ thuật, khoa học. Đạo đức học của Arixtôt phản ánh rõ
nhất lập trường giai cấp của ông. Ông cho rằng, đạo đức phải phục vụ quyền lợi của
nhà nước, hành vi nào làm suy yếu nhà nước là khơng có đạo đức. Đạo đức phải gắn


liền với hành vi của con người, tiêu chuẩn đánh giá một cá nhân có đạo đức khơng
phải ở lời nói mà là ở hành động. Triết học của Arixtơt tuy còn những hạn chế, dao
động giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, nhưng ông vẫn xứng đáng là bộ óc
vĩ đại nhất trong các bộ óc vĩ đại của nền triết học Hy Lạp cổ đại, “là vị hoàng đế
Maxêđoan” của triết học.
1.4.

Nhận định chung
Triết học Hy Lạp-La Mã cổ đại là tiếng chuông vàng, là nhịp cầu vững chắc,

nối những bến bờ triết học sau này. Đến nay những gì mà triết học Hy Lạp cổ đại
mang đến cho nhân loại vẫn còn nguyên giá trị đó. Triết lý Hy Lạp cổ đại là những
viên gạch đầu tiên xây nên tồn bộ ngơi nhà văn minh của Châu Âu ngày nay. Ta có
thể thấy cả bề mặt và bề trái của Châu Âu ngày nay qua nền triết học Hy Lạp cổ đại.
Điều đó làm cho nó sáng rực rỡ trên vũ đài triết học nhân loại và trở nên bất hủ. Marx
nói: “Dại dột cho ai không thấy giá trị Hy Lạp cổ đại”. Nền triết học duy vật Hy Lạp
cổ đại đã đạt những thành tựu rực rỡ về mọi mặt và đã có những cống hiến lớn lao vào
kho tàng văn học của loài người. Hơn hai mươi lăm thế kỉ đã qua, thời đại nô lệ Hy
Lạp đã lùi xa trong quá khứ của lịch sử loài người, nhưng cho đến ngày nay, triết học

Hy Lạp cổ đại vẫn không hề mất đi giá trị của nó. Nền văn minh hiện đại Châu Âu bắt


nguồn từ nền văn minh Hy Lạp và chúng ta đã khơng thể hiểu đầy đủ văn hóa Châu
Âu ngày nay nếu khơng đi ngược thời gian để tìm hiểu những thành tựu huy hồng
của văn hóa Hy Lạp cổ đại, Ăngghen viết “Chúng ta luôn luôn phải quay về với
những thành tựu trong triết học cũng như trong mọi lĩnh vực khác của dân tộc nhỏ bé
này, một dân tộc mà tài năng và hoạt động có tính chất tồn diện của nó đã đảm bảo
cho nó có một địa vị mà khơng có một dân tộc nào khác có tham vọng đạt tới trong
lịch sử tiến hóa của nhân loại”.
Ưu điểm:
- Triết học cổ Hy Lạp như hồi chuông tỉnh thức giấc mộng thần thánh muôn đời
của người dân Hy Lạp, tách vai trò của thần thánh ra khỏi ý thức hệ của con người.
- Vai trò của tự nhiên và con người được đề cập một cách khách quan nhằm đi
đến tìm hiểu con người và tự nhiên từ đâu mà có và đi về đâu.
- Đạo đức lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại được đề cập.
- Là nền tảng cho các trường phái triết học sau này.
- Khoa học Duy nghiệm và Duy lý manh nha hình thành.
- Trả lời phần nào câu hỏi: Con người có khả năng nhận thức thế giới khơng?
Hạn chế
- Triết học duy vật Hy Lạp cổ đại thể hiện tính bao trùm của nó về mọi lĩnh vực
trong thế giới quan của con người. Ra đời trong điều kiện cịn q ít và sơ khai nên
trình độ phát triển tư tưởng văn hóa của nhân loại thời kì này nói chung cịn thấp.
Triết học thời kì này đã đề cập tới những vấn đề thế giới quan cơ bản của con người.
Tuy nhiên do sự đối lập giữa lao động trí óc với lao động chân tay q lớn, nên nhìn
chung các quan niệm triết học cịn mang nặng tính tự biện.
- Triết học cổ Hy Lạp cịn nằm trên tư duy trừu tượng là chủ yếu.
- Các vấn đề triết học còn chưa rõ ràng, còn rời rạc chưa hệ thống hóa.
- Tuy có đặt vai trị của con người, nhưng chưa hoàn toàn tách khỏi yếu tố thần
linh.



