Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Thực trạng và một số giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả hệ phát thanh đối ngoại quốc gia VOV5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (71.46 KB, 9 trang )

Thực trạng và một số giải pháp nâng cao
chất lượng, hiệu quả hệ phát thanh đối ngoại quốc gia VOV5
Trong giai đoạn hiện nay, khi thế giới đang có sự thay đổi mạnh mẽ, xu
thế tồn cầu hóa kinh tế có những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực đến mọi
quốc gia trên thế giới. Cùng với đó, những biến động, bất trắc khôn lường,
nạn khủng bố lan tràn khắp nơi thì Việt Nam ln được coi là điểm đến an
toàn, thân thiện, thu hút ngày càng nhiều người nước ngồi đến du lịch, học
tập và đầu tư. Vì vậy nên nhu cầu được thơng tin, giải trí của nhóm đối tượng
này ngày càng lớn và chuyên nghiệp.
Báo chí là một loại hình truyền thơng đại chúng phổ biến và năng động
bậc nhất trong hoạt động truyền thông đại chúng hiện nay. Không chỉ đơn
thuần là phương tiện cung cấp thơng tin, báo chí cịn có chức năng định
hướng tư tưởng, giáo dục, góp phần quan trọng trong quản lý, giám sát và
phản biện xã hội. Sức ảnh hưởng của thơng tin báo chí cũng khơng chỉ dừng
lại trong ranh giới của mỗi quốc gia, lãnh thổ nào mà càng ngày càng vươn
xa. Bất cứ thơng tin nào cũng có thể trở thành thơng tin tồn cầu, được biết
đến trên tồn thế giới, với sự trợ giúp của cơng nghệ như hiện nay.
Trong cuốn Cơ sở lý luận báo chí, PGS.TS Nguyễn Văn Dững cho
rằng, bản chất của báo chí là “hoạt động thông tin – giao tiếp xã hội trên quy
mô rộng lớn nhất, là công cụ và phương thức kết nối, can thiệp xã hội hiệu
quả nhất trong mối quan hệ với công chúng và dư luận xã hội, với nhân dân
và với các nhóm lợi ích, với các nước trong khu vực và quốc tế” [1,tr.61].
Thông tin đối ngoại là bộ phận rất quan trọng trong công tác đối ngoại
của Đảng, Nhà nước và nhân dân, “nhằm làm cho các nước, người nước
ngoài (bao gồm cả người nước ngồi đang sinh sống, cơng tác tại Việt Nam),
người Việt Nam đang sinh sống tại nước ngoài, hiểu về đất nước, con người
Việt Nam, đường lối, chủ trương chính sách và thành tựu đổi mới của ta”. [4].
Như vậy, có thể nhận thấy, một trong những bản chất của hoạt động báo
chí cũng là thực hiện cơng tác đối ngoại bằng thông tin, trên mặt trận truyền



