Vai trò của hậu phương lớn miền Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1965-
1975)
MỞ ĐẦU
Trong chiến tranh, bên nào có sức mạnh áp đảo thì bên đó giành thắng lợi. Muốn
có sức mạnh thì ngoài yếu tố binh khí, kĩ thuật, tư tưởng, con người và một nhân tố có
vai trò hết sức quan trọng là hậu phương của. Sự chi viện của hậu phương cho tiền
tuyến là một yếu tố thường xuyên quyết định thắng lợi của cuộc chiến tranh, vì hậu
phương là nơi xây dựng và dự trữ tiềm lực của chiến tranh về cả mặt chính trị, kinh tế,
quân sự, văn hoá và khoa học kĩ thuật, là nơi chi viện nhân lực, vật lực, là chỗ dựa tinh
thần cho tiền tuyến. Muốn đánh thắng địch ở tiền tuyến thì phải có hậu phương vững
mạnh. Việc xây dựng hậu phương là một vấn đề có tính chất chiến lược và quyết định
sống còn đối với thắng lợi của toàn bộ cuộc chiến. Đó là qui luật của các loại chiến
tranh từ xưa đến nay.
Nắm vững qui luật đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tranh thủ mọi thời gian, điều
kiện vật chất để chuẩn bị hậu phương cho chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ tổ
quốc. Vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, vừa đánh giặc, vừa xây dựng chế độ mới, xây
dựng căn cứ địa hậu phương là một chủ trương chiến lược đúng đắn, sáng tạo của Đảng,
phản ánh một trong những đặc trưng của cách mạng Việt Nam. Việc xây dựng, củng cố
hậu phương trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ luôn luôn được Đảng
nhìn nhận một cách đúng đắn và đặt lên hàng đầu. Đảng đã xây dựng, củng cố hậu
phương trong mọi tình huống của cuộc chiến, làm cho hậu phương có sức sống và phát
triển trong hoàn cảnh gay go, khó khăn nhất, trong khi chính nó cũng phải trực tiếp
chiến đấu quyết liệt với kẻ thù.
Dân tộc ta thắng những kẻ thù mạnh hơn gấp nhiều lần bởi vì chúng ta có nhân
dân anh hùng, có sự lao động sáng tạo, tài năng và trí tuệ của Đảng, có hậu phương lớn
tập trung sức người, sức của, động viên tinh thần tuyến tuyến lớn đánh thắng kẻ thù. Do
vậy, việc nghiên cứu chủ trương xây dựng hậu phương của Đảng, để qua đó rút ra
những bài học kinh nghiệm, phục vụ cho công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước hiện
nay dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong bối cảnh quốc tế và trong nước có nhiều thuận lợi
cũng như khó khăn mới, sẽ góp phần đắc lực vào nhiệm vụ bảo vệ và xây dựng tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa
1
Vai trò của hậu phương lớn miền Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1965-
1975)
CHƯƠNG 1. LÍ LUẬN CHUNG VỀ HẬU PHƯƠNG
1.1 Khái niệm vê hậu phương
Hậu phương hiểu theo nghĩa nghĩa hẹp: “là nơi đối xứng với tiền tuyến, có sự phân
biệt rạch ròi bằng yếu tố không gian, là lãnh thổ ngoài vùng chiến sự, phía sau chiến
tuyến, có dân cư và tiềm lực mọi mặt, nhất là về nhân lực, vật lực. Là nơi xây dựng và
huy động sức người, sức của, đáp ứng nhu cầu của lực lượng vũ trang ngoài tiền tuyến”
Theo nghĩa rộng, đây là chỗ dựa để tiến hành chiến tranh, nơi cung cấp sức người,
sức của cho chiến tranh, không phân biệt rạch ròi với tuyền tuyến về mặt không gian.
1.2 Một số quan điểm về hậu phương
1.2.1 Nhận thức của các nhà triết học, của chủ nghĩa Mác – Lênin và Hồ Chí Minh
về vai trò của hậu phương với tiền tuyến.
Trong lịch sử quân sự, các nhà quân sự lỗi lạc và những người thầy vĩ đại của cách
mạng vô sản – Mác, Ăng ghen, Lê-nin đều nhấn mạnh đến vai trò của hậu phương vững
chắc, có tổ chức. Ăng ghen đã viết: “Toàn bộ việc tổ chức và phương thức chiến đấu
của quân đội và do đó thắng lợi, thất bại đều tỏ ra là phụ thuộc vào những điều kiện vật
chất, nghĩa là điều kiện kinh tế, vào chất liệu của con người và của vũ khí, nghĩa là vào
chất lượng và số lượng của cư dân và của cả kĩ thuật”
Còn Lê-nin thì cho rằng: “Trong chiến tranh, ai có nhiều lực lượng hậu bị hơn, ai
có nhiều nguồn lực, ai kiên trì đi sâu vào quần chúng nhân dân hơn, thì người đó thu
được thắng lợi”
Và: “ Muốn tiến hành chiến tranh một cách thực sự, phải có một hậu phương có tổ
chức vững chắc, một đội quân giỏi nhất, những người trung thành nhất với sự nghiệp
cách mạng cũng đều lập tức bị kẻ thù tiêu diệt, nếu họ không được vũ trang, tiếp tế
lương thực và huấn luyện đầy đủ”
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng cho rằng: “khi có chiến tranh, phải huy động và tổ
chức tất cả các lực lượng trong nước để chống giặc”
Ngoài ra, đề cập đến những yếu tố cụ thể quyết định sức mạnh của hậu phương,
Mác và Ăngghen, Lê-nin, đều đã đánh giá cao nhân tố chính trị-tinh thần, đồng thời
2
Vai trò của hậu phương lớn miền Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1965-
1975)
cũng nhấn mạnh đến yếu tố trang bị vũ khí. Xtalin khi bàn đến sự thử thách khắc nghiệt
của chiến tranh đã nói: “lịch sử chiến tranh dạy rằng, chỉ có những nước nào mạnh hơn
đối phương của mình về mặt phát triển và tổ chức kinh tế, về kinh nghiệm, tài nghệ và
tinh thần chiến đấu của quân đội, về tinh thần kiên cường và đoàn kết của nhân dân
trong suốt cả quá trình chiến tranh thì mới chịu đựng được sự thử thách đó”
Một tiêu chuẩn quan trọng nữa quyết định sự vững mạnh của hậu phương, đó là
yếu tố kinh tế. Theo đồng chí Lê Duẩn, “một hậu phương vững mạnh là một hậu
phương có tiềm lực kinh tế và quốc phòng hùng hậu, có nguồn dự trữ dồi dào để cung
cấp lương thực, súng đạn, sức người, sức của đầy đủ cho tiền tuyến”. Đồng chí Trường
Chinh cũng coi một trong những nhân tố thường xuyên của thắng lợi trong một cuộc
chiến tranh nhân dân ở thời đại của chúng ta là “hậu phương chiến tranh nhân dân được
củng cố, nguồn cung cấp nhân tài, vật lực cho chiến tranh dồi dào, chỗ dựa của các lực
lượng vũ trang vững mạnh”
Nhìn chung, vai trò của hậu phương đều được các nhà chiến lược, các nhà quân
sự đánh giá cao và yêu cầu những người lãnh đạo quốc gia, những người cầm quân phải
quan tâm thường xuyên trong thời chiến cũng như thời bình. Bởi lẽ, chiến tranh là sự
thử thách toàn diện đối với mỗi bên tham chiến, trong đó hết thảy lực lượng đều bị thử
thách, bị tiêu hao, nên đòi hỏi phải được bổ sung, phát triển, nhằm đè bẹp đối phương
để chiến thắng. Cơ sở vật chất của đất nước mạnh hay yếu, dồi dào hay thiếu thốn là
một điều kiện quan trọng, quyết định và có tác động rất lớn đến thắng hay bại của chiến
tranh. Tuy nhiên, sức mạnh của hậu phương không chỉ dựa trên những chỉ số kinh tế,
trên mức sống, trình độ hiểu biết khoa học kĩ thuật của con người, cũng như vũ khí và
trang bị kĩ thuật của quân đội, mà còn dựa trên nhiều yếu tố khác nhau nữa. Bởi vì, mặc
dù hậu phương có một vai trò quan trọng trong việc quyết định thắng lợi hay thất bại
của chiến tranh, song so sánh lực lượng hậu phương của hai bên, giải quyết vấn đề hậu
phương, xây dựng và phát huy sức mạnh của hậu phương như thế nào, lại không phải là
một vấn đề đơn thuần của số học. Hậu phương có thể chuyển hoá từ yếu sang mạnh,
hoặc ngược lại. Cách huy động lực lượng của hậu phương là một vấn đề quan trọng. Nó
phụ thuộc vào những yếu tố như: tính chất của chiến tranh, trình độ giác ngộ của con
người, năng lực xử lý các vấn đề liên quan đến chiến tranh Muốn để hậu phương động
viên được sức người, sức của cho kháng chiến, đồng thời là nguồn cổ vũ mạnh mẽ về
3
Vai trò của hậu phương lớn miền Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1965-
1975)
chính trị, tinh thần cho các lực lượng chiến đấu trên chiến trường, phải trải qua một quá
trình xây dựng, từng bước phát triển và củng cố hậu phương từ yếu thành mạnh. Trong
quá trình đó, hậu phương phải thường xuyên tái tạo ra tiềm lực mới cả về vật chất lẫn
tinh thần, để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cuộc kháng chiến.