CHƯƠNG II - NHẬN THỨC LUẬN TRONG TRIẾT HỌC HY LẠP
CỔ ĐẠI

Nhắc đến triết học Hy Lạp cổ đại không thể không nhắc đến
Socratengười
được
xem

ông
tổ
của nhận
thức
luận (Espistémology), là người đầu tiên đưa “con người là thước đo
vạn vật” vào chân lý của nhận thức để tìm kiếm sự thật.
2.1. Tiểu sử Socrate
- Socrates xuất thân trong một gia đình khá giả ở Athen. Cha làm nghề điêu
khắc, mẹ là nữ hộ sinh. Ơng hướng về chính thể chủ nơ q tộc chống lại chủ nô dân
chủ. Năm 399 BC, ông bị chủ nơ dân chủ kết án tử hình về tội “coi thường luật pháp,
chống lại chế độ bầu cử dân chủ”. Đối với ơng chỉ có văn nói sống động, và văn viết
đã bị khơ cứng. Vì vậy cuộc đời ông không để lại một tác phẩm nào. Chỉ biết được
ông qua đệ tử của ông.
- Triết học của ông khác với các nhà triết học trước đó. Các nhà triết học trước
nghiên cứu về giới tự nhiên. Nhưng ông dành phần lớn vào việc nghiên cứu về con
người, về đạo đức, về nhân sinh quan. Triết học khơng gì khác hơn là sự nhận thức
của con người về chính mình, “con người hãy nhận thức chính mình”. Bắt đầu từ
ông, đề tài con người trở thành một trong những chủ đề trong tâm của triết học
phương Tây. Vì vậy, quan điểm triết học của ông bàn đến vấn đề con người trong đời
sống xã hội mà trước hết là hành vi đạo đức.

- Xuất phát từ “đạo đức học duy lý”, ông cho rằng, “Hiểu biết là cơ sở của điều
thiện, ngu dốt là cội nguồn của cái ác, và chỉ có cái thiện phổ biến mới là cơ sở của
đạo đức, mới là cơ sở của đức hạnh. Ai tn theo cái thiện phổ biến thì người đó mới
có đạo đức. Và muốn theo cái thiện phổ biến thì phải hiểu được nó, muốn hiểu được
nó phải thơng qua các cuộc tranh luận, tọa đàm, luận chiến tìm ra chân lý theo cách
thức mà về sau được gọi là “phương pháp Socratess”. Trở nên thấp kém hơn bản
thân mìnhkhơng phải là cái gì khác hơn ngồi sự ngu dốt, trở nên cao cả hơn bản thân
mình khơng phải cái gì khác ngồi sự thơng thái”.


Phương pháp triết học của ông gồm bốn bước: Một là “mỉa mai”, tức là nêu ra những
câu hỏi mẹo, mang tính châm biếm, mỉa mai nhằm làm cho đối phương sa vào mâu
thuẫn. Hai là “đỡ đẻ tinh thần”, giúp cho đối phương thấy được con đường để tự mình
khám phá ra chân lý. Ba là “qui nạp”, tức là xuất phát từ cái riêng lẻ khái quát thành
những cái phổ biến, từ những hành vi đạo đức riêng lẻ tìm ra cái thiện phổ biến của
của mọi hành vi đạo đức. Và phương pháp cuối cùng là “định nghĩa”, là chỉ ra hành vi
thế nào đạo đức, quan hệ thế nào là đúng mực. Phương pháp này đối với ơng chỉ có
những người có tri thức như giai cấp quý tộc và các triết gia mới là những người có
đạo đức. Bốn bước này quan hệ chặt chẽ với nhau trên bước đường tìm kiếm tri thức
chân thật, bản chất giúp con người sống đúng với tư cách và phận sự, của nó trong đời
sống xã hội
- Sự đóng góp của ơng thay đổi từ ngun lý vũ trụ sang nguyên lý nhân minh
đã làm nên một bước chuyển mới trong nền triết học. Cho nên, triết học Hy Lạp mới
lấy ơng làm tiêu chí để phân kỳ, nó là thẩm định những giá trị của tư tưởng Socratess
đối với sự phát triển trong lịch sử.
- Ông là một trong những nhà tư tưởng nổi tiếng thời cổ đại, ông không để lại
cho đời một tác phẩm nào, vì ơng chỉ thường xun đàm luận mà khơng viết. Ngày
nay chúng ta sở dĩ biết được được về Socratess là do các học trị của ơng và những tư
tưởng khác .
- Như vậy, nét nổi bật của triết học Hy Lạp cổ đại là đã đặt ra hầu hết các vấn đề

cơ bản của triết học mà sau này các học thuyết triết học khác sẽ từng bước giải quyết
theo nội dung của thời đại mình, nó bao chứa mầm mống của tất cả thế giới quan về
sau này. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, giữa phép biện
chứng và phép siêu hình được thể hiện rất rõ. Những thành tựu triết học cơ bản của
nó xứng đáng ghi một mốc son trong lịch sử triết học của loài người.


2.2. Nhận thức luận - Với Socrate
- Trước Socrate, phương Đơng cũng như phương Tây chưa hình thành một thước
đo cụ thể nào khả dĩ để tiến bước. Chẳng hạn, tư duy phương Đơng lúc nào cũng đang
chìm ngập trong một màn sương tương đối. Hịn đá ư? Tưởng nó nhỏ à, so với con sâu
cái kiến nó có thể là cả một quốc gia lớn. Đỉnh núi ư? Con người thấy nó lớn nhưng so
với con chim Bằng đầu chạm đỉnh trời đi tận cùng đất thì hịn núi có khác nào hịn
sỏi. Và ơng Hà Bá tưởng có thể vỗ ngực về những dịng sơng mênh mơng tràn lũ mùa
mưa, nhưng than ôi bé bỏng làm sao khi những con sơng của ơng bị nuốt chửng vào
giữa lịng biển cả.
- Bùn lạnh ư? Những con Trạch vui vẻ chui luồn sâu trong đó có thấy lạnh đâu!
Tuyết lạnh ư? Những con gấu Bắc Cực xát tuyết lên làn da nào có thấy gì. Người
Trung Hoa cịn có câu chuyện nổi tiếng về hai học giả lớn. Bên bờ sơng Hào, Trang
Tử nói: “Đàn cá xanh bơi lội thung dung, cá vui đó”. Huệ Tử hỏi: “Ơng khơng phải là
cá, sao biết cá vui”? Trang Tử nói: “Ơng khơng phải tôi, sao biết tôi không biết…!”
- Nếu lên không khí này để thấy, nếu con người khơng đặt nền móng duy niệm
tuyệt đối (cuộc sống có thể khơng có tuyệt đối, nhưng con người có thể tạo ra quan
niệm tuyệt đối của mình) thì chẳng thể nào vận hành lý trí. Trước Socrate, Protagoras
(khoảng 285 - 410 trước Jésus - Christ) đã nói: “Con người là thước đo vạn vật”. Con
người là một chủ tri, là người duy nhất công bố ý nghĩa của thế giới, con người không
thể nhân danh ai khác ngồi nó để nhận thức vũ trụ. So với tầm vóc con người, hịn sỏi
được coi là nhỏ, và đỉnh núi được coi là lớn, tuyết lạnh so với khả năng, khả giác của
con người chứ không thể so với bộ lông dầy của gấu Bắc Cực, nước sơi dù có thể mới
là nhiệt độ thích hợp cho nhiều loại vi trùng, nhưng với làn da con người đó là nhiệt