thơng. Báo chí làm cơng tác thơng tin đối ngoại, hay báo chí đối ngoại, gọi
theo mục đích, chức năng của nó, đã thể hiện rõ ràng chức năng thơng tin truyền thông, vốn là chức năng cơ bản của loại hình truyền thơng đại chúng
phổ biến này. Các kênh thơng tin đối ngoại, trong đó các chương trình phát
thanh đối ngoại của Đài Tiếng nói Việt Nam đã có những đóng góp tích cực
vào việc làm nên những thành tựu quan trọng đó.
Phát thanh đối ngoại ra đời ngày 7/9/1945 cùng với ngày thành lập Đài
Tiếng nói Việt Nam. Trong suốt 70 năm qua, phát thanh đối ngoại đã trải qua
nhiều thời kỳ phát triển, và đã trở thành công cụ quan trọng nhất của Đảng và
Nhà nước ta trong cơng tác thơng tin đối ngoại. Các chương trình của VOV5
đưa các chính sách, chủ trương của Đảng và Nhà nước, những thơng tin
nhanh nhất, chính xác nhất về Việt Nam đến với thính giả nước ngồi trên thế
giới và ở Việt Nam, đến với người Việt Nam đang sinh sống và làm việc ở
nước ngoài để họ hiểu về đất nước, con người Việt Nam, về những thành tựu
đổi mới của của Việt Nam, trên cơ sở đó tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế
giới, sự đóng góp của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài vào sự nghiệp
bảo vệ và xây dựng Tổ quốc.
Hiện nay, VOV5 sản xuất các chương trình phát thanh bằng 12 thứ
tiếng: Anh, Pháp, Nhật Bản, Nga, Trung Quốc, Đức, Thái Lan, Lào,
Campuchia, Indonesia, Tây Ban Nha và Việt Nam. Các chương trình đối
ngoại phát ra nước ngồi bằng sóng ngắn, sóng trung hướng đến châu Âu,
châu Mỹ, Đơng Nam Á, Trung Quốc, Nhật Bản, Viễn Đông, Trung Đông, một
phần châu Phi. Các chương trình đối ngoại dành cho người nước ngoài sinh
sống, làm việc và học tập tại Việt Nam phát trên sóng FM tại Hà Nội, thành
phố Hồ Chí Minh và tỉnh Quảng Ninh.
Ngồi các chương trình phát thanh, VOV5 đã lên trang thông tin điện
tử đối ngoại (vovworld.vn) bằng 12 thứ tiếng trong đó có 11 thứ tiếng nước
ngồi và một chương trình tiếng việt dành cho Việt kiều. Đây thực sự là một
công cụ hữu hiệu nối dài cánh sóng Tiếng nói Việt Nam đến với bạn bè thế
giới và Việt kiều. Ngày 14 tháng 2 năm 2015, Thủ tướng Chính phủ đã cho



phép VOV5 lên kênh tiếng Anh 24/7 - kênh phát thanh tiếng Anh liên tục duy
nhất ở Việt Nam có nhiệm vụ giới thiệu đất nước và con người Việt Nam với
bạn bè trên thế giới. Đây cũng là bước phát triển quan trọng hình thành Kênh
Phát thanh Đối ngoại Quốc gia theo đúng lộ trình thực hiện Quy hoạch phát
thanh và truyền hình đối ngoại quốc gia đến năm 2020 đã được Chính phủ
phê duyệt.
Trong những năm gần đây, cùng với việc bố trí lại sóng, điều chỉnh các
giờ phát sóng, việc đưa các chương trình FM vào phục vụ người nước ngoài ở
Việt Nam, ra mắt kênh tiếng Anh 24/7 phát sóng 24 giờ các ngày trong tuần,
những cải tiến đáng kể về nội dung và hình thức thể hiện, phát thanh đối
ngoại ngày càng vươn xa, đem đến cho bạn bè quốc tế những thông tin bổ ích
về sự phát triển của Việt Nam, những thành tựu kinh tế - xã hội, văn hóa, giáo
dục đáng ghi nhận, giúp bạn bè quốc tế hiểu thêm về quan điểm đường lối của
Đảng và Nhà nước ta, về các vấn đề trong nước cũng như quốc tế, quyết tâm
hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới, củng cố trong lịng thính giả
hình ảnh một đất nước Việt Nam tươi đẹp, giàu bản sắc văn hóa, năng động,
sáng tạo, cởi mở, u chuộng hịa bình.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành công và hiệu quả, hệ phát thanh đối
ngoại quốc gia VOV5 vẫn còn tồn tại những bất cập liên quan đến nội dung,
chất lượng chương trình, đến tính đối tượng, giờ phát các chương trình và
sóng, cần phải được xem xét thay đổi để đáp ứng được một cách tốt nhất nhu
cầu thơng tin của nhóm thính giả mục tiêu.
Mỗi năm Hệ VOV5 nhận được khoảng 5.000 thư thính giả gửi từ 80
quốc gia và vùng lãnh thổ. Chương trình nhận được nhiều thư nhất trong
những năm trở lại đây là tiếng Nhật, sau đó là tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng
Đức và tiếng Indonesia. Các chương trình có ít nhất chủ yếu là các chương
trình Trung Quốc, Thái Lan, Campuchia, Lào. Tuy nhiên, khi Đài Tiếng nói
Việt Nam tổ chức các cuộc thi thì thính giả khu vực này thường tham gia rất
đông, thường nhiều hơn so với các chương trình tiếng Anh và tiếng Pháp.

