Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Phong trào thi đua yêu nước ở miền bắc trong kháng chiến chống mỹ, cứu nước những năm 1961 1975 TT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.58 KB, 25 trang )

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Được hình thành và phát triển trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ
nước, được kết tinh, lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác, tinh thần yêu nước
trở thành giá trị cơ bản và bền vững nhất trong hệ giá trị truyền thống của dân tộc
Việt Nam. Tinh thần yêu nước đã ngấm sâu vào tình cảm, tư tưởng của mỗi người
dân Việt Nam, trở thành nguồn “năng lực nội sinh” không bao giờ cạn và là vũ khí
tinh thần mà vận nước thịnh hay suy, mất hay còn, phần rất quan trọng tùy thuộc
vào việc chúng ta phát huy hay quên lãng thứ vũ khí tinh thần ấy.
Ngày 11/6/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc, chính
thức phát động PTTĐYN trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân. Từ đây, PTTĐ ái
quốc do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi xướng đã thực sự trở thành một động lực
mạnh mẽ, thúc đẩy mọi tầng lớp nhân dân phát huy tài năng, trí tuệ của mình lập
góp phần lập nên những chiến cơng hiển hách trong sự nghiệp đấu tranh cách
mạng, giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Hơn 70 năm qua,
trong mỗi chặng đường phát triển của cách mạng, PTTĐYN như những làn sóng
trào dâng mang theo khí thế hào hùng của dân tộc, tạo động lực đoàn kết toàn dân
đấu tranh.
Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), đặc biệt là từ khi Ban
Bí thư Trung ương Đảng ra Nghị quyết số 07-NQ/TW (26/01/1961) Về việc đẩy
mạnh phong trào thi đua yêu nước đảm bảo hoàn thành toàn diện và vượt mức kế
hoạch Nhà nước năm 1961 và kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, PTTĐYN ở miền Bắc
có nhiều bước tiến mạnh mẽ. Với sự đa dạng về nội dung, sự phong phú về hình
thức, gắn với nhiều hành động thiết thực, PTTĐYN đã đi vào lịch sử như một minh
chứng thuyết phục cho sức mạnh của lịng u nước, tinh thần đồn kết dân tộc, ý chí
tự lực tự cường, trí thơng minh, niềm đam mê sáng tạo và cống hiến của quân dân
miền Bắc, góp phần xứng đáng vào q trình hồn thành xuất sắc nhiệm vụ của một
hậu phương chiến lược.
Từ sau ngày đất nước thống nhất cho đến nay, quán triệt tinh thần “Thi đua
là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua” Đảng và Nhà nước tiếp tục duy trì, phát


huy sức mạnh của lòng yêu nước, chú trọng vào việc phát động, tổ chức các
1


PTTĐYN toàn diện, thiết thực, hiệu quả. Đặc biệt trong sự nghiệp đổi mới-cuộc thi
đua vĩ đại chống lại “những gì đã cũ kỹ, hư hỏng để tạo ra cái mới mẻ tốt tươi” của
dân tộc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Qua các
PTTĐYN đã xuất hiện nhiều tập thể, cá nhân anh hùng, chiến sĩ thi đua, các điển
hình tiên tiến trong cả nước. TĐYN thực sự đã mang lại những thành tựu quan trọng
trong sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội, bảo đảm quốc phịng, an ninh, góp phần
nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế. Tuy nhiên, tình
hình trong nước, quốc tế và khu vực hiện có nhiều chuyển biến mau lẹ chứa đựng
nhiều cơ hội và thách thức có tác động trực tiếp đến quá trình phát động, tổ chức các
PTTĐYN. Bên cạnh những thành tựu quan trọng đạt được, TĐYN hiện đứng trước
nhiều tồn tại, yếu kém cần thiết phải được khắc phục.
Việc nghiên cứu các PTTĐYN ở miền Bắc trong những năm 1961-1975 trên
các phương diện: nhân tố tác động, q trình hình thành, phát triển, kết quả…từ đó
đánh giá đặc điểm, ý nghĩa của nó trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam,
thống nhất Tổ quốc là việc làm cần thiết, có ý nghĩa khoa học và thực tiễn sâu sắc.
Kết quả nghiên cứu không chỉ là cơ sở cho việc tái hiện chân thực các PTTĐYN
với những điển hình tiêu biểu mà cịn là cơ sở khẳng định chủ trương đúng đắn của
Đảng, sự vận dụng linh hoạt của các cấp ủy, đoàn thể ở địa phương; giúp làm sáng
tỏ vị trí, vai trị của miền Bắc trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của một hậu
phương chiến lược. Kinh nghiệm rút ra từ việc nghiên cứu vấn đề này có ý nghĩa
thiết thực trong việc tiếp tục phát huy tinh thần yêu nước, thực hành thi đua tích
cực và hiệu quả.
Xuất phát sự quan tâm đặc biệt về các PTTĐYN cùng với sự nhận thức đầy
đủ về ý nghĩa ý nghĩa lý luận và thực tiễn của vấn đề, nghiên cứu sinh quyết định
chọn đề tài: “Phong trào thi đua yêu nước ở miền Bắc trong kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước những năm 1961-1975” làm luận án tiến sĩ, chuyên ngành Lịch sử

Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu, tái hiện một cách hệ thống quá trình hình thành, phát triển và
đóng góp của PTTĐYN trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước những năm 19611975; từ đó rút ra một số đặc điểm, ý nghĩa, kinh nghiệm để vận dụng vào q trình
phát động, tổ chức có hiệu quả các PTTĐYN trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
2


quốc hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan tình hình nghiên cứu, đánh giá các kết quả nghiên cứu, xác định
hướng tiếp cận và nội dung luận án cần tiếp tục nghiên cứu, giải quyết.
- Làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn, nhân tố tác động đến quá trình phát động và
tổ chức các PTTĐYN ở miền Bắc trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước những
năm 1961-1975.
- Tái hiện thực tiễn PTTĐYN ở miền Bắc trong kháng chiến chống Mỹ
những năm 1961-1975 thơng qua phân tích q trình hình thành, các giai đoạn phát
triển và kết quả nổi bật một số PTTĐYN tiêu biểu.
- Luận giải một số đặc điểm, đánh giá ý nghĩa của PTTĐYN ở miền Bắc
trong kháng chiến chống Mỹ, những năm 1961-1975; đúc rút một số kinh nghiệm
có thể kế thừa, vận dụng vào quá trình phát động, tổ chức các phong trào TĐYN
trong giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: phong trào thi đua yêu nước ở miền Bắc trong
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước những năm 1961-1975.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về thời gian: từ năm 1961-1975 (từ ngày Ban Bí thư Trung ương
Đảng ra Nghị quyết 07-NQ/TW “Về đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước đảm
bảo hoàn thành toàn diện và vượt kế hoạch Nhà nước năm 1961 và 5 năm lần thứ

nhất”(26/1/1961) đến khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kết thúc thắng
lợi).
- Phạm vi về không gian: trên phạm vi miền Bắc (vùng lãnh thổ do chính
phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hịa quản lý hành chính, kể từ phía bắc vĩ tuyến 17,
nay tương ứng với phần địa giới hành chính phía bắc tỉnh Quảng Trị), đặc biệt là
các địa phương có PTTĐYN tiêu biểu (Hà Nội, Hải Phịng, Nam Định, Quảng
Bình...).
- Phạm vi về nội dung nghiên cứu: bối cảnh lịch sử, quá trình hình thành và
thực tiễn PTTĐYN ở miền Bắc ở một số ngành, giới, tầng lớp trong xã hội, cụ thể
là tập trung vào các phong trào: “Gió Đại Phong”, “Sóng Duyên Hải”, “Trống Bắc
Lý”, “Cờ Ba nhất”, “Ba sẵn sàng”, “Ba đảm đang”…
3


4. Nguồn tài liệu
- Hệ thống văn kiện của Đảng, tổ chức chính trị-xã hội; các tác phẩm của Chủ
tịch Hồ Chí Minh và lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân đội về thi đua u nước.
- Các cơng trình nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và
lịch sử các bộ, ban, ngành, tỉnh, địa phương, lịch sử các giới, tầng lớp xã hội…ở
miền Bắc trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
- Các cơng trình nghiên cứu về PTTĐYN qua các thời kỳ, nhất là nghiên cứu
về PTTĐYN ở miền Bắc trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; kỷ yếu hội thảo,
luận văn, luận án, bài báo khoa học… có liên quan đến PTTĐYN.
- Các hồi ký, nhật ký, chuyện kể về những tấm gương điển hình trong
PTTĐYN ở miền Bắc những năm 1961-1975.
Luận án đặc biệt chú trọng khai thác, sử dụng nguồn tài liệu lưu trữ tại Trung
tâm lưu trữ quốc gia, Trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt
Nam, Viện Lịch sử Đảng.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận

Dựa trên quan điểm phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác-Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chủ trương của
Đảng Cộng sản Việt Nam về thi đua và thi đua yêu nước.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Bên cạnh hai phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp lịch sử và
phương pháp lôgic, luận án kết hợp sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khác
như: so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê. Trong đó:
Phương pháp lịch sử được sử dụng trong việc nghiên cứu quá trình hình
thành, phát triển của các PTTĐYN tiêu biểu ở miền Bắc theo một trình tự liên tục
với những nhân chứng và số liệu lịch sử trong không gian và thời gian cụ thể nhằm
phục dựng chân thực diễn tiến của PTTĐYN qua các giai đoạn với tính chất và
khuynh hướng phát triển của nó.
Phương pháp logic được sử dụng khi nghiên cứu những chuyển biến của
PTTĐYN ở các giai đoạn phát triển, phân tích, đánh giá các nhận định, rút ra
những nhận xét về đặc điểm, ý nghĩa của PTTĐYN, trên cơ sở những căn cứ logic
và luận chứng khoa học để rút ra những kinh nghiệm vận dụng.
4


Phương pháp so sánh (so sánh đồng đại và so sánh lịch đại) được sử dụng
trong việc nhận diện những điểm tương đồng và khác biệt nhằm làm rõ đặc điểm,
tính chất nổi bật của PTTĐYN trong từng giai đoạn cũng như sự khác nhau, bước
phát triển của PTTĐYN giữa các giai đoạn.
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở sử dụng linh hoạt các phương pháp.
6. Đóng góp mới của luận án
- Cung cấp hệ thống tư liệu lịch sử về PTTĐYN, đặc biệt là PTTĐYN ở
miền Bắc trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước những năm 1961-1975.
- Góp phần làm rõ cơ sở hình thành các PTTĐYN, đặc biệt làm rõ sự lãnh
đạo, chỉ đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị-xã hội
trong việc phát động và tổ chức thực hiện PTTĐYN.

- Phục dựng một cách khách quan, khoa học một số PTTĐYN điển hình ở
miền Bắc qua hai giai đoạn 1961-1965 và 1965-1975; làm rõ giá trị to lớn của các
PTTĐYN đó đối với sự phát triển của miền Bắc và đối với thắng lợi của sự nghiệp
chống Mỹ, cứu nước của dân tộc Việt Nam (1961-1975).
- Rút ra đặc điểm, ý nghĩa của PTTĐYN ở miền Bắc trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ những năm 1961-1975, cung cấp luận cứ khoa học và một số kinh
nghiệm có thể tham khảo, vận dụng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu của luận án cịn góp phần giáo dục truyền thống cách
mạng, có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy và học
tập lịch sử, nhất là chuyên đề về thi đua yêu nước.
7. Kết cấu của luận án: Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo,
phụ lục, nội dung của Luận án gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
Chương 2: Phong trào thi đua yêu nước ở miền Bắc từ năm 1961 đến năm
1965
Chương 3: Phong trào thi đua yêu nước ở miền Bắc từ năm 1965 đến năm
1975
Chương 4: Nhận xét và kinh nghiệm

5


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1. Tình hình và kết quả nghiên cứu liên quan đến đề tài
PTTĐYN nói chung, PTTĐYN ở miền Bắc trong kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước những năm 1961-1975 nói riêng là vấn đề lịch sử được lựa chọn nghiên

cứu trên nhiều phương diện với mức độ tương đối cao.
Từ những cơng trình nghiên cứu đầu tiên về vấn đề này cho đến nay có thể
nhận thấy PTTĐYN ở miền Bắc những năm 1961-1975 là một trong những nội
dung trọng tâm được lãnh đạo các cấp và các nhà nghiên cứu quan tâm khi nghiên
cứu về lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, đặc biệt là trong nghiên cứu hậu
phương miền Bắc. Cùng với thời gian, PTTĐYN ở miền Bắc ngày càng được tiếp
cận một cách toàn diện, khách quan và được làm sáng rõ trên nhiều khía cạnh (vị
trí, vai trị, ý nghĩa, sự chỉ đạo, lãnh đạo, tổ chức thực hiện, kết quả, thành tựu và
hạn chế).
Số lượng các cơng trình nghiên cứu đến từ các tác giả nước ngồi rất khiêm
tốn. Bên cạnh làm rõ tính tất yếu, khách quan của thi đua trong chế độ XHCN thì
gần như chỉ đề cập đến những vấn đề lý luận cơ bản về thi đua và thi đua XHCN
như bản chất, mục đích, phương pháp thi đua. Đóng góp quan trọng của các tác giả
là đã làm rõ sự khác nhau về bản chất giữa thi đua trong chế độ XHCN với cạnh
tranh trong xã hội TBCN…Ở một số nghiên cứu khác ít nhiều trình bày diễn biến,
kết quả và đóng góp của PTTĐ ở một số nước XHCN như Liên Xơ, Trung Quốc,
Triều Tiên.
Cơng trình nghiên cứu của các tác giả trong nước về vấn đề này chủ yếu
được công bố tập trung trong các thể loại, gồm sách chuyên khảo, kỷ yếu hội thảo,
luận văn, luận án và các bài báo được đăng tải trên các tạp chí khoa học. Nghiên
cứu của các tác giả trong nước có giá trị trên cả ba phương diện: về tư liệu, về nội
dung, về phương pháp nghiên cứu cụ thể là:
- Góp phần làm rõ đánh giá của Đảng về vị trí, vai trị của miền Bắc Việt
Nam, cũng như âm mưu, thủ đoạn của đế quốc Mỹ trong chiến tranh xâm lược Việt
Nam nói chung, âm mưu, hành động phá hoại đối với miền Bắc Việt Nam, đối với
6


từng địa phương trên phạm vi miền Bắc nói riêng. Trên cơ sở đó đã góp phần phục
dựng bối cảnh lịch sử dân tộc nói chung, miền Bắc nói riêng trong thời kỳ kháng

chiến chống Mỹ, cứu nước, đặc biệt giai đoạn từ năm 1961-1975.

- Đưa ra những phân tích, đánh giá của Đảng, Nhà nước ta về vị trí, vai
trị của miền Bắc, miền Bắc nói chung, của từng địa phương, ngành và giới nói
riêng trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước.
- Tái hiện tương đối chân thực, sinh động về bối cảnh lịch sử, về quá trình
Đảng, Nhà nước và các đồn thể chính trị phát động, tổ chức các PTTTĐYN.
- Trình bày diễn biến của một số PTTĐYN đến từ các địa phương, các
ngành, các giới khác nhau, trong đó cung cấp nhiều số liệu, nhiều nhân chứng
sống cụ thể của PTTĐYN thời kỳ này.
- Làm sáng tỏ ý nghĩa lịch sử, tác động to lớn của hàng loạt các PTTĐYN
những năm 1961-1975 trong quá trình miền Bắc thực hiện nhiệm vụ xây dựng
cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH và nhiệm vụ của một hậu phương chiến lược
đối với cả nước.
- Nêu và phân tích một số kinh nghiệm rút ra từ việc phát động và thực
hiện các PTTĐYN thời kỳ này.
Kết quả của những nghiên cứu này có ý nghĩa làm sáng tỏ những vấn đề
lý luận chung về TĐYN, có mục đích phục vụ cho công tác tuyên truyền, cổ
động nhằm động viên sự tham gia đơng đảo và có hiệu quả hơn của các tầng lớp
nhân dân. Tuy nhiên, do chỉ tập trung nghiên cứu từng PTTĐYN cụ thể, hoặc
phân tích đánh giá một quan điểm cụ thể của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh
trong q trình phát động các PTTĐYN nên tính hệ thống của các cơng trình
nghiên cứu khơng cao, chưa mang tính tồn diện. Mặc dù vậy, những kết quả
nghiên cứu này là cơ sở quan trọng giúp cho nghiên cứu sinh phương pháp tiếp
cận và nguồn tài liệu có giá trị gợi mở cao.
Từ tổng quan tình hình nghiên cứu vấn đề, nghiên cứu sinh cũng nhận
thấy còn nhiều khía cạnh liên quan đến PTTĐYN ở miền Bắc trong kháng
chiến chống Mỹ là khoảng trống cần tiếp tục được làm sáng tỏ. Có thể do đối
tượng nghiên cứu rộng, nhiều nội dung, nên các cơng trình gần như chỉ dừng ở
mức đề cập mang tính khái quát chung, chưa phân tích sâu sắc những diễn biến