độ

gây

bỏng…

Khi con người khởi sự xác định “con người là thước đo vạn vật” thì là lúc con người
khai sinh mình lần thứ hai, vượt qua sự sinh đẻ bản năng của thế giới tự nhiên, đặt
mình vào trung tâm vũ trụ với thước đo từ mình. Và cái giờ phút khai sinh lần hai đó,
có tên là Socrate. Bởi ông không chỉ tái sinh thước đo của Protagoras, mà còn phát
triển cả một hệ thống thước đo, lấy con người công lý làm trung tâm. Muốn biến chính
mình trở thành thước đo, Socrate, đã tìm đến châm ngôn ghi trên khung cửa đền
Delphes: “Hãy tự hiểu mình”.
- “Tự hiểu mình”, đó là lúc con người dị tìm khả năng đầu tiên của chính mính,


là thái độ phản tỉnh đầu tiên của nhận thức, là phút đầu tiên con người tạm quay mặt
không ngắm nhìn vũ trụ nữa, mà ngắm nhìn chính mình, để xác định thước đo khởi
thủy. Chính giây phút ấy, Socrate đã quan niệm: Vũ trụ luận thì khơng giúp ích gì cho
tâm hồn con người, cịn ngụy luận thuyết thì tuy có thực hiện được nhiều điều vĩ đại
bằng cách nêu lên những tra vấn, thắc mắc những cách thức đặt vấn đề của họ lại đẩy
nó lạc vào một kiến thức khác sai lạc.
- Chính sự phản tỉnh đầu tiên của “Hữu chủ tri tự hiểu mình”, Aristote đã tấn
phong Socrate là nhà tri thức luận đầu tiên: “Socrate khơng triết lý về vũ trụ thiên
nhiên theo tồn diện như các triết gia Tonierrs đã làm. Họ thì chú trọng đến tri thức
thể chất, ngược lại Socrate theo lối tra vấn của phương pháp luận lý, như ngày nay
chúng ta tiến tới tri thức khắt khe và chính xác. Vì thế Socrate quả là một lý thuyết gia
về tri thức luận đầu tiên và đồng thời là một triết gia thời nay”.
- Tầm vóc của Socrate, theo Nietzche đó là bản lề duy nhất đầu tiên mở vào lịch
sử triết học. Ơng nói: “Socrate là khúc quanh quyết liệt và then chốt của lịch sử thế

giới”. Tại sao vậy? Chúng ta đã bàn, nhận thức đầu tiên của con người, giá trị đầu tiên
của thế giới là chân lý. Bởi một lẽ hiển nhiên, nếu toàn thể vũ trụ này, mặt quả đất,
mặt trời, mặt trăng, những vì sao, những dịng sơng, khơng có thật, chỉ là ảo ảnh thì vũ
trụ sẽ vơ nghĩa, vơ giá trị biết bao. Bởi thế, muốn tiến hành nhận biết chân lý về thế
giới, chính Socrate đã thực thi mình như bản mẫu chân lý đầu tiên khơi từ mình - con
người - hữu chủ tri vạn vật. Cuộc đời Socrate là bản mẫu chân lý đến mức, suốt ngày
ông tiến ra quảng trường, phố xá, nơi công cộng để cùng mọi người vấn hỏi giải đáp
những vấn đề ở tầm công lý. Những vẻ ngụy biện căm ghét những luận lý chính đáng
đanh thép của ông. Năm 399 (Trước Jesus Christ), ông bị nhà cầm quyền kết tội “dẫn
nhập những thần linh mới” và “làm hư hỏng thanh niên”. Lẽ ra ông có thể xin ân xá,
nhưng ơng vui vẻ chọn cái chết như chọn một bằng chứng chân lý, coi lương tâm và
chân lý lớn hơn cái chết. Ông cầm bát thuốc độc vui vẻ nói: “Quý vị đừng tưởng tiếng
hót của những con chim thiên nga là tiếng hót của đau đớn, là con cái của thần
Apollon chúng là những tiên tri nên chúng tiên đoán được những hạnh phúc mà chúng
sẽ được hưởng thụ ở cõi đời sau, sở dĩ chúng vui hót trước khi chết hơn khi nào hết là
vì chúng vui mừng sẽ gặp lại được vị thần chúng phụng sự. Thì đối với tơi cũng vậy,
tơi phụng sự thần Apollon, và tôi cũng được đặc ân tiên đốn khơng kém gì chúng, vì
thế cũng như chúng, tôi phải vui mừng trước khi chết”


