Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

tiểu luận triết học sự ra đời của triết học mác tạo ra bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (363.21 KB, 26 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

………………… … ……………….


TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

Đề tài:

SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC
TẠO RA BƯỚC NGOẶT CÁCH MẠNG
TRONG LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN TRIẾT HỌC.







GVHD : TS. Bùi Văn Mưa
HVTH : Phạm Văn Dũng
LỚP : Đêm 1 – K19


THÁNG 3/2010

GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
HVTH: PHẠM VĂN DŨNG – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang | 1
LỜI MỞ ĐẦU
Triết học ra đời và phát triển cho đến nay đã có lịch sử gần 3000 năm. Sự phát


triển những tư tưởng triết học của nhân loại là một quá trình không đơn giản. Cuộc đấu
tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, và gắn với nó là cuộc đấu tranh
giữa các phương pháp nhận thức hiện thực – phương pháp biện chứng và phương pháp
siêu hình - tuy là cái trục xuyên suốt lịch sử triết học, làm nên cái “logic nội tại khách
quan” của sự phát triển, song lịch sử diễn biến của nó lại hết sức phức tạp.
Triết học Mác là một hệ thống triết học khoa học và cách mạng, chính vì vậy nó
đã trở thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học của giai cấp công nhân và
nhân loại tiến bộ trong thời đại mới. Triết học Mác đã kế thừa những tinh hoa, từ đó
đưa ra những nguyên lý khoa học giúp con người nhân thức đúng và cải tạo thế giới.
Sự ra đời triết học Mác tạo nên sự biến đổi có ý nghĩa cách mạng trong lịch sử
phát triển triết học của nhân loại. C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa một cách có phê
phán những thành tựu tư duy nhân loại, sáng tạo nên chủ nghĩa duy vật triết học triệt
để, không điều hoà với chủ nghĩa duy tâm và phép siêu hình. Để xây triết học duy vật
biện chứng, Mác đã phải cải cả chủ nghĩa duy vật cũ và cả phép biện chứng duy tâm
của Hêghen. Đó là một cuộc cách mạng thật sự trong học thuyết về xã hội, một trong
những yếu tố chủ yếu của bước ngoặt cách mạng mà Mác và Ăngghen đã thực hiện
trong triết học. Vì vậy em nghiên cứu vấn đề “Sự ra đời của triết học Mác tạo ra bước
ngoặt cách mạng trong lịch sử phát triển triết học.” cho bài tiểu luận của mình.








GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
HVTH: PHẠM VĂN DŨNG – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang | 2
MỤC LỤC
Chương 1 - KHÁI LUẬN VỀ TRIẾT HỌC MÁC 1

1.1. Khái luận về lịch sử triết học 3
1.1.1. Triết học 3
1.1.2. Phân kỳ lịch sử triết học 3
1.1.3. Vấn đề cơ bản của triết học 4
1.2. Sự ra đời của triết học Mác 4
1.2.1. Điều kiện kinh tế - xã hội 4
1.2.2. Nguồn gốc lí luận 6
1.2.3. Tiền đề khoa học tự nhiên 7
Chương 2 – QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ NỘI DUNG TRIẾT HỌC MÁC 8
2.1. Quá trình hình thành và phát triển triết học Mác 8
2.1.1. Chuyển biến tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăng ghen từ chủ nghĩa duy tâm,
dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật, cộng sản chủ nghĩa 8
2.1.2. Giai đoạn hình thành những nguyên lý triết học duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử 10
2.1.3. Giai đoạn C.Mác và Ph.Ăngghen bổ sung - phát triển lý luận triết học 12
2.1.4. Giai đoạn Lênin bảo vệ và phát triển triết học Mác 13
2.2. Nội dung triết học Mác 14
Chương 3 - BƯỚC NGOẶC CÁCH MẠNG TRONG LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN
TRIẾT HỌC 16
3.1. Cuộc cách mạng trong lĩnh vực Triết học 16
3.2. Thực chất cuộc cách mạng trên lĩnh vực triết học do C.Mác – Ph.Ăngghen
thực hiện 18
3.3. Ý nghĩa của cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác và Ph.Ăngghen thực
hiện 21
KẾT LUẬN 24
TÀI LIỆU THAM KHẢO


GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
HVTH: PHẠM VĂN DŨNG – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang | 3

Chương 1 - KHÁI LUẬN VỀ TRIẾT HỌC MÁC
1.1. Khái luận về lịch sử triết học
1.1.1. Triết học
Triết học là hình thái ý thức xã hội, là học thuyết về những nguyên tắc chung
của tồn tại và nhận thức, là thái độ con người đối với thế giới, là khoa học về những
qui luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Triết học xuất hiện từ khi chế độ chiếm hữu nô lệ thay thế cho chế độ xã hội
nguyên thủy. Trong gần 3000 năm tồn tại và phát triển, triết học có nhiều trường phái
và hệ thống khác nhau. Những hệ thống và trường phái này phản ánh trình độ phát
triển về kinh tế – xã hội, chính trị và tri thức khoa học tự nhiên của các nước ở các thời
kỳ. Sự phản ánh đó tuỳ thuộc vào lập trường của các giai cấp nhất định, giai cấp tạo
nên các trường phái triết học.
1.1.2. Phân kỳ lịch sử triết học
Việc phân kỳ lịch sử triết học dựa vào: Học thuyết hình thái kinh tế xã hội là cơ
sở quan trọng cho phân kỳ lịch sử triết học; Đặc điểm của các vùng, các dân tộc sản
sinh ra Triết học; Tính độc lập tương đối của Triết học; Bản chất của các học thuyết
triết học tạo ra được những cột mốc lớn lao trong sự phát triển của triết học.
Dựa trên những định hướng trên, việc phân kỳ được chia ra các giai đoạn sau:
- Triết học cổ đại
- Triết học trung đại
- Triết học phục hưng
- Triết học cận đại
- Triết học cổ điển Đức
- Triết học Mác – Lênin
- Những trào lưu triết học tư sản hiện đại
Lịch sử triết học còn có thể được phân kỳ theo lãnh thổ, thời kỳ như sau:
- Triết học phương Đông cổ - trung đại
- Triết học phương Tây cổ , trung - cận và hiện đại

GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA

HVTH: PHẠM VĂN DŨNG – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang | 4
- Triết học Mác - Lênin
1.1.3. Vấn đề cơ bản của triết học
Khi nghiên cứu các hệ thống, các trường phái triết học, chủ nghĩa Mác cho rằng
“vấn đề cơ bản” hay “vấn đề tối cao” của triết học là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn
tại, giữa tinh thần và thế giới tự nhiên. Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:
 Mặt thứ nhất, vật chất hay ý thức, tự nhiên hay tinh thần cái nào có trước, cái
nào có sau và cái nào quyết định cái nào?
- Đây là vấn đề cơ bản trong tất cả vấn đề mà triết học tập trung giải quyết.
Các học thuyết triết học được chia thành hai trào lưu cơ bản: duy vật hay
duy tâm, điều đó tuỳ thuộc vào việc giải quyết vấn đề cơ bản này. Các hệ
thống triết học thừa nhận tồn tại, tự nhiên, vật chất là cái có trước; ý thức,
tinh thần, tư duy là cái có sau, đó là chủ nghĩa duy vật. Còn các hệ thống
triết học coi ý thức là cái có trước, tồn tại là cái có sau là trào lưu duy tâm.
- Các nhà duy vật với tư cách là các nhà tư tưởng của các lực lượng xã hội
tiến bộ thường lấy những thành tựu, kết quả của khoa học thực tiễn tiến tiến
làm cơ sở cho thế giới quan của mình. Còn các nhà duy tâm luôn gắn với
tôn giáo, củng cố vị trí của tôn giáo bằng những luận cứ triết học duy tâm.
 Mặt thứ hai, con người có khả năng nhận thức thế giới hay không? Hay nói một
cách khác, ý thức chúng ta có thể phản ánh trung thực thế giới khách quan
không?
1.2. Sự ra đời của triết học Mác
Triết học Mác ra đời từ nửa cuối thế kỷ XIX, duy trì và phát triển cho đến ngày
nay. Hai nguồn gốc ra đời của triết học là nguồn gốc tri thức và nguồn gốc xã hội. Đối
với triết học Mác thì nguồn gốc ra đời biểu hiện thành các điều kiện sau:
1.2.1. Điều kiện kinh tế - xã hội
Triết học Mác ra đời vào thời kỳ chủ nghĩa phong kiến sụp đổ và chủ nghĩa tư
bản lớn mạnh ở một số nước châu Âu và Bắc Mỹ. Chủ nghĩa tư bản ra đời đã làm chio
lực lượng sản xuất phát triển đạt đến trình độ khác về chất so với lịch sử trước đó.


GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
HVTH: PHẠM VĂN DŨNG – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang | 5
 Sự củng cố và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong
điều kiện cách mạng công nghiệp
Vào những năm 40 của thế kỷ XIX do tác động của cuộc cách mạng trong công
nghiệp làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ. Phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa được củng cố vững chắc và trở thành xu thế phát triển của nền sản xuất xã
hội. Nước Anh đã hoàn thành cuộc cách mạng công nghiệp và trở thành cường quốc
công nghiệp. Ở Pháp, cuộc cách mạng công nghiệp đang đi vào giai đoạn hoàn thành.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất làm cho quan hệ sản xuất tư bản được củng
cố tạo ra cơ sở kinh tế để cho xã hội tư bản phát triển kèm theo đó mâu thuẫn xã hội
gay gắt và bộc lộ ngày càng rõ rệt; phân hóa giàu nghèo tăng lên, bất công xã hội tăng.
 Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử
Giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ra đời và lớn lên cùng với sự hình thành và
phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Khi chế độ tư bản chủ nghĩa
được xác lập, giai cấp tư sản trở thành giai cấp thống trị xã hội thì mâu thuẫn giữa vô
sản với tư sản vốn mang tính đối kháng phát triển trở thành những cuộc đấu tranh giai
cấp. Trong thời kỳ này, phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản phát triển chuyển biến
từ tự phát sang tự giác một cách mạnh mẽ. Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở nhiều
nơi đã trở thành cuộc khởi nghĩa với những yêu sách giai cấp rõ ràng đã thu hút sự chú
ý của các đại biểu tiên tiến của các tầng lớp tri thức tư sản tiến bộ, và dẫn dắt C.Mác và
Ph.Ănghen tới vấn đề nguyên nhân, bản chất của các cuộc đấu tranh giai cấp – xã hội
và những triển vọng của các cuộc đấu tranh giai cấp.
Trong hoàn cảnh lịch sử đó, giai cấp tư sản không còn đóng vai trò là giai cấp
cách mạng. Ở Anh, Pháp giai cấp tư sản tuy nắm quyền thống trị, lại hoảng sợ trước
cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản nên không còn là vị trí tiên phong trong quá trình
cải tạo dân chủ như trước. Còn giai cấp tư sản Đức đang lớn lên trong lòng xã hội
phong kiến quá non trẻ, đi thỏa hiệp với tầng lớp quý tộc chống lại giai cấp vô sản,
phong trào công nhân Đức. Vì vậy, giai cấp vô sản xuất hiện trên vũ đài lịch sử với sứ
mệnh xoá bỏ xã hội tư bản và trở thành lực lượng tiên phong trong cuộc đấu tranh cho

nền dân chủ, tiến bộ xã hội thì cần phải có thế giới quan duy vật khoa học.

GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
HVTH: PHẠM VĂN DŨNG – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang | 6
Rõ ràng những cuộc đấu tranh giai cấp ở các nước tư bản chủ nghĩa tiên tiến ở
châu Âu những năm 30 - 40 của thế kỷ XIX là nhân tố khách quan chứng tỏ rằng đã có
những tiền đề xã hội - giai cấp và những điều kiện để xuất hiện chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; là chứng cứ để nói rằng nhu cầu xã hội đã chín
muồi đề xuất hiện một thế giới quan triết học mới – triết học Mác. Sự xuất hiện của
giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử và phong trào đấu tranh của họ đã tạo ra nguồn tư
liệu quý báu về thực tiễn xã hội để C.Mác và Ph. Ăngghen khái quát xây dựng những
quan điểm triết học.
1.2.2. Nguồn gốc lí luận
Để xây dựng học thuyết của mình C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa những
thành tựu trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Triết học Đức với hai nhà triết học tiêu biểu
Hêghen và Phoiơbắc là nguồn gốc trực tiếp của triết học Mác.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã từng là những người theo học triết học Hêghen và
nghiên cứu triết học Phoiơbắc. Qua đó, hai ông đã nhận thấy: Tuy học thuyết triết học
của Hêghen mang quan điểm của chủ nghĩa duy tâm nhưng chứa đựng cái “hạt nhân
hợp lý” của phép biện chứng. Còn học thuyết triết học Phoiơbắc tuy còn mang nặng
quan niệm siêu hình nhưng nội dung lại thấm nhuần quan điểm duy vật. C.Mác và
Ph.Ăngghen đã kế thừa “hạt nhân hợp lý” của Hêghen và cải tạo, lột bỏ cái vỏ thần bí
để xây dựng nên lí luận mới của phép biện chứng. Hai ông đã kế thừa chủ nghĩa duy
vật của Phoiơbắc, khắc phục tính siêu hình và những hạn chế lịch sử khác của nó để
xây dựng nên lí luận mới của chủ nghĩa duy vật. Từ đó tạo ra cơ sở để hai ông xây
dựng nên học thuyết triết học mới, trong đó chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng
thống nhất một cách hữu cơ.
Việc kế thừa và cải tạo kinh tế chính trị học với những đại biểu xuất sắc là
A.Smít và Đ.Ricácđô không những là nguồn gốc để xây dựng học thuyết kinh tế mà
còn là tiền đề lý luận để hình thành quan điểm triết học.

Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp với những đại biểu nổi tiếng như Xanh
Ximông và S.Phuriê là một trong ba nguồn gốc lí luận của triết học Mác. C.Mác và
Ph.Ăngghen đã kế thừa những quan điểm tiến bộ của chủ nghĩa xã hội không tưởng

GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
HVTH: PHẠM VĂN DŨNG – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang | 7
Pháp (quan điểm về vai trò của nền sản xuất trong xã hội, quan điểm về sở hữu v.v )
và khắc phục tính không tưởng thiếu điều kiện lịch sử cụ thể của nó để xây dựng những
quan điểm duy vật lịch sử.
Vì vậy, khi tìm hiểu nguồn gốc lí luận của triết học Mác cần tìm hiểu không chỉ
trong triết học Đức mà trong cả chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp và kinh tế chính trị
học Anh.
1.2.3. Tiền đề khoa học tự nhiên
Giữa triết học với khoa học nói chung và khoa học tự nhiên nói riêng có mối
quan hệ khăng khít. Sự phát triển của tư duy triết học phải dựa trên cơ sở tri thức do
các khoa học cụ thể đem lại. Vì thế, mỗi khi trong khoa học có những phát minh mang
tính chất vạch thời đại thì tạo ra sự thay đổi của triết học.
Trong những năm đầu của thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên phát triển mạnh với
nhiều phát minh quan trọng: Định luật bảo toàn biến hóa năng lượng, Thuyết tế bào,
thuyết tiến hóa. Những phát minh khoa học đó đã vạch ra mối liên hệ thống nhất giữa
những sự vật, giữa các hình thức vận động khác nhau trong tính thống nhất vật chất của
thế giới, vạch ra tính biện chứng của sự vận động và phát triển. Đồng thời đã làm bộc
lộ rõ tính hạn chế và sự bất lực của phương pháp tư duy siêu hình và của tư tưởng biện
chứng cổ đại cũng như phép biện chứng của Hêghen. Từ đó đặt ra một yêu cầu trong tư
duy nhân loại cần phải xây dựng một phương pháp tư duy mới thật sự khoa học. Với
những phát minh của mình, khoa học đã cung cấp những tri thức để C.Mác và Ph.Ăng
ghen khái quát xây dựng phép biện chứng duy vật.
Chủ nghĩa Mác ra đời trong bối cảnh ấy và nó là sản phẩm mang tính quy luật
của khoa học và triết học mà nhân loại đã đạt tới, nó được hình thành như là kết quả
của các phát hiện của C.Mác và Ph.Ăngghen về những quy luật chung nhất của sự phát

triển thế giới. Chủ nghĩa Mác do C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập là một học thuyết
thống nhất, hoàn chỉnh, gồm ba bộ phận cấu thành: triết học mácxít, kinh tế chính trị
học mácxít và chủ nghĩa xã hội khoa học.
Như vậy, triết học Mác ra đời như một tất yếu lịch sử không những vì đời sống
thực tiễn mà còn vì những tiền đề lý luận, xã hội và khoa học mà nhân loại đã tạo ra.

GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
HVTH: PHẠM VĂN DŨNG – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang | 8
Chương 2 – QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ NỘI DUNG TRIẾT
HỌC MÁC
2.1. Quá trình hình thành và phát triển triết học Mác
Sự hình thành và phát triển triết học Mác - Lênin trải qua một quá trình. Quá
trình trải qua các giai đoạn sau: Giai đoạn chuyển biến tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăng
ghen từ chủ nghĩa duy tâm và dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật và cộng sản
chủ nghĩa; giai đoạn hình thành những nguyên lý triết học duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử; giai đoạn C.Mác và Ph.Ăngghen bổ sung và phát triển lí luận triết học; giai
đoạn Lênin bảo vệ hoàn thiện và tiếp tục phát triển triết học Mác.
2.1.1. Chuyển biến tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăng ghen từ chủ nghĩa duy
tâm, dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật, cộng sản chủ nghĩa
2.1.1.1. Sự chuyển biến tư tưởng của C.Mác
C.Mác (5/5/1818 - 14/3/1883) sinh trưởng trong một gia đình trí thức ở thành
phố Tơrevơ, tỉnh Ranh, vùng có nhiều ảnh hưởng của cách mạng tư sản Pháp.
Những ảnh hưởng tốt của giáo dục gia đình, nhà trường và các quan hệ xã hội
khác đã giúp C.Mác hình thành tinh thần nhân đạo và xu hướng yêu tự do. Phẩm chất
đó không ngừng được bồi dưỡng và đã trở thành định hướng cho cuộc đời sinh viên và
đưa C.Mác tới chủ nghĩa dân chủ cách mạng. Trong thời gian học ở khoa Luật trường
Đại học Tổng hợp Béc lin (1836 - 1841) ông say mê nghiên cứu triết học, nhằm giải
đáp vấn đề giải phóng con người, thực hiện dân chủ, vươn tới tự do. Năm 1837 C.Mác
tập trung nghiên cứu triết học Hêghen và tham gia nhóm “Hêghen trẻ”.
Sau khi việc xuất bản một tạp chí với tên gọi “Tư liệu của chủ nghĩa vô thần”

không được thực hiện vì nhà nước phong kiến Phổ thực hiện chính sách đàn áp những
người dân chủ cách mạng. Ông và một số người theo phái “Hêghen trẻ” đã chuyển
sang hoạt động chính trị đấu tranh chống lại chủ nghĩa chuyên chế Phổ giành lại quyền
tự do dân chủ; đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong tư tưởng của ông. Như vậy lúc
này, trong tư tưởng của C.Mác có sự mâu thuẫn giữa thế giới quan duy tâm với tinh
thần dân chủ cách mạng và vô thần.

GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
HVTH: PHẠM VĂN DŨNG – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang | 9
Mâu thuẫn bước đầu được giải quyết khi C.Mác làm việc ở báo Sông Ranh
(1942). Thực tiễn đấu tranh báo chí đã làm cho tư tưởng dân chủ cách mạng ở C.Mác
có nội dung rõ ràng hơn, đó là đấu tranh cho lợi ích của quần chúng lao động. Lúc này
tư tưởng cộng sản chủ nghĩa chưa hình thành, ông đấu tranh bảo vệ “quần chúng nghèo
khổ bất hạnh” dưới tinh thần nhân đạo. Với tinh thần đó, ông tập trung phê phán các
chính sách của nhà nước Phổ, đó chỉ là “cơ quan đại diện đẳng cấp của những lợi ích
cá nhân”. Trong quá trình phê phán C.Mác đã nhận thấy hoạt động của nhà nước không
phải là hiện thân của tinh thần tuyệt đối như Hêghen đã chứng minh.
Như vậy, qua thực tiễn, nguyện vọng muốn cắt nghĩa hiện thực, xác lập lý
tưởng tự do trong thực tế đã giúp C.Mác hình thành khuynh hướng duy vật, nhận thấy
mặt hạn chế của quan điểm duy tâm. Lúc này tinh thần dân chủ cách mạng sâu sắc đã
không dung hợp với triết học duy tâm tư biện. Vì thế sau khi báo Sông Ranh bị cấm
(1843), C.Mác đặt cho mình nhiệm vụ duyệt lại một cách có phê phán quan niệm duy
tâm của Hêghen trước hết về xã hội và nhà nước. Ông đã viết tác phẩm “góp phần phê
phán triết học pháp quyền của Hêghen” để phê phán chủ nghĩa duy tâm của Hêghen.
Trong khi thực hiện phê phán ông nồng nhiệt tiếp nhận quan điểm duy vật của triết học
Phoi Ơ Bắc. Song với tinh thần phê phán ông đã thấy những mặt hạn chế, nhất là việc
xa rời những vấn đề chính trị nóng hổi của Phoi Ơ Bắc. Sự phê phán sâu rộng triết học
Hêghen, việc khái quát kinh nghiệm lịch sử cùng với ảnh hưởng quan điểm duy vật và
nhân văn của triết học Phoi Ơ Bắc đã tăng cường mạnh mẽ xu hướng duy vật trong
quan điểm triết học của C.Mác.