mang tính quyết định của hoàn cảnh để thấy được yêu cầu khách quan về sự
7


phát triển của các PTTĐYN trong từng giai đoạn cụ thể. Một số cơng trình chỉ
dừng lại ở việc tìm hiểu và phản ánh từng khía cạnh riêng lẻ của PTTĐYN hoặc
chỉ dừng lại ở việc phục dựng, phân tích, đánh giá từng phong trào thi đua cụ
thể. Việc rút ra những kinh nghiệm mang tính chất phổ quát liên quan đến quá
trình tổ chức các PTTĐYN trên phạm vi tồn miền Bắc là chưa rõ nét. Đây
cũng chính là những vấn đề đặt ra đồng thời cũng là cách tiếp cận để giải quyết
các nhiệm vụ nghiên cứu của luận án.
1.2. Hướng nghiên cứu của luận án
Trên cơ sở kế thừa kết quả các cơng trình nghiên cứu đã cơng bố, căn cứ
vào mục đích, nhiệm vụ đã xác định, luận án cần tập trung giải quyết những nội
dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, phản ánh sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, cấp ủy và
chính quyền các cấp, các cơ quan ban, ngành, đoàn thể Trung ương và địa
phương trong việc phát động và chỉ đạo tổ chức thực hiện các PTTĐYN, qua đó
khẳng định tính đúng đắn, sáng tạo, nghệ thuật phát động PTTĐYN của các cơ
quan lãnh đạo trong việc động viên và phát huy sức mạnh tổng lực của hậu
phương chiến lược miền Bắc, nhằm đảm bảo cho thắng lợi cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước.
Thứ hai, trình bày quá trình hình thành, phát triển của một số PTTĐYN
tiêu biểu đến từ các ngành, giới và địa phương miền Bắc trong những năm
1961-1975. Trên cơ sở đó, khái quát những điểm nổi bật, nêu rõ những kết quả
quan trọng mà các PTTĐYN đã đạt được để làm sáng tỏ những cơ sở quan trọng
có tác dụng thúc đẩy miền Bắc trong thực hiện nhiệm vụ của hậu phương chiến
lược, cũng như cơ sở tạo nên sức mạnh tổng hợp, góp phần vào thắng lợi của
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Thứ ba, phân tích đặc điểm, ý nghĩa của các PTTĐYN ở miền Bắc trong

những năm 1961-1975; đồng thời rút ra một số kinh nghiệm có thể tham khảo,
vận dụng vào việc phát động và tổ chức thực hiện các PTTĐYN trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

8


Chương 2
PHONG TRÀO THI ĐUA YÊU NƯỚC Ở MIỀN BẮC
TỪ NĂM 1961 ĐẾN NĂM 1965

2.1. Cơ sở hình thành phong trào thi đua yêu nước
2.1.1. Cơ sở lý luận về thi đua yêu nước
Thi đua xuất hiện cùng với sự ra đời của chế độ XHCN và là PTTĐ của những
người lao động tự làm chủ vận mệnh của mình, khơng có đối kháng về lợi ích giữa cá
nhân, tập thể và xã hội. Trong chế độ XHCN, thi đua là động lực mạnh mẽ đối với sự
tiến bộ xã hội, là phương tiện quan trọng để củng cố kỷ luật lao động và phát huy tính
tích cực, sáng tạo của người lao động. Thi đua được quy định bởi bản chất của chế độ
xã hội, thi đua trong chế độ XHCN là gắn với yêu nước, “là một cách yêu nước thiết
thực và tích cực”.
Thống nhất với quan điểm của C.Mác và P.Ăng-ghen, V.I.Lênin khẳng định tổ
chức thi đua XHCN là việc làm có ý nghĩa đặc biệt. V.I.Lênin cho rằng mấu chốt và
cần kíp nhất “khi chính phủ XHCN đang cầm quyền là phải tổ chức thi đua”, “Tất cả
mọi nỗ lực phải được dành cho việc tổ chức thi đua”, “Tổ chức thi đua phải chiếm
một vị trí quan trọng trong nhiệm vụ kinh tế của chính quyền Xơ-viết”.
Nhận thức về tính tất yếu, vị trí, vai trị của thi đua trong chế độ XHCN, trong
q trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh ln gắn thi
đua với u nước, u nước với thi đua, tuyên truyền, vận động toàn dân hăng hái, tích
cực thi đua. Nhờ đó làm xuất hiện nhiều PTTĐYN, dần lan tỏa rộng khắp trên các lĩnh
vực, các ngành, các giới, thực sự trở thành một biện pháp quan trọng thúc đẩy phong

trào cách mạng.
Thống nhất quan điểm của các nhà Mácxit, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng:
“Dưới chế độ tư bản, thực dân và phong kiến quyết khơng thể có phong trào thi đua
u nước, vì giai cấp lao động khơng dại gì mà ra sức thi đua làm giàu thêm cho bọn
chủ để rồi lại bị chúng áp bức bóc lột thêm. Chỉ có dưới chế độ dân chủ nhân dân và
xã hội chủ nghĩa, dưới chế độ mà nhân dân lao động làm chủ nước nhà, thì mới có
phong trào thi đua”.
Thi đua yêu nước do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động bắt nguồn từ sự
ra đời của chế độ mới. Hồ Chí Minh đã gắn “thi đua” với “yêu nước”: “Thi đua là yêu
nước, yêu nước thì phải thi đua” đồng thời chỉ rõ thi đua là hướng tinh thần yêu nước
9


thực hành vào cơng việc u nước. Theo đó, thi đua khơng phải là hoạt động tùy tiện,
mang tính hình thức của tập thể, tổ chức, cơ quan, đơn vị, các tầng lớp xã hội, không
chỉ là hoạt động sáng tạo, tích cực trong lao động, trong cơng việc hàng ngày mà là
biểu hiện của lòng yêu nước, là biểu hiện của tinh thần đấu tranh cách mạng.
2.1.2. Thực tiễn phong trào thi đua yêu nước trước năm 1961
Tinh thần yêu nước và tính tích cực TĐYN thực sự trở thành phong trào hành
động cách mạng của toàn dân, được tổ chức, chỉ đạo thống nhất từ Trung ương đến cơ
sở, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước phải tính từ năm 1948, gắn với Lời kêu gọi
thi đua ái quốc (11/6/1948) của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Từ các phong trào có tính chất
thi đua (1945-1946) đến PTTĐ (1947) rồi trở thành PTTĐYN (1948) là bước phát triển
trong tư duy lý luận, là quá trình Trung ương Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh
vận dụng đúng đắn và phát triển sáng tạo lý luận Mác-Lênin về thi đua XHCN. Từ năm
1948, PTTĐYN có bước phát triển vượt bậc cả về nội dung, phương pháp, hình thức
và quy mơ tổ chức. Tính đến năm 1960, PTTĐYN phát triển qua ba giai đoạn: từ
6/1948-5/1952; từ 5/1952-7/1958; từ 7/1958-cuối năm 1960.
Nhìn chung, từ 1948-1960, PTTĐ có những bước tiến rõ rệt và ngày càng có
nhiều đóng góp quan trọng vào quá trình thực hiện nhiệm vụ của cách mạng. Thành

tựu đạt được cùng những những bất cập, hạn chế bộc lộ trong ba giai đoạn phát triển
của PTTTĐYN nói trên là cơ sở thực tiễn cho việc phát động và tổ chức các PTTĐYN
trong giai đoạn lịch sử tiếp theo.
2.2. Bối cảnh lịch sử và sự phát triển của phong trào thi đua yêu nước ở
miền Bắc từ năm 1961 đến năm 1965
2.2.1. Bối cảnh lịch sử và chủ trương của Đảng về thi đua yêu nước
Nhận rõ diễn biến mới cũng như âm mưu, thủ đoạn của Mỹ-ngụy, tháng 1/1961,
Bộ Chính trị BCHTƯ Đảng đề ra nhiệm vụ đẩy mạnh hơn nữa đấu tranh chính trị, đưa
đấu tranh vũ trang lên song song với đấu tranh chính trị; giao cho Quân ủy Trung ương
và Ban Thống Nhất Trung ương chỉ đạo công tác quân sự ở miền Nam, quyết định tăng
cường cán bộ, đẩy mạnh việc tiếp tế vũ khí, tài chính cho cách mạng miền Nam, quyết
định tăng cường cán bộ, đẩy mạnh việc tế vũ khí, tài chính cho cách mạng miền Nam
và mở rộng giao thông liên lạc Bắc Nam. Ở miền Bắc, Đảng nhận thức rõ, quá trình
nhân dân miền Bắc triển khai nhiệm vụ xây dựng CNXH, mở đầu bằng việc thực hiện
kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965) là bước đi rất quan trọng trên con đường đi
lên CNXH, có vai trò quyết định đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà.
Ngày 26/01/1961, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 07-CT/TW “Về
việc đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước đảm bảo hoàn thành toàn diện và vượt
10


mức kế hoạch nhà nước năm 1961 và kế hoạch 5 năm lần thứ nhất”. Trên cơ sở đánh
giá ưu, nhược điểm của PTTĐ những năm trước, Ban Bí thư chủ trương bắt đầu từ năm
1961, phải động viên mọi lực lượng tinh thần và vật chất của toàn dân, đẩy mạnh
PTTĐYN. Ngày 19/02/1962, Bộ chính trị ra Nghị quyết số 46-NQ/TW “Về việc thống
nhất lãnh đạo và đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước”; ngày 17/3/1962 Ban Bí thư ra
Chỉ thị số 39-CT/TW “Về việc tuyên truyền và giáo dục nhân dịp Đại hội liên hoan Anh
hùng, Chiến sĩ Thi đua toàn quốc lần thứ III”; ngày 14/4/1964, Ban Bí thư ra Chỉ thị số
77 Về việc phát động cao trào thi đua “Mỗi người làm việc bằng hai, ra sức xây dựng và
bảo vệ miền Bắc, tích cực ủng hộ cách mạng giải phóng miền Nam”.

