Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Tài liệu Chuyên đề về tiền tệ và chính sách tiền tệ của nhà nước pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (298.33 KB, 33 trang )

Chuyên đề về
tiền tệ và chính
sách tiền tệ của
nhà nước
1
MỤC LỤC
Chuyên v ti n t và chính sách ti n t c a nhà n cđề ề ề ệ ề ệ ủ ướ 1
M C L CỤ Ụ 2
Phát hành ti n tề ệ 20
Ngân hàng c a các t ch c tín d ngủ ổ ứ ụ 20
Ngân hàng c a Chính phủ ủ 21
LỜI MỠ ĐẦU
I. Khái quát chung
Kinh tế học vĩ mô là một phân ngành của kinh tế học chuyên nghiên cứu về đặc
điểm, cấu trúc và hành vi của cả một nền kinh tế nói chung. Kinh tế học vĩ mô và
kinh tế học vi mô là hai lĩnh vực chung nhất của kinh tế học. Trong khi kinh tế học
vi mô chủ yếu nghiên cứu về hành vi của các cá thể đơn lẻ, như công ty và cá nhân
người tiêu dùng, kinh tế học vĩ mô lại nghiên cứu các chỉ tiêu cộng hưởng như
2
GDP, tỉ lệ thất nghiệp, và các chỉ số giá cả để hiểu cách hoạt động của cả nền kinh
tế.
Kinh tế học vĩ mô là một lĩnh vực tổng quát nhưng có hai khu vực nghiên cứu điển
hình:
• Nghiên cứu nguyên nhân và hậu quả của biến động ngắn đối với thu nhập
quốc gia (còn gọi là chu kỳ kinh tế), và
• Nghiên cứu những yếu tố quyết định cho tăng trưởng kinh tế bền vững.
Các chuyên gia kinh tế học vĩ mô phát triển các mô hình để giải thích mối quan hệ
giữa các yếu tố như thu nhập quốc gia, sản lượng, tiêu dùng, thất nghiệp, lạm phát,
tiết kiệm, đầu tư, buôn bán đa quốc gia và tài chính đa quốc gia, các chính sách ổn
định kinh tế vĩ mô của chính phủ. Các mô hình này và các dự báo do chúng đưa ra
được cả chính phủ lẫn các tập đoàn lớn sử dụng để giúp họ phát triển và đánh giá


các chính sách kinh tế và các chiến lược quản trị.
Lịch sử đã chứng minh rằng, các nền kinh tế thị trường thành công nhất đều không
thể phát triển một cách tự phát nếu thiếu sự can thiệp và hỗ trợ của Nhà nước. Các
nền kinh tế thị trường nguyên thuỷ dựa trên cơ sở sản xuất và trao đổi giản đơn có
thể hoạt động một cách có hiệu quả mà không cần sự can thiệp của Nhà nước. Tuy
nhiên, vì nền kinh tế tăng trưởng dưới tác động bên ngoài ngày một phức tạp nên
sự can thiệp của Nhà nước xuất hiện như một tất yếu cho sự hoạt động có hiệu quả
của nền kinh tế thị trường. Trong các nền kinh tế thị trường đã Phát triển, Nhà
nước có 3 chức năng kinh tế rõ rệt là: can thiệp, quản lý và điều hoà phúc lợi. Mặc
dù còn có những hạn chế nhất định, song sự điều tiết của Nhà nước vẫn là một
trong các hoạt động của nền kinh tế thị trường. Theo đó, thị trường tự do với đúng
nghĩa của nó không thể tồn tại, ngoại trừ trong các lý thuyết kinh tế.
Quả thực, không thể phủ nhận vai trò của Nhà nước trong các lĩnh vực như: ổn
định kinh tế vĩ mô thông qua chính sách tài chính và tiền tệ.
- Chính sách tài chính bao gồm các chính sách thuế và chi tiêu ngân sách
của Nhà nước nhằm điều tiết chu kỳ kinh tế, đảm bảo công ăn việc làm, ổn
định giá cả và tăng trưởng liên tục của nền kinh tế
- Chính sách tiền tệ là quá trình quản lý hỗ trợ đồng tiền của chính phủ hay
ngân hàng trung ương để đạt được những mục đích đặc biệt- như kiềm chế
lạm phát, duy trì ổn định tỷ giá hối đoái, đạt được toàn dụng lao động hay
tăng trưởng kinh tế. Chính sách lưu thông tiền tệ bao gồm việc thay đổi các
loại lãi suất nhất định, có thể trực tiếp hay gián tiếp thông qua các nghiệp
vụ thị trường mở; qui định mức dự trữ bắt buộc; hoặc trao đổi trên thị
trường ngoại hối.
3
Sau đây em xin trình bày những vấn đề chính của chính sách tiền tệ. Mục tiêu là
tìm hiểu về thị trường tiền tệ; Tìm hiểu chính sách tiền tệ mà chính phủ đã sử dụng
để điều tiết nền kinh tế vĩ mô.
II. Những nội dung chính
- Tìm hiểu khái quát về tiền tệ

- Các hình thái tiền tệ
- Các chức năng của tiền tệ
- Cung tiền tệ
- Cầu tiền tệ
- Tác động của tiền tệ đối với hoạt động kinh tế
- Cân bằng trên thị trường tiền tệ
- Tìm hiểu khái quát về ngân hàng
- Chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương
- Phối hợp chính sách tiền tệ và chính sách tài chính
- Chính sách tiền tệ năm 2010
1. Tìm hiểu khái quát về tiền tệ
a. Tính chất và nguồn gốc của tiền tệ
 Tính chất của tiền tệ
Để có thể thực hiện được các chức năng của tiền, tiền tệ (hay tiền trong lưu thông)
phải có các tính chất cơ bản sau đây:
• Tính được chấp nhận rộng rãi: đây là tính chất quan trong nhất của tiền tệ,
người dân phải sẵn sàng chấp nhận tiền trong lưu thông, nếu khác đi nó sẽ
không được coi là tiền nữa. Kể cả một tờ giấy bạc do ngân hàng trung ương
phát hành cũng sẽ mất đi bản chất của nó khi mà trong thời kỳ siêu lạm
phát, người ta không chấp nhận nó như là một phương tiện trao đổi.
• Tính dễ nhận biết: Muốn dễ được chấp nhận thì tiền tệ phải dễ nhận biết,
người ta có thể nhận ra nó trong lưu thông một cách dễ dàng. Chính vì thế
4
những tờ giấy bạc do ngân hàng trung ương phát hành được in ấn trông
không giống bất cứ một tờ giấy chất lượng cao nào khác.
• Tính có thể chia nhỏ được: tiền tệ phải có các loại mênh giá khác nhau sao
cho người bán được nhận đúng số tiền bán hàng còn người mua khi thanh
toán bằng một loại tiền có mệnh giá lớn thì phải được nhận tiền trả lại. Tính
chất này giúp cho tiền tệ khắc phục được sự bất tiện của phương thức hàng
đổi hàng: nếu một người mang một con bò đi đổi gạo thì anh ta phải nhận

về số gạo nhiều hơn mức anh ta cần trong khi lại không có được những thứ
khác cũng cần thiết không kém.
• Tính lâu bền: tiền tệ phải lâu bền thì mới thực hiện được chức năng cất trữ
giá trị cũng như mới có ích trong trao đổi. Một vật mau hỏng không thể
dùng để làm tiền, chính vì vậy những tờ giấy bạc được in trên chất liệu có
chất lượng cao còn tiền xu thì được làm bằng kim loại bền chắc.
• Tính dễ vận chuyển: để thuận tiện cho con người trong việc cất trữ, mang
theo, tiền tệ phải dễ vận chuyển. Đó là lý do vì sao những tờ giấy bạc và
những đồng xu có kích thước, trọng lượng rất vừa phải chứ tiền giấy không
được in khổ rộng ví dụ như khổ A4.
• Tính khan hiếm: Để dễ được chấp nhận, tiền tệ phải có tính chất khan hiếm
vì nếu có thể kiếm được nó một cách dễ dàng thì nó sẽ không còn ý nghĩa
trong việc cất trữ giá trị và không được chấp nhận trong lưu thông nữa. Vì
thế trong lịch sử những kim loại hiếm như vàng, bạc được dùng làm tiền tệ
và ngày nay ngân hàng trung ương chỉ phát hành một lượng giới hạn tiền
giấy và tiền xu.
• Tính đồng nhất: tiền tệ phải có giá trị như nhau nếu chúng giống hệt nhau
không phân biệt người ta tạo ra nó lúc nào, một đồng xu 5.000 VND được
làm ra cách đây 2 năm cũng có giá trị như một đồng xu như thế vừa mới
được đưa vào lưu thông. Có như vậy tiền tệ mới thực hiện chức năng là đơn
vị tính toán một cách dễ dàng và thuận tiện trong trao đổi
Nguồn gốc tiền tệ
Từ rất sớm trong lịch sử loài người đã xuất hiện nhu cầu phải có một hình
thức tiền tệ làm trung gian trao đổi.
Ngày nay, chúng ta sử dụng cả tiền xu và tiền giấy, nhưng thực tế không phải
lúc nào cũng vậy. Trước khi những đồng tiền kim loại và tiền giấy có mặt, con
người đã sử dụng nhiều thứ khác thường để mua thứ họ cần, Chẳng hạn, ở một nơi
nọ trên thế giới, người ta sử dụng răng cá mập như là tiền. Ở nhiều nơi khác, tiền
có thể là những chiếc lông chim sặc sỡ và những chiếc vỏ sò quý hiếm. Có nơi
người ta còn dùng cộng lông cứng trên đuôi voi để làm tiền. Lông chim là loại tiền