1.2.2 Quan điểm của Đảng về hậu phương
Hậu phương của chiến tranh có những cấp độ và hình thức khác nhau. Có hậu
phương chiến lược, có hậu phương tại chỗ, có những căn cứ du kích, lại còn có khái
niệm hậu phương lòng dân. Dân bao bọc che trở, tạo điều kiện cho cách mạng xây dựng
căn cứ của mình. Nhưng xét trên phương diện tổng quát nhất, thì lực lượng cách mạng
muốn chiến thắng kẻ thù nhất định phải có hậu phương chiến lược, vì “không có một
đội quân nào trên thế giới không có hậu phương vững chắc lại có thể chiến thắng được”.
Điều đó đã trở thành qui luật.
Quan điểm trên của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò của hậu phương trong chiến
tranh đã khẳng định tầm quan trọng chiến lược của hậu phương. Thực tiễn đã chứng
minh điều đó một cách hùng hồn. Trong chiến tranh thế giới thứ hai, Hồng quân Liên
Xô chiến thắng Phát-xít Đức- Nhật trong một điều kiện vô cùng khó khăn vì họ có hậu
phương chiến lược bao gồm các nước cộng hoà trong Liên bang rộng lớn, được củng cố
và xây dựng để đủ sức đáp ứng mọi yêu cầu của chiến trường.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng
Cộng sản Việt Nam đã hết sức coi trọng việc xây dựng hậu phương, xem đó là nhân tố
hết sức quan trọng, quyết định thắng lợi của cách mạng.
Trong những ngày đầu vận động thành lập Đảng, Nguyễn Ái Quốc đã chú trọng xây
dựng cơ sở trong dân - xây dựng cơ sở cách mạng trong cộng đồng những người Việt
Nam ở Pháp, Thái Lan, đặc biệt là ở Trung Quốc. Những cơ sở bước đầu này thực sự là
hậu phương của cách mạng, là chỗ dựa, sức mạnh giúp Đảng vượt qua khủng bố của kẻ
thù, đứng vững, phát triển và hoàn thành xuất sắc sứ mạng lịch sử của mình.
Đầu năm 1941, khi về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh và Đảng
Cộng sản Việt Nam đã bắt tay xây dựng Cao Bằng thành căn cứ địa của cách mạng Việt
Nam. Người nói: “Căn cứ địa Cao Bằng sẽ mở ra triển vọng lớn cho cách mạng nước ta.
Cao Bằng có phong trào tốt từ trước, lại kề sát biên giới, lấy đó làm cơ sở liên lạc quốc
4
Vai trò của hậu phương lớn miền Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1965-
1975)
tế rất thuận lợi. Nhưng từ Cao Bằng còn phải phát triển về Thái Nguyên và thông xuống
nữa mới có thể tiếp xúc với toàn quốc được. Có nối được phong trào với Thái Nguyên,
với toàn quốc thì khi phát động đấu tranh vũ trang, lúc thuận lợi có thế tiến công, lúc
khó khăn có thể giữ”
Thực hiện theo tư tưởng đó của Hồ Chí Minh, căn cứ địa cách mạng được mở
rộng và phát triển thành khu giải phóng rộng lớn gồm 6 tỉnh thuộc Việt Bắc. Đây là nơi
Đảng và Quốc dân Đại hội quyết định những vấn đề chiến lược của cách mạng, mà
bước đi quan trọng, quyết định nhất là phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền
trong cả nước. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám một phần lớn là nhờ có căn cứ địa
vững chắc, bao gồm: căn cứ Việt Bắc, các căn cứ ở các khu, các tỉnh, các cơ sở ở các
địa phương trong toàn quốc.
Khi kháng chiến chống Pháp bùng nổ, Việt Bắc lại trở thành căn cứ địa. Ngoài ra,
ta còn có một hậu phương rộng lớn, bao gồm các khu du kích, các vùng tự do ở khu III,
khu IV, khu V, Nam Bộ tạo thành thế liên hoàn, vừa bao vây kẻ thù, vừa cung cấp sức
người, sức của cho tuyền tuyến, động viên ý chí niềm tin cho những người lính trên
chiến trường.
Trong kháng chiến chống Mỹ, chúng ta đã có thể kế thừa những kinh nghiệm xây
dựng hậu phương trong Cách mạng Tháng Tám và kháng chiến chống Pháp. Hơn bao
giờ hết, trong cuộc kháng chiến lần này, Đảng đã đặc biệt chú ý đến vai trò quan trọng
của hậu phương, bởi vì với một cuộc chiến không cân sức, phải đối đầu với một kẻ thù
nguy hiểm, có tiềm lực kinh tế, quân sự, quốc phòng mạnh hơn ta gấp nhiều lần, thì việc
tổ chức, huy động sức mạnh của toàn dân tộc và “phải có một hậu phương vững chắc”
như Lênin đã từng nói, là hoàn toàn cần thiết. Hậu phương đó là miền Bắc xã hội chủ
nghĩa. Tuy nhiên, xây dựng hậu phương trong kháng chiến chống Mỹ có sự phát triển
về chất so với xây dựng hậu phương trong kháng chiến chống Pháp. Bởi vì, lúc đó
chúng ta đã có một nửa nước hoà bình đi lên chủ nghĩa ã hội, có khả năng dốc toàn bộ
sức mạnh của mình cho chiến tranh. Đồng thời, ta cũng có hậu phương tại chỗ ở miền
Nam là những căn cứ du kích hoặc vùng tự do trong kháng chiến chống Pháp. Hơn nữa,
bên cạnh ta lại có các nước xã hội chủ nghĩa anh em và lực lượng hoà bình tiến bộ trên
thế giới ủng hộ, chia sẻ.
5
Vai trò của hậu phương lớn miền Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1965-
1975)
Tuân thủ những quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về tầm quan trọng của hậu
phương trong chiến tranh cách mạng, vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt
Nam, kế thừa và phát huy kinh nghiệm xây dựng hậu phương trong kháng chiến chống
Pháp, Đảng đã tập trung xây dựng miền Bắc thành hậu phương lớn cho tuyền tuyến lớn
miền Nam, “Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc tức là xây dựng cuộc
sống mới, tự do, hạnh phúc cho nhân dân miền Bắc, đồng thời là củng cố miền Bắc
thành cơ sở vững chắc về mọi mặt cho việc hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân trong cả nước, thực hiện thống nhất nước nhà”
Những tư tưởng của Hồ Chí Minh và Đảng ta về xây dựng hậu phương đã thực sự
có ý nghĩa trong quá trình xây dựng miền Bắc theo hướng xây dựng hậu phương chiến
lược trong cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam. Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc cũng chính là xây dựng hậu phương cho chiến tranh giải phóng. Mọi hoạt động của
miền Bắc cũng chính là hoạt động của hậu phương cho tuyền tuyến lớn đánh Mỹ. Thắng
lợi của chúng ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cũng nhờ một phần lớn vào sự nhận
thức đúng đắn của Đảng về vấn đề hậu phương và xây dựng hậu phương miền Bắc.
1.3 Vai trò của hậu phương
Hậu phương là một trong những điều kiện cơ bản quyết định thắng bại, được thua
của hai bên tham chiến. Chiến tranh phải dựa vào hậu phương hùng mạnh. Quân đội
nào tách khỏi hậu phương thì không thể giành thắng lợi trong chiến tranh, không thể tồn
tại được.
Hậu phương bổ sung và phát triển lực chiến đấu và đảm nhiệm nhiệm vụ xây dựng
các mặt kinh tế, chính trị, quân sự văn hóa-xã hội vững mạnh và phát triển. Đảm bảo chi
viện kịp nhanh chóng kịp thời cho tiền tuyến.
Hậu phương và tiền tuyến có mối quan hệ vô cùng mật thiết. Hậu phương mạnh thì
tiền tuyến mạnh. Tiền tuyến đánh thắng sẽ bảo vệ được hậu phương, động viên và tạo
điều kiện thuận lợi để hậu phương cũng cố và xây dựng. Ngược lại, việc xây dựng hậu
phương vững mạnh có tác dụng quyết định đến thắng lợi ở tiền tuyến.
6
Vai trò của hậu phương lớn miền Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1965-
1975)
CHƯƠNG 2.VAI TRÒ CỦA HẬU PHƯƠNG LỚN MIỀN BẮC TRONG
KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC (1965-1975)
2.1 Cuộc đụng đầu lịch sử tất yếu khách quan của Việt Nam và Mỹ
Ngày 7-7-1954, trước khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết 13 ngày, Mỹ đưa Ngô
Đình Diệm (dược Mỹ nuôi dưỡng từ lâu) về miền Nam Việt Nam làm Thủ tướng bù
nhìn, thay cho Bửu Lộc (tay sai của Pháp). Tháng 9-1954, Mỹ quyết định viện trợ trực
tiếp cho Ngô Đình Diệm, sau đó tháng 11-1954, Mỹ cử tướng Côlin sang làm đại sứ ở
Sài Gòn và lập ra kế hoạch sáu điểm, nhằm nhanh chóng xâm lược miền Nam Việt
Nam. Nội dung của bản kế hoạch này:
- Hất cẳng Pháp và các lực lượng thân Pháp để độc chiếm miền Nam Việt Nam.
- Tiêu diệt lực lượng cách mạng, phá hoại Hiệp định Giơnevơ, chia cắt Việt Nam.
- Giúp Diệm xây dựng chính quyền hợp pháp, hợp hiến đứng được trên thế ba
chân chính trị, kinh tế, quân sự.
- Giúp Diệm xây dựng quân đội quốc gia gồm cả về trang bị và huấn luyện.
- Thực hiện nhiều cải cách kinh tế, nhằm biến miền Nam Việt Nam thành thị
trường tiêu thụ hàng hóa của Mỹ.
- Dành ưu tiên cho hàng hóa về vốn đầu tư của Mỹ vào phát triển kinh tế miền
Nam.