Nội dung được phản ánh trong các văn kiện trên, từ mục đích, yêu cầu, nội dung,
phương pháp đến tổ chức lãnh đạo TĐYN là nhất quán, mang tính kế thừa, phát triển.
Chủ trương của Đảng xuất phát từ đặc điểm, tình hình, từ yêu cầu, nhiệm vụ trong từng
giai đoạn cụ thể.
2.2.2. Một số phong trào thi đua tiêu biểu
2.2.2.1. Phong trào “Học tập Duyên Hải, thi đua với Duyên Hải” trong cơng
nghiệp.
Đầu năm 1961, Thành ủy Hải Phịng chủ trương phải tạo ra và dấy lên cho bằng
được khí thế của PTTĐ XHCN. Hưởng ứng Cuộc vận động thi đua hợp lý hóa sản
xuất, cải tiến kỹ thuật, Nhà máy cơ khí Dun Hải có sáng kiến phát động cơng nhân
mở “Hội thao diễn kỹ thuật mùa Xuân” nhằm phát huy tinh thần làm chủ, chủ động
sáng tạo trong lao động, rút ngắn các công đoạn thao tác, hợp lý hóa sản xuất, tăng
năng suất và chất lượng sản phẩm. Từ một tập thể sản xuất với 28 công nhân ở ngày
đầu thành lập (5/10/1955), đến năm 1960 phát triển lên 450 công nhân, qua các đợt
thao diễn kỹ thuật, công nhân và cán bộ nhà máy đã đạt nhiều kết quả toàn diện.
Tuy diễn ra trong thời gian ngắn, nhưng phong trào Duyên Hải phát triển mạnh
mẽ và đạt được thành tựu to lớn, phản ánh tinh thần lao động, sức sáng tạo cũng như
khả năng tiếp thu những thành tựu khoa học, kỹ thuật tiên tiến của công nhân. Phong
trào làm chuyển biến mạnh mẽ tư tưởng công nhân, cho họ nhận rõ khả năng sẵn có và
tiềm tàng của con người cũng như máy móc; động viên, cổ vũ đội ngũ công nhân lao
động, cống hiến cho quê hương, đất nước. Sức lan tỏa mạnh mẽ của “Sóng Duyên
Hải” đã góp phần thúc đẩy tinh thần thi đua trong hầu khắp các nhà máy, xí nghiệp mở
ra một giai đoạn mới, một khí thế trong TĐYN.
2.2.2.2. Phong trào “Học tập, tiến kịp và vượt hợp tác xã Đại Phong” trong
nông nghiệp
Hưởng ứng cuộc vận động“Xây dựng hợp tác xã tốt” do Trung ương Đảng và
11


Chính phủ phát động vào cuối năm 1961, hầu hết các tỉnh, thành trên tồn miền Bắc

với hàng nghìn HTX đã tích cực tham gia. Các HTX Thái Bạ (Sơn Tây), n Trường
(Thanh Hóa), Thống Nhất (Hà Đơng), Đức Cảnh (Thái Bình), Tống Vân Trân (Hải
Phịng)…đã trở thành điển hình của cuộc vận động xây dựng HTX tốt ở các tỉnh miền
Bắc. Trong đó, HTX Đại Phong (xã Phong Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình) trở
thành ngọn cờ đầu trong phong trào xây dựng HTX tốt toàn miền Bắc những năm
1961-1965.
Để thực hiện các mục tiêu được xác định tại Đại hội xã viên 1960-1961, chi bộ
thôn Đại Phong đã phát động đợt thi đua 10 ngày lập thành tích biểu dương tinh thần tự
nguyện vào HTX và xây dựng HTX. Đợt vận động đã thu hút đông đảo nam, nữ thanh
niên trong và ngoài HTX tham gia. Sự phát triển và kết quả thu được từ Đợt vận động
này có ý nghĩa trong việc hỗ trợ cho sản xuất nơng nghiệp và sinh hoạt của gia đình xã
viên trong HTX.
Giữa tháng 2/1961, Ban Nông nghiệp Trung ương và Bộ Nơng nghiệp tổ chức
Hội nghị tồn miền Bắc tại HTX Đại Phong, với mục đích đánh giá kết quả phong trào
hợp tác hóa của HTX này và đưa PTTĐ lên thành cao trào. Cũng trong tháng 2 /1961,
Ban Nông nghiệp Trung ương và Bộ Nông nghiệp mở cuộc vận động“Học tập, tiến kịp
và vượt HTX Đại Phong” trong nông nghiệp miền Bắc. PTTĐ này hướng đến 5 mục
tiêu: cải tiến kỹ thuật và tăng năng suất; tăng vụ và vỡ hoang; phát triển nhiều ngành,
nhiều nghề; cải tiến công tác quản lý HTX; tăng cường cơng tác chính trị và tư tưởng
trong HTX. Phong trào đã thổi những luồng gió mới vào nơng thơn nước ta, động viên
đơng đảo nơng dân nâng cao nhiệt tình cách mạng, hăng hái thi đua cải tiến quản lý, cải
tiến kỹ thuật, đẩy mạnh sản xuất, củng cố và phát triển HTX. Từ đây, PTTĐ với Đại
Phong dần đi vào chiều sâu, gây tiếng vang lớn ở nơng thơn trên tồn miền Bắc.
Q trình hình thành và phát triển của HTX Đại Phong là thực tiễn sinh động về
phong trào hợp tác hóa nông nghiệp ở miền Bắc trong kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước. “Gió Đại Phong” là biểu tượng sáng ngời về chủ nghĩa anh hùng cách mạng trên
mặt trận lao động sản xuất nông nghiệp của tập thể nhân dân lao động miền Bắc, góp
phần khơi nguồn cảm hứng cho các PTTĐYN khác trong giai đoạn này. “Gió Đại
Phong” góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy hợp tác hóa trong nông nghiệp, tạo nên
diện mạo mới, bộ mặt mới cho nơng nghiệp, nơng thơn miền Bắc XHCN.

2.2.2.3. Phong trào “Tích cực thi dạy tốt, học tốt”,“Học tập và làm theo Bắc
Lý” trong giáo dục
Từ năm 1961, nhất là từ khi Hồ Chủ tịch đề ra mục tiêu “Hai tốt” và từ khi
Trường phổ thông cấp II Bắc Lý (nay là Trường trung học cơ sở Bắc Lý, huyện Lý
12


Nhân, tỉnh Hà Nam) được tuyên dương là lá cờ đầu của PTTĐ trong ngành giáo dục,
PTTĐ trong ngành giáo dục trở nên đặc biệt sơi nổi,.
Hịa trong khơng khí toàn miền Bắc đẩy mạnh PTTĐ xây dựng CNXH, với mục
đích nâng cao chất lượng giáo dục tồn diện, trường Bắc Lý nắm vững mục tiêu đào
tạo con người toàn diện, thực hiện phương châm kết hợp học tập với lao động sản xuất,
học đi đôi với hành, gắn nhà trường với xã hội, thực hiện khẩu hiệu: “Tất cả vì chủ
nghĩa xã hội, tất cả vì học sinh thân yêu”. Trường Bắc Lý đã giáo dục và định hướng
cho học sinh đi theo ba con đường: Một là, học tập tốt để vươn tới chiếm lĩnh đỉnh cao
của khoa học, xây dựng đất nước giàu mạnh. Hai là, sẵn sàng bảo vệ Tổ Quốc. Ba là,
học xong ở lại cùng bà con xây dựng quê hương giàu mạnh.
Với những kết quả đạt được qua PTTĐ “Dạy tốt, học tốt. Học tập Bắc Lý, tiến
kịp và vượt Bắc Lý”, ngành giáo dục miền Bắc khơng chỉ đảm bảo việc hồn thành
nhiệm vụ từng bước nâng cao trình độ dân trí, giáo dục đạo đức, lối sống, giác ngộ lý
tưởng cách mạng cho các tầng lớp nhân dân mà còn đào tạo được đội ngũ trí thức có
đức, có tài, góp phần cùng toàn dân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng CNXH ở
miền Bắc và cung cấp cho lực lượng vũ trang những chiến sĩ có trình độ.
2.2.2.4. Phong trào thi đua “Ba Nhất” trong quân đội
Sau ngày hòa bình lập lại, nhất là sau cuộc chỉnh huấn chính trị và Cuộc vận
động kiện toàn chi bộ vào mùa hè năm 1958, trong quân đội đã xuất hiện nhiều
PTTĐYN. PTTĐ “Ba nhất” (Nhất về huấn luyện quân sự, rèn luyện kỹ thuật; Nhất về
gương mẫu, kỷ luật; Nhất về lao động và sản xuất) xuất hiện đầu tiên ở Đại đội 2, Tiểu
đoàn 10, đoàn Vinh Quang (Sư đoàn 304), thuộc quân khu Hữu ngạn. Với quyết tâm
phấn đấu tiến lên thành một đơn vị huấn luyện đạt tiêu chuẩn tiên tiến, cán bộ và chiến

