Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Ngữ Văn 9 Hoàng Lê Nhất Thống Chí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.37 KB, 4 trang )

Hồng Lê Nhất Thống Chí
A. Tìm hiểu chung:
- Tác giả: Ngơ Gia Văn Phái-1 nhóm tác giả thuộc dịng họ Ngơ Thì, trong đó có 2 tác giả
chính là Ngơ Thì Chí ( làm quan dưới triều Lê) và Ngơ Thì Du (làm quan dưới triều Nguyễn)
- Tác phẩm:
a. Hcst: Viết trong khoảng thời gian dài ở nhiều thời điểm khác nhau, trong giai đoạn
lịch sử đầy biến động của xã hội phong kiến Việt Nam cuối thế kỉ 18 đầu thế kỉ 19
b. Xuất xứ: Hồi thứ 14 trong tổng số 17 hồi của “Hồng Lê nhất thống chí”
c. Thể loại: Tiểu thuyết lịch sử được viết bằng chữ Hán theo lối chương hồi
d. Ý nghĩa nhan đề: Ghi chép về sự thống nhất của vương triều nhà Lê vào thời điểm
Tây Sơn diệt Trịnh, trả lại Bắc Hà cho vua Lê
e. Nội dung:
- Luận điểm 1: Ca ngợi hình tượng người anh hùng Quang Trung (Nguyễn Huệ)
- Luận điểm 2: Sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh và vua tơi Lê Chiêu Thống
B. Tìm hiểu chi tiết:
I. Hình ảnh người anh hùng Quang Trung (Nguyễn Huệ)
1.Hành động mạnh mẽ, quyết đốn
- Trong tồn bộ đoạn trích, hình ảnh vua Quang Trung hiện lên mạnh mẽ, quyết đốn,
xơng xáo, nhanh gọn, có chủ đích.
- Nghe tin giặc đánh chiếm thành Thăng Long, mất cả 1 vùng đất đai rộng lớn nhưng ông
không hề nao núng “định thân chinh cầm quân đi ngay”
- Chỉ trong khoảng 1 tháng, ông làm được rất nhiều việc lớn:
+ Tế cáo trời đất
+ Lên ngơi hồng đế
+ Đốc suất đại binh ra Bắc
+ Tuyển mộ quân lính, mở cuộc duyệt binh lớn ở Nghệ An, truyền lời dụ đến quân lính
+ Mở tiệc khao quân ở Tam Điệp, sau đó chia 5 đạo quân lên đường tiến quân ra Bắc
2. Là người có trí tuệ sáng suốt, nhạy bén
a. Trong việc lên ngơi:
- Ngay khi mấy chục vạn quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị cầm đầu hùng hổ kéo vào nước ta,
thế giặc mạnh, tình hình nước ta ngàn cân treo sợi tóc, Nguyễn Huệ quyết định lên ngơi


để chính hiệu danh vị, lấy niên hiệu là Quang Trung
- Việc lên ngơi hồng đế đã được tính kĩ với mục đích thống nhất nội bộ, hội tụ anh tài,
yên lòng kẻ phản trắc, được nhân dân đồng tình ủng hộ
b. Trong việc nhận định tình hình ta-địch:
- Khi giặc Thanh ồ ạt tiến vào nước ta, thế giặc mạnh, quân ta còn non yếu, đặc biệt 1 số
kẻ ăn ở 2 lòng nên vua Quang Trung đã có lời dụ tướng sĩ trước lúc lên đường ở Nghệ An:
+ Khẳng định chủ quyền lãnh thổ: “Trong khoảng vũ trụ đất nào sao ấy đều đã được
phân chia rõ ràng, người phương Bắc, phương Nam chia nhau mà cai trị”