Thông qua chính quyền và quân đội tay sai, Mỹ thực hiện mưu đồ biến miền Nam
Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự vững chắc, làm bàn đạp tiến công
xâm lược miền Bắc, ngăn chặn làn song cách mạng giải phóng dân tộc và chủ nghĩa xã
hội ở khu vự Đông Nam Á.
Về phía Diệm, sau khi lên nắm chính quyền đã tập hợp tay chân dựng lên một
chính quyền độc tài, gia đình trị thân đế quốc Mỹ, đối lập với nhân dân, chống lại cách
mạng.
Giữa năm 1954, Diệm lập ra “Đảng Cần lao nhân vị” do em trai là Ngô Đình Nhu
đứng đầu. Cuối năm 1954, chúng tổ chức “Phong trào cách mạng quốc gia” do Trần
7
Vai trò của hậu phương lớn miền Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1965-
1975)
Chánh Thành đứng đầu với chương trình hành động là “đã thực” (gạt hết quân Pháp để
Mỹ độc quyền chiếm miền Nam Việt Nam); “bài phong” (phế truất Bảo Đại để Diệm
lên làm Tổng Thống); “chống cộng” (chống các lực lượng cách mạng và chống lại nhân
dân miền Nam).
Ngày 4-3-1956, Diệm tổ chức bầu “Quốc hội” riêng, ngày 26-10-1956 cho công tố
“Hiến pháp Việt Nam cộng hòa”, nhằm thâu tóm mọi quyền lực ở miền Nam Việt Nam.
Về quân sự, tháng 6-1956, dưới sự viện trợ và chỉ đạo của Mỹ, chính quyền Diệm
xây dựng được 10 sư đoàn bộ binh, 17 tiểu đoàn pháo binh, 5 tiểu đoàn xe tăng và xe
thiết giáp, 54.000 quân địa phương. Số cố vấn Mỹ từ 35 người (1950), tăng lên 699
người (1956) và có mặt chỉ đạo cho quân ngụy tới cấp sư đoàn. Đồng thời, viện trợ xây
dựng cho quân ngụy hệ thống sân bay, quân cảng, đường giao thông chiến lược, nhằm
thực hiện mưu đồ của Mỹ.
Về kinh tế, Mỹ không ngừng tăng viện trợ cho Ngô Đình Diệm, từ năm 1955 đến
năm 1957, Mỹ viện trợ cho Diệm 1,1 tỷ đôla (trong đó gần 60% dùng vào mục đích
quân sự). Tháng 1-1955, Diệm tuyên bố chương trình “Cải cách điền địa”, thực chất là
chúng tước lại ruộng đất mà cách mạng đã chia cho nông dan thời kháng chiến chống
Pháp, khôi phục và củng cố lại giai cấp địa chủ phong kiến.
Sau khi thiết lập được quyền kiểm soát ở miền Nam, năm 1955, dưới sự chỉ đạo của
Mỹ, tập đoàn Ngô Đình Diệm mở chiến dịch “tố cộng”, “diệt cộng” trên toàn miền
Nam. Chúng tổ chức hàng loạt cuộc vây bắt tàn sát, những người kháng chiến cũ, những
người đấu tranh đòi hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Với phương châm
“tiêu diệt cộng sản không thương tiếc”, “thà giết nhầm còn hơn bỏ sót”, Mỹ-Diệm dùng
những hình thức giết người man rợ thời trung cổ như thiêu cháy hoặc thiêu sống, trả trôi
sông, mổ bụng moi gan, những người cộng sản và những người yêu nước, hòng làm
nhụt ý chí đấu tranh của nhân dân ta ở miền Nam. Tiêu biểu là vụ thảm sát đẫm máu ở
chợ Được (Quảng Nam) ngày 4-9-1954, làm chết 39 người và 37 người bị thương, vụ
trả thù những người kháng chiến cũ ở đập nước xã Vĩnh Trinh (huyện Duy Xuyên,
Quảng Nam) ngày 21-1-1955, chúng dìn chết 42 người ở Hướng Điền (Quảng Trị). Ở
Đại Lộc (Quảng Nam), chúng tra tấn, giết chết 500 đồng bào ta.
8
Vai trò của hậu phương lớn miền Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1965-
1975)
Chỉ trong bốn năm (1955-1958) có tới 9/10 cán bộ, đảng viên miền Nam bị tổn
thất. Riêng ở Nam Bộ, chỉ còn khoảng 5000/60.000 đảng viên còn ở trước đó. Ở đồng
bằng liên khu V, có khoảng 40% tỉnh ủy viên, 60% huyện ủy viên và 70% chi ủy viên bị
địch bắt và giết hại, 12 huyện không còn cơ sở Đảng. Ở Quảng Trị còn 176/8.400 đảng
viên.
Những hành động tội ác của Mỹ-Diệm, làm cho nhân dân ta ở miền Nam không
cam chịu được, nhất tề đứng dậy đấu tranh.
Tình hình quốc tế trong nước cũng có nhiều thay đổi có lợi cho ta. Hệ thống xã hội
chủ nghĩa tiếp tục lớn mạnh cả về kinh tế, quân sự khoa học – kỹ thuật, nhất là Liên Xô;
Các lực lượng cách mạng trên thế giới ở thế tiến công vào chủ nghĩa đế quốc. Cách
mạng trong nước đã có sự trưởng thành vượt bậc so với thời kỳ cách mạng tháng Tám
năm 1945. Miền Bắc đã hoàn toàn giải phóng, đang bước vào thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, từng bước xây dựng và củng cố về mọi mặt, làm cơ sở cho cuộc đấu tranh
giải phóng miền Nam. Nhân dân miền Nam lại có sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, đứng
đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó là những nhân tố căn bản bảo đảm thắng lợi cho sự
nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Tuy nhiên, do phải đối mặt với một đế quốc hung
bạo đầu sỏ, một đế quốc lớn mạnh nhất trong thế giới tư bản, thế giới bước vào thời kỳ
chiến tranh lạnh, chạy đua vũ trang giữa hai phe xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa,
trong tình trạng đất nước bị chia cắt và sự bất hòa của phong trào cộng sản quốc tế đã
làm cho sự nghiệp đấu tranh cách mạng của nhân dân ta để giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước, diễn ra lâu dài và vô cùng phức tạp.
Nhân dân Việt Nam, sau 80 năm đấu tranh gian khổ chống ách thống trị của thực
dân Pháp mới giành lại được độc lập cho Tổ quốc trong cuộc cách mạng Tháng Tám
1945, tiếp đó lại phải trải qua 9 năm kháng chiến trường kỳ chống Pháp và can thiệp
Mỹ, không có nguyện vọng nào hơn là hòa bình thống nhất đất nước, cùng nhau xây
dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Là một
dân tộc đã trải qua chiến tranh và đã phải chịu những mất mát nặng nề, nhân dân ta hơn
ai hết càng thiết tha với hòa bình: Hòa bình trong độc lập, tự do, hòa bình thống nhất đất
nước. Và đó là một nền hòa bình thật sự mới có hòa bình chân chính. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ: “phải có độc lập, tự do thật sự mới có hòa bình chân chính”. Điều này
9
Vai trò của hậu phương lớn miền Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1965-
1975)
hoàn toàn phù hợp với các điều khoản chủ yếu đã được ký kết tại Hội nghị Giơnevơ
1954.
Sự thực cho thấy, “cây muốn lặng nhưng gió chẳng gió chẳng ngừng”; chính sách
giã man, tàn bạo, phản dân, hại nước của Mỹ-Diệm đã khiến nhân dân miền Nam không
còn sự lựa chọn nào khác ngoài con đường đứng lên cầm vũ khí chống lại bè lũ bán
nước và cướp nước vì sự sống của mình, vì sự tồn vong của dân tộc…Đó là sự lựa chọn
ngoài ý muốn của họ. Bởi vì ngoài con đường cách mạng, nhân dân miền Nam không
còn con đường nào khác để tự giải phóng khỏi xiềng xích nô lệ. Chỉ có thắng lợi cách
mạng mới chấm dứt cảnh cùng khổ của nhân dân miền Nam, mới triệt để làm thất bại
mọi chính sách nô dịch, chia cắt đất nước và gây chiến của đế quốc Mỹ và tay sai của
miền Nam.Để bảo vệ cuộc sống của mình, bảo vệ độc lập tự do và hòa bình, nhân dân
Việt Nam đã phải chấp nhận cuộc đụng đầu lịch sử có tính thời đại với đế quốc Mỹ.
2.2 Âm mưu và thủ đoạn mới của Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam
(1965-1975)
Đầu năm 1965, cuộc “chiến tranh đặc biệt” mà Mỹ tiến hành chống lại nhân dân ta
ở miền Nam đã phát triển đến đỉnh cao và đứng trước nguy cơ thất bại hoàn toàn. Để
cứu vãn tình thế, Mỹ đã ồ ạt đưa quân viễn chinh cùng với vũ khí, phương tiện chiến
tranh vào miền Nam,, đẩy mạnh chiến tranh xâm lược, chuyển sang chiến lược “chiến
tranh cục bộ” ở miền Nam và mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc.
“Chiến tranh cục bộ” là loại hình chiến tranh xâm lược thực dân mới, một trong
ba hình thức chiến tranh (đặc biệt, cục bộ, tổng lực) được đề ra phù hợp với chiến lược
quân sự toàn cầu “phản ứng linh hoạt”. “Chiến tranh cục bộ” bắt đầu từ giữa năm 1965,
được tiến hành bằng lực lượng của quân viễn chinh Mỹ, quân của một số nước thân Mỹ
ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương và quân của chính quyền Sài Gòn, trong đó quân
Mỹ giữ vai trò quan trọng và không ngừng tăng lên về số lượng và trang bị.