- Chính Socrate đã khởi xây vị trí xuất phát đầu tiên của con người. Một khi điểm
cốt tử như Pie- tơ rô - A rê ti nô đã thấu hiểu: “Tất cả đều là vô nghĩa, trừ khi ta dám là
ta”. Dám là ta, dám chịu trách nhiệm về ta, dám phản tỉnh ta, dám đo lường ta: đó hẳn
là thước đo chính đáng đầu tiên của con người trước khi đem vào thế giới. Socrate đã
dám làm vậy. Là con người đầu tiên làm vậy và ông đã trở thành bản mẫu chân lý tự
thân đầu tiên theo cách mà Saint Augustine quan niệm: “Làm cho chính mình trở
thành chân lý”
- Để trở thành con người cơng chính, con người của cơng lý và chân lý, chính
Socrate là người đã tuyên xứng một lối sống hất bỏ lòng mưu lợi đổi lấy lương tâm
cơng chính, ơng nói: “Chịu đựng sự bất cơng cịn hơn phạm sự bất cơng, khi đã phạm

sự bất cơng thì đền bù tội lỗi cịn hơn là khơng đều bù tội lỗi”.
- Chính tinh thần cơng chính của Socrate mà Platon người học trị kế tục tinh thần
đó đã nói: “Cơng chính là mẹ đẻ của mọi đức hạnh. Và ông đã đổ khuôn cái thước của
thầy: “Người nào nhận biết lẽ cơng chính thì mới đo được sự vật”. Socrate đã khơng
ngừng giảng giải về phẩm chất của người cơng chính. Phẩm chất đó phải có trong mọi
người dù một kẻ chăn cừu, một bác sĩ, hay một người lính. Người chăn cừu, chẳng
hạn, việc chăn nuôi của anh ta không phải ngay tức thời ngắm đến túi tiền của những
người mua thịt, mà trước mắt anh ta phải chăn nuôi chúng một cách chu đáo, cho ăn
no, giữ ấm, và phòng bệnh cho tốt. Khi đàn cừu của anh vừa béo vừa sinh sơi nhiều,
thì tự nhiên đó là nguồn lợi. Nguồn lợi đó tất nhiên khơng rót thẳng vào túi anh ta, mà
nó chỉ rót qua đức tính chu đáo, cần mẫn, nhân lành, tận tâm tận lực của anh ta phủ
trên mỗi đầu gia súc.
- Một bác sĩ tài giỏi, giàu có cũng vậy. Bác sĩ giỏi - vì có chun mơn cao. Nhưng
phải có nhân đức thì mới đưa chun mơn của mình vào mọi tế bào mạch máu cần
chăm sóc của người bệnh. Vị bác sĩ đó nổi danh, vì tay nghề của ơng, cịng đức nhân
ái của ông dành cho người bệnh, và một kết quả tất yếu sẽ đến, những người bệnh sẽ
đền công ông xứng đáng-trả ơn những gì ơng gieo cho họ. Trái lại, nếu vị bác sĩ đó
chưa chữa bệnh, vừa nhìn thấy bệnh nhân đã nghĩ ngay đến cách moi tiền, chuyên
môn không được lưu tâm sẽ kém cỏi, nhân đức chỉ tìm cách rót qua lỗ đồng xu sẽ
chẳng thể nào lớn được. Rút cục sẽ chẳng ai đến thăm và khám bệnh.
- Làm nghề thầy giáo cũng vậy. Khi chuyên tâm truyền đạt kiến thức cho học


sinh, thì vừa được chun mơn, vừa được kính trọng, vừa được đền đáp xứng đáng.
Trái lại, chưa dạy đã nghĩ đến cách lấy tiền học trò, rút cục trở thành kẻ bn mấy chữ
qn.
- Đó là đức nghề nghiệp của mỗi chun mơn, tự thân mỗi nghề nghiệp đó đã
phải chứa đựng nhân đức giành cho người khác. Người chăn cừu phải nhân đức với
cừu thì đàn cừu mới sinh trưởng đơng đúc và đó chính là mối lợi. Người bác sĩ phải
chạy chữa bệnh nhân bằng nhân đức “lương y như từ mẫu” mới mong chữa lành họ.