Cuối tháng 10 - 1843, C.Mác sang Pari. Ở đây, không khí chính trị sôi sục và
tiếp xúc với các đại biểu của giai cấp vô sản đã dẫn đến bước chuyển biến dứt khoát
quan điểm của ông sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản. Trong bài báo “lời
nói đầu của cuốn sách góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen”, C.Mác đã
phân tích một cách sâu sắc theo quan điểm duy vật ý nghĩa và hạn chế của cuộc cách
mạng tư sản chỉ là “cuộc cách mạng bộ phận”; đồng thời ông khẳng định, chỉ có cuộc
cách mạng do giai cấp vô sản thực hiện mới là “cuộc cách mạng triệt để”. C.Mác nêu
rõ: “Giống như triết học thấy giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của mình, giai cấp vô

GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
HVTH: PHẠM VĂN DŨNG – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang | 10
sản cũng thấy triết học là vũ khí tinh thần của mình”. Với bài báo này và một số bài
báo khác đăng trong tạp chí Niên giám Đức - Pháp năm 1844 đánh dấu bước hoàn
thành quá trình chuyển biến lập trường, quan điểm của Các Mác.
2.1.1.2. Sự chuyển biến tư tưởng của Ph.Ăngghen
Ph.Ăngghen sinh ngày 28-11-1820, trong một gia đình chủ xưởng sợi ở tỉnh
Ranh. Việc nghiên cứu triết học trong thời gian ở Béc lin, khi làm nghĩa vụ quân sự đã
hướng ông đi vào con đường khoa học. Song, chỉ thời gian gần hai năm sống ở
Manchestơ (Anh) từ mùa thu 1842 khi nghiên cứu đời sống kinh tế và chính trị nước
Anh, nhất là việc trực tiếp tham gia phong trào công nhân mới dẫn đến bước chuyển
căn bản trong thế giới quan của ông sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản.
Năm 1844 trên tạp chí Niên giám Đức - Pháp, Ph.Ăngghen đăng một số bài báo:
"Bản thảo góp phần phê phán kinh tế - chính trị học", "Tình cảnh giai cấp công nhân
Anh". Các tác phẩm đó cho thấy ở Ph.Ăngghen, quá trình chuyển từ chủ nghĩa duy
tâm và dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa cộng sản
đã hoàn thành. Quá trình này diễn ra độc lập với C.Mác. Trong các bài báo này, ông đã
đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa cộng sản để phê
phán kinh tế chính trị học của A.Xmit và Đ.Ricacdo.
2.1.2. Giai đoạn hình thành những nguyên lý triết học duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử

Sự nhất trí về quan điểm và lập trường đã dễn đến tình bạn vĩ đại giữa C.Mác và
Ph.Ăngghen, gắn liền tên tuổi của hai ông với sự ra đời và phát triển một thế giới quan
cách mạng của giai cấp vô sản.
Năm 1844 qua tác phẩm "Bản thảo kinh tế - triết học" C.Mác tiếp tục phê phán
triết học duy tâm của Hêghen, đồng thời cũng vạch ra mặt tích cực của nó là phép biện
chứng. C.Mác thông qua phân tích sự tha hóa của lao động đã cắt nghĩa: Sở hữu tư
nhân trong xã hội tư bản trở thành nguyên nhân của sự tha hóa của lao động và của con
người, biến sức lao động trở thành hàng hóa. C.Mác chỉ rõ: Muốn khắc phục sự tha hóa
ấy phải xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân. Việc giải phóng người công nhân khỏi sự tha
hóa là sự giải phóng con người nói chung.

GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
HVTH: PHẠM VĂN DŨNG – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang | 11
Trong tác phẩm này C.Mác đã luận chứng cho tính tất yếu của chủ nghĩa cộng
sản trong sự phát triển của xã hội. Mặc dù luận chứng này chưa chín muồi về mặt lý
luận, song đã cho phép phân biệt quan niệm của C.Mác về chủ nghĩa cộng sản với
những quan niệm của chủ nghĩa bình quân vốn có của các môn phái chủ nghĩa cộng
sản không tưởng. Theo C.Mác, chủ nghĩa cộng sản dựa trên sự phát triển cao của nền
sản xuất xã hội là nấc thang lịch sử cao hơn chủ nghĩa tư bản.
Trong tác phẩm "Gia đình thần thánh" do C.Mác và Ph.Ăngghen viết chung
năm 1845 đã nêu rõ phê phán của hai ông đối với "phái Hêghen trẻ" đứng đầu là anh
em nhà Bauơ về quan điểm lịch sử. Hai ông đã trình bày một số nguyên lý cơ bản của
triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử như: Quan điểm về vai trò của sản xuất
vật chất đối với xã hội, v.v.
Năm 1845 - 1846, C.Mác và Ph.Ăngghen viết chung tác phẩm "Hệ tư tưởng
Đức". Thông qua việc phê phán các trào lưu triết học đương thời ở nước Đức hai ông
đã trình bày quan niệm duy vật lịch sử một cách hệ thống. Nội dung của tác phẩm đã
trình bày rõ những quan điểm với tư cách là luận điểm xuất phát như: "Tiền đề đầu tiên
của toàn bộ lịch sử nhân loại dĩ nhiên là sự tồn tại của những cá nhân con người sống,
đó là những con người hiện thực mà sản xuất vật chất là hành vi lịch sử đầu tiên của

họ" và quan điểm: "Quan điểm duy vật lịch sử khi xem xét lịch sử xã hội phải xuất
phát từ con người". Trong tác phẩm này cũng đã trình bày rõ hệ thống quy luật vận
động và phát triển của xã hội loài người.
Trong thời gian này C.Mác viết tác phẩm: "Luận cương về Phoiơbắc" (8/1845)
nêu rõ quan điểm xuyên suốt đó là: vai trò quyết định của thực tiễn đối với đời sống xã
hội. Đồng thời cũng đưa ra quan điểm về bản chất của con người: "Trong tính hiện
thực của nó, bản chất con người là tổng hòa của các quan hệ xã hội".
Với tác phẩm "Luận cương về Phoiơbắc" và nhất là tác phẩm “Hệ tư tưởng
Đức” quan niệm duy vật lịch sử đã hình thành. Quan niệm đó tạo cơ sở lý luận khoa
học vững chắc cho sự phát triển tư tưởng cộng sản chủ nghĩa. Tuy vậy trong hệ tư
tưởng Đức, học thuyết về chủ nghĩa cộng sản được hai ông trình bày như là một hệ quả
trực tiếp của quan niệm duy vật lịch sử cho nên chủ nghĩa cộng sản chưa được diễn đạt

GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
HVTH: PHẠM VĂN DŨNG – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang | 12
thành luận điểm cụ thể. Song, một điều quan trọng là C.Mác và Ăngghen đã xây dựng
phương pháp tiếp cận khoa học để nhận thức chủ nghĩa cộng sản.
Năm 1847, C.Mác viết tác phẩm: "Sự khốn cùng của triết học". Ở đây ông trình
bày tiếp các nguyên lý của triết học, chủ nghĩa cộng sản khoa học và trình bày các luận
điểm để viết tác phẩm tư bản.
Năm 1848, C.Mác và Ph.Ăngghen viết tác phẩm “Tuyên ngôn cộng sản” là văn
kiện có tính chất cương lĩnh đầu tiên của chủ nghĩa Mác, của phong trào cộng sản thế
giới. Trong đó trình bày một cách triệt để thế giới quan mới, chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Với tác phẩm Tuyên ngôn cộng sản, triết học Mác và chủ nghĩa Mác nói chung
đã hình thành và sẽ được C.Mác và Ph.Ăngghen tiếp tục bổ sung phát triển trong thời
gian sau.
2.1.3. Giai đoạn C.Mác và Ph.Ăngghen bổ sung - phát triển lý luận triết học
Từ sau “Tuyên ngôn cộng sản”, học thuyết triết học Mác tiếp tục được phát triển
trong sự gắn bó hơn nữa với thực tiễn cách mạng vô sản mà hai ông là lãnh tụ. Bằng