Lính Mỹ có mặt ở miền Nam vào cuối năm 1964 là 26.000 người, đến cuối năm
1965 lên tới 180.000 người và 20.000 lính của các nước thân Mỹ. Đó là chưa kể 70.000
lính hải quân và không quân trên các căn cứ của Mỹ ở Guam, Philippin, Thái Lan và
Hạm đội 7 luôn sẵn sàng tham chiến ở miền Nam.
10
Vai trò của hậu phương lớn miền Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1965-
1975)
Sau khi đã đưa ra một đại đội máy bay F.105 vào Biên Hòa và một tiểu đoàn tên
lửa phòng không “Hốc” vào Đà Nẵng, ngày 8-3-1965, Mỹ cho hai tiểu đoàn thuộc Lữ
đoàn 9 lính thủy đánh bộ từ Ôkinaoa vào Đà Nẵng, mở đầu việc đưa quân chiến đấu Mỹ
vào miền Nam Việt Nam.
Ngày 26-6-1965, Oétmolen được chính phủ Mỹ cho phép đưa quân Mỹ ra trận “khi
nào thấy cần thiết”.
Ngày 17-7-1965, khi Giônxơn thông báo quyết định đưa 44 tiểu đoàn Mỹ vào
miền Nam Việt Nam và chấp nhận chiến lược “tìm diệt” của Oétmolen, một quyết định
đã “vượt qua ngưỡng cữa chiến tranh trên bộ ở châu Á”, thì cuộc chiến tranh xâm lược
của Mỹ ở miền Nam Việt Nam đã bước vào giai đoạn mới – giai đoạn “chiến tranh cục
bộ”.
Tiến hành “chiến tranh cục bộ ở miền Nam, Mỹ nhằm thực hiện âm mưu:
- Nhanh chóng tạo ra ưu thế về binh lực và hỏa lực có thể áp đảo được chủ lực ta
bằng chiến lược quân sự mới “tìm diệt”, cố giành lại thế chủ động trên chiến trường,
đẩy lực lượng vũ trang của ta trở về phòng ngự, buộc ta phải phân tán đánh nhỏ, hoặc
rút về biên giới, làm cho chiến tranh cách mạng tàn lụi dần.
- Mở rộng và củng cố hậu phương của chúng, lập đội quân “bình định” kết hợp
hoạt động càn quét với các hoạt động chính trị và xã hội lừa bip: tung tiền, đổ của nhiều
hơn nữa, cố thực hiện cho kì được “mặt trận thứ hai” nhằm “tranh thủ trái tim của nhân
dân”, thực chất là dành lại dân (trước hết là dành lại dân ở vùng được giải phóng), bắt
họ trở lại ách kìm kẹp tàn bạo của Mỹ-ngụy.
Ỷ vào ưu thế quân sự với quân đội đông, vũ khí hiện đại, hỏa lực mạnh, cơ động
nhanh, Mỹ vừa mới vào miền Nam đã cho quân viễn chinh mở ngay cuộc hành quân
“tìm diệt” tiến công trên đơn vị giải phóng ở Vạn Tường – Quảng Ngãi (8-1965). Tiếp
đó, Mỹ mở liền hai cuộc phản công chiến lược trong hai mùa khô 1965-1966 và 1966-
1967 bằng hàng loạt cuộc hành quân vào “đất thánh Việt cộng”.
Nước ta có nhiều thuận lợi khi bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước,
cách mạng thế giới đang ở thế tiến công. Ở miền Bắc, kế hoạch 5 năm lần thứ nhất và
đã vượt các mục tiêu về kinh tế, văn hóa. Sự chi viện sức người sức của của miền Bắc
cho cách mạng miền Nam được đẩy mạnh cả theo đường bộ và đường biển. Ở miền
Nam vượt qua những khó khan trong những năm 1961-1962, từ năm 1963, cuộc đấu
11
Vai trò của hậu phương lớn miền Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1965-
1975)
tranh của quân dân ta đã có bước phát triển mới. Ba “chỗ dựa” của “Chiến tranh đặc
biệt” (ngụy quân, ngụy quyền, ấp chiến lược và đô thị) đều bị quân dân ta tấn công liên
tục. Đến đầu 1965, chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ triển khai đến
mức cao nhất đã cơ bản bị phá sản. Bên cạnh đó, nước ta cũng gặp không ít khó khăn
khi sự bất đồng giữa Liên Xô và Trung Quốc ngày càng trở nên gay gắt và không có lợi
cho cách mạng Việt Nam. Việc đế quốc Mỹ mở cuộc “Chiến tranh cục bộ”, ồ ạt đưa
quân đội viễn chinh Mỹ và các nước chư hầu vào trực tiếp xâm lược miền Nam đã làm
cho tương quan lực lượng trở nên bất lợi cho ta.
2.3 Chủ trương mới của Đảng nhằm đánh bại âm mưu thủ đoạn mới của Mỹ
Khi đế quốc Mỹ tiến hành chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam, các hội
nghị của Bộ Chính trị đầu năm 1961 và đầu năm 1962 đã nêu chủ trương giữ vũng phát
triển thế tiến công mà ta đã giành được sau cuộc “đồng khởi” năm 1960, đưa cách mạng
miền Nam từ khởi nghĩa từng phần phát triển thành chiến tranh cách mạng trên quy mô
toàn miền.
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ chín (tháng 11-1963), ngoài việc xác định đúng
đắn quan điểm quốc tế, hướng hoạt động đối ngoại vào việc kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại để đánh Mỹ và thắng Mỹ, còn quyết định nhiều vấn đề quan trọng
về cách mạng miền Nam. Hội nghị tiếp tục khẳng định đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ
trang đi đôi, cả hai đều có vai trò quyết định cơ bản, đồng thời nhấn mạnh yêu cầu mới
của đấu tranh vũ trang. Đối với miền Bắc, Hội nghị tiếp tục xác định trách nhiệm là căn
cứ địa , hậu phương đối với cách mạng miền Nam, đồng thời nâng cao cảnh giác, triển
khai mọi mặt, sẳn sàng đối phó với âm mưu đánh phá của địch.
Trước hành động gây “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam, tiến hành chiến tranh phá
hoại ra miền Bắc của đế quốc Mỹ, Hội nghị Trung ương lần thứ 11 (tháng 3-1965) và
lần thứ 12 (tháng 12-1965) đã tập trung đánh giá tình hình và đề ra đường lối kháng
chiến chống Mỹ trên cả nước.
Về nhận định tình hình và chủ trương chiến lược: Trung ương Đảng cho rằng, cuộc
“Chiến tranh cục bộ” mà Mỹ đang tiến hành ở miền Nam vẫn là cuộc chiến tranh xâm
lược thực dân mới, buộc phải thực thi trong thế thua, thế thất bại và bị động, cho nên nó
chứa đựng đầy mâu thuẫn về chiến lược. Từ sự phân tích và nhận định đó, Trung ương
Đảng quyết định phát động cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trong toàn quốc, coi
chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc từ Nam chí Bắc.
Về quyết tâm và mục tiêu chiến lược: Nêu cao khẩu hiệu “Quyết tâm đánh thắng
giặc Mỹ xâm lược”, “kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ
12
Vai trò của hậu phương lớn miền Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1965-
1975)
trong bất kỳ tình huống nào, để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thực hiện hòa bình thống
nhất nước nhà”.
Về phương châm chỉ đạo chiến lược: Tiếp tục đẩy mạnh cuộc chiến tranh nhân
dân chống chiến tranh cục bộ của Mỹ ở miền Nam, đồng thời phát động chiến tranh
nhân dân chống chiến tranh phá hoại của Mỹ ở miền Bắc; thực hiện kháng chiến lâu dài,
dựa vào sức mình là chính, càng đánh càng mạnh và cố gắng đến mức độ cao, tập trung
lực lượng của cả hai miền để mở những cuộc tiến công lớn, tranh thủ thời cơ giành
thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn trên chiến trường miền Nam.
Về tư tưởng chỉ đạo và phương châm đấu tranh ở miền Nam: Giữ vững và phát
triển thế tiến công, kiên quyết tiến công và liên tục tiến công: “Tiếp tục kiên trì phương
châm đấu tranh quân sự kết hợp với đấu tranh chính trị, triệt để vận dụng ba mũi giáp
công”, đánh địch trên cả ba vùng chiến lược. Trong giai đoạn hiện nay, đấu tranh quân
sự có tác dụng quyết định trực tiếp và giữa vị trí ngày càng quan trọng.
Về tư tưởng chỉ đạo đối với miền Bắc: Chuyển hướng xây dựng kinh tế, bảo đảm
tiếp tục xây dựng miền Bắc vững mạnh về kinh tế và quốc phòng trong điều kiện có
chiến tranh, tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của đế
quốc Mỹ để bảo vệ vững chắc miền Bắc xã hội chủ nghĩa, động viên sức người sức của
ở mức cao nhất để chi viện cho cuộc chiến tranh giải phóng miền nam, đồng thời tích
cực chuẩn bị đề phòng để đánh bại địch trong trường chúng liều lĩnh mở rộng “Chiến
tranh cục bộ” ra cả nước.
Về nhiệm vụ và mối quan hệ giữa cuộc chiến đấu ở cả hai miền: Trong cuộc
chiến tranh nhân cả nước, miền Nam là tiền tuyến lớn, miền Bắc là hậu phương lớn.
Bảo vệ miền Bắc là nhiệm vụ của cả nước, vì miền Bắc xã hội chủ nghĩa là hậu phương
vững chắc trong cuộc chiến tranh chống Mỹ. Phải đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại
của đế quốc Mỹ ở miền Bắc và ra sức tăng cường lực lượng miền Bắc về mọi mặt nhằm
bảo đảm chi viện đắc lực cho miền Nam càng đánh càng mạnh. Hai nhiệm vụ trên đây
không tách rời nhau, mà mật thiết gắn bó nhau. Khẩu hiệu chung của nhân dân cả nước
lúc này là “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.