nhẹ nhất từ trước đến nay. Chúng được sử dụng trên đảo Santa Cruz. Đá là loại
tiền nặng nhất từ trước đền giờ. Chúng được sử dụng trên đảo Yap ở Thái Bình
Dương. Có hòn nặng trên £500 (1£ = 0,4536 kg). Loại tiền nhỏ nhất từ trước đến
5
nay được phát hiện ở Hy Lạp. Tiền được làm bằng kim loại, nhưng có kích thước
nhỏ hơn hạt táo. Không ai biết chính xác người ta bắt đầu sử dụng tiền dưới những
hình thức đồng tiền kim loại từ khi nào. Các nhà khảo cổ đã phát hiện những
đồng tiền kim loại có từ năm 600 trước công nguyên, vì thế ta biết chúng đã được
lưu hành trong suốt một thời gian dài. Lúc đầu người ta sử dụng những kim loại
quý như vàng và bạc để chế tiền xu. Họ in hình người hoặc (con) thú trên mỗi
đồng tiền để xác định giá trị của nó. Trong những năm 1200, người Trung Quốc
đúc những đồng tiền bằng sắt. Những đồng tiền này giá trị chẳng là bao, cho nên
người dân phải sử dụng một số lượng lớn khi mua hàng. Do đó rất bất tiện khi
phải mang một số lượng lớn những đồng tiền sắt nặng nề nên chính phủ đã cho in
những giấy biên nhận. Người ta mang các biên nhận này đến ngân hàng để đổi ra
tiền xu. Đây là ví dụ đầu tiên ta có được về việc phát hành và sử dụng tiền giấy.
Ngày nay, hầu hết các nước đều sử dụng cả tiền xu lẫn tiền giấy. Ở Mỹ, các loại
tiền giấy đều có cùng kích cỡ và màu sắc như nhau. Chẳng hạn, tờ một đô la có
cùng kích cỡ và màu sắc y như tờ một trăm đô la. Ở nhiều quốc gia khác, tiền giấy
được in dưới nhiều kích cỡ và màu sắc khác nhau. Tờ có kích thước nhỏ hơn thì có
giá trị thấp hơn. Việc này tạo điều kiện cho chúng ta chỉ cần nhìn thoáng qua là có
thể xác định được giá trị của chúng. Tất cả những sự kiện này khiến lịch sử tiền tệ
trở thành một công cuộc nghiên cứu lý thú.
b. Khái niệm tiền tệ
Tiền tệ là bất cứ một phương tiện nào được thừa nhận chung để thanh toán
cho việc giai hàng hoặc để thanh toán nợ nần.
Tiền tệ là tiền khi chỉ xét tới chức năng là phương tiện thanh toán, là đồng
tiền được luật pháp quy định để phục vụ trao đổi hàng hóa và dịch vụ của một
quốc gia hay nền kinh tế. Vì định nghĩa như vậy, tiền tệ còn được gọi là "tiền lưu
thông". Tiền tệ có thể mang hình thức tiền giấy hoặc tiền kim loại (tiền xu) do Nhà

nước (ngân hàng trung ương, Bộ Tài chính, v.v ) phát hành.
Khi phân biệt tiền tệ của quốc gia này với tiền tệ của quốc gia khác, người ta
dùng cụm từ "đơn vị tiền tệ". Đơn vị tiền tệ của nhiều quốc gia có thể có cùng một
tên gọi (ví dụ: dollar, franc ) và để phân biệt các đơn vị tiền tệ đó người ta
thường phải gọi kèm tên quốc gia sử dụng đồng tiền (ví dụ: dollar Úc). Với sự
hình thành của các khu vực tiền tệ thống nhất, ngày nay có nhiều quốc gia dùng
chung một đơn vị tiền tệ như đồng EUR. Đơn vị tiền tệ của Việt nam được gọi là
đồng, ký hiệu dùng trong nước là "đ", ký hiệu quốc tế là VND, đơn vị nhỏ hơn
của đồng là hào (10 hào = 1 đồng) và xu (10 xu = 1 hào). Tiền tệ là phương tiện
thanh toán pháp quy nghĩa là luật pháp quy định người ta bắt buộc phải chấp
nhận nó khi được dùng để thanh toán cho một khoản nợ được xác lập bằng đơn vị
tiền tệ ấy. Một tờ séc có thể bị từ chối khi được dùng để thanh toán nợ nhưng tiền
giấy và tiền kim loại thì không. Tuy nhiên tiền kim loại có thể là phương tiện
thanh toán pháp quy bị luật pháp của một quốc gia giới hạn không vượt quá một
6
số lượng đơn vị tiền tệ nào đó tuỳ theo mệnh giá của những đồng tiền kim loại ấy.
Theo luật pháp của Việt nam, tiền giấy và tiền kim loại là phương tiện thanh
toán pháp quy không giới hạn.
Ngoài ra trong kinh tế học còn có một số khái niệm về tiền:
• Tiền mặt: là tiền dưới dạng tiền giấy và tiền kim loại. Có khả năng thanh
toan cao nhất.
• Tiền gửi: là tiền mà các doanh nghiệp và cá nhân gửi vào ngân hàng
thương mại nhằm mục đích phục vụ các thanh toán không dùng tiền mặt.
Chúng có thể dễ dàng chuyển thành tiền mặt.
• Chuẩn tệ: là những tài sản có thể dễ dàng chuyển thành tiền, chẳng hạn
như trái phiếu, kỳ phiéu, hối phiếu, tiền tiết kiệm, ngoại tệ.
2. Các hình thái tiền tệ
Nghiên cứa lịch sử phát sinh và phát triển của tiền tệ cho thấy tiền tệ đã trải qua
nhiều hình thái. Sau đây là các hình thái cơ bản của tiền tệ.
a. Hóa tệ

Một hàng hóa nào đó giữ vai trò làm vật trung gian trao đổi được gọi là hóa tệ.
Hóa tệ bao gồm: Hóa tệ không kim loại và hóa tệ bằng kim loại
 Hóa tệ không kim loại
Sản xuất và trao đổi hàng hoá ngày càng phát triển. Sự trao đổi không còn
ngẫu nhiên, không còn trên cơ sở của định giá giản đơn. Trao đổi đã vượt khỏi cái
khung nhỏ hẹp một vài hàng hoá, giới hạn trong một vài địa phương. Sự trao đổi
ngày càng nhiều hơn đó giữa các hàng hoá đòi hỏi phải có một hàng hoá có tính
đồng nhất, tiện dụng trong vai trò của vật ngang giá, có thể tạo điều kiện thuận lợi
trong trao đổi, và bảo tồn giá trị. Những hình thái tiền tệ đầu tiên có vẻ lạ lùng,
nhưng nói chung là những vật trang sức hay những vật có thể ăn. Thổ dân ở các bờ
biển Châu Á, Châu Phi, trước đây đã dùng vỏ sò, vỏ ốc làm tiền. Lúa mì và đại
mạch được sử dụng ở vùng Lưỡng Hà, gạo được dùng ở quần đảo Philippines.
Trước Công nguyên, ở Trung Quốc kê và lụa được sử dụng làm tiền…
Tiền tệ bằng hàng hoá có những bất tiện nhất định của nó trong quá trình phục
vụ trao đổi như không được mọi người mọi nơi chấp nhận, dễ hư hỏng, không
đồng nhất … do đó dẫn đến việc sử dụng hoá tệ bằng kim loại.
Hóa tệ bằng kim loại
Khi sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển kèm theo sự mở rộng phân công
lao động xã hội, đồng thời với sự xuất hiện của Nhà nước và giao dịch quốc tế
7
thường xuyên, kim loại ngày càng có những ưu điểm nổi bậc trong vcai trò của vật
ngan giá bởi những thuộc tính bền, gọn, có giá trị phổ biến, Những đồng tiền bằng
kim loại: đồng, chì, kẽm, thiếc, bạc, vàng…xuất hiện thay thế cho các hóa tệ
không kim loại.
- Lịch sử phát triển của tiền kim loại quý đã trải qua ba biến cố chủ yếu,
quyết định đến việc sử dụng phổ biến tiền bằng kim loại quý.
- Sự gia tăng dân số và phát triển đô thị ở các nước Châu Âu từ thế kỷ XIII
đưa đến sự gia tăng nhu cầu trao đổi.
- Các mỏ vàng ở Châu Âu không đủ cung ứng.
- Từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX bạch kim loại bị mất giá, trong thời gian