hoạt động của mình, hai ông đã đưa phong trào cách mạng của giai cấp vô sản từ tự
phát thành phong trào tự giác; chính qua đó, học thuyết triết học của hai ông không
ngừng được phát triển.
C.Mác đã tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của phong trào đấu tranh cách mạng
để khái quát tìm ra những kết luận, qua đó bổ sung và phát triển lý luận. Điều đó được
biểu hiện qua nội dung của một số tác phẩm như: "Đấu tranh giai cấp ở Pháp", "Nội
chiến ở Pháp", "Phê phán cương lĩnh Gôta". Đặc biệt qua bộ Tư bản, ông đã trình bày
những tất yếu phát triển của nền sản xuất xã hội, lịch sử thay thế các hình thái kinh tế
xã hội v.v.
Trong khi đó, Ph.Ăngghen đã khái quát các thành tựu khoa học để viết các tác
phẩm như: “Chống Đuyrinh”, “ Biện chứng của tự nhiên”, “ Nguồn gốc của gia đình,
của chế độ tư hữu và của nhà nước”v.v Trong các tác phẩm đó, ngoài việc phê phán
các quan điểm triết học duy tâm, siêu hình và duy vật tầm thường, ông đã trình bày học
thuyết triết học Mác dưới dạng hệ thống lý luận hoàn thiện hơn.

GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
HVTH: PHẠM VĂN DŨNG – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang | 13
2.1.4. Giai đoạn Lênin bảo vệ và phát triển triết học Mác
Chủ nghĩa Mác và triết học Mác sau khi trở thành hệ thống lý luận hoàn chỉnh
nó đã trực tiếp đi vào đời sống xã hội, trở thành vũ khí lý luận của giai cấp vô sản. Vì
thế, nội dung của nó được lan truyền nhanh chóng ở các quốc gia thuộc châu Âu, trong
đó có nước Nga. Nhưng sau khi C.Mác và Ph.Ăngghen mất, phong trào cộng sản thế
giới có nguy cơ bị những người của phái chủ nghĩa xã hội dân chủ chi phối. Những
người này tuyên truyền những luận điểm để bác bỏ những giá trị của chủ nghĩa Mác
nói chung và triết học Mác nói riêng. Tình hình đó cũng diễn ra ở nước Nga trong thời
cuối của thế kỷ XIX và những năm đầu của thế kỷ XX.
Những năm cuối thế kỷ XIX bước sang thế kỷ XX trong khoa học tự nhiên có
những phát minh mới, nhất là việc tìm ra điện tử và cấu tạo của nguyên tử làm đảo lộn
căn bản quan niệm vật lý học cổ điển, dẫn tới "cuộc khủng khoảng vật lý". Lợi dụng
tình hình đó, chủ nghĩa duy tâm, trong đó có chủ nghĩa Makhơ (duy tâm chủ quan)

công kích chủ nghĩa duy vật của Mác. Nước Nga sau khi cuộc cách mạng 1905-1907
thất bại, những người theo chủ nghĩa Makhơ tăng cường hoạt động lý luận, họ viện cớ
"bảo vệ chủ nghĩa Mác" để xuyên tạc triết học Mác.
Do vậy, Lênin đã viết hàng loạt các tác phẩm như: "Những người bạn dân là thế
nào" và "Nội dung kinh tế của chủ nghĩa dân túy", "Sự phê phán trong cuốn sách của
ông Xtơruve", để vạch trần bản chất phản cách mạng của bọn dân tuý Nga và phê phán
những luận điểm duy tâm chủ quan về lịch sử của họ. Trong cuộc đấu tranh đó, Lênin
đã bảo vệ chủ nghĩa Mác và còn làm phong phú thêm quan điểm duy vật lịch sử, nhất
là lý luận về hình thái kinh tế xã hội.
Năm 1900 Lênin viết tác phẩm: “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm
phê phán” để vạch rõ quan điểm duy tâm, siêu hình của những người theo chủ nghĩa
Ma Khơ và chỉ rõ tác hại của nó đến phong trào cách mạng ở Nga. Trong tác phẩm,
Lênin đã bổ sung và phát triển chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử dựa trên sự phân tích, khái quát những thành tựu khoa học mới nhất. Lênin xây
dựng định nghĩa vật chất với tính cách là phạm trù triết học, đồng thời còn làm rõ thêm
nhiều vấn đề về lý luận nhận thức mác xít.

GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
HVTH: PHẠM VĂN DŨNG – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang | 14
Năm 1914 - 1915, Lênin nghiên cứu nhiều tác phẩm triết học, đặc biệt quan tâm
nghiên cứu về phép biện chứng của Hêghen để làm phong phú thêm phép biện chứng
duy vật, nhất là lý luận về sự thống nhất và đấu tranh giữa hai mặt đối lập. Thông qua
đó, Lênin chuẩn bị lý luận cho cuộc cách mạng 1917. Tinh thần sáng tạo của tư duy
biện chứng đã giúp cho Lênin có những đóng góp quan trọng vào kho tàng lý luận của
chủ nghĩa Mác về triết học như: vấn đề về nhà nước nước, bạo lực cách mạng, chuyên
chính vô sản, lý luận về đảng kiểu mới. Lênin đã là tấm gương mẫu mực trong việc bảo
vệ và phát triển triết học Mác. Với tinh thần biện chứng duy vật, xem chân lý là cụ thể,
có khi Lênin đã phải thay đổi một cách căn bản đối với một quan điểm nào đó của
mình về chủ nghĩa xã hội, không chấp nhận mọi thứ biểu hiện của chủ nghĩa giáo điều.
Chính vì vậy mà một giai đoạn mới trong sự phát triển của chủ nghĩa Mác nói chung,

triết học Mác nói riêng đã gắn liền với tên tuổi của Lênin và từ đó triết học Mác mang
tên triết học Mác - Lênin.
2.2. Nội dung triết học Mác
Quê hương của chủ nghĩa Mác là nước Đức. Sự phát triển mạnh mẽ của lực
lượng sản xuất ở Anh, Pháp, Đức và các nước tư bản chủ nghĩa khác đã chứng tỏ
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ưu việt hớn phương thức sản xuất phong kiến.
Song, cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, những mâu thuẫn giai cấp – xã hội
vốn có của bản thân nó cũng nảy sinh và ngày càng bộc lộ gay gắt, trước hết là mâu
thuẫn giữa hai giai cấp vô sản và tư sản.
Những tư tưởng xã hội trực tiếp xuất hiện trước chủ nghĩa Mác và biểu hiện rõ
ràng nhất và kinh tế chính trị cổ điển Anh, chủ nghĩa xã hội không tưởng pháp, triết
học cổ điển Đức. Trong những học thuyết ấy chứa đựng những giá trị về mặt lịch sử.
Đó là, lý luận giá trị lao động của Smith và Ricardo, là những dự đoán thiên tài của
Xanh Ximông và Phuriee về một số đặc điểm của xã hội xã hội chủ nghĩa tương lai và
sự phê phán của các ông đối với xã hội tư bản. Đó là phép biện chứng duy tâm của
Hêghen và kiến giải duy vật về vấn đề cơ bản của Triết học trong các tác phẩm của
Phoiơbắc. Những học thuyết đó là những đỉnh cao của sự phát triển tư tưởng lý luận xã
hội loài người trong thời kỳ trước Mác. Sự phát triển hơn nữa về kinh tế chính trị học,

GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
HVTH: PHẠM VĂN DŨNG – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang | 15
lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học và triết học chỉ có thể có được với sự ra đời của
phép biện chứng duy vật. Song, rõ ràng những thành tựu đã đạt tới của nhân loại lại là
những tiền đề lý luận tất yếu về mặt lịch sử và là nguồn gốc của chủ nghĩa Mác nói
chung, của triết học mácxít nói riêng.
Như vậy, thực tiễn xã hội, nhất là thực tiễn của phong trào đấu tranh của giai
cấp vô sản đòi hỏi phải được soi sáng bởi một hệ thống lý luận, một học thuyết triết
học mới. Học thuyết đó phải xuất hiện để định hướng phong trào đấu tranh nhanh
chóng đạt được thắng lợi.





















GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
HVTH: PHẠM VĂN DŨNG – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang | 16
Chương 3 - BƯỚC NGOẶC CÁCH MẠNG TRONG LỊCH SỬ
PHÁT TRIỂN TRIẾT HỌC
3.1. Cuộc cách mạng trong lĩnh vực Triết học
Trước C.Mác, tất cả các học thuyết triết học chỉ nhằm giải thích thế giới chứ
không thể cải tạo thế giới. Học thuyết Mác ra đời đã trở thành công cụ cải tạo thế giới,
đã giải thích thế giới theo tính duy vật triệt để, phát hiện được các nguyên lý vận động
cơ bản của xã hội (mà về sau những người không hiểu nổi học thuyết này cho rằng nó
là do các nhà khoa học tư sản phát hiện ra). Đó là nguyên lý điều chỉnh về mối quan hệ
giữa cá nhân và xã hội (là do quan hệ lợi ích), nguyên lý về sự phát triển, nguyên lý về

mối quan hệ phổ biến, 3 qui luật, 6 cặp phạm trù trong phép biện chứng duy vật
Học thuyết Mác đã làm thay đổi nhận thức con người về thế giới. Ví dụ: Các
vấn đề nguồn gốc bản chất nhà nước là gì? Vật chất và ý thức có quan hệ như thế nào,
con người có nhận thức được thế giới hay ko? triết học Mác đều đã giải quyết triệt
để theo tinh thần duy vật biện chứng.
Triết học Mác đã tạo ra hình thức phát triển cao của chủ nghĩa duy vật là chủ
nghĩa duy vật biện chứng và hình thức phát triển cao của phép biện chứng là phép biện
chứng duy vật. Triết học Mác thực sự khắc phục được sự tách rời thế giới quan duy vật
và phép biện chứng trong lịch sử phát triển của triết học. Cố nhiên, trong chủ nghĩa duy
vật trước C.Mác đã chứa đựng không ít những luận điểm riêng biệt thể hiện tinh thần
biện chứng; song, do sự hạn chế của điều kiện xã hội và trình độ phát triển của khoa
học nên tính siêu hình vẫn là một nhược điểm chung của nó. Do vậy, quan điểm duy
vật của những học thuyết đó thường thiếu triệt để. Đây là điểm yếu để chủ nghĩa duy
tâm lợi dụng tiến hành đấu tranh chống lại. Còn phép biện chứng lại được phát triển
trong cái vỏ bọc duy tâm thần bí tiêu biểu trong triết học của Hêghen. Cho nên, nội
dung của phép biện chứng chưa phản ánh đúng thế giới hiện thực. C.Mác và
Ph.Ăngghen đã cải tạo chủ nghĩa duy vật cũ, khắc phục hạn chế siêu hình; cải tạo phép
biện chứng, giải thoát khỏi cái vỏ duy tâm. Từ đó khái quát xây dựng một học thuyết
triết học mới - chủ nghĩa duy vật biện chứng.

GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
HVTH: PHẠM VĂN DŨNG – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang | 17
Trước triết học Mác, có một số học thuyết triết học bàn đến vấn đề xã hội; song,
do hạn chế về thế giới quan hoặc phương pháp luận nên các học thuyết đó mới chỉ
nghiên cứu hoặc lĩnh vực này hoặc lĩnh vực kia mà chưa nghiên cứu toàn diện mọi mặt
của xã hội. Do vậy không thể nào tìm ra được quy luật phát triển chung của xã hội loài
người. C.Mác và Ph.Ăngghen đã vận dụng những lý luận của duy vật biện chứng để
nghiên cứu lĩnh vực xã hội, tìm ra các quy luật phát triển chung của xã hội loài người
và tiến trình phát triển tất yếu tự nhiên của nó. Từ đó xây dựng, sáng lập ra chủ nghĩa
duy vật lịch sử với tính cách là bộ phận của triết học Mác. Chủ nghĩa duy vật lịch sử là

thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học. Đó là một cuộc cách mạng thực sự trong
triết học. Từ khi chủ nghĩa duy vật lịch sử ra đời đã loại bỏ được cơ sở tồn tại cuối
cùng của chủ nghĩa duy tâm.
Những học thuyết triết học trước triết học Mác thường mới dừng lại ở việc giải
thích thế giới, cho nên họ chưa đề cập đến vai trò của hoạt động thực tiễn đối với lý
luận, lý luận thường tách rời với thực tiễn. Do vậy, không tránh khỏi tình trạng rơi vào
quan điểm duy tâm về xã hội. Ngay cả ở trong triết học Phoiơbắc tuy coi vấn đề con
người là trung tâm thế nhưng đây chỉ mới là con người thuần túy về mặt sinh vật, chưa
phải con người với tính cách là chủ thể hoạt động cải tạo thế giới. Còn triết học Mác đã
xác định rõ: Nhiệm vụ của mình không chỉ dừng lại ở giải thích thế giới mà chủ yếu là
tìm ra các phương tiện, các biện pháp để cải tạo thế giới bằng cách mạng. Triết học
Mác thường lấy hoạt động thực tiễn cải tạo xã hội, cải tạo thế giới của con người là
điểm xuất phát và thông qua quá trình hoạt động thực tiễn để hoàn thiện hệ thống lý
luận của mình. Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử triết học, triết học Mác đã tạo ra
được sự gắn kết chặt chẽ giữa lý luận với thực tiễn. Lý luận xuất phát từ thực tiễn, chịu
sự quyết định của thực tiễn; khi ra đời, lý luận định hướng hoạt động thực tiễn. Vì thế,
so với các học thuyết triết học khác thì triết học Mác luôn luôn được bổ sung và hoàn
thiện.

GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
HVTH: PHẠM VĂN DŨNG – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang | 18
3.2. Thực chất cuộc cách mạng trên lĩnh vực triết học do C.Mác – Ph.Ăngghen
thực hiện
Sự hình thành thế giới quan duy vật của C.Mác và Ph.Ăngghen cũng đồng thời
là qúa trình nghiên cứu những cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện chứng của các ông
diễn ra trong nửa đầu của những năm 40 thế kỷ XIX dưới ảnh hưởng trực tiếp của
phong trào công nhân và những phát minh về khoa học tự nhiên và khoa học xã hội,
trong quá trình đấu tranh chống phép biện chứng duy tâm của Hêghen và phê phán chủ
nghĩa duy vật siêu hình của Phoiơbắc.
Trong giai đoạn đầu, trước nửa năm sau của năm 1843, C.Mác và Ph.Ăngghen