Và người thầy phải trao cho học trò chữ nghĩa của nhân đức mới mong học trò tiến bộ.
Học trò tiến bộ thì thầy mới được xem như thầy giỏi.
- Đặc biệt về lẽ cơng chính, Socrate đã khẩu chiến quyết liệt với những con người
vụ lợi. Theo họ thì, cái gì có lợi là tốt, cái gì có hại là xấu. Cái gì của ta là tốt, mọi cái
của kẻ thù thì xấu. Socrate đã minh định rõ ràng: Nhiều cái có lợi là xấu, vì giống vị
bác sĩ kia chẳng hạn có thể lấy tiền mà vẫn thiếu trách nhiệm với bệnh nhân, hay thầy
giáo dạy khơng hết mình nhưng vẫn lấy đủ tiền của học trò. Và rất nhiều cái có hại
cho mình, nhưng vì danh dự, vì lương tâm, vì mọi người, vì lợi ích chung, vì cơng lý
ta vẫn phải làm. Cịn về qn thù, Socrate chỉ ra, ở phía kẻ thù có thể vẫn có những
đức tính tốt như: trung thực với nhau, đùm bọc lẫn nhau, khoan hồng với tù binh đối
phương. Ngược lại, qn ta khơng có nghĩa là khơng cịn dối trá, coi tội của đồng đội
là cơng của mình, tàn sát tù nhân đối phương…Rút cục, ông kết luận, công lý không
phụ thuộc vào lợi hay hại, quân ta hay quân địch. Mà công lý tồn tại trên lương tri và
chân lý. Và có lợi cho mình mà hại đến cơng lý thì vẫn khơng làm, ngược lại có hại
đến mình mà sáng tỏ cơng lý thì vẫn làm - làm bằng mọi giá.
- Socrate là người luôn tin chắc: chân lý là yếu tố quy tụ loài người lại với nhau.
Lồi người khơng thể quy tụ lại với nhau bằng ý thích, số này thích ăn thịt lợn, số
khác lại kiêng. Số này muốn mưu lợi giành chiến lợi phẩm từ thắng trận, số khác cũng
muốn thế và tiến hành mọi thủ đoạn chống lại. Ra chợ, người bán cá khuyên người ta
ăn cá thì bổ, người bán thịt khuyên ăn thịt có nhiều ca-lo, người bán rau thì lại chê bai
thịt lẫn cá đều mắc chứng khó tiêu. Như người Trung Hoa bảo: Cùng làm thợ mộc,
người đóng xe mong người ta giàu, kẻ đóng quan tài mong người ta chết. Than ôi,
cùng một nghề mà con khác nhau đến vậy. “Sư nói sư phải, vãi nói vãi hay”. Nhưng
đứng trước sự thật, thì từ quan tịa, đến nạn nhân, từ người làm chứng đến kẻ cướp
không thể nào chối cãi. Và chính Socrate đã tạo dựng hạt nhân chân lý được sản sinh


từ lý trí: “Theo tơi cái phải là chân lý phải là chính nghĩa, đó là tinh thần của tinh thần
tôi. Nhưng cái mà tinh thần tạo ra từ bản thân nó như vậy, thì cái đó phải sinh ra từ
tinh thần như là từ cái phổ biến, như là tinh thần hoạt động với tính cách là cái phổ

biến, chứ khơng phải từ những dục vọng, lợi ích, hứng thú, ngơng tưởng, sở thích,
mục đích, khuynh hướng của nó”
- Theo Socrate, chỉ có tinh thần mới là cái chính nghĩa- mới đến được cái phổ
quát- nghĩa là công lý- và chỉ có vậy nó mới đạt đến chân lý. Trái lại tất cả những dục
vọng, hứng thú, mục đích chỉ là những cái vị kỷ, qui về lợi ích cá nhân không thể nào
đạt tới chân lý. Theo ông, đó cũng là cách mà các triết gia sau này nhìn nhận. Spinoza
nói: “Trực cảm là nguồn gốc của lầm lạc”. Mortaux viết: “Cảm giác khơng phải là
khoa học vì trong những hoàn cảnh giác quan khác nhau tạo cho chúng ta những cảm
giác khác nhau”. Cịn Hegel thì xác định, cảm giác chỉ là thứ bị động không thể bước
lên ranh giới chủ tri để thâu hái chân lý: “Khơng nghi ngờ gì cả “tính bị động” tồn tại
trong cảm giác”.
- Từ khởi điểm “Hữu chủ tri tự hiểu mình”, Socrate đã dựng lên con đường của
tinh thần - cái sẽ tìm đến sự phổ quát - nơi hội tụ cùng chân lý. Cuộc hành trình cốt tử
này sẽ được chúng ta tìm tịi tiếp ở phần sau, nay để nhấn mạnh tầm quan trọng của
Hữu chủ tri, tôi xin trích dẫn. Lê-nin đã nói về Socrate như sau: “Socrate coi con
người như một sinh vật đang tư duy, là thước đo vạn vật”. Và triết gia Kierkégaard đã
tái nhìn nhận tầm vóc của chủ thể tư duy như sau: “Tư duy phải là tư duy của chủ thể:
người tư duy là người tư duy chủ quan. Và nhiệm vụ của người tư duy chủ quan bao
gồm tự hiểu mình trong tồn tại”
- Cơng thức nhân văn cốt tử lý trí = Đức hạnh = Hạnh phúc
- Theo cơng thức nổi tiếng này, Socrate quan niệm, chỉ có lý trí mới nhắm đến cái
phổ biến, chỉ có đức hạnh mới nhắm đến người khác, vì đức hạnh cho bản thân là một
đức hạnh vô nghĩa, và chỉ khi lý trí cầm giữ được bản năng như điều khiển con thuyền
khơng đắm giữa dịng sơng cuộc đời, con người mới được xem như hạnh phúc.
- Ơng giải thích cụ thể, nếu con người khơng biết cầm giữ mình khi ăn uống sẽ
mắc chứng tháo chảy, không những đào thải mọi cái mình ăn, cịn đau ốm, gầy mịn.
Trong khối lạc tình dục cũng vậy, nếu con người khơng biết cân bằng giữa lạc thú và
việc giữ gìn sức khỏe cường tráng, thì ngay cả thú vui đó sẽ chóng tiêu vong vào bệnh
tật.