+ Vạch trần dã tâm xâm lược của giặc: “ Người phương Bắc khơng phải nịi giống nước
ta, bụng dạ ắt khác”
+ Tố cáo tội ác của giặc để dấy lên lòng căm thù giặc: “ Từ đời nhà Hán đến nay, chúng
đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân, vơ vét của cải, người mình khơng ai
chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi”
+ Khích lệ ý chí lập cơng danh: Đưa ra những tấm gương xả thân vì nước đời nào cũng
có: “Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hồng, Lê Đại Hành, đời Nguyên
có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ..”
+ Quang Trung dự kiến việc vua Lê Chiêu Thống về nước sẽ khiến cho 1 số kẻ phù Lê thay
lịng đổi dạ nên ơng đã có những lời dụ vừa chí tình, vừa nghiêm khắc “Các ngươi đều là
những kẻ có lương tri, lương năng, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực, để dựng nên công
lớn. Chớ có quen theo thói cũ, ăn ở hai lịng, nếu như việc phát giác ra, sẽ bị giết chết
ngay tức khắc, không tha một ai, chớ bảo là ta khơng nói trước!”
c. Trong việc xét đốn bề tơi:
- Ơng hiểu rõ sở trường, sở đoản của từng tướng
- Khi giặc Thanh kéo vào nước ta, Sở và Lân rút qn về Tam Điệp vì Thăng Long 4 phía
trơ trọi, rút về Tam Điệp để dựa sông dựa núi. Nhưng Quang Trung khơng những khơng
trách phạt mà ơng lại cịn ngợi khen. Bởi ơng biết rằng chủ mưu chính là Ngơ Thì Nhậm,
hơn nữa ơng hiểu việc rút qn của Sở và Lân từ Thăng Long về Tam Điệp là đúng, vừa
bảo toàn lực lượng, vừa gây cho địch sự chủ quan. Điều đó cho thấy ơng đã đi ngược lại

với binh pháp xưa: Quân thua tại tướng, quân thua chém tướng. Ơng sử dụng Ngơ Thì
Nhậm như 1 bậc qn sư đa mưu túc trí, ơng cũng nghĩ đến việc dùng lời lẽ khéo léo của
Nhậm để dẹp việc binh đao.
3. Có tầm nhìn xa trơng rộng
- Vừa khởi binh đánh giặc, chưa giành được tấc đất nào, vua Quang Trung khẳng định
chắc như đinh đóng cột: chỉ mươi ngày đã có thể đánh đuổi được người Thanh
- Nhưng ông nghĩ chúng là nước lớn gấp mười nước mình, sau khi thua một trận sẽ lấy làm
thẹn, mang tiếng một nước lớn lại thua một nước nhỏ nên chắc chắn chúng sẽ quay lại
báo thù. Ông lo cho dân, thương dân vì việc binh đao mà để dân rơi vào cực khổ, đói
nghèo. Ngồi trên lưng ngựa, vua Quang Trung nói với Nhậm về quyết sách ngoại giao
trong 10 năm tới. Nhưng chờ chúng báo thù phải mười năm nữa, lúc ấy nước giàu qn
mạnh thì ta có sợ gì chúng.
4. Tài thao lược
a. Cuộc hành binh thần tốc:
- 25 tháng Chạp bắt đầu xuất quân từ Phú Xuân (Huế)
- 29 tháng Chạp đến Nghệ An
- 30 tháng Chạp đến Tam Điệp – Ninh Bình (cách Phú Xuân khoảng 500km)
- Đêm 30 tháng Chạp tiến quân ra Thăng Long. Từ Tam Điệp ra Thăng Long khoảng
150km, hoạch định kế hoạch mồng 7 tháng Giêng ăn Tết ở Thăng Long, nhưng thực tế là
mồng 5 tháng Giêng (sớm hơn 2 ngày)
Quãng đường từ Huế ra Thăng Long khoảng 650 km, vua Quang Trung hành quân trong
10 ngày, vừa đi vừa tuyển quân, đánh giặc, dụ binh, đội quân đi bộ đi liên tục mà
quần áo, đội ngũ lúc nào cũng chỉnh tề, ngay ngắn.


b. Mưu trí đánh giặc:
- Hơn 1 vạn quân mới tuyển đặt ở vị trí trung tâm, cịn qn tinh nhuệ bao bọc 4 phía
tiền, hậu, tả, hữu
+ Ở làng Hà Hồi, nghĩa quân Tây Sơn vây kín làng, bắc loa truyền gọi, tiếng quân lính
luân phiên nhau dạ ran để hưởng ứng, nghe như có hơn vài vạn người. Trong đồn lúc ấy