dài vàng, bạc song song được sử dụng làm tiền; các nước Châu Âu sử dụng
cả vàng lẫn bạc. Chỉ các nước Châu Á mới sử dụng bạc (do không đủ vàng)
đến cuối thế kỷ XIX bạc ngày càng mất giá do vậy các nước Châu Âu và cả
Hoa Kỳ quyết định và sử dụng vàng, các nước Chấu Á như Nhật Bản, Ấn
Độ, Trung Hoa do lệ thuộc sự nhập cảng nguyên liệu máy móc… từ
Phương Tây nên cũng bãi bỏ bạc sử dụng vàng. Ở Đông Dương, bạc được
sử dụng làm tiền từ 1885 đến 1931. Đến năm 1931 đồng bạc Đông Dương
từ bản vị bạc sang bản vị vàng, có thể cho rằng, khoảng từ 1935 chỉ còn
một kim loại quý được tất cả các nước chấp nhận làm tiền trên thế giới là
vàng.
b. Tín tệ
Tín tệ được hiểu là thứ tiền tự nó không có giá trị nhưng do sự tín nhiệm của
mọi người mà nó được lưu dụng. Tín tệ có thể bao gồm tiền bằng kim loại và tiền
giấy.
- Tiền bằng kim loại thuộc hình thái tín tệ khác với kim loại tiền tệ thuộc
hình thái hoá tệ. Ở hình thái này giá trị nội tại của kim loại thường không
phù hợp với giá trị danh nghĩa.
- Tiền giấy bao gồm tiền giấy khả hoán và tiền giấy bất khả hoán.
- Tiền giấy khả hoán là thứ tiền được lưu hành thay cho tiền vàng hay tiền
bạc ký thác ở ngân hàng. Bất cứ lúc nào mọi người cũng có thể đem tiền
giấy khả hoán đó đổi lấy vàng hay bạc có giá trị tương đương với giá trị
được ghi trên tiền giấy khả hoán đó.
Ở Trung Hoa từ đời Tống đã xuất hiện tiền giấy. Vì những nhu cầu mua bán,
các thương gia hình thành từng thương hội có nhiều chi nhánh ở khắp các thị trấn
lớn. Các thương gia ký thác vàng hay bạc vào hội sở của thương hội rồi nhận giấy
8
chứng nhận của hội sở thương hội, với giấy chứng nhận này các thương gia có thể
mua hàng ở các thị trấn khác nhau có chi nhánh của thương hội, ngoài loại giấy
chứng nhận trên triều đình nhà Tống còn phát hành tiền giấy và được dân chúng
chấp nhận.

Ở Việt Nam vào cuối đời Trần, Hồ Quý Ly đã thí nghiệm cho phát hành tiền
giấy. Nhân dân ai cũng phải nộp tiền đồng vào cho Nhà nước, cứ 1 quan tiền đồng
đổi được 2 quan tiền giấy, việc sử dụng tiền giấy của Hồ Quý Ly thất bại vì nhà
Hồ sớm bị lật đổ, dân chưa quen sử dụng tiền giấy và sai lầm khi xác định quan hệ
giữa tiền đồng và tiền giấy (bao hàm ý nghĩa tiền giấy có giá trị thấp hơn).
Nguồn gốc của tiền giấy chỉ có thể được hiểu rõ khi xem xét lịch sử tiền tệ các
nước Châu Âu. Từ đầu thế kỷ thứ XVII, ở Hà Lan ngân hàng Amsterdam đã cung
cấp cho những thân chủ gởi vàng vào ngân hàng những giấy chứng nhận bao gồm
nhiều tờ nhỏ.Khi cần, có thể đem những tờ nhỏ này đổi lấy vàng hay bạc tại ngân
hàng.Trong thanh toán cho người khác các giấy nhỏ này cũng được chấp nhận.Sau
đó một ngân hàng Thụy Điển tên Palmstruch đã mạnh dạn phát hành tiền giấy để
cho vay.Từ đó ngân hàng Palmstruch có khả năng cho vay nhiều hơn vốn tự
có.Với nhiều loại tiền giấy được phát hành, lưu thông tiền tệ bị rối loại vì nhiều
nhà ngân hàng lạm dụng gây nhiều thiệt hại cho dân chúng. Do đó, vua chúa các
nước phải can thiệp vì cho rằng việc đúc tiền từ xưa là vương quyền và mặt khác
việc phát hành tiền giấy là một nguồn lợi to lớn. Vương quyền các nước Châu Âu
thừa nhận một ngân hàng tự có quyền phát hành tiền giấy với những điều kiện
nhất định:
+ Điều kiện khả hoán: có thể đổi lấy bất cứ lúc nào tại ngân hàng phát
hành.
+ Điều kiện dự trữ vàng là đảm bảo: ban đầu là 100%, sau còn 40%.
+ Điều kiện phải cho Nhà nước vai không tính lãi khi cần thiết.
- Tiền giấy bất khả hoán là thứ tiền giấy bắt buộc lưu hành, mọi người không
thể đem tiền giấy này đến ngân hàng để đổi lấy vàng hay bạc.
Nguồn gốc của tiền bất khả hoán là bởi những nguyên nhân sau:
+ Thế chiến thứ nhất đã làm cho các quốc gia tham chiến không còn đủ vàng
để đổi cho dân chúng.Nước Anh từ năm 1931 đã cưỡng bức lưu hành tiền
giấy bất khả hoán, nước Pháp năm 1936
+ Khủng hoảng kinh tế thế giới năm 1929 dẫn đến ở nước Đức mọi người đua
nhau rút tiền, do đó Ngân hàng Trung ương Đức đã phải dùng vàng trả nợ

nước ngoài và do đó số trữ kim gần như không còn.Tiến sĩ Schacht (1933
9
– 1936) đã áp dụng chính sách tiền tài trợ bằng cách phát hành trái phiếu,
để tài trợ sản xuất và những chương trình kinh tế, xã hội lớn.Biện pháp
này làm giảm 50% thất nghiệp, sản xuất tăng 41% (1934).Từ đó, nhiều
nhà kinh tế cho rằng giá trị tiền tệ không phải dựa vào dự trữ vàng như các
quan điểm trước đây.
c. Bút tệ
Bút tệ là một hình thái tiền tệ được sử dụng bằng cách ghi chép trong sổ sách
kế toán của Ngân hàng.Bút tệ xuất hiện lần đầu tại nước Anh,vào giữa thế kỷ XIX.
Để tránh những quy định chặt chẽ trong việc phát hành giấy bạc, các nhà ngân
hàng Anh đã sáng chế ra hệ thống thanh toán qua sổ sách ngân hàng.Bút tệ ngày
càng có vai trò quan trọng, ở những quốc gia có nền kinh tế phát triển và hệ thống
ngân hàng phát triển, người dân có thói quen sử dụng bút tệ.
d. Tiền điện tử
Có nhiều tên gọi cho thứ tiền này: tiền nhựa, tiền thông minh…Đây có phải là
một hình thái tiền tệ không là vấn đề chưa thống nhất. Một số quan điểm cho rằng
đây chỉ là “phương tiện chi trả mới”, sự “chuyển dịch vốn bằng điện tử”
3. Các chức năng của tiền tệ
a. Chức năng phương tiện trao đổi
Là một phương tiện trao đổi, tiền tệ được sử dụng như một vật môi giới trong
việc trao đổi các hàng hóa, dịch vụ. Đây là chức năng đầu tiên của tiền tệ, nó phản
ánh lí do tại sao tiền tệ lại xuất hiện và tồn tại trong nền kinh tế hàng hóa.
Trong nền kinh tế trao đổi trực tiếp, người ta phải tiến hành đồng thời hai dịch
vụ bán và mua với một người khác. Điều đó sẽ đơn giản trong trường hợp chỉ có ít
người tham gia trao đổi, nhưng trong điều kiện nền kinh tế phát triển, các chi phí
để tìm liếm như vậy là quá cao. Vì vậy, người ta cần sử dụng tiền làm môi
giớitrong quá trình này, tức là người ta trước hết sẽ đổi hàng hóa của mình lấy tiền
sau đó dùng tiền mua thứ hàng hóa mình cần. Rõ ràng việc thực hiện lần lược các
giao dịch bán và mua với hai người sẽ đễ dàng hơn nhiều so với việc thực hiện