- Phái ngụy biện gia, đã ào ào phản ứng, họ cho rằng: Ăn kiêng khem là khẩu
hiệu của một chiếc dạ dày yếu đuối. Trong khi đó, với những con người hùng mạnh là
ăn, cắn xé nhồm nhoàm những gì ngon, uống xả láng những nguồn men trong tiếng la
hoan hỉ, đó mới là sống, mới là thưởng thức hết cỡ hương vị cuộc đời, mới là hạnh
phúc. Còn lạc thú ái ân cũng vậy, nếu không biết tận hưởng sắc đẹp - khối lạc một
cách nồng cháy thì chỉ là cách sống của mấy kẻ còm nhom bạc nhược.
- Socrate luận chứng, cứ cho rằng, con người như một chiếc thùng, càng đựng
được nhiều nước thì càng hạnh phúc.
- Phái ngụy biện: đồng ý.
- Vậy mọi chiếc thùng đều có giới hạn, và muốn đựng thêm nước thì người ta
phải đục thủng thành thùng để nước chảy vọt ra (đó cũng là hình ảnh phóng thể của
khối lạc). Và càng đục thủng nhiều lỗ, nước chảy ra càng nhiều (khối lạc càng
nhiều), thì càng đựng được nhiều hơn nước đổ vào.
- Phái ngụy biện: đồng ý
- Và Socrate bảo: như vậy một chiếc thùng không đáy là chiếc thùng đựng được
nhiều nước nhất. Nước đổ vào bao nhiêu tùy ý, đổ vào bao nhiêu ra bấy nhiêu. Và một
chiếc thùng khơng đáy khơng cịn là một chiếc thùng nữa.
- Phái ngụy biện: im lặng
- Socrate phát triển tiếp. Một con người cũng khơng cịn là người nữa khi anh ta
phóng thế tất cả những gì mình có để trở thành trống rỗng tuyệt đối. Vì thế, con người
có lý trí, là kẻ cân bằng được lượng nước đổ vào với những vòi chảy ra. Làm sao để
nước trong thùng ln ln cịn. Một kẻ khơng lý trí, nhìn thấy miếng ăn, đã ăn hết
mình, đến mức tháo chảy, làm hỏng dạ dày, lần sau nhìn thấy miếng ăn đã sợ, là kẻ ăn
ít nhất, chứ khơng phải ăn nhiều. Kẻ tham khối lạc tình dục cũng vậy, khơng biết giữ
thân, chỉ là kẻ chóng suy tàn, yểu mệnh. Cuộc đời con người như một con đị, khơng
những cần bánh lái của lý trí, mà cịn cần lý trí điều tiết cân bằng giữa dục vọng và sự
sống còn. Đó mới là hạnh phúc, sao có thể coi một con đị là hạnh phúc, ngay khi hạ
thủy. Vì thiếu lý trí đã chiêm nghiệm ngay giữa thác ghềnh dục vọng?
- Socrate được coi là người tiên phong mở màn tạo đạo đức duy lý. Bởi, trước

ông mọi đạo đức được các tôn giáo, các lề luật các quy tắc xã hội áp đặt như những
chuẩn mực võ đoán, ép buộc. Trái lại, Socrate dùng chính dục vọng để tìm kiếm đạo


đức. Ở đó, khi con người muốn duy trì sống, hưởng thụ nhiều dục vọng hơn, thì con
người phải tìm ra nguyên lý tồn tại của nó - nguyên lý đó là lý trí - lý trí đó là đạo đức.
Nietzsche đã loan báo về con người duy lý Socrate như sau: “Socrate là tiêu biểu con
người khơng có tính cách thần bí”. Về lý thuyết Socrate quan niệm: trí thức là nhân
đức, ông cho rằng “người ta không thể muốn làm người ác nếu người ta có trí thức
chính xác về điều thiện”
- Theo Socrate thì con người khơng thể sống tạo đức nếu khơng dựa trên nền
móng của chân lý. Như chiếc thuyền kia muốn nói, muốn vận động thì phải nắm bắt
tuân thủ những nguyên lý thật của tự nhiên về trọng lực sức đẩy của nước, bánh lái và
động lực. Mà chân lý, là cái mà chỉ có tinh thần mới đạt đến. Bởi thế mà ông đã thiết
lập “tinh thần là lý tính của vạn vật”. Ông lý giải: “Tinh thần là nguyên nhân xếp đặt
mọi sự và tôi rất hoan hỉ về bài học cao siêu ấy và thầm nghĩ rằng: nếu là nguyên nhân
xếp đặt mọi sự một cách hoàn hảo hơn hết đặt để mọi sự vật vào vị trí hồn hảo nhất.
Và tôi lý luận rằng: nếu muốn khám phá ra nguyên nhân gây ra sinh trưởng hay hủy
diệt hay tồn tại của một sự vật gì người ta đều phái khám phá ra trạng thái tồn tại hay
hoạt động hay đau khổ nào hoàn hảo nhất cho sự vật ấy”.
- Lý trí tìm đến sự thiện và chỉ có sự thiện mới là hạnh phúc đó là cơng thức
Socrate muốn nhắc đi nhắc lại sao giảng ở mọi lúc mọi nơi ơng khun mọi
người: “Phải tự lo lắng cho mình và tìm kiếm nhân đức, sự khơn ngoan hơn là tìm
kiếm lợi ích riêng tư”. Ơng trình bày: “Chỉ trong linh hồn tức lý trí cuả ta mới khám
phá ra được chân lý mà chân lý cùng sự thiện”
- Và chính Socrate là bản mẫu kiệt cùng của chân lý và sự thật đến mức vào lúc
ông chết, người học trị của Platon của ơng đã khơi lời chảy và miệng ông trôi theo lời
độc dược: “Một người suốt đời thực hiện nhân đức thì sẽ chết trong hy vọng tràn
ngập.”
- Và Nietzsche đã khao khát reo lên: “Không! Không phải bát thuốc độc được