Điều này được khẳng định qua các cuộc thi “Bạn biết gì về Việt Nam” tổ chức


vào các năm 1985, 1995, 2005, 2010 và 2015. Như vậy, có thể thấy lượng
người nghe khơng ít.
Năm 2013, Đài tiếng nói Việt Nam đã thực hiện một khảo sát nhằm
thăm dị thính giả của 11 thứ tiếng ngoại ngữ có cùng cấu trúc chương trình
gồm bản tin, thời sự chính trị và chuyên mục giới thiệu Việt Nam. Khi thực
hiện bảng hỏi, các tác giả mong muốn được biết các chương trình phát thanh
đối ngoại dành cho thính giả ở nước ngồi hiện nay có nghe nhiều hay khơng,
thính giả của các chương trình đó đánh giá như thế nào về chương trình, có
góp ý gì cho chương trình và thành phần thính giả của các chương trình là ai,
có u cầu tăng thời lượng hay khơng?... Trước đó cũng có một vài câu hỏi để
tìm hiểu độ tuổi của các thính giả, nghe VOV từ bao giờ... Các cuộc thăm dò
được tiến hành theo phương pháp gửi phiếu qua đường bưu điện và thư điện
tử tới thính giả ở cả 5 châu lục.
Kết quả cho thấy về độ tuổi, thính giả của các chương trình có độ tuổi
khác nhau, nghề nghiệp của thính giả cũng vơ cùng phong phú, bao gồm sinh
viên, cán bộ, công chức, giáo viên, hưu trí, nhân viên cơng ty, luật sư, nơng
dân, cơng nhân... Đặc biệt có cả các nhà báo, họ vừa nghe VOV5 với tư cách
một thính giả thơng thường vừa để nghe để thu thập thông tin phục vụ cho
nghề nghiệp.
Tỉ lệ thính giá nghe các chương trình phát thanh đối ngoại ở nước ngoài
từ 2-3 lần/tuần là cao nhất và tỉ lệ này tương đối bằng nhau ở cả ba khu vực
châu Á, châu Âu và châu Mỹ (45%, 42% và 44%). Tỉ lệ thính giả nghe
chương trình với tần suất 2-3 lần/tháng đứng hàng thứ 2 (24% thính giả châu
Á, 36% thính giả châu Âu và 35% thính giả châu Mỹ). Tuy nhiên, tỉ lệ thính
giả châu Á nghe chương trình của Đài Tiếng nói Việt Nam hàng ngày cao hơn
hẳn so với các thính giả châu Âu và châu Mỹ (17% so với 9% thính giả châu
Âu và 12% thính giả châu Mỹ). Điều này có thể lí giải bằng nhiều lí do: sự

tương đồng về văn hóa, sự gần gũi về địa lý, chính trị, và có ít chương trình
trình phát bằng các thứ tiếng ở khu vực châu Á (Lào, Campuchia...), trong khi
các thính giả ở châu Âu và châu Mỹ có nhiều sự lựa chọn hơn khi nghe các