2.4 Quá trình chỉ đạo thực hiện
2.4.1 Giai đoạn 1969-1973
13
Vai trò của hậu phương lớn miền Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1965-
1975)
Trước những thử thách nặng nề của cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân,
hải quân Mỹ, nhân dân miền Bắc đã sát cánh cùng đồng bào miền Nam ruột thịt, lao
động và chiến đấu dũng cảm, góp phần quan trọng vào thắng lợi vẽ vang của cách mạng
đất nước, “làm nên sự nghiệp phi thường: giữ vững và tăng cường lực lượng nước Việt
nam Dân chủ Cộng hòa về mọi mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa,…”
Do bị thất bại nặng nề ở cả hai miền Nam-Bắc Việt Nam “chiều hướng của Mỹ là
phải xuống thang kết thúc chiến tranh Viêt Nam”. Ngày 1-11-1968 Giônxơn tuyên bố
xuống thang chiến tranh, chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hành động
khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, rút dần quân chiến đấu Mỹ và quân các
nước đồng Minh của Mỹ ra khỏi miền Nam. Tuy nhiên dù xuống thang chiến tranh, Mĩ
vẫn bảo vệ quyền lợi và địa vị của chính quyền Sài Gòn và giữ miền Nam Việt Nam
không nằm trong phạm vi ảnh hưởng của Mỹ, vẫn là thuộc địa kiểu mới của chúng. Vì
vậy, miền Bắc phải được tiếp tục củng cố và tăng cường về mọi mặt, đủ sức làm tròn
nhiệm vụ của hậu phương lớn đối vớit tiền tuyến lớn. Ngày 26-12-1968, Bộ Chính trị ra
Nghị quyết “Về nhận định tình hình kinh tế hiện nay và nhiệm vụ kinh tế năm 1969”.
Nghị quyết nêu rõ: “Miền Bắc xã hội chủ nghĩa đã được bảo vệ và vững bước tiến lên
trên con đường xã hội chủ nghĩa, đang phát huy mạnh mẽ vai trò vai trò, tác dụng của
hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn”. Nhưng bên cạnh những thắng lợi có ý nghĩa
chiến lược, Bộ Chính trị cũng chỉ rõ miền Bắc cũng mắc phải những khuyết điểm về
công tác chỉ đạo quản lí kinh tế, quản lí Nhà nước, như về “tổ chức quản lí nền kinh tế
xã hội chủ nghĩa của ta ở miền Bắc có nhiều chỗ yếu và chưa thật thích hợp; trình độ tổ
chức và quản lí tiến bộ quá chậm so với yêu cầu của sự nghiệp cách mạng; lề lối làm
việc còn quan liêu, sự vụ, thủ công mang nặng tính sản xuất nhỏ. Công tác kế hoạch hóa
còn nhiều nhược điểm và khuyết điểm, lại chậm cải tiến và tăng cường theo đúng yêu
cầu nhiệm vụ mới. Trong chiến tranh, chúng ta đã buông lỏng công tác tổ chức quản lí,
lại thiếu kiểm tra, không phát hiện kịp thời và kiên quyết, thiếu biện pháp có hiệu lực để
khắc phục chiều hướng xấu… Đó là khuyết điểm lớn nhất nặng nhất”.
Mặt khác, miền Bắc lại vừa ra khỏi cuộc chiến tranh phá hoại với bao hậu quả nặng
nề: 6 thành phố lớn (Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Thái Nguyên Việt Trì, Vinh) và 25
trong số 30 thị xã bị đánh phá nhiều lần (trong đó có 6 thị xã bị đánh tới mức hủy diệt là
Đồng Hới, Ninh Bình, Phủ Lí, Bắc Giang, Yên Bái, Sơn La). Có những thị trấn bị phá
14
Vai trò của hậu phương lớn miền Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1965-
1975)
trụi như Hà Tu (Quảng Ninh), Hồ Xá (Vĩnh Linh, Quảng Trị),… toàn bộ hệ thống giao
thông, như đường sắt, đường bộ, cầu cống, nhà ga… và hàng triệu mét vuông nhà ở,
kho tàng…bị phá hủy; nhiều đê điều, công trình thủy lợi, nhiều trường học, y tế, trại an
dưỡng…bị tàn phá.
Hơn thế nữa, để đáp ứng yêu cầu to lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ trên cả hai
miền, hàng triệu lao động mà hầu hết là lực lượng thanh niên trẻ khỏe, có trình độ văn
hóa ở nông thô, các cơ quan, trường học, nhà máy, xí nghiệp trên khắp miền Bắc được
động viên vào lực lương vũ trang, vào thanh niên xung phong, dân công hỏa tiến hoặc
tham gia san lấp hố bom, đào đắp công sự trên trận địa phòng không, phục vụ chiến
đấu. Điều đó đã làm xáo động mạnh tổ chức lao động xã hội, đặc biệt ở khu vực nông
thôn. Nhiều địa phương, sản xuất không kịp thời vụ vì thiếu sức lao động; các yêu cầu
kĩ thuật canh tác không được bảo đảm khiến cho sản lượng lương thực bị giảm sút. Năm
1968, sản lượng nông nghiệp trên toàn miền Bắc đạt 4,6 triệu tấn lượng thực quy ra
thóc, sụt gần một triệu tấn so với năm 1967 (5,4 triệu tấn).
Tình hình trên đây đặt ra vấn đề cấp bách đối với miền Bắc là phải ra sức khắc
phục hậu quả chiến tranh, đồng thời khắc phục những mặt yếu kém trong nền kinh tế,
sớm chuyển biến tình hình, tạo đà cho việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trước mắt.
Nghị quyết Bộ Chính trị (26-12-1968) chỉ rõ: “Hướng phấn đấu của nhân dân ta là phải
làm hết sức mình, bảo đảm cho tiền tuyến và hậu phương đều mạnh lên để thắng lớn”.
Riêng kế hoạch Nhà nước năm 1969, cần phải quán triệt và thực hiện các nhiệm vụ
khẩn cấp sau:
“1. Tập trung đảm bảo đầy đủ và kịp thời yêu cầu tăng cường sức chiến đấu cho
tiền tuyến, thực hiện triệt để khẩu hiệu: “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.
2. Đẩy mạnh sản xuất và xây dựng, đảm bảo đời sống của nhân dân. Tập trung sức
đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, xây dựng kinh tế địa phương, ra sức tăng cường giao
thông vận tải và những ngành trọng yếu của công nghiệp do Trung ương quản lí, làm
cho lực lượng kinh tế miền Bắc thêm lớn mạnh.
3. Tích cực chuẩn bị cho những năm sau và cho việc khôi phục và phát triển kinh
tế sau chiến tranh.”
15
Vai trò của hậu phương lớn miền Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1965-
1975)
Về chính trị, để hoàn thành những nhiệm vụ nặng nề trên đây, điều mấu chốt là
phải chú trong nhận tố con người, phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Đầu năm
1969, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị về việc bồi dưỡng và nêu gương người tốt
việc tốt. Chỉ thị nêu rõ “việc nêu gương và cỗ vũ người tốt không những chỉ có ý nghĩa
động viên mọi người hoàn thành tốt các nhiệm vụ cách mạng trước mắt mà còn là một
trong những biện pháp cơ bản để xây dựng Đảng và các lực lượng nòng cốt của cách
mạng, xây dựng con người mới và cuộc sống mới”.
Để tăng cường sự lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, làm cho đội ngũ cán bộ,
đảng viên xứng đáng là những chiến sĩ cách mạng trong giai đoạn mới, nhân dịp kĩ
niệm lần thứ 39 ngày thành lập Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đảng ta phải
ra sức tăng cường giáo dục toàn Đảng về lí tưởng cộng sản chủ nghĩa, về đường lối,
chính sách của Đảng, về nhiệm vụ và đạo đức của người Đảng viên. Phải thực hành phê
bình và tự phê bình nghiêm chỉnh trong Đảng. Phải hoan nghênh và khuyến khích quần
chúng thật thà phê bình cán bộ, đảng viên. Chế độ sinh hoạt của Chi bộ phải nghiêm
túc. Kỹ luật của Đảng phải nghiêm minh. Công tác kiểm tra của Đảng phải chặt chẽ”.
Ngày 2-9-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời tại Thủ đô Hà Nội, để lại cho nhân
dân ta bản Di chúc lịch sử, mà ở đó, một loạt vấn đề trọng đại liên quan đến cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước tới công cuộc xây dựng đất nước sau chiến tranh, sự nghiệp
xây dựng, bồi dưỡng thế hệ cho đời sau, sự nghiệp đoàn kết giữa các Đảng anh em trên
nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và chủ nghĩa quốc tế chân chính trong sáng… được
Người đề cập. Toát lên từ những lời dặn dò trong Di chúc là niềm tinh mãnh liệt của
Người vào thắng lợi hoàn toàn của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước; về sự
thống nhất đất nước và xây dựng một nước Việt Nam giàu đẹp: “Dù khó khăn gian khổ
đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải rút
khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam-Bắc nhất định xum
họp một nhà”.
“Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách
mạng thế giới”.
16
Vai trò của hậu phương lớn miền Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1965-
1975)
Biến đau thương thành hành động, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta ở hai miền
Nam-Bắc quyết tâm làm theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, kiên trì đẩy mạnh
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới
thống nhất nước nhà, ra sức thi đua đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc, góp phần vào sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân thế
giới.