trao cho Socrate mà chính Socrate đã trao mình cho thuốc độc một cái chết thật đẹp,
chết như bông lúa của ánh sáng ươm mần cho cả vụ mùa. Lịch sử nhận thức chân lý
của nhân loại chết như cái chết tuần nạn của chúa ZESUS đóng đinh trên thập giá
mong cứu chuộc cả linh hồn nhân loại ra khỏi cõi u mê lầm lạc tiến về vương chiều
ánh sáng.”
2.3.

Nhận thức luận là ý thức thuần lý


- Khơng ai khác chính Aristote cho rằng “Socrate là một lý thuyết gia về tri thức
luận đầu tiên”. Tại sao vậy? Khác hẳn những nhà bác học trước và cùng thời với ơng
chỉ chú tâm nghiên cứu tìm hiểu vũ trụ, trái lại ông là người ông là người đầu tiên
quay vào trong chính tinh thần mình cùng mọi người tra vấn, rút từ tinh thần bên trong
ra những chân lý đó là cách ơng đã dựng nên khoa biện chứng pháp. Ơng ln ln
bắt đầu từ điểm xuất phát “Người thơng minh nhất là người biết mình khơng biết gì
cả”. Ơng cũng cần buộc mọi người bắt đầu từ điểm ấy và ông quan niệm: “Cái biết
thực sự là từ ở bên trong”. Bởi thế trong tranh luận ông tự thú mình như một người
thực hành nghề hộ sinh của mẹ ông thực hiện đỡ đẻ những ý tưởng của người khác
cho đến khi họ nhận ra vấn đề bằng chính cơn đau đẻ sinh ra hài nhi ý tưởng cuả mình
ơng gọi đó là nghệ thuật “sản ý”. Đó là cách sống cho trí tuệ. Về mặt lý thuyết ông
được đánh giá rất vĩ đại qua hai cơng trình chính:
- 1- Nhiệm vụ đặc biệt của linh hồn là tri thức như khoa học, tức là, trí thức có
tính cách suy lý. Tri thức đó có tính cách bẩm sinh (inné) trong linh hồn. Đó là cách
thể hiện chính bản tính của linh hồn có lý trí. Trí thức khơng thể từ ngoại tại mà đến
được, trái lại nó phải được tiềm chứa trong nội tại của linh hồn ngay từ nguyên thủy,
như một sản phẩm của thần thánh.
- Theo nhiều triết gia, việc Socrate coi đặc tính căn bản nhất của tri thức bẩm
sinh, đã làm cho Socrate trở thành người sáng lập ra triết lý có tính cách sang lý vĩ đại
nhất, vì theo chủ trương ấy trong tác động trí thức trí khơn khơng lệ thuộc những sự

vật ngoại tại mà lại tiềm chứa trong chính mình ngun tắc của chân lý.
- Lý thuyết ấy của Socrate đã được Platon khai triển rồi được Dercartes, Leibniz,
Kant lập lại với nhiều hình thức.
- Do đó có thể nói rằng lý thuyết ấy đã chi phối tất cả quá trình triết lý xưa nay.
Tri thức phải có đối tượng là cái phổ biến nói khác đối tượng của tri thức không thể là
những sự vật đặc thù mà phải là yếu trình chung cho tất cả những sự vật nào thuộc về
cùng một chủng loại qua như sau này Aristote thiết định: chỉ có tri thức về cái gì tổng
qt, chứ khơng có trí thức về những gì đặc thù.
- Trở lại tinh thần suy lý tại sao khi Socrate coi tri thức là bẩm sinh lại trở thành
triết lý có cách suy lý vĩ đại nhất? Bởi đó chính là lúc mở màn khoa lý luận cùng như
tiến trình suy lý thuấn khiết của nhân loại đó cũng chính là lý do đầu tiên ta mở màn
đi vào đề tài chuyên luận của cuốn sách này: Hành trình nhận thức duy niệm. Để xác


định tính thuần lý cốt tử của tư duy, sau này Descarte cho rằng những chân lý toán học
là tuyệt đối, chẳng hạn một tam giác không thể tương đối thành tứ giác, hoặc 2+2=4
khơng có gì tương đối ở đó. Cịn Kant cũng xác lập nền tảng mở màn triết học của ơng
là khơng có tính thuần khiết khơng thể có tự do khoa học chẳng hạn khi khoa học
nghiên cứu một giọt rượu thì đó đích xác phải là giọt rượu, chứ khơng thể coi trong
rượu có 50% nước, để đem một giọt nước vẩn đục một nửa vào nghiên cứu.
- Suy lý bẩm sinh của Socrate là vĩ đại nhất, vì ơng là người loại bỏ cái ngoại tại
của thế giới bên ngoài, để tạo dựng khả năng thuần lý của tư duy. Nói một cách dễ
hiểu, tư duy con người như cái thước, muốn đo vạn vật thì trước hết nó phải thẳng. Và
việc thiết định nên nó thẳng là việc đào luyện chỉnh đốn đầu tiên của chính cái thước.
- Ơng luận lý rằng: Xưa nay, nhìn một người thấp, chúng ta ln bảo, anh ta thấy
vì so với những người cao, chúng ta liền bảo anh ta gầy vì so với người béo thì gầy.
Và cụ thể hơn, chúng ta luôn chứng minh 6 nhỏ hơn 8, bằng cách đem 8 – 6 = 2. Thế
là thay vì chứng minh 6 nhỏ hơn 8 hai đơn vị, chúng ta luôn chứng minh 8 lớn hơn 6.
- (Bên trên chúng ta đã đề cập, phương Tây trước Socrate và phương Đông sau
nhiều thế kỷ không phát triển được tư duy khoa học khi luôn luôn lùng nhùng trong