đồng thời hai giao dịch đối với cùng một người.
Để thực hiện chức năng phương tiện trao đổi tiền phải có những tiêu chuẩn
nhất định:
10
- Được chấp nhận rộng rải: nó phải được con người chấp nhận rộng rải trong
lưa thông, bởi vì chỉ khi mọi người cùng chấp nhận nó thì người có hàng
hóa mới đồng ý đổi hàng lấy tiền;
- Có thể chia nhỏ được: để tạo thuận lợi cho việc trao đổi giữa các hàng hóa
có giá trị khác nhau;
- Dễ vận chuyển;
- Không bị hư hỏng một cách nhanh chóng;
- Được tạo ra hàng loạt một cách dễ dàng: để số lượng của nó đủ dùng trong
trao đổi;
- Có tính đồng nhất: các đồng tiền có cùng mệnh giá phải có sức mua ngan
nhau.
b. Chức năng đơn vị đánh giá
Chức năng thứ hai của tiền là đơn vị đánh giá, tức là tiền tệ được sử dụng làm
đơn vị để đo giá trị của hàng hóa, dịch vụ trong nền kinh tế. Trong chức năng này
giá trị của các hàng hóa được biểu hiện nằmg tiền. Nhờ đó mà việc trao đổi hàng
hóa được diển ra thuận lợi hơn.
Là một đơn vị đánh giá, nó tạo ra cơ sở thuận lợi cho việc sữ dụng tiền làm
phương tiện trao đổi. Nhưng củng chính trong quá trình trao đổi, sử dụng tiền làm
trung giang, các tỉ lệ trao đổi được hình thành theo tập quán tức là ngay từ khi mới
ra đời, việc sử dụng tiền làm phương tiện trao đổi đã dẩn tới việc dùng tiền làm
đơn vị đánh giá. Đầu tiên những phương tiện được sử dụng làm tiền để biểu hiện
giá trị hàng hóa củng có giá trị như các hàng hóa khác. Cơ sở cho việc tiền biểu
hiện giá trị các hàng hóa khác chính là tiền củng có giá trị sử dụng như các hàng
hóa khác (theo phân tích của C.Mác về sự phát triển của các hình thái biểu hiện
giá trị hàng hóa: giá trị hàng hóa được biểu hiện ở giá trị sử dụng của hàng hóa
đóng vai trò vật ngang giá, vật ngang giá chung). Vì vậy, trong thời đại ngày nay,

mặc dù các phương tiện được sử dụng là tiền không có giá trị như các hàng hóa
khác nhưng nó được mọi người chấp nhận trong lưa thông (có giá trị sử dụng đặc
biệt), do đó vẩn được sử dụng để đánh giá giá trị các hàng hóa. Trong bất kể nền
kinh tế tiền tệ nào, việc sử dụng tiền làm đơn vị đo lường giá trị điều mang tính
chất trừu tượng, vừa mang tính pháp lí, vừa có tính quy ước.
c. Chức năng phương tiện dự trữ giá trị
Là một phương tiện dự trữ giá trị, tiền tệ là nơi cất giữ sức mua qua thời gian. Khi
người ta nhận được thu nhập mà chưa muốn tiêu nó hoặc chưa có điều kiện để chi
11
tiêu ngay, tiền là một phương tiện dùng cho việc cất giữ sức mua trong các trường
hợp này hoặc có thể người ta giữ tiền chỉ đơn thuần là việc để lại của cải.
Việc thực hiện chức năng phương tiện dự trữ giá trị của tiền tốt đến đâu tùy thuộc
vào sự ổn định của mức giá chung, do giá trị của tiền được xác định theo khối
lượng hàng hóa mà nó có thể đổi được. Khi mức giá tăng lên, giá trị của tiền sẽ
giảm đi và ngược lại. Sự mất giá nhanh chóng của tiền sẽ làm cho người ta ít
muốn giữ nó, điều này thường xảy ra khi lạm phát cao. Vì vậy, để tiền thực hiện
tốt chức năng này, đòi hỏi sức mua của tiền phải ổn định.
d. Phương tiện thanh toán
Trong một nền kinh tế không có một chuẩn mực đo giá trị chung (thí dụ như
là tiền) thì một giao dịch thành công giữa 2 vật trong kinh tế đòi hỏi các nhu cầu
trao đổi phải phù hợp với nhau. Một thí dụ: Một người nông dân muốn bán ngũ
cốc và cần dụng cụ. Một thợ thủ công muốn đổi dụng cụ để lấy thịt. Giữa 2 người
này sẽ không bao giờ có một cuộc mua bán trao đổi vì ý định bán của người nông
dân không phù hợp với ý định mua của người thợ thủ công. Cả hai người có thể
phải tìm kiếm rất lâu cho đến khi gặp được một người có ý định giao dịch phù
hợp. Cùng với tiền quá trình này được đơn giản hóa đi rất nhiều: Người nông dân
có thể bán ngũ cốc cho một người thứ ba và dùng tiền thu được dể đổi lấy dụng cụ
tại người thợ thủ công. Người thợ thủ công có thể dùng tiền thu được mua thịt tại
một người thứ tư.
e. Tiền tệ thế giới

Khi trao đổi hàng hoá vượt khỏi biên giới quốc gia thì tiền làm
chức năng tiền tệ thế giới. Với chức năng này, tiền phải có đủ giá trị, phải trở lại
hình
thái ban đầu của nó là vàng. Trong chức năng này, vàng được dùng làm phương
tiện
mua bán hàng, phương tiện thanh toán quốc tế và biểu hiện của cải nói chung của

hội.
Tóm lại: 5 chức năng của tiền trong nền kinh tế hàng hoá quan hệ mật thiết với
nhau. Sự phát triển các chức năng của tiền phản ánh sự phát triển của sản xuất và
lưu
thông hàng hoá.
4. Cầu tiền tệ
12
Việc nghiên cứa cầu tiền tệ luôn được nhà kinh tế quan tâm, và nó có thể cho
những gợi ý về hoạch định chính sách của những người chịu trách nhiệm điều
hành nền kinh tế.
a. Các loại tài sản tài chính
-Tài sản giao dịch (thanh khoản) không tạo ra thu nhập, nhưng được dùng để
thanh toán khi mua hàng hóa và dịch vụ…
-Các tài sản tài chính khác tạo ra thu nhập (tín phiếu, cổ phiếu, sổ tiết kiệm…)
nhưng không thể dùng trực tiếp để mua hàng hóa.
Hầu hết các hộ gia đình và doanh nghiệp giữ của cải của họ dưới dạng kết hợp
cà 2 loại tài sản này. Trong phần này, mọi tài sản giao dịch được gọi là tiền và mọi
tài sản khác có thu nhập được gọi chung là trái phiếu.
b. Mức cầu về tiền
Khối lượng tiền cần để chi tiêu thường xuyên, đều đặn cho nhu cầu tiêu dùng
cá nhân và kinh doanh sản xuất…gọi là mức cầu về tiền (giao dịch).
Khi giá cả tăng lên, mức cầu về tiền danh nghĩa cũng tăng theo để đảm bảo
thu mua đủ khối lượng hàng hóa cần thiết đã dự định, như vậy, thực chất của mức