Di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh đã được cụ thể trong nhiều chủ trương, nghị
quyết của Đảng và Chính phủ. Cuối năm 1969, đầu năm 1970, Đảng và Nhà nước phát
động ba cuộc vận động chính trị lớn trên toàn miền Bắc:
- Cuộc vận động lao động sản xuất nhằm động viên mọi lực lượng lao động sản xuất
của toàn xã hội, bảo đảm mọi người làm việc và lao động có năng suất, chất lượng
và hiệu quả nhằm tạo nhanh sản phẩm xã hội, khôi phục và phát triển kinh tế, cải
thiện từng bước đời sống nhân dân.
- Cuộc vận động phát huy dân chủ và tăng cường chế độ làm chủ tập thể của quần
chúng xã viên ở nông thôn, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp phát triển toàn diện
mạnh mẽ và vững chắc.
- Cuộc vận động nâng cao chất lượng đảng viên và kết nạp lớp đảng viên Hồ Chí
Minh.
Trước đòi hỏi của tình hình và nhiệm vụ, yêu cầu đặt ra cho công tác xây dựng
Đảng là “cần khẩn trương giáo dục, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên một cách toàn diện về
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh – quốc phòng và đối ngoại. Do tình hình miền
Bắc đang tập trung chống chiến tranh phá hoại do đế quốc Mỹ gây ra, Nghị quyết của
Quốc Hội ngày 2-5-1968 quyết định kéo dài nhiệm kỳ của Quốc hội khóa III và giao
cho Ủy ban thường vụ Quốc hội tổ chức bầu cử quốc hội khóa IV khi tình hình cho
phép. Đến ngày 11-4-1971, nhân dân miền Bắc đã tiến hành bầu cử quốc hội, khóa IV,
420 đại biểu đã trúng cử. Từ ngày 6 đến ngày 10-6-1971, Quốc hội khóa IV họp kì thứ
nhất. Quốc hội đã bầu Chủ tịch nước – Tôn Đức Thắng, Phó chủ tịch nước – Nguyễn
Lương Bằng, Chủ tịch Quốc Hội – Trường Trinh, Thủ tướng Chính phủ - Phạm Văn
Đồng. Tại kì họp này, Quốc hội cũng đã bầu Ủy ban thường vụ Quốc Hội và thông qua
danh sách Hội đồng Chính Phủ, Hội đồng Quốc Phòng. Các Bộ, ngành cũng được tổ
chức, sắp xếp lại cho phù hợp.
17
Vai trò của hậu phương lớn miền Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1965-
1975)
Tổ chức hoạt động của chính quyền địa phương các cấp cũng được củng cố một
bước. Ngày 27-4-1969, toàn miền Bắc tiến hành bầu cử Hội đồng Nhân dân huyện, xã
và các cấp tươg đương Và đến 25-4-1971, miền Bắc bầu cử Hội đồng Nhân dân cấp tỉnh
và thành phố trực thuộc Trung ơng. Ngày 21-10-1970, Ủy ban thường vụ Quốc hội
thông qua Pháp lệnh trừng trị các tội phạm xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và pháp
lện trừng trị các tội phạm xâm phạm tài sản riêng của công dân.
Nhìn chung, những năm sau chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mỹ, thông qua
các cuộc vận động và các đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng, vai trò lãnh đạo của Đảng và
chất lượng của đội ngũ cán bộ, đảng viên được tăng cường một bước; hiệu lực của
chính quyền các cấp,các ngành từ Trung ương đến địa phương củng cố vững chắc. Đó là
những nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với nhiệm vụ khôi phục và phát triển kinh tế,
phát triển văn hóa giáo dục thời kì này.
Về kinh tế, trên mặt trận nông nghiệp, để từng bước tạo nên sự cân đối giữa công
nghiệp với nông nghiệp cũng như để đáp ứng yêu cầu phát triển chung của nền kinh tế,
Đảng và Nhà nước chủ trương, ngoài sản xuất lương thực là trọng tâm, phải chú ý đến
chăn nuôi gia súc và trồng cây công nghiệp; đẩy mạnh sản xuất bằng việc đưa vào áp
dụng những tiến bộ mới về khoa học-kỹ thuật, bằng biện pháp thâm canh tăng năng
suất, tăng vụ và tăng diện tích gieo trồng. “Ba mục tiêu đó là nội dung cụ thể của chủ
trương lớn, lấy “nông nghiệp làm cơ sở để phát triển công nghiệp” trong giai đoạn hiện
nay”.
Việc thực hiện ba mục tiêu chủ yếu trên đây trong nông nghiệp đặt trong điều kiện
và khả năng thực tế khi miền Bắc vừa trải qua cuộc chiến tranh phá hoại tàn khốc, lao
động trên đồng ruộng chủ yếu dồn xuống đôi vai người phụ nữ… là cả một nỗ lực to
lớn, có liên quan đến những vấn đề kinh tế cơ bản khác, như sự hỗ trợ của nông nghiệp,
việc áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, việc tổ chức lao động, trước hết là củng cố
quan hệ sản xuất mới ở nông thôn. Nhận thức rõ những yêu cầu bức thiết đó, ngày 28-4-
1969, Nhà nước đã ban hành Điều lệ tóm tắt họp tác xã sản xuất nông nghiệp (bậc cao).
Bản Điều lệ lần này quy định rõ tính chất và nhiệm vụ của hợp tác xã sản xuất nông
nghiệp, đề ra những nguyên tắc cơ bản bảo đảm quyền làm chủ tập thể của xã viên,
những cơ sở cho việc cải tiến và nâng cao công tác quản lí kinh tế ở các hợp tác xã.
18
Vai trò của hậu phương lớn miền Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1965-
1975)
Việc ban hành Điều lệ hợp tác xã nông nghiệp (bậc cao) được Đảng, Nhà nước coi
là công tác trung tâm ở nông thôn và là một nội dung quan trọng trong kế hoạch giải
quyết vấn đề nông nghiệp những năm sau chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mỹ.
Đầu năm 1971, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 19 quyết
định những nhiệm vụ về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tăng cường lực lượng
của chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đặc biệt là vấn đề phát triển nông nghiệp. Hội nghị đề
ra những nhiệm vụ kinh tế cụ thể trong ba năm (1971-1973) và nhấn mạnh: Nhiệm vụ
trung tâm của nền kinh tế miền Bắc là phát triển sản xuất nông nghiệp. Mục tiêu tổng
quát của sản xuất nông nghiệp trong ba năm là phấn đấu giải quyết về cơ bản nhu cầu
lương thực, phát triển chăn nuôi, đưa chăn nuôi lên thành ngành chính; xây dựng một số
ngành kinh tế mới, phát triển nghề rừng, mở rộng diện tích trồng cây công nghiệp; tăng
nhanh mức nông sản xuất khẩu.
Cùng với việc triển khai các cuộc vận động lớn do Trung ương phát động, giai cấp
nông dân tập thể miền Bắc vừa gấp rút ổn định tình hình mọi mặt, giành một số lượng
ngày công thích đáng cho việc san lấp hố bom, cải tạo đồng ruộng, vỡ hóa, khai hoang,
mở rộng diện tích canh tác, khôi phục các công trình thủy lợi bị bom đạn Mỹ tàn phá và
xây dựng mới nhiều công trình thủy lợi khác phục vụ cho nông nghiệp. Ngoài những
công trình thủy lợi bị bon đạn Mỹ tàn phá được khôi phục, cho đến năm 1972, đã có
hơn 1.000 công trình thủy nông lớn được xây dựng và đưa vào sử dụng. Số công trình
được xây dựng từ 1962 đến 1972 tăng gấp hai lần so với những năm 1965 đến 1968 và
ba lần so với những năm 1961 đến 1964. Cùng với phong trào làm thủy lợi, nhiều tiến
bộ khoa học – ki thuật mới tiếp tục được áp dụng trên đồng ruộng miền Bắc đã góp
phần quan trọng vào việc tăng năng suất cây trồng vật nuôi…
Cùng với sự nỗ lực của giai cấp nông nhân, Nhà nước đã ban hành và thực hiện
một số chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp (chính sách về ổn định nghĩa vụ
lương thực, thực phẩm và phân phối lương thực trong khu vực hợp tác xã, chính sách về
chăn nuôi, chính sách về thu mua sản phẩm cây công nghiệp, chính sách về cung cấp tư
liệu sản xuất cho nông nghiệp, chính sách về giá cả, chính sách về việc Nhà nước cho
nông dân vay vốn để phát triển sản xuất nông nghiệp…). Ngoài ra, Nhà nước khuyến
khích các ngành công nghiệp tăng cường hỗ trợ cho nông nghiệp, trước hết là ngành
điện cơ khí phân bón.