mới biết, ai nấy đều rụng rời sợ hãi, liền xin ra hàng, lương thực khí giới đều bị quân Nam
lấy hết.
+ Vua Quang Trung truyền lấy 6 chục tấm ván, cứ ghép liền 3 tấm làm 1 bức., bên ngồi
lấy rơm dấp nước phủ kín, kén lính cứ 10 người khênh 1 bức, 20 người cầm binh khí theo
sau, nhất tề xơng tới.
+ Mờ sáng ngày mồng 5 tiến sát đồn Ngọc Hồi, quân Thanh dùng ống phun khói lửa ra,
khói toả mù trời, trong chốc lát trời trở gió Nam, quân Thanh tự làm hại mình
Mưu lược tài tình: lấy yếu thắng mạnh, lấy ít địch nhiều, biết chớp thời cơ, thiên biến
vạn hoá, phản cơng bất ngờ khiến giặc khơng kịp trở tay. Có thể thấy mỗi trận Quang
Trung đều có phương lược tiến đánh khác nhau, trận nào cũng rất đẹp, rất hay và
mang lại chiến thắng vẻ vang cho nghĩa quân Tây Sơn.
5. Một vị vua oai phong lẫm liệt trong trận chiến
- Vua Quang Trung không phải 1 vị tổng chỉ huy trên danh nghĩa mà ông tham gia chiến
dịch trực tiếp: từ việc hoạch định phương lược tiến đánh đến tổ chức qn sĩ, tuyển
qn ơng đều tự mình chỉ huy. Ông cưỡi voi đi đốc thúc, tham gia trận mạc, bày mưu tính
kế.
- Đội quân của vua Quang Trung khơng phải tất cả đều là lính thiện chiến, qn tinh nhuệ
mà vẫn hành binh thần tốc, liên tục, chỉnh tề, đánh những trận thật đẹp khiến kẻ thù
khiếp vía.
- Vua Quang Trung chỉ huy đánh sạch giặc trên đường để giặc khơng có cơ hội về cấp
báo, tạo thế cho ta phản công bất ngờ
- Trong trận đánh đồn Ngọc Hồi, vua Quang Trung hiện lên thật đẹp trong khơng gian
khói toả mù trời, cách gang tấc khơng thấy gì, nổi bật lên là hình ảnh vua Quang Trung
khốc áo bào màu đỏ đã sạm đen khói súng.
Quân Thanh không chống nổi, bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chết, tên Thái
thú là Sầm Nghi Đống thắt cổ tự vẫn. Quân Tây Sơn thừa thế chém giết lung tung, thây
nằm đầy đồng, máu chảy thành suối. Quân Thanh đại bại.
=>Vua Quang Trung trở thành linh hồn của các chiến cơng vĩ đại. Hình tượng người
anh hùng Quang Trung (Nguyễn Huệ) trong đoạn trích “Hồng Lê nhất thống chí- hồi
thứ XIV” là hình tượng người anh hùng đẹp nhất trong lịch sự văn học cổ điển Việt

Nam. Vua Quang Trung được khắc họa đậm nét với tính cách mạnh mẽ, hành động
quyết đốn, trí tuệ sáng suốt, tầm nhìn xa trơng rộng, tài dụng binh như thần và oai
phong lẫm liệt trong chiến trận
II. Sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh và bè lũ vua tôi bán nước:
a.Sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh:
- Tướng: Không hay biết tin cấp báo gì, chỉ chăm chú vào việc yến tiệc vui mừng, không
hề lo chi đến việc bất trắc:
+ Sầm Nghi Đống: thắt cổ tự tử


+ Tôn Sĩ Nghị: sợ mất mật, ngựa không kịp đóng n, người khơng kịp mặc áo giáp, dẫn
lính kị mã chuồn trước qua cầu phao.
- Quân: Quân doanh nghe tin đều hoảng hồn, tan tác bỏ chạy, tranh nhau qua cầu sang
sông, xô đẩy nhau rơi xuống mà chết rất nhiều. Quân tranh nhau qua cầu, cầu phao đứt,
quân lính đều rơi xuống, nước sơng Nhị Hà vì thế mà tắc nghẽn khơng chảy thành dịng
được.
b. Số phận thảm bại của bè lũ vua tôi bán nước:
- Vua Lê nghe tin có việc biến, vội vã cùng bọn Lê Quýnh, Trịnh Hiến đưa thái hậu ra
ngoài.
- Thấy cầu phao đứt, thuyền bè cũng khơng cịn, cả bọn vội cướp lấy chiếc thuyền đánh
cá rồi chèo sang bờ bắc.
- Quân Thanh chạy về nước, đi liên tục đêm ngày không dám nghỉ ngơi
- Khi gặp người thổ hào, vua Lê Chiêu Thống đã cầu cạnh van xin người thổ hào chỉ cho
con đường trốn, khơng cịn tư cách của 1 bậc quân vương.
- Khi đuổi kịp Tôn Sĩ Nghị chỉ cịn biết nhìn nhau than thở, ốn giận chảy nước mắt
- Cuối cùng vua Lê Chiêu Thống gửi xương tàn nơi đất khách.




×