chương trình phát thanh, vì thứ tiếng của họ phổ biến hơn (Anh, Pháp, Tây
Ban Nha...)
Về các chuyên mục của Hệ phát thanh Đối ngoại: Kết quả các cuộc
thăm dò rất khả quan. Tỉ lệ thính giả đánh giá các chuyên mục là “Rất hay” và
“Hay” là rất cao, trung bình đạt tới khoảng trên 80%. Các thính giả của các
chương trình tiếng Nga, Pháp, Thái Lan và Trung Quốc đánh giá các chuyên
mục ở mức “Rất hay”, “Hay” hoặc “Bình thường”, khơng có đánh giá “Kém”
hoặc “Rất kém”. Ngồi ra, ý kiến phản hồi của thính giả cùng về một chuyên
mục cũng rất đa dạng. Ví dụ, với chuyên mục “Điểm tuần quốc tế”, có tới trên
10% thính giả chương trình tiếng Nhật đánh giá là “Khơng cần thiết” và trên
67% đánh giá là “Bình thường”, trong khi đó lại có tới trên 70% đánh giá
chuyên mục “Điểm tuần quốc tế” là “Hay” và “Bổ ích”.
Các chuyên mục do phịng các thứ tiếng tự làm mang tính đối tượng
cao được đánh giá tốt hơn hẳn những chuyên mục khác. Ví dụ, mục “Trả lời
thư thính giả” của tiếng Nhật và tiếng Pháp được đánh giá rất tốt: 82% thính
giả cho rằng chuyên mục này “Rất hay”, 15% đánh giá là “Hay”. Đối với
chương trình tiếng Trung Quốc, tiếng Lào, tiếng Anh cũng vậy: 56% thính giả
Trung Quốc, 68% thính giả Lào và 67% thính giả của chương trình tiếng
Aanh đánh giá chuyên mục “Thư thính giả” là “Rất hay”, đây cũng là tỉ lệ cao
nhất so với các chuyên mục khác của chương trình này. Đối với các chương
trình Tây Ban Nha và Inđônêxia, chuyên mục này cũng được đánh giá cao.
Điều này cho thấy tầm quan trọng của việc tương tác với thính giả, trả lời các
câu hỏi, thắc mắc của họ và thơng qua đó, giới thiệu đất nước, con người Việt
Nam.
Về nội dung tin tức, tin chính trị: Ở tất cả các chương trình, tỉ lệ thính

giả đánh giá tin chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa được đưa với liều lượng
vừa phải là cao nhất. Thính giả nhiều chương trình cũng đề nghị được thơng
tin nhiều hơn về lịch sử, văn hóa truyền thống, đất nước, con người Việt Nam,
có những bài viết sâu sắc hơn về các lĩnh vực: văn hóa, mỗi trường, công
nghệ, tôn giáo, lịch sử, giới thiệu du lịch, các dân tộc Việt Nam, tin thế giới


nên tập trung vào tình hình Đơng Nam Á, nâng cao chất lượng sóng, tổ chức
các cuộc thi nhỏ hàng tháng và các cuộc thi lớn hàng năm, bình chọn thính giả
và người báo cáo nghe đài thường xuyên cho mỗi khu vực, có giấy chứng
nhận chính thức cho họ và quà tặng tượng trưng của Việt Nam khoảng nửa
năm một lần cho những người này.
Chương trình ca nhạc cũng được thính giả u cầu thời lượng phát
sóng. Thính giả cũng quan tâm nhiều về xử lý tiêu cực ở Việt Nam, thông tin
về kinh tế, thương mại, đầu tư, chứng khốn, văn hóa, ẩm thực... ở Việt Nam.
Đặc biệt, nhiều thính giả đề nghị lưu các chương trình trên Internet khoảng 1
tuần để thính giả tiện theo dõi. Về cơng tác thư thính giả, cần phải thay đổi
mẫu mã chứng nhận nghe đài hàng năm.
Về chất giọng của phát thanh viên, nhìn chung thính giả nhận xét các
chương trình có giọng đọc tốt, rõ ràng, phát âm chuẩn. Một số thính giả đề
nghị đọc tốc độ vừa phải hơn và khi phát âm các tên tiếng Việt (địa danh, tên
người), nên đọc chậm lại. Tuy nhiên, vẫn còn một số phát thanh viên chỉ đạt
mức đọc chuẩn chứ chưa thực sự diễn cảm.
Từ những kết quả nghiên cứu đó cùng với việc khảo sát báo cáo tình
hình thư thính giả gửi về hàng tháng, trong bối cảnh báo chí đối ngoại trong
nước phát triển nhanh chóng, sự bùng nổ về thông tin đặc biệt là báo điện tử
giúp cho thính giả có nhiều sự lựa chọn hơn, tác giả nhận thấy việc nâng cao
chất lượng hiệu quả hệ VOV5 càng trở nên cần thiết:
Một là, cải tiến phong cách thể hiện
Cải tiến nội dung và cải tiến phong cách thể hiện có quan hệ chặt chẽ,