19
Vai trò của hậu phương lớn miền Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1965-
1975)
Nhờ vậy, nền sản xuất nông nghiệp hợp tác xã miền Bắc có những bước phát triển
cả về diện tích, năng suất, cơ cấu, cây trồng vật nuôi… Năm 1970, diện tích đất canh tác
trên toàn miền Bắc đạt tới con số 3.028.100 ha (trong đó 2.723.700 ha trồng cây lương
thực) tăng hơn sáu vạn ha so với năm 1969 và gần bằng tổng diện tích đất canh tác năm
1965. Năng suất lúa cũng từng bước tăng lên. Đến năm 1970, năng suất lúa cả năm trên
một ha ruộng hai vụ đạt 43,11 ta so với 31,9 tạ năm 1965. Thái Bình, Hà Nội là hai địa
phương có năng suất bình quân trên 5 tấn thóc/ha. Nhờ vậy, sản lượng lương thực năm
1970 đạt 5.278.900 tấn, tăng hơn nữa triệu so với 1969 và đạt xấp xỉ năm 1965. Đàn lợn
thịt năm 1971, con số đó tăng hơn năm 1965 tới 70 vạn con. Bên cạnh đó, trong những
năm này, tổng giá trị sản lượng cây công nghiệp đạt mức cao. Năm 1971, con số đó tăng
gấp 1,8 lần so với năm 1965…
Trên mặt trận công nghiệp, trong những năm chiến tranh, các cơ sở nông nghiệp
miền Bắc bị phá hoại nặng nề. Sau khi Mỹ ngừng ném bom, Đảng, Nhà nước chủ
trương nhanh chóng phục hồi và phát triển các cơ sở sản xuất. Trước mắt, các ngành
công nghiệp nỗ lực phấn đấu tăng nhanh sản lượng cơ khí khai thác than, sản lượng
điện, cơ khí, khai thác và chế biến gỗ, xi măng; sử dụng có hiệu quả lực lượng cơ khí
phục vụ nông nghiệp và giao thông vận tải cũng như đòi hỏi của công nghiệp địa
phương; giải quyết tốt việc chế biến luơng thực, thực phẩm, tăng thêm hàng tiêu dùng
nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt và đời sống của nhân dân; chú trọng việc khôi phục
sản xuất, xây dựng thêm một số xí nghiệp mới; tiếp tục cải tiến và tăng cường công tác
quản lí xí nghiệp nhằm ổn định sản xuất và khắc phục tình trạng buông lỏng quản lí
trong những năm chiến tranh phá hoại. Ba xí nghiệp lớn là Cơ khí Trần Hưng Đạo, Dệt
8-3 và Rượu Hà Nội được Trung ương chỉ đạo thí điểm về cải tiến quản lí trong thời kì
này. Những năm 1970, 1971, Nhà nước tăng đầu tư cho các ngành công nghiệp trên
40% ngân sách. Công nghiệp địa phương vẫn tiếp tục được ưu tiên phát triển.
Sự đầu tư của Nhà nước cùng sự nỗ lực của đội ngũ cán bộ, công nhân trong các
ngành công nghiệp đã đưa lại kết quả tương đối khả quan trên lĩnh vực sản xuất công
nghiệp. Nếu năm 1965, số xí nghiệp công nghiệp quốc doanh, công ti hợp doanh trên
miền Bắc là 1.132 thì đến năm 1971, con số đó lên tới 1.339 (trong đó, do Trung ương
quản lí là 289 và do địa phương quản lí là 1.050). Trong khi đó, số hợp tác xã tiêu tiểu,
thủ công nghiệp cũng tăng lên. Năm 1965, toàn miền Bắc có 2.529 hợp tác xã tiểu, thủ
20
Vai trò của hậu phương lớn miền Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1965-
1975)
công nghiệp (không kể hợp tác xã đánh cá, làm muối, khai thác gỗ). Năm 1971, con số
đạt tới 2.467 (trong đó, bậc cao là 1.289 và bậc thấp là 1.358).
Chỉ qua ba năm 1968 đến 1970, nhiều ngành sản xuất công nghiệp đã đạt hoặc
vượt mức trước chiến tranh phá hoại. So với năm 1965, đến năm 1971, tổng sản lượng
điện tăng 20%; máy điêden tăng 19%, động cơ điện các loại tăng 49%, phân bón hóa
học tăng 61% Mặc dù trận lụt năm 1971 gây ra nhiều thiệt hại cho nền kinh tế quốc
dân nói chung, bao gồm cả sản xuất công nghiệp, nhưng trong năm này, giá trị tổng sản
lượng công nghiệp và thủ công nghiệp vẫn đạt được mức chỉ tiêu kế hoạch đề ra và tăng
14% so với năm 1970. So với năm 1970 thì năm 1971, điện tăng 34% (810 kw/h), than
tăng 22% (3,26 triệu tấn), xi măng tăng 38%, súppe lân tăng 21%, vải tăng 17%, giấy
tăng 22%
Cùng với nông nghiệp và công nghiệp, các ngành giao thông, bưu điện, vận tải, tài
chính, ngân hàng, thương nghiệp thời kỳ này cũng có nhiều nỗ lực to lớn và đạt những
kết quả quan trọng, góp phần xứng đáng vào nhiệm cụ khôi phục kinh tế, phát triển văn
hóa, xã hội và tăng cường sức mạnh quốc phòng của hậu phương lớn miền Bắc.
Trong những năm chiến tranh, hệ thống giao thông vận tải bị bom đạn Mỹ đánh
phá dữ dội, liên tục. Trong bốn năm (1965-1968), tính trung bình mỗi kilômét đường sắt
và đường bộ miền Bắc phải hứng chịu 19,3 quả bom, đạn, bị đánh phá 4,1 lần. Riêng
tuyến đường sắt Hà Nội – Vinh, mỗi kilômét bị đánh phá tới 19,5 lần. Cho đến cuối năm
1968, toàn bộ hệ thống giao thông đường bộ, đường thủy, đường sắt của miền Bắc bị
tổn thương nghiêm trọng, bị tàn phá năng nề. Khi chiến tranh phá hoại lần thứ nhất kết
thúc, công tác khôi phục giao thông được đặt lên hàng đầu. Nếu những năm từ 1955 đến
1957, chỉ số vốn đầu tư của Nhà nước cho giao thông vận tải trung bình hàng năm là
100 thì tới những năm 1966 đến 1971, con số tương ứng là 435,4. Đó là một tỉ lệ khá
lớn, đảm bảo cho việc khôi phục và tiếp tục phát triển toàn bộ hệ thống giao thông vận
tải sau những năm tháng bị bom đạn Mỹ đánh phá dữ dội, nhằm phục vụ có hiệu quả
cho nhu cầu kinh tế, văn hóa – xã hội và an ninh quốc phòng của hậu phương miền Bắc.
Nhờ sự nỗ lự của toàn dân, toàn quân, một thời gian ngay sau ngày Mỹ ngừng ném bom
miền Bắc, các tuyến giao thông quan trọng và hệ thống cầu phà từ Lạng Sơn đến Vĩnh
Linh được khôi phục; nhiều tuyến đường khác cũng được mở rộng hoặc nâng cấp. Do
vây, khối lượng hàng hóa luân chuyển đạt và vượt mức trước chiến tranh phá hoại. nếu
21
Vai trò của hậu phương lớn miền Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1965-
1975)
lấy chỉ số khối lượng hàng hóa luân chuyển năm 1964 là 100 thì năm 1969 con số tương
ứng là 84,2.
Về văn hóa, giáo dục, y tế, trong những năm chiến tranh phá hoại, nền giáo dục
miền Bắc đã vươn lên, đạt nhiều thành tựu to lớn. Đến năm 1968, miền Bắc đã có
12.000 trường phổ thông, mỗi xã đều có trường cấp I, nhiều xã có trường cấp II, các
huyện đều có ít nhất một trường cấp III. Số người đi học đã hơn sáu triệu, trong đó có
hơn một triệu cán bộ là công nông đang học bổ túc văn hóa. Số người vào học các
trường Đại học và Trung học chuyên nghiệp tăng gấp 3 so với trước chiến tranh chống
Mỹ. Hơn 30 trường Đại học và 200 trường Trung học chuyên nghiệp đã phối hợp chặt
chẽ với các ngành và các địa phương, đẩy mạnh công tác đào tạo cán bộ, tập trung cũng
như tại chức. Sau chiến tranh phá hoại lần thứ nhất, nền giáo dục miền Bắc tiếp tục
được đẩy mạnh. Nếu năm học 1965-1966, toàn miền Bắc có 4,9 triệu người đi học (bao
gồm phổ, bổ túc, trung học và đại học) thì năm học 1971-1972, con số đó lên tới 6 triệu,
trong đó, riêng học sinh phổ thông (cấp I, II) là hơn 4,5 triệu, tính bình quân cứ 10.000
dân miền Bắc có 2.544 học sinh phổ thông. So với thời kỳ địch tiến hành chiến tranh
phá hoại tăng 500 người. số lượng sinh viên đại học và học sinh trung học chuyên
nghiệp tăng nhanh chóng. Nếu năm học 1965-1966, số sinh viện đại học toàn miền Bắc
là 34.200 người, số học sinh trung học chuyên nghiệp là 60.000 người thì đến 1971-
1972, con số đó lần lượt là 62.200 và 74.300 người. Như vậy tính trung bình, cứ một
vạn dân có 61 sinh viên đại học. Thành tựu của sự nghiệp giáo dục đạt được là rất to lớn
và có ý nghĩa quan trọng .
Cùng với giáo dục, nhiệm vụ nâng cao đời sống văn hóa vật chất và tinh thần cho
nhân dân vẫn là một trọng tâm trong công tác lãnh đạo của các ngành, các cấp lãnh đạo
trong thời kì này. Nếu như 1965, ngành xuất bản ấn hành 22.411.000 bản sách phục vụ
bạn đọc thì tới 1971, con số tương ứng là 31.299.000 bản. Hệ thống thư viện công cộng
tiếp tục được tăng cường. Năm 1965, toàn miền Bắc có 105 thư viện thì 1971 con số đó
lên tới 173. Ngoài ra mang lưới truyền thanh, số đội chiếu bóng, số phim sản xuất và số
đoàn nghệ thuật cũng tăng nhanh. Năm 1965, hệ thống truyền thanh miền Bắc có
214.200 loa và 137.000 máy thu thanh; 66 đội nghệ thuật. Tới năm 1971, con số tương
ứng là 311.900 loa, 328.500 máy thu thanh và 79 đội nghệ thuật chuyên nghiệp.
22
Vai trò của hậu phương lớn miền Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1965-
1975)
Sự nghiệp y tế cũng có bước tiến rõ rệt. Số lượng cơ sở phòng, chữa bệnh tăng; đội
ngũ y, bác sĩ ngày càng đông đảo, chất lượng khám chữa bệnh không ngừng được cải
thiện… Đến năm 1971, số bệnh viện tăng từ 252 (1965) lên 431, số bệnh xá tăng từ 350
(1965) lên 587, chưa kể tới các cơ sở khác như viện điều dưỡng, trại phong, viện nghiên
cứu ý học, trạm vệ sinh phòng dịch, trạm bảo vệ bà mẹ, trẻ em đều tăng về số lượng.