cầu tiền tệ là cầu về cán cân tiền tệ thực tế.
Mứa cầu tềin thực tế phụ thuộc vào hai nhân tố:
-Thu nhập thực tế: con người giữ một phần tài sản ở dạng tiền để có thể mua
được hàng hóa, dịch vụ. Khi thu nhập tăng, tiêu dùng cũng sẽ tăng và theo đó
cầu tiền củng tăng lên.
-Lãi suất: chi phí giữ tài sản dưới dạng tiền và thu nhập từ lãi suất mà các tài
sản có thể tạo ra nếu như để chúng dưới dạng trái phiếu. Lãi suất chính là chi
phí cơ hội củ việc giữ tiền.
Quan hệ tỷ lệ nghịch giữa lãi suất và mức cầu về tiền được gọi là hàm cầu về
tiền (hàm ưa thích tiền thanh khoản).
Hàm này có dạng:
LP = kY – hi
Trong đó:
LP: mức cầu về tiền thực tế
13
Y: thu nhập
i : lãi suất
k,h : các hệ số phản ánh dộ nhạy cảm của mưc cầu tiền đối với thu nhập và lãi
suất.
c. Mức cầu tài sản
Mức cầu về tài sản là mức cầu các loại tài sản chính có sinh lợi dưới dạng trái
phiếu. Các loại trái phiếu tuy sinh lợi nhưng chịu nhiều rủi ro, vì giá cả của chúng
được quyết định trên thị trường, khó dự báo trước. Giữ tiền không tạo ra lãi,
nhưng không bị rủi ro trừ trường hợp gặp lạm phát. Nhiều người chỉ định giảm
mức rủi ro của họ bằng cách đa dạng hóa các dạng tài sản vừa để tài sản ở dạng
tiền, vừa để ở dạng trái phiếu. Vì vậy, trong thực tế có thể có sự chuyển hóa mức
cầu từ trái phiếu sang tiền hoặc ngược lại.
5. Mức cung tiền tệ
Để cung ứng cho nhu cầu sử dụng tiền tệ trong nền kinh tế, một số tổ chức
như NHTƯ, các ngân hàng thương mại cung ứng tiền ra lưa thông.

a. Cung ứng tiền của Ngân hàng Trung ương
NHTƯ phát hành tiền mặt chủ yếu dưới hình thức giấy bạc ngân hàng. Quá
trình này được thực hiện khi NHTƯ cho vay đối với các tổ chức tín dụng, cho vay
đối với kho bạc Nhà nước, mua vàng, ngoại tệ trên thị trường ngoại hối hoặc mua
chính khoáng trong nghiệp vụ thị trường mở khối lượng tiền phát hành của NHTƯ
được gọi là tiền mặt hay cơ số tiền (M
B
) bao gồm hai bộ phận: tiền mặt trong lưa
hành (C) và tiền dự trữ của các ngân hàng kinh doanh (R) trong đó chỉ có bộ phận
tiền mặt ngoài ngân hàng mới được sữ dụng, đáp ứng cho nhu cầu về tiền.
b. Cung ứng tiền của ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng
Các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác tạo tiền chuyển
khoản (D) theo cơ chế tiền trong toàn bộ hệ thống ngân hàng. Khối lượng tiền do
các tổ chức này cung ứng được tạo ra trên cơ sở lượng tiền dự trữ nhận từ NHTƯ
và các hoạt động nhận tiền gửi cho vay và thanh toán không dùng tiền mặt của hệ
thống ngân hàng. Khi NHTƯ phát hành tiền đưa vào hệ thống ngân hàng, các
ngân hàng thương mại sử dụng số tiền dự trữ này để cho vay. Khi các doanh
nghiệp hoặc dân cư vay khoản tiền đó nó được sử dụng để thanh toán chi trả và có
thể một phần hoặc toàn bộ được kí gửi trở vào một ngân hàng với hinh thức tiền
gửi không kì hạn,ngân hàng lại tiếp tục có vốn để cho vay. Như vậy, từ lượng tiền
14
dự trữ ban đầu, hệ thống ngân hàng thông qua các hoạt động của mình có thể làm
hình thành lượng tiền gửi không kì hạn rất lớn. số tiền này được các doanh nghiệp,
dân cư sữ dụng để thanh toán qua ngân hàng, vì vậy nó được tính là một bộ phận
của khối tiền giao dịch trong nền kinh tế, được sữ dụng để đáp ứng nhu cầu về
tiền.
c. Mức cung tiền tệ
Khối lượng tiền giao dịch do NHTƯ và các tổ chức tín dụng cung ứng cho
nền kinh tế đáp ứng cho nhu cầu sữ dụng tiền bao gồm hai bộ phận chính là tiền
mặt trong lưa hành (C) và tiền gửi không kì hạn (D) . Tiền dự trữ của các ngân

hàng kinh doanh (R).
NHTƯ với chứa năng là ngân hàng phát hành thực hiện viện kiểm soát và
điều tiết khối lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế nhằm đảm bảo sự ổn định thị
trường, nó trực tiếp điều chỉnh khối lượng tiền mặt đang tồn tại và kiểm soát gián
tiếp việc tạo ra các khoản tiền gửi không kì hạn của các ngân hàng thương mại.
Toàn bộ khối lượng tiền cung ứng được xác định theo hệ số tạo tiền so với lượng
tiền cơ bản do NHTƯ phát hành theo công thức :
M
S
= M
B
.m
Trong đó:
M
S
: mức cung tiền giao dịch
M
B
: cơ số tiền
m : hệ số tạo tiền
m= (1 + C/D)/ (r
D
+ r
E
+ C/D)
Với : C/D: Tỉ lệ tiền mặt trong lưa hành so với tiền gửi không kì hạn
r
D :
Tỉ lệ dự trữ bắt buộc
r

E
: Tỉ lệ dự trữ dư thừa của các NHTM
Mặc dù có rất nhiều chủ thể có tác động tới mức cung ứng tiền nhưng NHTƯ
vẩn có thể sữ dụng các công cụ của mình để điều chỉnh mức cung tiền theo ý
muốn chủ quan để thực hiện chính sách tiền tệ.
6. Tác động của tiền tệ đối với hoạt động kinh tế
15
Sự phân tích cung cầu tiền tệ cho thấy, trong cơ chế thị trường bất kì sự thay
đổi nào của mức cung tiền tệ cũng sẽ được thị trường điều tiết để có sự cân đối
giữa mức cung tiền tệ và mức cầu tiền tệ. Sự điều chỉnh đó không chỉ đơn thuần
gây ra những thay đổi trong mức giá chung mà còn có tác động tới nhiều hoạt
động của nền kinh tế. Để thấy rõ hơn vai trò của tiền tệ trong nền kinh tế, chúng ta
đi vào xem xét tác động của tiền tệ tới các hoạt động kinh tế.
Theo mô hình tổng cung-tổng cầu (AD - AS), sự thay đổi của AD dẩn đến sự
thay đổi của sản lượng và giá cả. Khi tổng cầu tăng sẽ làm tăng sản lượng và mức
giá cả, ngược lai việc giảm AD có thể dẩn tới sự sụt giảm sản lượng và làm lạm
phát giảm.
Sự tác động của tiền tệ tới hoạt động kinh tế được thể hiện thông qua sự tác
động tới các bộ phận của tổng cầu bao gồm những tác động tới chi tiêu đầu tư, chi
tiêu tiêu dùng và buôn bán quốc tế.
a. Chi tiêu đầu tư
Sự thay đổi của Ms tác động tới I thông qua:
- Chi phí đầu tư.
Việc thu hẹp của mức cung tiền tệ của NHTƯ (Ngân hàng Trung ương) sẽ đẩy
lãi suất tăng lên, chi phí tài trợ cho các hoạt động đầu tư có thể tăng lên dẩn tới
giảm lượng đầu tư, AD suy giảm làm giảm sản lượng và giá cả.
Ngược lại khi NHTƯ mở rộng tiền tệ, lãi suất cân bằng của thị trường giảm
đi, chi phí đầu tư rẻ hơn có thể mở rộng đầu tư, tổng cầu tăng làm tăng sản lượng
và giá cả. Tuy nhiên lãi suất không thể đại diện đầy đủ cho chi phí đầu tư nên
những tác động này có thể không rỏ ràng.