bổ trợ cho nhau. Nội dung hay nhưng cách thể hiện theo lối mòn, kém sinh
động, hấp dẫn sẽ làm hỏng chương trình. Tồn bộ hệ VOV5 cần phải có bản
sắc chung như lời xướng, quảng bá, nhạc cắt, thống nhất về lựa chọn thông tin
cho phù hợp đối tượng. VOV5 là một hệ chương trình của nhiều thứ tiếng,
mỗi thứ tiếng phải mang phong cách văn hóa, ngơn ngữ của thứ tiếng đó. Tuy
nhiên bao trùm lên vẫn là phong cách phát thanh hiện đại gắn liền với tốc độ
thông tin nhanh, cập nhật liên tục, phải có gương mặt cho các bản tin, cho các


chuyên mục cố định, cho các chương trình giao lưu âm nhạc, cho các tọa
đàm...
Hai là, phát triển nguồn nhân lực
Để đáp ứng yêu cầu đổi mới trên đây đòi hỏi sự đổi mới tương ứng
trong công tác tổ chức và phát triển nguồn nhân lực. Đây sẽ là yếu tố quyết
định trong việc đưa ngành phát thanh Việt Nam thực sự trở thành một ngành
truyền thông đại chúng điện tử hiện đại của đất nước. Trong thời gian tới cần
có kế hoạch “đi tắt đón đầu” trong việc đào tạo và xây dựng được một đội ngũ
cán bộ có trình độ chun mơn lành nghề, các gương mặt trên sóng phát thanh
và “chim đầu đàn” trong các lĩnh vực phát thanh. Đào tạo lại cho cán bộ, công
chức, viên chức đáp ứng cho phát thanh hiện đại bằng việc quy hoạch, xây
dựng đào tạo, tổ chức bố trí lực lượng lao động một cách khoa học, đầu tư
nhân tố con người, nâng cao tinh thần làm việc của đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức ngành phát thanh trong đó có phát thanh đối ngoại.
Người làm phát thanh đối ngoại trực tiếp địi hỏi phải rất giỏi ngoại
ngữ, có khả năng ứng khẩu và xử lý tình huống trên sóng. Giỏi nghiệp vụ báo
chí phát thanh, nhưng khả năng ngoại ngữ hạn chế thì khơng thể làm phát
thanh trực tiếp được, đặc biệt trong khâu phỏng vấn khách mời phịng thu, tọa
đàm, giao lưu với thính giả, dẫn chương trình ca nhạc, chương trình giải trí.
Chính vì vậy, phải tăng cường đào tạo ngôn ngữ tại chỗ với sự giúp đỡ của
các chuyên gia nước ngoài đang cộng tác với các chương trình, mặc khác

cũng cần phải cử những người làm chương trình đi đào tạo ở nước sở tại. Đặc
biệt đối với các thứ ngữ hiếm (do không có trường đào tạo tại Việt Nam) như
Thái Lan, Campuchia, Indonesia.
Ba là, tăng cường quảng bá, triển khai quảng cáo, tạo nguồn thu để
mở rộng sản xuất chương trình
Muốn có nhiều quảng cáo, tạo nguồn thu thì trước hết là phải tăng
cường quảng bá. Quảng bá sẽ giúp tăng số lượng thính giả, từ đó thu hút các
doanh nghiệp trong nước, các liên doanh, các nhà đầu tư.