suy lý duy niệm tương đối).
- Socrate phát triển tiếp một người thấp so với người cao coi như là thấp vậy
người cao so với đỉnh tháp sẽ thấp hay cao? Và đỉnh tháp so với các vì sao thì sẽ thế
nào? Nếu cứ so sánh mãi vậy chúng ta chẳng đi đến kết quả nào. Vậy giờ chúng ta nên
nghĩ người thấp - bị coi là thấp - bởi vì nhân danh cái thấp anh ta thấp. Người cao
được coi là cao - vì nhân danh cái cao - anh ta cao và 6 nhỏ hơn 8, vì nhân danh cái
nhỏ, số 6 nhỏ hơn và 8 lớn hơn 6, vì nhân danh cái lớn hơn, 8 lớn hơn.
- Chính q trình thuần khiết tuyệt đối này đã có cơng giúp Aristote sau đó xác
định lập tính độc nhất tuyệt đối A = A. A là A vì chính nó là nó trong tận căn đế cũng
như mọi cái thuộc về nó, chứ khơng phải so với cái gì khác nó ngồi nó. Và chính
ngun lý đồng nhất này đã đặt nhận thức nhân loại lên khởi điểm đầu tiên để hành
trình tiến về phía trước. Và Aristote đã ghi công trạng cho Socrate rằng: Socrate đã ghi
được hai điểm quan trọng một là những chứng lý diễn dịch, hai là những định nghĩa
tổng quát và phổ biến.


KẾT LUẬN
Triết học Hy Lạp-La Mã cổ đại là tiếng chuông vàng, là nhịp cầu vững chắc, nối những
bến bờ triết học sau này. Đến nay những gì mà triết học Hy Lạp cổ đại mang đến cho
nhân loại vẫn cịn ngun giá trị đó. Triết học Hy Lạp cổ đại chia làm ba thời kỳ. Thời
ky tiền Socrate, thời kỳ Socrate là thời kỳ cực thịnh, thời kỳ hậu Socrate. Trong giai
đoạn này có rất nhiều triết gia nổi bậc như: Thales, Anaximandre, Heraclite, Pythagore,
Xenophane, Parmenide, Zenon, Anaxagore, Empedocle, Democrite, Socrate, Platon,
Aristote…Triết lý Hy Lạp cổ đại là những viên gạch đầu tiên xây nên tồn bộ ngơi nhà
văn minh của Châu Âu ngày nay. Ta có thể thấy cả bề mặt và bề trái của Châu Âu ngày
nay qua nền triết học Hy Lạp cổ đại. Điều đó làm cho nó sáng rực rỡ trên vũ đài triết
học nhân loại và trở nên bất hủ. Marx nói: “Dại dột cho ai không thấy giá trị Hy Lạp cổ
đại”. Những triết gia đã đóng góp vào kho tàng triết học ấy nổi bậc và ngời sáng là
Socrate, triết gia đã sống và chết khơng phải cho riêng mình.
Nếu nền triết học phương tây là bản nhạc giao hưởng du dương đầy màu sắc, âm hưởng

tuyệt vời thì triết học cổ Hy Lạp là khúc dạo đầu hoàn mĩ và các vấn đề trong nhận thức
luận được Socrate bảo vệ là những nốt nhạc góp phần nên bảng giao hưởng đó. Bản
giao hưởng của triết học phương tây có lúc trầm lúc bổng, có lúc lắng đọng, là những
khỏang lặng đến tê lòng người. Khúc dạo đầu của bản giao hưởng ấy trầm hùng từ
Thales rồi bay bổng âm điệu tuyệt vời của Socrate, vu vươn của Platon, Aristote
v.vv..đến khoảng lặng nghẹt thở của thời kỳ trung cổ, rồi nó lại thăng hoa lên vào thời
phục hưng. Rồi huy hoàng tráng lệ thời cận đại và hiện đại của Schopanhaure, Hegel,
Karl Marx….


TÀI LIỆU THAM KHẢO
-Nguyễn Hữu Trọng, Các Vấn Đề Triết Học, Viện ĐH Huế
-Trần Thái Định, Triết Học Descartes, nxb VH, 2005.
- Đại Cương Triết Học Phương Đông.
- Bộ GD – ĐT, Triết Học, nxb, CTQG, 1999.
-Hà Thiên Sơn, Lịch Sử Triết Học, nxb, Trẻ, 2004.
-Nguyễn Tiến Dũng, Lịch Sử Triết Học Phương Tây, nxb, Tổng Hợp TP.HCM,



×