sĩ Đại đội 2 đã liên tục phấn đấu trong PTTĐ rèn luyện, cải tiến kỹ thuật, nhằm nâng
cao sức mạnh chiến đấu của đơn vị.
Từ điển hình Đại đội 2, tháng 8/1960, “Ba nhất” được Quân ủy Trung ương và
Bộ Quốc phòng phát động thành PTTĐ trong toàn lực lượng vũ trang nhân dân nhằm
phát huy cao độ tinh thần chiến đấu, tài năng sáng tạo của tất cả các chiến sĩ . “Ba
nhất” trở thành PTTĐ lớn có sức lan tỏa mạnh mẽ trong tồn qn và có ý nghĩa quan
trọng trong xây dựng quân đội ngày càng lớn mạnh.
Đi đôi với PTTĐ “Ba nhất” trong quân đội thường trực, “Ba nhất” trong dân
quân tự vệ, lực lượng hậu bị gắn bó với PTTĐ sản xuất kiến thiết XHCN đạt nhiều
thành tích tốt. Nhiều tổ, đội lao động XHCN cũng chính là những đơn vị dân quân tự
vệ tiên tiến. Nhiều xí nghiệp, cơng trường đã có những đơn vị dân qn tự vệ “Ba
nhất”. Trong phong trào đã xuất hiện những lá cờ đầu với thành tích xuất sắc về bảo vệ
13


trị an, sẵn sàng chiến đấu, về huấn luyện và về củng cố tổ chức, quản lý lực lượng.
Trên thực tế, PTTĐ “Ba nhất” trong lực lượng dân quân tự vệ là một phương thức tích
cực của quần chúng để thực hiện các cuộc vận động “ba xây ba chống” ở các xí nghiệp
và “cải tiến quản lý hợp tác xã” ở nông thôn…
PTTĐ “Ba nhất” là một sáng tạo lớn trong PTTĐ XHCN, một thắng lợi về công
tác tư tưởng của quân đội ta. PTTĐ “Ba nhất” ngày càng phát triển đã cổ vũ và tiếp sức
cho lực lượng dân quân tự vệ, làm tăng cường mối quan hệ giữa lực lượng thường trực
và hậu bị ngày càng trở nên khăng khít và cùng nhau tiến bộ. Có thể nhận rõ, PTTĐ
“Ba nhất” đã đưa quân đội ta tiến lên một bước dài trong cơng cuộc xây dựng chính
quy, hiện đại.
*
*

*


Giai đoạn 1961-1965, PTTĐYN thực sự đã phát triển lên một bước mới với
phạm vi rộng rãi, nội dung, hình thức phong phú, mật thiết gắn bó với q trình miền
Bắc thực hiện các nhiệm vụ chính trị. Từ sự phát triển ngày càng rầm rộ của PTTĐYN
đã xuất hiện nhiều điển hình, có sức lan tỏa lớn như “gió Đại Phong”, “sóng Duyên
Hải”, “trống Bắc Lý”, “cờ Ba nhất”… Thành tựu to lớn của PTTĐYN giai đoạn này là
tiền đề quan trọng để tiếp tục phát động thi đua sâu rộng và đạt hiệu quả to lớn hơn
nữa, nhằm chuẩn bị tiền lực về mọi mặt để quân và dân ta bước vào giai đoạn chống
chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc và chi viện sức người, sức của
to lớn cho quân và dân miền Nam tiến tới giành thắng lợi cuối cùng.
Bên cạnh những thành quả to lớn đạt được, PTTĐYN giai đoạn 1961-1965 cũng
bộc lộ những hạn chế nhất định: phong trào phát triển chưa đều, chưa rộng khắp, còn
mạng nặng tính hình thức, chưa chú ý đến chất lượng và hiệu quả thi đua; một số cấp
ủy địa phương, đơn vị chưa quan tâm đến công tác tổ chức, chỉ đạo phong trào, cá biệt
một số cấp ủy Đảng, cơ quan khốn trắng cho cơng đồn trong việc tổ chức, hướng dẫn
các phong trào thi đua; chưa phát hiện, bồi dưỡng, nhân rộng điển hình tiên tiến; cơng
tác giáo dục, động viên quần chúng, công tác tuyên truyền cổ vũ phong trào thi đua u
nước có lúc có nơi cịn thiếu sâu sắc, chưa được làm thường xuyên…Những hạn chế
này đã được nhận thức và khắc phục trong các PTTĐYN ở giai đoạn 1965-1975.

14


Chương 3
PHONG TRÀO THI ĐUA YÊU NƯỚC Ở MIỀN BẮC
TỪ NĂM 1965 ĐẾN NĂM 1975

3.1. Bối cảnh lịch sử mới và yêu cầu đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước
3.1.1. Bối cảnh lịch sử mới và nhiệm vụ của miền Bắc
Những thắng lợi to lớn trên chiến trường miền Nam từ cuối năm 1964, đầu năm
1965 đặt chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ đứng trước nguy cơ bị phá

sản. Mặc dù có nhiều ý kiến khác nhau trong việc lựa chọn phương án giải quyết, song
nhìn chung các nhân vật chủ chốt trong chính quyền Mỹ đều thống nhất quan điểm là
đưa lực lượng quân viễn chinh và quân đồng minh của Mỹ cùng vũ khí, phương tiện
chiến tranh vào trực tiếp tham chiến ở miền Nam, đồng thời sử dụng lực lượng không
quân và hải quân mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc nhằm phá hoại tiềm lực
kinh tế, quốc phòng và công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc, ngăn chặn nguồn viện
trợ quốc tế vào miền Bắc và sự chi viện từ miền Bắc cho miền Nam… qua đó uy hiếp
tinh thần, làm lung lay quyết tâm chống Mỹ, cứu nước của quân và dân ta.
Trước những thử thách mới của cách mạng hai miền, Bộ Chính trị, Ban Chấp
hành Trung ương Đảng ra Nghị quyết tháng 5/1969, Nghị quyết tháng 3/1970, Nghị
quyết tháng 6/1970, đặc biệt Hội nghị lần thứ 18 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(tháng 1/1970) xác định rõ tình hình và nhiệm vụ mới của toàn Đảng, toàn quân và
toàn dân ta trong giai đoạn mới.
Từ năm 1965-1975 là quá trình đan xen quân và dân miền Bắc vừa thực hiện
nhiệm vụ hai lần chống chiến tranh phá hoại, vừa khôi phục kinh tế, hàn gắn vết
thương chiến tranh. PTTĐYN đứng trước yêu cầu cần được đẩy mạnh với nội dung và
hình thức phù hợp nhằm giải quyết có hiệu quả nhất những nhiệm vụ chính trị mới của
cuộc kháng chiến chống Mỹ trên cả hai miền Nam-Bắc.
3.1.2. Chủ trương của Đảng, Nhà nước về đẩy mạnh phong trào thi đua yêu
nước
Chủ trương của Đảng, Nhà nước về đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước trong
những năm 1965-1975 được thể hiện tập trung trong nhiều văn kiện, tiểu biểu là: Chỉ
thị số 122-CT/TW ngày 7/4/1966 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa III) “Về việc
tăng cường lãnh đạo phong trào thi đua yêu nước trước tình hình và nhiệm vụ mới”;
Chỉ thị số 139-CT/TW ngày 7/1/1967 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa III) Về
15