là những nhà biện chứng duy tâm. Hai ông tiếp nhận phép biện chứng của Hêghen,
song có thái độ đối lập với hệ thống siêu hình của triết học Hêghen và các kết luận
chính trị phản động xuất phát từ hệ thống triết học ấy. Quan điểm chính trị và xã hội
của C.Mác và Ph.Ăngghen thời kỳ này là quan điểm dân chủ cách mạng. Song, ngay từ
năm 1842, khi C.Mác còn làm biên tập viên Báo Rainơ tại Côlônhơ và khi Ph.Ăngghen
đang nghiên cứu tình cảnh giai cấp công nhân Anh, các ông đã có những biểu hiện
chuyển từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật, từ chủ nghĩa dân chủ cách mạng
sang chủ nghĩa cộng sản.
Đặc điểm nổi bật trong hoạt động của hai ông khi nghiên cứu các thành tựu của
khoa học và triết học là nghiên cứu một cách có phê phán và sự sáng tạo của các ông là
nhằm giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị – xã hội. Khi C.Mác làm biên tập viên
Báo Rainơ đã bày tỏ ý kiến của mình trên báo trí về vai trò và ý nghĩa của các lợi ích
vật chất trong đời sống xã hội, những vấn đề kinh tế xã hội, vấn đề sở hữu đất, vấn đề
đốn rừng, về thương nghiệp và về thuế quan bảo hộ đặt ra ở tỉnh Rainơ. Nhưng khi
sử dụng phép biện chứng duy tâm và học thuyết về nhà nước và pháp quyền của
Hêghen, C.Mác đã rơi vào tình trạng khó xử, không giải đáp được các vấn đề của thực
tiễn chính trị xã hội đặt ra. Lúc này, chính C.Mác đã cảm thấy rằng những lợi ích vật
chất của con người trong đời sống xã hội dã đóng một vai trò quan trọng đặc biệt.
C.Mác đã đi tới kết luận rằng, phải nghiên cứu sâu sắc hơn nữa những vấn đề kinh tế

GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
HVTH: PHẠM VĂN DŨNG – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang | 19
chính trị và phải xem xét lại một cách có phê phán những quan điểm triết học và pháp
quyền của Hêghen.
Trong thời kỳ công tác tại Báo Rainơ, trong quan điểm của C.Mác có cả quan
điểm của chủ nghĩa xã hội không tưởng, song, vì chưa đủ những tri thức sâu sắc về
những vấn đề đó, nên ông đã không thể bày tỏ quan điểm của mình về các học thuyết
xã hội chủ nghĩa của những người tiền bối.
Sau khi rời ban biên tập Báo Rainơ, C.Mác hoàn toàn dành thời gian để giải
quyết những vấn đề đã đặt ra cho ông trong thời kỳ công tác tại tờ báo. C.Mác đã biết

một bài luận văn lớn dành cho việc phê phán triết học pháp quyền của Hêghen. Sau đó,
C.Mác sang Pari, cố gắng nghiên cứu các vấn đề kinh tế – chính trị học và lịch sử các
phong trào cách mạng. Tại đây, C.Mác đã tham gia các cuộc hội họp của công nhân,
đặt mối quan hệ với các nhà lãnh đạo của các tổ chức công nhân bí mật Pháp và Đức.
Những năm 1843-1844 là thời kỳ C.Mác chuyển hoàn toàn sang lập trường của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa cộng sản. Các bài của C.Mác đăng trên Niên
giám Pháp – Đức mà số đầu xuất bản tại Pari vào tháng 2 –1844 đã thể hiện rõ sự
chuyển biến đó. Trong thời kỳ này C.Mác ở Pari, Ph.Ăngghen ở Anh, hai ông độc lập
trong việc nghiên cứu tình cảnh giai cấp công nhân, sống gần gũi với họ, giải thích vai
trò lịch sử thế giới của giai cấp công nhân với tính cách là giai cấp cách mạng triệt để,
tiêu biểu cho lực lượng sản xuất mới và phương thức sản xuất mới trong tương lai,
vượt chủ nghĩa tư bản. Trong thời kỳ này, qua nghiên cứu và thực tiễn, các ông đã khắc
phục được phép biện chứng duy tâm, và sự hạn chế của chủ nghĩa duy vật siêu hình,
hình thành những cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Quá trình phát triển thế giới quan của C.Mác là một quá trình không đơn giản,
mà được gắn với sự phát triển của khoa học và thực tiễn chính trị – xã hội. Đó là một
qúa trình thống nhất hai mặt, cải biến theo chủ nghĩa duy vật cái nội dung hợp lý của
phép biện chứng duy tâm của Hêghen và giải thích theo phép biện chứng cách giải
quyết duy vật vấn đề cơ bản của triết học, khắc phục phép siêu hình. Đó là một quá
trình đồng thời khắc phục phép biện chứng duy tâm và chủ nghĩa duy vật siêu hình, đặt
nền móng cho chủ nghĩa duy vật biện chứng.

GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
HVTH: PHẠM VĂN DŨNG – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang | 20
Triết học của C.Mác khác về chất với triết học của Phoi ơbắc và Hêghen. Phép
biện chứng của Hêghen là phép biện chứng ý niệm. Hêghen chỉ mới phỏng đoán phép
biện chứng của sự vật trong phép biện chứng của ý niệm. Đối lập với Hêghen, C.Mác
và Ănghen cho rằng phép biện chứng của khái niệm chỉ là sự phản ánh phép biện
chứng của thế giới khách quan trong ý thức của con người. Lời mở đầu tác phẩm Phê
phán triết học pháp quyền của Hêghen đăng trong Niên giám Pháp - Đức tháng 2 –

1844, đã thể hiện rõ sự chuyển biến của C.Mác từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa
duy vật biện chứng. C.Mác từng viết: tác phẩm đầu tiên mà ông dành để giải quyết
những nghi ngờ đã có trong ông là sự phân tích có phê phán triết học pháp quyền của
Hêghen. C.Mác còn viết: nghiên cứu của ông đã dẫn ông đến kết luận rằng, những
quan hệ pháp quyền, cũng như các hình thức nhà nước, không thể hiểu từ bản thân
chúng, từ cái gọi là sự phát triển chung của tình thần con người, mà ngược lại, chúng ta
có nguồn gốc từ những quan hệ vật chất của đời sống.
C.Mác cũng đã giải thích trên cơ sở chủ nghĩa duy vật vấn đề nhà nước, pháp
quyền, triết học, tôn giáo. Khác với những nhà triết học trước C.Mác, ông đã hiểu một
cách hoàn toàn mới những nhiệm vụ của triết học do ông đề ra, ông đã coi triết học là
thứ vũ khí để cải tạo thế giới, nó có nhiệm vụ phục vụ cho thực tiễn đấu tranh chính trị
– xã hội. Cùng với việc phê phán triết học pháp quyền của Hêghen, C.Mác đã phê phán
trên quan điểm chính trị thực tiễn cái mà nhà nước đương thời, cái hiện thực “tồn tại là
hợp lý” của Hêghen, C.Mác đã kiên quyết phủ định cả cái hình thức đang tồn tại của ý
thức pháp quyền và nền chính trị Đức đang tồn tại lúc đó. Đồng thời, C.Mác nhấn
mạnh đến ý nghĩa to lớn của tư tưởng tiên tiến trong cải tạo xã hội và nhà nước. Ông
chỉ ra sự tất yếu phải phát triển những tư tưởng tiên tiến trong quần chúng nhân dân, để
nó trở thành một động lực thúc đẩy sự tiến bộ xã hội. Luận chứng một cách duy vật vai
trò của lý luận tiên tiến trong mối quan hệ của nó với thực tiễn cách mạng, C.Mác viết
“ Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phên phán của vũ khí,
lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ
trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng”

GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
HVTH: PHẠM VĂN DŨNG – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang | 21
Ý nghĩa lớn lao trong tác phẩm Phê phán triết học pháp quyền của Hêghen là ở
chỗ, lần đầu tiên, C.Mác đã phát biểu với tư cách là nhà các mạng, trực tiếp hướng tới
giai cấp vô sản, với tính cách là lãnh tụ của quần chúng nhân dân, và coi triết học của
ông là triết học của giai cấp vô sản, là vũ khí tư tưởng của cuộc đấu tranh giai cấp vô
sản để cải biến cách mạng đối với xã hội. C.Mác viết: “Giống như triết học thấy giai

cấp vô sản là vũ khi vật chất của mình, giai cấp vô sản cũng thấy triết học là vũ khí tinh
thần của mình”
Khi phê phán triết học của Hêghen về mặt nhà nước và pháp quyền, C.Mác thực
hiện một thể nghiệm đầu tiên đặc biệt có kết quả là mở rộng chủ nghĩa duy vật sang
lĩnh vực các hiện tượng xã hội. Lần đầu tiên trong lịch sử, ông chỉ ra sức mạnh và hiệu
lực của phép biện chứng duy vật, là phương pháp tạo ra khả năng phát hiện các quy
luật khách quan của sự phát triển xã hội, cho phép giải quyết một cách triệt để những
nhiệm vụ nhận thức không thể giải quyết được nếu đứng trên lập trường của phép biện
chứng duy tâm, hay đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy vật siêu hình.
Bởi vậy, C.Mác đã bắt đầu nghiên cứu những nguyên tắc của phép biện chứng
duy vật và quan điểm duy vật lịch sử ngay trong Lời mở đầu tác phẩm trên. Đồng thời
C.Mác, Ph.Ăngghen cũng đã nghiên cứu những nguyên tắc của chủ nghĩa duy vật lịch
sử. Chứng cứ hùng hồn là bài báo Sơ thảo về phên phán kinh tế – chính trị học cùng
đăng trên Niên giám Pháp - Đức số tháng 2 – 1844. Cuộc gặp gỡ đầu tiên của C.Mác
và Ph.Ăngghen diễn ra vào tháng 11-1842, khi C.Mác làm biên tập viên cho Báo
Rainơ. Tháng 8-1844, tại Pari, trên đường từ Anh về Đức diễn ra cuộc gặp gỡ thứ hai.
Và từ đó, hai ông đã có mối quan hệ bền chặt, gắn bó trong cả cuộc đời. Từ đó hai ông
cùng làm việc để sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử, sáng tạo ra kinh tế chính trị học mác xít và lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học.
3.3. Ý nghĩa của cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác và Ph.Ăngghen thực
hiện
Với sự ra đời của triết học Mác, vai trò xã hội của triết học cũng như vị trí của
triết học trong hệ thống trị thức khoa học có thay đổi căn bản.

GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
HVTH: PHẠM VĂN DŨNG – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang | 22
“Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau song vấn
đề là cải tạo thế giới”, luận điểm đó của C.Mác nói lên sự khác nhau về chất giữa triết
học Mác với các học thuyết triết học trước kia, kể cả những học thuyết triết học tiến bộ.
Tuy vậy, C.Mác không hề phủ nhận, trái lại C.Mác đã đánh giá cao vai trò to lớn trong

sự phát triển xã hội. Chẳng hạn, C.Mác khâm phục và đánh giá rất cao chủ nghĩa vô
thần triết học của các nhà duy vật Pháp thế kỷ XVII. Song, mặt hạn chế về tính thực
tiễn là “khuyết điểm chủ yếu” của mọi học thuyết duy vật trước C.Mác nên nó chưa trở
thành công cụ nhận thức khoa học để cải tạo thế giới bằng cách mạng. Nay nó đã được
C.Mác khắc phục, vượt qua và đi tới chủ nghĩa duy vật lịch sử làm cho chủ nghĩa duy
vật trở thành triệt để.
Khi ra đời, triết học Mác đã trở thành thế giới quan khoa học của giai cấp vô
sản, và là cơ sở lý luận khoa học để nhận thức thực tiễn xã hội; từ đó định ra được
đường lối chiến lược và đề ra những biện pháp đấu tranh cải biến xã hội có hiệu quả.
Sự kết hợp giữa lý luận triết học Mác với phong trào vô sản đã tạo nên bước chuyển
biến về chất của phong trào từ trình độ tự phát lên tự giác. Triết học Mác còn là vũ khí
tư tưởng để đấu tranh chống lại hệ tư tưởng tư sản, chủ nghĩa xét lại, cơ hội và chủ
nghĩa giáo điều, góp phần quan trọng tạo ra sự thống nhất của phong trào đấu tranh của
giai cấp vô sản.
Triết học Mác là thế giới quan khoa học của giai cấp công nhân, một giai cấp
tiến bộ và cách mạng nhất, một giai cấp có lợi ích phù hợp với lợi ích cơ bản của nhân
dân lao động và với sự phát triển xã hội. Sự kết hợp lý luận của chủ nghĩa Mác với
phong trào công nhân đã tạo nên bước chuyển về chất của phong trào, từ trình độ tự
phát lên tự giác. Phép biện chứng mác xít mang tính cách mạng sâu sắc nhất “vì trong
quan niệm tích cực về cái hiện tồn, phép biện chứng đồng thời bao hàm cả quan niệm
về sự phủ định cái hiện tồn đó, sự diệt vong tất yếu của nó, vì mỗi hình thái đã hình
thành đều được phép biện chứng xét ở trong sự vận động, tức là xét cả mặt nhất thời
của hình thái đó; vì phép biện chứng không khuất phục trước một cái gì cả về thực chất
thì nó có tính chất phê phán và cách mangj”. Sức mạnh “cải tạo thế giới” của triết học

GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
HVTH: PHẠM VĂN DŨNG – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang | 23
mác xít chính là sự gắn bó mật thiết cuộc đấu tranh cách mạng của quần chúng nhân
dân đông đảo, nhờ đó lý luận “sẽ trở thành lực lượng vật chất”
Triết học Mác cũng đã chấm dứt tham vọng ở nhiều nhà triết học duy tâm coi

triết học là “khoa học của các khoa học” đứng trên mọi khoa học. C.Mác và Ăngghen
đã xây dựng lý luận triết học của mình trên cơ sở khái quát các thành tựu của khoa học
tự nhiên và khoa học xã hội. Theo Ăngghen, mỗi lẫn có một phát minh vạch thời đại,
ngay cả trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, thì chủ nghĩa duy vật không tránh khỏi phải
thay đổi hình thức của nó. Ngược lai, Triết học Mác lại trở thành thế giới quan khoa
học và phương pháp luận chung cần thiết cho sự phát triển của các khoa học. Sự phát
triển mạnh mẽ của khoa học ngày nay càng chứng tỏ sự cần thiết phải có tư duy biện
chứng duy vật và ngược lại phải phát triển lý luận triết học của chủ nghĩa Mác dựa trên
những thành tựu của khoa học hiện đại.
Như vậy, triết học Mác đã phân định rõ ranh giới giữa triết học với các khoa học
khác và thiết lập được mối quan hệ chặt chẽ giữa chúng, cũng như xác định rõ đối
tượng nghiên cứu của triết học là tìm ra quy luật vận động, phát triển















GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
HVTH: PHẠM VĂN DŨNG – Lớp Đêm 1 – Khóa 19 Trang | 24
KẾT LUẬN

Triết học Mác đã khắc phục sự tách rời thế giới quan duy vật và phép biện
chứng trong lịch sử phát triển của triết học. C.Mác và Ăngghen đã giải thoát chủ nghĩa
duy vật khỏi tính hạn chế siêu hình, C.Mác đã làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên hoàn
bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội
loài người: “Chủ nghĩa duy vật lịch sử của C.Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng
khoa học”
Triết học Mác là hệ tư tưởng mở, không phải là cái cứng nhắc, trong quá trình
phát triển luôn vận dụng và bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tế trong từng giai
đoạn lịch sử.


















×