- Sự sẳn có của các nguồn vốn
Khi chính sách tiền tệ là thắt chặt, mức cung tiền giảm, mặc dù lãi suất có thể
thay đổi rất ít nhưng khả năng cho vay của các ngân hàng có thể giảm (r
D
tăng).
Việc hạn chế tín dụng của các ngân hàng thương mại làm cho chi tiêu đầu tư giảm
xuống dẩn tới AD giảm. Khi NHTƯ mở rộng tiền tệ, có thể làm tăng khả năng cho
vay của các ngân hàng thương mại, làm cho chi tiêu đầu tư tăng lên. Sự tác động
này được thể hiện rỏ ở sơ đồ:
Ms ↑ → khả năng cho vay ↑ → I ↑ → AD ↑ → thu nhập và giá cả ↑
Tuy nhiên khả năng cho vay của các ngân hàng thương mại được mở rộng
không đồng nghĩa với việc nguồn vốn này sẽ được tận dụng ngay, nó còn tùy
16
thuộc vào khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế. Việc hạn chế khả năng cho vay
của hệ thống ngân hàng có tác dụng tốt hay không còn tùy thuộc gới hạn của viẽc
kiểm soát vốn quốc tế.
Ngoài ra, sự thay đổi của cung tiền tệ có tác dụng đến giá cổ phiếu, khi dân
chúng giữ nhiều tiền hơn họ muốn chẳng hạn, chi tiêu vào thị trường cổ phiếu có
thể tăng lên làm tăng giá cổ phiếu. Giá trị ròng của các hãng tăng lên có nghĩa là
những người cho vay sẽ được đảm bảo nhìêu hơn cho các khoản vay của mình,
như vậy khuyến khích cho vay để tài trợ cho chi tiêu đầu tư, tổng cầu tăng thúc
đẩy sự gia tăng sản lượng và giá cả.
b. Chi tiêu tiêu dùng
- Ảnh hưởng đối với lãi suất
Do chi tiêu tiêu dùng hàng ngày lâu bền thường được tài trợ một phần bằng đi
vay, do vậy lãi suất thấp hơn sẽ khuyến khích người tiêu dùng tăng chi tiêu tiêu
dùng lâu bền. Sự ảnh hưởng của tiền tệ đối với tổng cầu như sau:
M ↑ → I ↓ → chi tiêu dùng lâu bền ↑ → AD ↑ → thu nhập và giá cả ↑
Cũng tương tự như đối với ảnh hưởng đến chi tiêu đầu tư, sự ảnh hưởng của
lãi suất đến chi tiêu tiêu dùng lâu bền có thể là nhỏ.

- Ảnh hưởng tới thị trường cổ phiếu
Chi tiêu tiêu dùng cho hàng hóa lâu bền và dịch vụ của dân cư phụ thuộc rất
lớn vào thu nhập cả đời của họ chứ không phải chỉ là thu nhập hiện tại. Khi giá cổ
phiếu tăng lên, giá trị tài sản tài chính tăng lên làm thu nhập cả đời của người tiêu
dùng và tiêu dùng sẽ tăng lên.
Cơ chế tác động này như sau:
M ↑→ giá cổ phiếu ↑→ thu nhập cả đời ↑→ tiêu dùng ↑→ AD ↑→Y,P ↑
Mặt khác, khi giá cổ phiếu tăng, giá trị tài sản tài chính tăng, người tiêu dùng
có khả năng tài chính đảm bảo hơn sẽ đánh giá những khó khăn tài chính ít xảy ra
hơn. Việc chi tiêu về hàng hóa lâu bền của người tiêu dùng bị ảnh hưởng bởi
những khó khăn tài chính có thể xảy ra trong tương lai. Khi những khó khăn này
xảy ra, họ sẽ phải bán các tài sản của mình để tăng thên tiền mặt, việc bán các tài
sản tài chính như cổ phiếu sẽ thuận lợi cho việc bán các hàng hóa tiêu dùng lâu
bền như vật dụng tiêu dùng, phương tiện đi lại, nhà ở…Do vậy, giá cổ phiếu tăng
có thể khuyến khích người tiêu dùng chi tiêu nhiều hơn cho hàng tiêu dùng lâu
bền.
17
Cơ chế tác động sẽ là:
M ↑→ giá cổ phiếu ↑→ giá trị tài sản tài chính ↑→ khả năng khó khăn tài
chính ↓ → chi tiêu nhà ở, hàng tiêu dùng lâu bền ↑→ AD ↑→ Y,P ↑
c. Xuất khẩu ròng
Trong bối cảnh nền kinh tế mở của các quốc gia và việc áp dụng chế độ tỉ giá
thả nổi, sự ảnh hưởng này thông qua tác động vào tỉ giá hối đoái. Khi lãi suất
trong nước giảm (lạm phát chưa thay đổi) tiền gửi bằng nội tệ sẽ hấp dẫn hơn so
với tiền gửi ngoại tệ, kết quả là nhu cầu về ngoại tệ cao hơn so với nội tệ làm cho
giá đồng nội tệ giảm so với ngoại tệ và làm cho hàng hóa nội địa rẻ hơn so với
hàng ngoại, xuất khẩu ròng tăng lên vì vậy tổng cầu tăng lên.
 Như vậy: Sự thay đổi của mức cung tiền tệ có tác động tới các hoạt động kinh
tế thông qua các tác động tới những bộ phận của tổng cầu như chi tiêu đầu tư, chi
tiêu tiêu dùng, xuất khẩu ròng. Tuy nhiên, sự tác động này mạnh hay yếu còn tùy

thuộc vào sự phản ứng của nền kinh tế. Nếu nền kinh tế đang trong giai đoạn phát
triển và linh hoạt thì chính sách tiền tệ có hiệu quả hơn. Trong trường hợp nền
kinh tế trì truệ, các nguồn tài chính được tạo ra có thể không được tận dụng đầy
đủ và chính sách tiền tệ ít có hiệu quả hơn.
7. Cân bằng trên thị trường tiền tệ
Công cụ để phân tích là đường cung và đường cầu về tiền. Đường cung tiền là
đường thẳng đứng (cung cố định) trên cơ sở cho rằng NHTƯ sữ dụng các công cụ
của nó đã cung ứng cho thị trường một sức cung tiền theo dự kiến. Đó là khối
lượng tiền xác định cho mọi mức lãi suất i (với giả định cho rằng giá cả không
thay đổi nên lãi suất danh nghĩa cũng chính là lãi suất thực tế của nó). Đường cầu
về tiền là đường dốc nghiên đi xuống, biến thiên giãm theo lãi suất.
I MS
I
o
E
18
Lp
M
Cân bằng của thị trường tiền
Tác động qua lại giữa cung và cầu tiền xác định lãi suất cân bằng gọi là lãi
suất thị trường. Đó là giao điểm E. E là điểm cân bằng của thị trường tiền. Tại
mức lãi suất cân bằng I
o
mức cầu tiền vừa đúng bằng mức cung tiền.
Ở mức lãi suất thấp hơn I
o
sẽ có mức dư cung trái phiếu tương ứng làm cho
giá trái phiếu giảm xuống, lợi tức trái phiếu tăng lên và đẩy lãi suất thị trường lên
tới I
o

.
Sự dịch chuyển đường cung hoặc đường cầu sẽ làm thay đổi vị trí cân bằng
của thị trường tiền tệ.
Khi NHTƯ tác động đến mức cung tiền, giả sữ là bán trái phiếu hoặc tăng tỉ lệ
dự trữ bắt buộc dẩn đến lượng cung tiền giảm xuống.
Việc kiểm soát tiền tệ trong thực tế phù hợp với mục tiêu kinh tế vĩ mô thật
không đơn giản. Có hai cánh kiểm soát, hoặc là kiễm soát mức cung tiền thì lãi
suất thị trường sẽ giãm xuống bởi tác động của cầu, hoặc kiểm soát lãi suất (ổn
định lãi suất) thì buộc phải để lực lượng thị trường quyết định mức cung tiền. Cả
hai cách điều gặp những khó khăn nhất định như kiểm soát lượng tiền cơ sỡ (H)
thì vấp phải vấn đề hạn chế tiền mặt và tín dụng gây khó khăn cho hoạt động
NHTM và các hoạt động giao dịch, khi kiểm soát lãi suất lại gặp khó khăn trong
nhận biết chính xác đường cầu tiền và sự dịch chuyển của nó… Việc lựa chọn
kiểm soát mức cung tiền hay kiểm soát lãi suất tùy thuộc vào chính sách tiền tệ
của mỗi nước.
8. Tìm hiểu khái quát về ngân hàng
Hệ thống ngân hàng nước ta là hệ thống ngân hàng hai cấp, trong đó ngân
hàng nhà nước làm nhiệm vụ của NHTƯ, còn các ngân hàng thương mại và các tổ
chức tín dụng hoạt động như là các ngân hàng trung gian thực hiện chức năng kinh
doanh.
-Ngân hàng Trung ương
-Ngân hàng thương mại
a. Ngân hàng Trung ương
19
Định nghĩa
Ngân hàng trung ương (có khi gọi là ngân hàng dự trữ, hoặc cơ quan hữu trách
về tiền tệ) là cơ quan đặc trách quản lý hệ thống tiền tệ của quốc gia/nhóm quốc
gia/vùng lãnh thổ và chịu trách nhiệm thi hành chính sách tiền tệ. Mục đích hoạt
động của ngân hàng trung ương là ổn định giá trị của tiền tệ, ổn định cung tiền,
kiểm soát lãi suất, cứu các ngân hàng thương mại có nguy cơ đổ vỡ. Hầu hết các