đợt vận động quần chúng quyết tâm thực hiện kế hoạch nhà nước năm 1967; Chỉ thị số
153-CT/TW ngày 24/6/1967 của Ban Bí thư Trung ương Đảng Về vấn đề “báo công,

lập công” chống Mỹ, cứu nước; Nghị quyết số 175-NQ/TW ngày 1/3/1968 của Bộ
Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) Về việc động viên chính trị toàn
dân để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”; Ngày
3/1/1968, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi khẳng định quyết tâm của toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân ta là đánh thắng giặc Mỹ xâm lược; Chỉ thị số 170 ngày 10/5/1969
của Ban Bí thư “Về việc đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, tiến tới Đại hội Anh
hùng, chiến sĩ thi đua lần thứ V”…
Trải qua ba giai đoạn (1965-1968, 1969-1972, 1973-1975), chủ trương của Đảng
đối với PTTĐYN là mang tính nhất qn, có kế thừa, phát triển, phù hợp với nhiệm vụ
của cách mạng, tạo hướng đi đúng đắn để gây dựng, lan tỏa phong trào ra hầu khắp
miền Bắc. PTTĐYN đã tập trung giải quyết hai yêu cầu quan trọng, đó là thi đua vừa
xây dựng, vừa chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc, thi đua
chi viện cho tiền tuyến miền Nam. Miền Bắc đã dốc toàn bộ sức mạnh to lớn và tiềm
tàng của mình để miền Nam đánh Mỹ. Trong mn vàn khó khăn của q trình chuyển
từ thời bình sang thời chiến, từ đầu năm 1965 đến tháng 4/1975, TĐYN không chỉ là
nhiệm vụ thường xuyên mà trở thành nhu cầu, mỗi người dân miền Bắc xác định cần
không ngừng nâng cao ý thức, trách nhiệm cống hiến sức lực và trí tuệ cho cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước mau tới thắng lợi hoàn toàn.
3.2. Một số phong trào thi đua tiêu biểu
3.2.1. Phong trào “Ba sẵn sàng”
Tối ngày 9/8/1964, Ban chấp hành Thành đoàn Hà Nội phát động phong trào
thanh niên “Ba sẵn sàng” chống Mỹ, cứu nước trong tồn thành phố. Cùng với PTTĐ
sơi nổi trên các mặt sản xuất công, nông nghiệp, khắp nơi thanh niên tổ chức mít tinh,
kiến nghị, hạ quyết tâm thực hiện Ba sẵn sàng (Thanh niên sẵn sàng gia nhập quân đội,
tham gia thanh niên xung phong; Thanh niên sẵn sàng vượt mọi khó khăn, say mê sáng
tạo trong sản xuất và bảo vệ sản xuất; Thanh niên hăng say học tập, đi sâu nghiên cứu
khoa học kỹ thuật, phục vụ cho sản xuất và chiến đấu)
Từ một phong trào phát động trong thanh niên Hà Nội, Ba sẵn sàng nhanh
chóng lan rộng ra các tỉnh, thành phố, vùng Đơng Bắc Dun Hải, Tây Bắc, Việt Bắc,
Hải Phịng, Quảng Bình, Nghệ An và trở thành cao trào cách mạng của tuổi trẻ. Khắp

các tỉnh thành miền Bắc, “Tất cả cho tiền tuyến”, “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”… trở
thành khẩu hiệu hành động của thanh niên. “Ba sẵn sàng” có sức lay động, cuốn hút
đơng đảo đồn viên, thanh niên toàn miền Bắc quyết tâm đem sức mạnh và trí tuệ của
16


mình, góp phần quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất
đất nước.
“Ba sẵn sàng” thực sự là cuộc vận động cách mạng rộng lớn của thanh niên, là
chiến trường lập công của tuổi trẻ, là trường học bồi dưỡng một thế hệ thanh niên anh
hùng của dân tộc Việt Nam anh hùng. Phong trào đã kịp thời đáp ứng nguyện vọng sâu
xa của tuổi trẻ là cống hiến và đã trở thành tình cảm thiêng liêng, là nguồn động lực
thôi thúc thanh niên muốn được cống hiến nhiều nhất sức lực, trí tuệ của tuổi thanh
xuân cho sự nghiệp cách mạng, chống Mỹ, cứu nước, bảo vệ miền Bắc, giải phóng
miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
3.2.2. Phong trào “Ba đảm đang”
Từ sự phát triển sôi nổi của phong trào phụ nữ ở huyện Đan Phượng, Hà Đông
(nay là Hà Nội), ngày 22/03/1965, Ban thường trực Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ
Việt Nam ra Chỉ thị số 03-CT/TW Về mở rộng cuộc vận động phong trào “Ba đảm
nhiệm”. Được sự quan tâm của Đảng, ngay từ lúc khởi đầu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
sửa tên Ba đảm nhiệm mà Hội Liên hiệp phụ nữ dự kiến thành Ba đảm đang.
“Ba đảm đang” (Đảm đang sản xuất, công tác thay thế cho nam giới đi chiến
đấu; Đảm đang gia đình, khuyến khích chồng con an tâm chiến đấu; Đảm đang chiến
đấu và phục vụ chiến đấu) thực sự trở thành trở thành phong trào cách mạng của quảng
đại quần chúng phụ nữ, góp phần phục vụ đắc lực cho nhiệm vụ trung tâm của toàn
Đảng, toàn dân ta là vừa sản xuất, vừa chiến đấu. “Ba đảm đang” trở thành phong trào
cách mạng sâu rộng, đi đến mọi nhà, thu hút mọi tầng lớp phụ nữ khắp thành thị và
nông thôn, ở bất kỳ ngành, nghề nào, ở bất kỳ lứa tuổi nào đều nhiệt liệt hưởng ứng.
*
*


*

Giai đoạn 1965-1975, Đảng chủ trương tiếp tục đẩy mạnh sự phát triển của các
PTTĐYN để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cuộc kháng chiến. Chính vì vậy,
PTTĐYN giai đoạn này có những bước phát triển mới, tuy nhiên so với giai đoạn trước
PTTĐYN mang một diện mạo mới cả về mục đích, nội dung, phương pháp. Nếu như
giai đoạn 1961-1965, PTTĐYN phát triển mạnh trên phương diện ngành, lĩnh vực với
nhiều tấm gương điển hình tiêu biểu thì giai đoạn này PTTĐYN theo giới phát triển
rầm rộ và ghi nhiều dấu ấn với những thành tích vượt bậc.
Tuy cịn một số hạn chế nhất định, song thực tiễn PTTĐYN ở miền Bắc trong
những năm 1965-1975 khẳng định tính đúng đắn trong q trình lãnh đạo, chỉ đạo của
Đảng, Nhà nước và các đồn thể chính trị-xã hội trước yêu cầu đẩy mạnh cuộc kháng
17


chiến chống Mỹ, cứu nước.

18


Chương 4
NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM

4.1. Nhận xét
4.1.1. Đặc điểm
4.1.1.1. Thi đua yêu nước là những cuộc vận động chính trị sâu rộng,

ngày càng phát triển theo hướng thi đua tập thể, thu hút sự tham gia của đông
đảo quần chúng nhân dân, trong đó nịng cốt là các đồn thể quần chúng dưới

sự lãnh đạo của Đảng
Từ năm 1961-1975, trong điều kiện những thử thách mang tính sống cịn của
dân tộc, Đảng, Nhà nước và các cấp lãnh đạo bộ, ban, ngành, đoàn thể, địa phương đã
nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của vấn đề huy động sức dân, tạo niềm tin cho
mọi tầng lớp nhân dân về khả năng tham gia xây dựng đời sống mới từ đó chủ động, tự
nguyện tham gia và tạo nên một một phong trào quần chúng rộng rãi trong toàn xã hội.
TĐYN trở thành cuộc vận động chính trị sâu rộng, lôi cuốn sự tham gia của đông đảo
các tầng lớp nhân dân, các thành phần xã hội.
4.1.1.2. Thi đua yêu nước diễn ra trên phạm vi rộng với nhiều nội dung và hình
thức phong phú nhưng tập trung giải quyết hai nhiệm vụ là sản xuất - xây dựng CNXH
và chiến đấu bảo vệ miền Bắc, chi viện miền Nam
Từ năm 1961-1975, quán triệt chủ trương của Đảng, quá trình tổ chức thi đua
vừa xuất phát từ đặc điểm tình hình, nhiệm vụ chính trị của địa phương, ngành, giới
vừa hướng đến giải quyết nhiệm vụ chính trị của cách mạng miền Bắc và cách mạng cả
nước. Sự phong phú trong nội dung, sự đa dạng trong hình thức của các PTTĐ đến từ
từng địa phương, ngành, giới góp phần tạo nên bức tranh sinh động, đa diện, đa sắc
màu của PTTĐYN. Mặc dù trên phạm vi từng địa phương, ngành, giới khác nhau các
PTTĐYN có tiêu chí, nội dung và khẩu hiệu hành động khác nhau, được bổ sung, điều
chỉnh để có thể đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong từng giai đoạn lịch sử, nhưng tất cả
đều hướng đến việc kết hợp chặt chẽ và giải quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ: sản
xuất-xây dựng CNXH và chiến đấu bảo vệ miền Bắc, chi viện miền Nam.
4.1.1.3. Phong trào thi đua yêu nước về cơ bản mang tính kế thừa và phát triển,
xuất hiện nhiều điển hình tiên tiến có sức lan tỏa sâu rộng, là cơ sở làm dấy lên những
cao trào thi đua với hiệu quả ngày càng cao

19


Từ 1961-1975, tính kế thừa, đan xen và phát triển trong PTTĐ giữa các giai
đoạn được phản ánh rõ trong nội dung và hình thức thi đua. Sự phát triển của các

PTTĐYN ở giai đoạn sau là dựa trên cơ sở sự nghiêm túc đánh giá, rút kinh nghiệm
những thành tựu và hạn chế của giai đoạn trước. Sự thay đổi trong hình thức và nội
dung thi đua chỉ là để đảm bảo sự phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh, nhiệm vụ chính trị
của từng giai đoạn cách mạng cũng như đặc điểm tình hình của địa phương, đơn vị.