Quảng cáo hấp dẫn theo phong cách quốc tế cũng là một hình thức
cuốn hút người nghe và tăng nguồn thu. Một số đài phát thanh trong khu vực
đặc biệt là đài Bắc Kinh, Thượng Hải, Quảng Tây, Vân Nam (Trung Quốc) đã
hết sức thành công trong việc tự chủ tài chính thơng qua đẩy mạnh hoạt động
quảng cáo. Muốn có quảng cáo, các chương trình tài trợ, u cầu tiên quyết là
các chương trình của hệ VOV5 phải phát sóng liên tục, sóng khỏe và có đối
tượng nghe đài rõ ràng, đặc biệt là đối tượng có điều kiện chi tiết. Các quảng
cáo trên hệ VOV5 cần theo tiêu chuẩn quốc tế: thật ngắn gọn, hấp dẫn, sử
dụng nhiều kỹ xảo âm thanh, tiếng động với thời lượng 15”- 30” đến 60”.
Bốn là, tổ chức điều tra thính giả định kỳ
Điều tra thính giả là một mảng cơng việc Đài Tiếng nói Việt Nam chưa
thực hiện đều đặn và chuyên nghiệp. Hệ VOV5 hàng năm cũng thực hiện một
số điều tra thính giả cho chương trình tiếng Anh, tiếng Pháp với phạm vi hết
sức khiêm tốn và hình thức đơn giản, chủ yếu qua bảng hỏi, và một phần qua
phỏng vấn. Điều tra thính giả giúp những người làm chương trình có cơ sở để
cải tiến chương trình cho phù hợp hơn nhu cầu của thính giả, nâng cao chất
lượng chương trình.
Tuy nhiên, để có một đánh giá khách quan về đối tượng nghe các
chương trình của hệ phát thanh đối ngoại VOV5, cần phải tổ chức điều tra
thính giả thường xuyên, định kỳ, rộng rãi. Để thực hiện được điều đó cũng

cần một khoản kinh phí tương đối lớn, cần sự hỗ trợ của lãnh đạo Đài và Ban
Bạn nghe đài. Nhưng kết quả mang lại sẽ giúp ích rất nhiều cho việc nâng cao
chất lượng chương trình, tăng cường đầu tư sóng vào vùng trọng điểm và cả
trong cả việc hoạch định chiến lược phát triển phát thanh đối ngoại.
Đất nước ta đang đứng trước những cơ hội vơ cùng to lớn để phát triển,
vai trị của hệ thống báo chí đối ngoại nói chung và phát thanh đối ngoại nói
riêng càng đặc biệt hơn bao giờ hết. Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của
công tác phát thanh đối ngoại, những người làm chương trình của Hệ phát
thanh đối ngoại quốc gia VOV5 đã không ngừng cải tiến, đổi mới cả về hình


thức và nội dung chuyển tải thông tin để trở thành người bạn thân thiết, tin
cậy nhất với thính giả mục tiêu của mình, giúp họ nắm bắt được nhanh nhất,
chính xác nhất những gì đang diễn ra tại Việt Nam và tại những sự kiện quốc
tế. Tuy nhiên, cũng dễ nhận thấy có một số bất cập của Hệ VOV5 như nội
dung chưa thực sự đa dạng, hấp dẫn, các tiết mục chưa được cải tiến thường
xuyên, công tác đối tượng hóa cịn yếu. Các phịng tiếng cịn phụ thuộc nhiều
vào tin bài của Phòng Thư ký biên tập cung cấp, phát thanh trực tiếp cịn ít.
Những giải pháp mà tác giả đưa ra dựa trên những khảo sát thực tế và
phiếu thăm dị thính giả; xuất phát từ những yêu cầu đổi mới đối với các
chương trình phát thanh đối ngoại, những ý kiến của thính giả nghe đài với hi
vọng từng bước khắc phục những hạn chế trong sản xuất sản phẩm phát thanh
đối ngoại hiện nay.
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Văn Dững (2012), Cơ sở lý luận báo chí, Nxb Lao Động, Hà Nội
2. The Missouri Group (2007), Nhà báo hiện đại, Nxb Trẻ, Hà Nội.
3. Phạm Minh Sơn, Truyền thông đại chúng trong công tác thơng tin đối
ngoại của Việt Nam hiện nay, NXB Chính trị - Hành chính, Hà Nội, 2009.
4. Thủ tướng Chính phủ (2010), Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về ban
hành Quy chế Quản lý Nhà nước về thông tin đối ngoại, số 79/2010/QĐ-TTg.

5. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định phê duyệt quy hoạch phát thanh
truyền hình đối ngoại đến năm 2020, số 1209/QĐ-TTg.



×