Tương ứng với sự phát triển về cơ sở vật chất, đội ngũ y, bác sĩ ngày càng đông đảo.
Năm 1971, cứ 10.000 dân có 11 bác sĩ, nhiều hơn hai lần so với năm 1965.
Sau những tháng năm chiến tranh ác liệt, bị bom đạn Mỹ tàn phá nặng nề, hậu
phương lớn miền Bắc từng bước được khôi phục và đạt được nhiều kết quả trên các lĩnh
vực chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội. Những kết quả đạt được của miền Bắc, xét trong
điều kiện hiện thực lúc đó, là rất đáng tự hào. Nó tạo thêm điều kiện thuận lợi để miền
Bắc đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, tăng sức chi viện cho
chiến trường, sẳn sang đập tan âm mưu hành động mở rộng chiến tranh của đế quốc
Mỹ.
Về chi viện cho tiền tuyến, nhằm đảm bảo chi viện kịp thời cho chiến trường miền
Nam, việc tổ chức và hoạt động của tuyến vận tải quân sự ở hậu phương miền Bắc giữ
một vị trí hết sức quan trọng. Sau cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mỹ, hầu
hết các tuyến đường sắt, đường thủy chạy qua miền đất lửa (khu IV) nhanh chóng được
khôi phục. Trong khi đó, hoạt động vận tải quân sự trên địa bàn Nam Quân khu IV được
chuyển từ trục 15 sang trục quốc lộ số 1. Toàn bộ hệ thống kho tàng quân sự, bồn chứa
xăng dầu được chấn chỉnh, kiên quyết bỏ những khu kho quá xa các trục giao thông.
Tháng 6-1970, Bộ Chính trị quyết định thành lập Hội đồng Chi viện tiền tuyến
Trung ương, trực thuộc Hội đồng Chính phủ trực tiếp tổ chức nhằm huy động sức mạnh
tiềm tang của hậu phương miền Bắc và công cuộc kháng chiến, chi viện sức người, sức
của cho chiến trường.
Trên tuyến vận tải chiến lược 559, ngay sau khi buộc phải tuyên bố chấm dứt hoàn
toàn việc ném bom miền Bắc (1-11-1968), không quân Mỹ dồn sức đánh phá dội tuyến
vận tải 559, rải xuống các cửa khẩu đường 12, 20 sang Tây Trường Sơn một số lớn bom
từ trường, bom nổ chậm, mìn vướng, mìn lá…, tạo ra các khu vực “chết”, khiến cầu,
đường bị tắc nghẽn nghiêm trọng và rất khó khắc phục.
23
Vai trò của hậu phương lớn miền Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1965-
1975)
Trước tình hình đó, Quân ủy Trung ương chỉ đạo tập trung lực lượng và phương
tiện, kiên quyết giải tỏa các điểm tắc, giữ vững các cửa khẩu hiên có, mở thêm các cửa
khẩu và các tuyến đường vòng tránh, kết hợp giữa vận chuyển đường bộ và vận chuyển
đường sông. Bộ Tổng Tham mưu điều hai trung đoàn, 45 đại đội cao xạ, một số tiểu
đoàn công binh, ô tô vận tải bổ sung cho tuyến vận tải. Tuy vậy, việc đảm bảo giao
thông, vận tải chuyển giao hàng hóa vẫn gặp nhiều trở ngại, khó khăn; lực lượng và
phương tiện của ta vẫn tiếp tục bị tổn hao nặng… do sự đánh phá ngày càng gia tăng
của không quân Mỹ.
Từ 1969, cuộc chiến tranh ngăn chặn của Mỹ càng trở nên quyết liệt. Các thành
tựu mới nhất của nền khoa học – kĩ thuật và công nghiệp chiến tranh Mỹ được đưa vào
sử dụng. Hơn thế nữa để tăng thêm hiệu quả ngăn chặn, địch thường xuyên thay đổi
chiến thuật và quy luật đánh phá, tăng cường hoạt động của máy bay AC 130 gắn khí tài
quan sát, phát hiện mục tiêu bằng tia hồng ngoại và tiêu diệt mục tiêu bằng tia rốc két
40mm, đẩy mạnh trinh sát điện tử, mở rộng căn cứ xuất phát của không quân để tăng
thêm số lượng máy bay và số lần xuất kích…Từ 1969 đến 1971, một khối lượng khổng
lồ bom, mìn chờ nổ, bao gồm nhiều chủng loại được rải dọc tuyến đường mòn, đặc biệt
ở các khu vực địa hình hiểm yếu, các đầu mối giao thông, tạo nên các điểm tắc dài ngày
rất khó khắc phục.
Sự đánh phá ngăn chặn dữ dội của địch đã gây nhiều khó khăn, trở ngại cho hoạt
động vận chuyển của ta. Để đảm bảo chi viện cho chiến trường miền Nam, cuộc chiến
đấu trên tuyến vận tải chiến lược 559 trong thời kì này diễn ra hết sức quyết liệt. Lúc
này đoàn 559 đảm nhận nhiệm vụ chiến đấu và vận tải chi viện chiến trường trên một
khu vực rộng lớn từ Nam sông Gianh (Quảng Bình) đến miền Đông Nam Bộ, qua Đông
Bắc Campuchia và Hạ Lào, với tổng chiều dài toàn tuyến vận chuyển tới 6.000 km
ngang qua nhiều khu vực địa hình phức tạp. Để hoàn thành nhiệm vụ, Đoàn được tăng
cường một lực lượng lớn, nâng tổng số quân của Đoàn 559 lên tới 70.000 người; được
bổ sung hơn 3.500 xe ôtô, 200 khẩu pháo cao xạ và súng cối, 100 chiếc xe ủi, xe kĩ
thuật rà phá bom mìn, 700 máy vô tuyến điện. Toàn bộ lực lượng trên được tổ chức
thành các bộ phận cơ động và tại chỗ.
Bên cạnh vận tải đường bộ, trước đòi hỏi cấp bách của chiến trường, Quân ủy
Trung ương chỉ thị “phải tích cực tăng tỉ lệ vận chuyển đường song, đường ống, phải
24
Vai trò của hậu phương lớn miền Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1965-
1975)
nhanh chóng cải tạo các dòng song, khẩn trương đưa đường ống vào càng sớm càng
tốt”. Được sự hỗ trợ, giúp đỡ tích cực của Nhà nước, của chính quyền và nhân dân địa
phương khu vực đường ống đi qua, cán bộ, chiến sĩ, nhân viên làm nhiệm vụ và xây
dựng tuyến đường ống qua cán bộ, chiến sĩ, nhân viên làm nhiệm vụ xây dựng tuyến
đường ống chiến lược nối từ hậu phương miền Bắc tới chiến trường miền Nam đã khắc
phục muôn vàn gian khổ, trụ bám kiên cường cả những nơi máy bay địch đêm ngày bắn
phá, tìm hiểu và nắm vững quy luật hoạt động của máy bay địch để tìm đối phó hiệu
quả, kiên quyết gia tăng tiến độ thi công. Nhờ đó, trong ba năm (1969 đến 1971), hệ
thống đường ống dài gần 1.000 km được lắp đặt và đi vào hoạt động.
Nhờ hệ thống đường ống, nguồn nhiên liệu được đảm bảo, Đoàn 559 và các chiến
trường có thêm điều kiện tăng cường hoạt động vận tải cơ giới và sử dụng các phương
tiện kĩ thuật hiện đại phục vụ chiến đấu, đặc biệt vào thời kì quân ta mở các chiến dịch
quân sự lớn trên chiến trường. Năm 1969. Khối lượng hàng vận tải vào chiến trường
thông qua tuyến đường 559 là 170.000 tấn, tăng 29% so với năm 1968, bao gồm hàng
chục vạn khẩu súng bộ binh sung B40, B41, ĐKZ và hàng trăm triệu viên đạn các loại,
hàng nghìn máy vô tuyến điện…Cũng trong năm này, hơn 80.000 quân từ miền Bắc
hành quân vượt Trường Sơn vào bổ sung cho các chiến trường miền Nam. Các năm
1970 và 1971, miền Bắc đã gửi vào chiến trường một khối lượng lớn vật chất và 195
ngàn quân thuộc các binh chủng, đáp ứng yêu cầu kiện toàn tổ chức, biên chế, trang bị
lực lượng vũ trang ba thứ quan, tăng nhanh thành phần binh chủng ở các chiến trường,
tạo điều kiện cho bộ đội ta nâng cao trình độ tác chiến, mở các chiến dịch quân sự lớn
đánh bằng lực lượng binh chủng hợp thành, góp phần quyết định làm xoay chuyển cục
diện chiến tranh.
2.4.2 Giai đoạn 1973-1975
Cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân do Mỹ gây ra đối với
miền Bắc trong hai lần (kéo dài gần 6 năm), nhất là cuộc tập kích chiến lược B52 của
Mỹ trong 12 ngày đêm cuối năm 1972, đã gây ra những thiêt hại hết sức nặng nề đối với
miền Bắc. Hơn 9 triệu tấn bom Mỹ đã ném xuống miền Bắc. Tính bình quân cứ 1km
2
phải chịu đựng 6 tấn bom, và mỗi người dân miền Bắc phải chịu đựng tới hơn 45kg
bom. Hơn 200.000 người bị chết và bị thương, trong đó có khoảng 80.000 người bị chết
do bom đạn của hai cuộc chiến phá hoại. Hầu hết các thành phố, thị xã đều bị đánh phá,
25