Thi đua nối tiếp thi đua, phong trào nối tiếp phong trào, nhiều cá nhân, nhiều tập
thể điển hình xuất hiện. Sức lan tỏa TĐYN không chỉ xuất phát từ cơng tác tun
truyền cổ động, mà cịn xuất phát từ sự phát hiện, nêu gương, tôn vinh cá nhân và
tập thể tiêu biểu, điển hình tiên tiến mang sức mạnh lơi cuốn mọi người sẵn sàng
chiến đấu, hy sinh vì sự nghiệp đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
4.1.2. Ý nghĩa
4.1.2.1. Phong trào thi đua yêu nước ở miền Bắc trong kháng chiến chống
Mỹ những năm 1961-1975 là minh chứng thuyết phục cho tính ưu việt của chế độ
xã hội chủ nghĩa
Chủ thể của các PTTĐYN đó là những người dân trưởng thành trong chế độ
xã hội mới, dưới mái trường XHCN, được giác ngộ chính trị, có trình độ văn hóa,
có phẩm chất đạo đức và sức khỏe tốt. Khát khao cống hiến xuất phát từ tình cảm
và niềm tin mà họ dành cho chế độ xã hội mới. Tính chất ưu việt của chế độ xã hội
mới đã trở thành cơ sở cho việc khơi dậy và phát huy cao nhất sức mạnh vật chất,
tinh thần hợp nên nguồn năng lực nội sinh to lớn đáp ứng mọi yêu cầu của sự
nghiệp cách mạng.
4.1.2.2. Phong trào thi đua yêu nước ở miền Bắc những năm 1961-1975 đã
khơi dậy và phát huy năng lực sáng tạo vô tận của những người lao động
Các PTTĐYN ở miền Bắc trong những năm 1961-1965 đã khơi dậy, phát
huy tối đa sức sáng tạo, tinh thần xung phong, ý chí vượt khó của mỗi người, tạo ra
nguồn xung lực và sức mạnh to lớn để họ có thể “biến khơng thành có, biến khó
thành dễ, biến thiếu thành đủ, biến cũ thành mới”. Yêu nước và khát khao cống
hiến mang lại cho người lao động năng lực sáng tạo vơ tận có khả năng phá bỏ mọi
trở lực, rào cản để hướng đến những mục đích cao đẹp.
4.1.2.3. Phong trào thi đua yêu nước ở miền Bắc những năm 1961-1975 là

trường học cách mạng, góp phần rèn luyện và xây dựng con người mới XHCN
20


Sự gắn kết giữa thi đua với tinh thần yêu nước, truyền thống dân tộc tạo cơ
sở cho việc nuôi dưỡng những giá trị đạo đức truyền thống, cũng đồng thời giáo
dục cho người lao động những phẩm chất, giá trị đạo đức của người cách mạng,
chủ thể của xã hội mới - những con người mới XHCN. Thi đua là cải tạo con
người, qua thi đua mỗi người được “phát triển tài năng, sáng kiến của mình, học
hỏi điều hay lẫn nhau, giúp nhau sữa chữa khuyết điểm để cùng nhau tiến bộ”.
Khơng chỉ mang lại lợi ích cho tập thể, cho quốc gia dân tộc, TĐYN còn mang lại
lợi ích thiết thực cho người tham gia phong trào, giúp mỗi cá nhân khơng ngừng
phát triển và hồn thiện về mọi mặt.
4.2. Một số kinh nghiệm
4.2.1. Tăng cường và thống nhất sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát
huy vai trị của Nhà nước và các đồn thể chính trị-xã hội trong việc phát động
và tổ chức thi đua yêu nước hiệu quả, thiết thực.
4.2.2. Tăng cường công tác chính trị, tư tưởng, động viên khí thế thi đua,
đặc biệt chú trọng việc khơi dậy tinh thần yêu nước, lịng tự hào, tự tơn dân tộc,
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong thi đua yêu nước.
4.2.3. Căn cứ vào mục tiêu và nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn
cách mạng để xác định mục đích, nội dung, hình thức thi đua thích hợp.
4.2.4. Lắng nghe nguyện vọng của nhân dân, phát huy tính chủ động,
sáng tạo của cá nhân và tiến hành thi đua thường xuyên, liên tục trên cơ sở lấy
lòng yêu nước làm gốc, xem công việc hàng ngày là nền tảng của thi đua.
4.2.5. Coi trọng công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết, rút kinh
nghiệm, phổ biến sáng kiến, kịp thời biểu dương, khen thưởng, nhân rộng
những điển hình tiên tiến sau mỗi đợt thi đua.
*
*


*

Có thể khẳng định rằng, PTTĐYN ở miền Bắc trong những năm 1961-1975
mang bản chất của thi đua XHCN. Sự ra đời và phát triển của nó phản ánh rõ tính
kế thừa và phát triển những thành quả quan trọng của các PTTĐYN thời kỳ kháng
chiến - kiến quốc, trong một điều kiện lịch sử mới. Bởi lẽ đó, PTTĐYN giai đoạn
này vừa mang những đặc điểm và ý nghĩa chung nhất của thi đua XHCN, song
cũng đồng thời mang những đặc điểm, ý nghĩa rất riêng.
21


Trên thực tế, việc phát động và tổ chức các PTTĐYN ở miền Bắc trong
những năm 1961-1975 là một quá trình liên tục, bao gồm nhiều khâu. Thành tựu và
hạn chế là đan xen, kinh nghiệm được rút ra nằm trong sự ràng buộc, rất khó có thể
phân định rạch ròi để gọi tên. Ở chương này, nghiên cứu sinh k hái quát một số đặc
điểm, ý nghĩa cơ bản, đặc biệt là đúc rút một số kinh nghiệm có ý nghĩa đối với quá
trình phát động và tổ chức TĐYN trong giai đoạn hiện nay.
Nhận thức rõ, tổng kết, vận dụng kinh nghiệm từ quá trình tổ chức PTTĐYN ở
miền Bắc những năm 1961-1975 là việc làm có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
Tuy nhiên, nghiên cứu sinh cũng đồng thời nhận thức rằng qúa trình vận dụng các kinh
nghiệm phải thực sự được tiến hành nghiêm túc và hết sức linh hoạt. Theo quan điểm
của nghiên cứu sinh, con người luôn là gốc rễ của mọi vấn đề, nên kinh nghiệm cũng
sẽ trở nên vô nghĩa nếu nó khơng được con người nhận thức và vận dụng bằng tư duy
sáng tạo trên cơ sở thái độ tơn trọng q khứ. Vì thế, trong tất cả các kinh nghiệm được
rút ra, tác giả đặc biệt đánh giá cao tầm quan trọng của vấn đề xây dựng, bồi dưỡng cán
bộ làm công tác thi đua khen thưởng, đặc biệt là vấn đề bồi dưỡng sức dân.
Kế thừa và vận dụng kinh nghiệm này trong thực tiễn phát động và tổ chức các
PTTĐYN hiện nay nên chăng cần nhận thức đầy đủ và quán triệt một số vấn đề mang
tính nguyên tắc sau:

- Khen thưởng phải được tiến hành trên cơ sở làm tốt công tác kiểm tra, đánh
giá. Việc bình bầu danh hiệu thi đua phải được thực hiện nghiêm túc ngay từ cơ sở, đặc
biệt phải đảm công khai, minh bạch, chặt chẽ, tuyệt đối tránh tình trạng nể nang hay
cào bằng, làm qua loa, chiếu lệ dẫn đến khen thưởng tràn lan làm làm triệt tiêu động
lực của thi đua.
- Chú trọng việc củng cố, kiện toàn bộ máy và đội ngũ cán bộ làm công tác thi
đua, khen thưởng; thường xuyên bồi dưỡng nâng cao trình độ chun mơn nghiệp
vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng, nhất là đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý.
- Coi trọng công tác tuyên truyền, giáo dục với nhiều nội dung và hình thức
phong phú, đa dạng, thiết thực. Gắn chặt việc tuyên truyền với nêu gương, giao lưu,
trao đổi, học tập, nhân điển hình tiên tiến các tập thể, cá nhân trong các lĩnh vực của
đời sống xã hội nhằm tạo sức lan tỏa rộng rãi, cộng đồng thừa nhận để họ được tiếp sức
mạnh tinh thần mà tiếp tục hăng hái thi đua đồng thời không tự kiêu, tự mãn, khơng
dừng lại ở những thành tích đạt được mà tiếp tục duy trì thành tích cũ và phấn đấu đạt
được những thành tích cao hơn.