ngân hàng trung ương thuộc sở hữu của Nhà nước, nhưng vẫn có một mức độ độc
lập nhất định đối với Chính phủ.
 Bản chất của NHTƯ
Ngân hàng Trung ương là ngân hàng phát hành, là nơi tập trung các quyền lực
của nhiều ngân hàng vào một ngân hàng, là một bộ máy quyền lực to lớn có khả
năng chi phối cả về mặt kinh tế và chính trị trong nước. Ngân hàng Trung ương dù
được gọi với nhiều tên gọi khác nhau như: ngân hàng nhà nước, ngân hàng quốc
gia, ngân hàng dự trữ, …nhưng điều thể hiện là một trung tâm tài chính tiền tệ lớn
của quốc gia, đóng vai trò rất lớn trong hệ thống tín dụng và ngân hàng ở các
nước.
 Chức năng của NHTƯ
- Phát hành tiền tệ
Ở phần lớn các nước, ngân hàng trung ương là cơ quan duy nhất có quyền
phát hành tiền tệ. Ở một số nước khác, ngân hàng trung ương là cơ quan duy nhất
phát hành tiền giấy, còn tiền kim loại với tư cách là tiền bổ trợ thì do chính phủ
phát hành. Cục Dự trữ Liên bang- ngân hàng trung ương của Mỹ- không có chức
năng phát hành tiền, thay vào đó là Bộ Tài chính đảm nhiệm chức năng này. Cũng
có thông tin cho rằng Chính phủ Mỹ không có quyền phát hành đồng Đô-la, mà là
do Cục Dự Trữ Liên Bang./
- Ngân hàng của các tổ chức tín dụng
Ngân hàng trung ương thực hiện công việc tái chiết khấu các hối phiếu đối với
các tổ chức tín dụng, cấp vốn thông qua cho vay đối với các tổ chức này (đồng
thời qua đây kiểm soát lãi suất.
Ngân hàng trung ương còn mua và bán các giấy tờ có giá, qua đó điều tiết
lượng vốn trên thị trường.
Ngân hàng trung ương có quyền yêu cầu các ngân hàng thương mại mở tài
khoản tại chỗ mình và các ngân hàng phải gửi vào tài khoản của họ một lượng tiền
20
nhất định. Thông thường lượng tiền này được quy định tương đương với một tỷ lệ
nào đó tiền gửi vào ngân hàng thương mại, gọi là tỷ lệ dự trữ bắt buộc.

Trong trường hợp có tổ chức tín dụng gặp nguy cơ đổ vỡ làm ảnh hưởng đến
cả hệ thống tài chính của quốc gia, ngân hàng trung ương sẽ tái cấp vốn cho tổ
chức tín dụng đó để cứu nó. Vì thế, ngân hàng trung ương được gọi là người cho
vay cuối cùng (hay người cho vay cứu cánh).
- Ngân hàng của Chính phủ
Ở nhiều nước, ngân hàng trung ương là người quản lý tiền nong cho chính
phủ. Chính phủ sẽ mở tài khoản giao dịch không lãi suất tại ngân hàng trung ương.
Tuy nhiên, ở một số nước, chẳng hạn như ở Việt Nam, chức năng này do kho bạc
đảm nhiệm.
Ngân hàng trung ương còn làm đại diện cho chinh phủ khi can thiệp vào thị
trường ngoại hối
b. Ngân hàng thương mại (NHTM)
 Định nghĩa
Ngân hàng thương mại là các tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và
thường xuyên là nhận tiển gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng
số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh
toán.
 Chức năng của ngân hàng thương mại
- Chức năng làm trung gian thanh toán và quản lý các phương tiện thanh toán
Chức năng này có nghĩa là ngân hàng tiến hành nhập tiền vào tài khoản hay
chi trả tiền theo lệnh của chủ tài khỏan. Khi các khách hàng gởi tiền vào ngân
hàng, họ sẽ được đảm bảo an toàn trong việc cất giữ tiền và thực hiện thu chi một
cách nhanh chóng tiện lợi, nhất là đối với các khỏan thanh tóan có giá trị lớn, ở
mọi địa phương mà nếu khách hàng tự làm sẽ rất tốn kém khó khăn và không an
toàn (ví dụ: chi phí lưu thông, vận chuyển, bảo quản…).
Khi làm trung gian thanh toán, ngân hàng tạo ra những công cụ lưu thông và
độc quyền quản lý các công cụ đó (sec, giấy chuyển ngân, thẻ thanh toán ) đã tiết
kiệm cho xã hội rất nhiều vể chi phí lưu thông, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn,
thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hóa. Ở các nước phát triển phần lớn thanh toán
được thực hiện qua sec và được thực hiện bằng việc bù trừ thông qua hệ thống

ngân hàng thương mại. Ngoài ra việc thực hiện chức năng là thủ quỹ của các
21
doanh nghiệp qua việc thực hiện các nghiệp vụ thanh toán đã tạo cơ sở cho ngân
hàng thực hiện các nghiệp vụ cho vay.
Hiện nay ở các nước công nghiệp phát triển việc sử dụng hình thức chuyển
tiền bằng đện tử là chuyện bình thường và chính điều này đưa đến việc không sử
dụng sec ngân hàng mà dùng thẻ như thẻ tín dụng. Họ thanh toán bằng cách nối
mạng các máy vi tính của các ngân hàng thương mại trong nước nhằm thực hiện
chuyển vốn từ tài khoản người này sang người khác một cách nhanh chóng.
- Chức năng tạo ra tiền ngân hàng trong hệ thống ngân hàng hai cấp
Vào cuối thế kỉ 19 hệ thống ngân hàng hai cấp được hình thành, các ngân
hàng không còn họat động riêng lẽ nữa mà tạo thành hệ thống, trong đó ngân hàng
trung ương là cơ quan quản lý về tiền tệ, tín dụng là ngân hàng của các ngân hàng.
Các ngân hàng còn lại kinh doanh tiền tệ, nhờ họat động trong hệ thống các
NHTM đã tạo ra bút tệ thay thế cho tiền mặt.
Quá trình tạo ra tiền của NHTM được thực hiện thông qua tín dụng và thanh
tóan trong hệ thống ngân, trong mối liên hệ chặt chẽ với hệ thống ngân hàng trung
ương mỗi nước. Vậy tiền “bút tệ” được NHTM tạo ra bằng cách nào? Bây giờ
chúng ta giả sử rằng tất cả các NHTM đều không giữ lại tiền dự trữ quá mức quy
định, các sec không chuyển thành tiền mặt và các yếu tố phức tạp khác bị bỏ qua
thì quá trình tạo thành tiền như sau:
Tên các ngân hàng Tiền gửi mới
Thanh toán
cho vay mới
Dự trữ bắt buộc
Ngân hàng A 1.000.000 900.000 100.000
Ngân hàng B 900.000 810.000 90.000
Ngân hàng C 810.000 729.000 81.000