22


KẾT LUẬN
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, miền Bắc là hậu phương, có vị trí,
vai trị quyết định đối với quá trình xây dựng và phát triển của sự nghiệp cách mạng cả
nước. Khi miền Bắc bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, đặc biệt là từ khi
Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Nghị quyết về “Về việc đẩy mạnh phong trào thi đua
yêu nước đảm bảo hoàn thành toàn diện và vượt mức kế hoạch Nhà nước năm 1961 và
kế hoạch 5 năm lần thứ nhất” (26/1/1961), công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục, tổ
chức các PTTĐYN trở thành nhiệm vụ quan trọng, được đặc biệt đề cao. Với lực lượng
nòng cốt là các đồn thể quần chúng: cơng đồn, đồn thanh niên, hội phụ nữ… TĐYN
thực sự đã trở thành cuộc vận động chính trị sâu rộng, lơi cuốn đơng đảo mọi tầng lớp,

mọi thành phần kinh tế trong xã hội tham gia.
Trên tinh thần “người người thi đua, nhà nhà thi đua, ngành ngành thi đua”,
TĐYN khơng cịn là việc riêng của cá nhân, đơn vị hay địa phương mà mang sức mạnh
lan tỏa rộng rãi trong toàn xã hội. Sự phong phú trong nội dung, sự đa dạng trong

hình thức của các PTTĐ đến từ từng ngành, từng giới, từng lĩnh vực đã góp phần
tạo nên bức tranh sinh động, đa diện, đa sắc màu của PTTĐYN. Cuộc vận động
chính trị sâu rộng đó cho thấy chủ nghĩa anh hùng cách mạng không chỉ nảy sinh
trên mâm pháo, dưới chiến hào ngồi tiền tuyến mà nó cịn nở rộ ngay trong xưởng
máy, trường học, và trên đồng ruộng. Mỗi người dân miền Bắc dù là trên trận tuyến
đối mặt trực tiếp với kẻ thù, hay ở hậu phương sản xuất, công tác, học tập cũng đều
chung một nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước. Có lập nên những thành tích, những chiến
cơng rực lửa anh hùng hay khơng, điều quyết định không phải ở hậu phương hay ở
tiền tuyến mà là ở chí khí chiến đấu và lịng trung thành vô hạn đối với Đảng, đối với
nhân dân. PTTĐYN thực sự trở thành động lực khơi dậy và phát huy khả năng sáng
tạo vô tận của con người. Qua TĐYN có thể nhận rõ mỗi người dân miền Bắc đến từ
các tầng lớp, giai cấp, ngành nghề khác nhau đều thấu hiểu “nước mất, nhà tan”, họ
thấm nhuần chân lý “Khơng có gì q hơn độc lập, tự do” nên sẵn sàng đoàn kết
cùng nhau bằng một chất kết dính thật sự chặt chẽ đó là PTTĐYN.
Sự phát triển mạnh mẽ, rộng khắp của các PTTĐYN ở miền Bắc trong kháng
chiến chống Mỹ những năm 1961-1975 với thành tựu là những giá trị vật chất và
phi vật chất hết sức to lớn, đi vào lịch sử dân tộc như những trang hào hùng đáng
nhớ trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, làm nên một thời đại anh hùng
23


của những cá nhân và tập thể anh hùng. Nó là minh chứng sinh động và thuyết
phục nhất cho sức mạnh của lòng yêu nước, khát khao độc lập tự do và cũng đồng
thời là minh chứng thuyết phục nhất cho tính chất ưu việt của chế độ XHCN
Thực tiễn phong phú của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cho thấy

tính đúng đắn trong tất cả hoạt động của Đảng, Nhà nước, các đồn thể chính trị-xã
hội. PTTĐYN ở miền Bắc đã phát huy cao độ truyền thống yêu nước, góp phần bồi
dưỡng và củng cố niềm tin mãnh liệt vào chiến thắng, tạo sự thống nhất về tư
tưởng và hành động; động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tích cực tham gia
lao động, sản xuất và chiến đấu, đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế
quốc Mỹ đối với miền Bắc; đồng thời chi viện sức người, sức của to lớn, liên tục,
toàn diện với nhịp độ ngày càng tăng, đáp ứng đòi hỏi của cách mạng miền Nam
cũng như làm nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng Lào và Campuchia. góp phần
cùng quân và dân miền Nam đánh bại các chiến lược chiến tranh xâm lược tiến tới
giải phóng hồn tồn miền Nam, thống nhất đất nước.
Hiện nay, sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đang đi vào
chiều sâu là một cuộc đấu tranh chống lại những gì đã cũ kỹ hư hỏng, để tạo ra
những cái mới mẻ tốt tươi, thực chất đó là một cuộc thi đua vĩ đại của dân tộc ta,
thi đua vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Để đạt
được thắng lợi đó, nhân dân ta phải có những cố gắng lớn trên mọi lĩnh vực hoạt
động, không ngừng vươn lên phát huy tinh thần sáng tạo, khai thác mọi tiềm năng,
vượt qua khó khăn, thử thách trên con đường phát triển. Trong công cuộc phấn đấu
gian khổ và vĩ đại này, bên cạnh thuận lợi là cơ bản, tình hình thế giới và khu vực
tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, tiềm ẩn nhiều nguy cơ, thách thức lớn. Tình
hình đó đặt ra những vấn đề mới phức tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Vì vậy, bên cạnh việc huy động các nguồn lực khác, nhân dân ta cần
tiếp tục phát huy tinh thần TĐYN. Việc tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục
nhằm nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là đội ngũ cán
bộ chủ chốt các cấp về vai trò, tác dụng của PTTĐYN là yêu cầu khách quan tiếp
tục đặt ra nhằm khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, khát
vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, PTTĐYN là chất kết dính hữu cơ tạo nên sự
đồn kết trong Đảng, đoàn kết toàn quân, xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn
24



dân tộc, đoàn kết quốc tế. PTTĐYN cũng đồng thời là một động lực tạo nên sức
mạnh tổng hợp của cả dân tộc trên hành trình tiến về phía trước trong lịch sử, hiện
tại và tương lai.
Kế thừa và phát huy những kinh nghiệm từ PTTĐYN trong những năm
1961-1975, những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản chỉ
đạo, hướng dẫn và tổ chức thực hiện TĐYN, như: Chỉ thị Số 39-CT/TW ngày
21/5/2004 của Bộ Chính trị khóa IX Về việc tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh PTYN,
phát hiện bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến khác; Chỉ thị số 34CT/TW ngày 7/4/2014 của Bộ Chính trị khóa XI về tiếp tục đổi mới công tác thi
đua, khen thưởng; Chỉ thị số 22-CT/TW ngày 23/01/2018 của Ban Bí thư về đẩy
mạnh PTTĐYN hướng tới kỷ niệm 70 năm Ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu
gọi thi đua ái quốc…Cụ thể hóa quan điểm của Đảng về TĐYN, Nhà nước ta đã
ban hành Luật Thi đua, khen thưởng năm 2003 và sửa đổi năm 2013. Nhờ đó, các
PTTĐYN được đổi mới cả về nội dung, hình thức tổ chức thực hiện theo hướng
thiết thực, hiệu quả. Những năm qua, đặc biệt từ năm 2010 đến nay, PTTĐYN đã
có bước phát triển và dần đi vào nề nếp. Các cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo chính
quyền các cấp đã quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức được nhiều PTTĐ thiết thực,
hiệu quả trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phịng…góp phần
vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế-xã hội đất nước.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII biểu thị sự thống nhất ý chí và quyết
tâm mạnh mẽ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong việc thực hiện bằng được
các mục tiêu phát triển tổng quát trong thời kỳ mới, trong đó đặc biệt nhấn mạnh
việc củng cố, tăng cường, niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ
XHCN, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý
chí và sức mạnh đại đồn kết tồn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại. Định
hướng thứ 4 trong 12 định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030 của
Đảng nhấn mạnh “xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận
lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát
vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”. Cơ hội mới, vận hội mới cùng
những thử thách sống còn đang đặt ra yêu cầu cần quán triệt tinh thần này vào quá

trình phát động và tổ chức các PTTĐYN.

25


×