Tiền toàn hệ thống ngân hàng 10.000.000 9.000.000 1.000.000

Giả sử ngân hàng A có khoản tiền gửi mới là 1.000.000đ, dự trữ bắt buộc là
10% thì số tiền nó có thể cho vay là 900.000. Khoản tiền cho vay đó được đưa đến
người vay, người vay tiền không bao giờ vay tiền về mà cất trong nhà vì như thế
họ phải chịu lãi một cách vô ích, họ dùng tiền đó chi trả các khỏan. Và số tiền đó
đến tay người được chi trả, người chi trả đem số tiền đó gửi vào ngân hàng B,
ngân hàng B lúc này sẽ có một lượng tiền gửi mới là 900.000. Dự trữ bắt buộc là
10%, số tiền có thể cho vay là 810.000. Số tiền này được cho người cần vay vay,
người cho vay chi trả các khỏan đến người được chi trả, người được chi trả đem số
22
tiền được trả gửi vào ngân hàng C. Lúc này ngân hàng C sẽ có số tiền gửi mới là
810.000. Và cứ như thế tiếp tục… cho đến khi lượng tiền gửi mới bằng 0. Người
ta tính được rằng lượng tiền gửi mới trong tòan hệ thống ngân hàng là 10.000.000,
lượng tiền dự trữ bắt buộc là 1.000.000 và tiền cho vay là 9.000.000. Và do cách
thức này mà tiền đã được tạo ra trong hệ thống ngân hàng 2 cấp.
- Ngân hàng thương mại là trung gian tín dụng
Đây là chức năng đặc trưng của NHTM, nó có ýa nghĩa quan trọng trong việc
thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Thực hiện chức năng này, NHTM đã huy
động nguồn vốn tạm thời nhàn rổi của các tổ chức kinh tế, cơ quan, đoàn thể, tiền
tiết kiệm của dân cư,… và sữ dụng cho vay nguồn vốn này để đáp ứng nhu cầu
vốn của nền kinh tế.
- NHTM cung cấp các dịch vụ tài chính – ngân hàng
Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng và ngân quỹ, ngân hàng có điều
kiện thuận lợi về kho quỹ, thông tin quan hệ rộng rãi với các doanh nghiệp, nên có
thể thực hiện thêm một số dịch vụ khác kèm theo như: tư vấn tài chính, đầu tư, giữ
hộ giấy tờ, chứng khoán, làm đại lý phát hành cổ phiếu, trái phiếu cho các doanh
nghiệp, …để được hưởng hoa hồng, sẽ vừa tiết kiệm được chi phí, vừa đạt hiệu
quả cao.
9. Chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương
a. Vai trò của NHTƯ trong điều tiết vĩ mô
 Điều tiết khối lượng tiền trong lưa thông cho phù hợp với yêu cầu ổn

định và phát triển kinh tế
Ngân hàng Trung ương giữ vai trò quyết định khối lượng tiền trong lưa thông
qua các công cụ của nó như chính sách về lãi suất, về dự trữ pháp định nhằm đảm
bảo khối lượng tiền trong lưa thông đáp ứng đầy đủ yêu cầu phát triển kinh tế. Ổn
định đồng tiền nội địa
Sức mua của đồng tiền chịu tác động từ nhiều phía, cung cầu về tiền tệ, giá
vàng, tỉ giá ngoại hối …NHTƯ phải tìm mọi biện pháp để ổn định sức mua của
đồng tiền nội đụa nhằm thực hiện có hiệu quả chính sách kinh tế và quan hệ quốc
tế. Ngoài ra, NHTƯ còn can thiệp để ổn định giá vàng và giá ngoại tệ, tạo cơ sở
cho ổn định tiền.
 Điều tiết sản xuất thiết lập cơ cấu kinh tế hợp lí
23
Là việc NHTƯ sữ dụng các biện pháp cần thiết để phân phối tài nguyên của
xã hội cho các ngành, lĩnh vực, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển nhịp nhàng
và cân đối thể hiện trên hai mặt:
- NHTƯ tham gia vào việc xây dựng các chiến lược phát triển kinh tế, vì
vậy ngay từ đầu đã góp phần vào việc hình thành cơ cấu kinh tế.
- Tham gia thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế qua việc cung cấp
tín dụng cho ngành này hoặc hạn chế tín dụng ở một ngành khác để
đảm bảo sản xuất ổn định và cân đối
 Vai trò chỉ huy đối với toàn bộ hệ thống ngân hàng
Thể hiện qua việc kiểm soát khối lượng tín dụng mà các tổ chức tín dụng cung
cấp cho nền kinh tế , đồng thời củng nắm được khối lượng tín dụng đã và sẽ cung
cấp cho nền kinh tế.
b. Chính sách tiền tệ
NHTƯ là cơ quan tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ. Mục tiêu của chính
sách tiền tệ là ổn định giá cả, tăng trưởng GNP, giảm thất nghiệp. Tùy đặc điểm
kinh tế của mỗi thời kỳ cụ thể, cần phải ưa tiên mục tiêu nào đó. Vì chính sách tiền
tệ chỉ có khả năng tác động vào thị trường tiền tệ, qua đó qua đó tác động đến tổng
cung và sản lượng nên việc kiểm soát tiền tệ của NHTƯ tập trung vào một trong

hai công cụ chủ yếu: mức cung tiền hoặc lãi suất.
Trừ những tình huống đặc biệt (như đang có lạm phát cao …) việc gia tăng
cung tiền thực tế sẽ làm tăng sản lượng cân bằng và làm giảm lãi suất cân bằng
(chú ý rằng mức cung tiền thực tế vẩn có thể bị suy giảm nhiều ngay cả khi NHTƯ
không có tác động nào đến mức cung tiền danh nghĩa).
Tring quản lý, chính sách tiền tệ thường phải theo dõi chặt chẽ sự chuyển biến
của thị trường hàng hóa và thị trường tiền tệ để xác định những biện pháp, chính
sách phù hợp. Vd, khi thị trường hàng hóa có sự biến động, có thể chọn mục tiêu
ổn định có thể chọn mục tiêu ổn định mức cung tiền là chủ yếu. Lãi suất nhất thời
phải biến độngvà nhờ đó có thể điều chỉnh thị trường hàng hóa, đưa nó về trạng
thái cân bằng. Khi thị trườg hàng hóa phát triển tương đối ổn định nhưng cầu tiền
có sự biến động, có thể tác động xấu đến trạng thái cân bằng sản lượng, thì có thể
lựa chọn mục tiêu ổn định lãi suất v.v
Chính sách tiền tệ của một quốc gia cơ bản có hai loại:
 Chính sách mở rộng tiền tệ
24
Còn được gọi là chính sách nới lỏng tiền tệ. Chính sách này được áp dụng
trong điều kiện nền kinh tế bị suy thoái, nạn thất nghiệp gia tăng. Trong tình hình
này, chính sách nới lỏng tiền tệ làm tăng lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế, mở
rông đầu tư, mở rộng sản xuất, tạo công ăn việc làm cho người lao động. Chính
sách tiền tệ mở rộng đồng nghĩa với chính sách tiền tệ chống suy thoái.
 Chính sách thắt chặt tiền tệ
Còn được gọi là chính sách đóng băng tiền tệ. Loại chính sách này được áp
dụng khi nền kinh tế có sự phát triển thái quá, đồng thời lạm phát ngày càng gia
tăng. Chính sách thắt chặt tiền tệ đồng nghĩa với chính sách tiền tệ chống lạm
phát.
c. Các mục tiêu của chính sách tiền tệ
- Ổn định tiền tệ, ổn định giá cả, ổn định tỉ giá hối đoái
Thực chất của mục tiêu này là kiểm soát lạm phát để bảo vệ giá đối nội và giá
đối ngoại của đồng tiền quốc gia. Đây là mục tiêu hàng đầu của chính sách tiền tệ.

- Ổn định và thúc đẩy phát triển kinh tế
Đây là mục tiêu cơ bản và tấ yếu của chính sách tiền tệ. Muốn ổn định và thúc
đẩy phát triển kinh tế, cần phải khuyến khích mở rộng đầu tư bằng cách khai thác
các nguồn vốn tiềm năng trong nước và nước ngoài.
- Tạo công ăn việc làm cho người lao động, ổn định trậ tự xã hội
Ở nước ta, trong ba nhân tố thuộc yếu tố chung là lao động, nguồn vốn và tiến
bộ kỉ thuật thì yếu tố lao động có tiềm năng lớn nhất. Vì vậy, để thúc đẩy phát
triển kinh tế thì chính sách tiền tệ phải khai thác tối đa lực lượng lao động trong xã
hội, còn tiền tệ và tín dụng là chất xúc tác quan trọng.
Tuy nhiên cần lưa ý rằng, sữ dụng chính sách tiền tệ để tạo công ăn việc làm,
thất nghiệp thì rất có thể đi đến lạm tình trạng lạm phát cao. Vấn đề quan trọng ở
chổ là làm thế nào để vừa kiềm chế và kiểm soát được lạm phát, vừa tạo được
công ăn việc làm.
Người ta cho rằng, nếu duy trì lạm phát ở một tỉ lệ vừa phải thì hình như đó
lại là liều thuốc kích thích tăng trưởng kinh tế.
d. Các công cụ của chính sách tiền tệ
Để thực hiện các chính sách trên, NHTƯ sữ dụng các công cụ sau:
25

×