Tiểu luận
Khái quát chung về đầu tư và vấn đề
huy động vốn đầu tư vào ngành Dầu
khí Việt Nam
MỤC LỤC
Phần một: Lời mở đầu
Bước vào thế kỷ XXI, trong bối cảnh khu vực hoá, toàn cầu hoá, các nền kinh tế diễn
ra mạnh mẽ, cộng với sự suy thoái kinh tế mang tính toàn cầu, sau các sự kiện đầy kịch
tính ở Mỹ, Nga, Trung Đông, nước ta cũng không thể thoát khỏi những thách thức đầy
gam go như các nước khác trong khu vực. Tuy vậy, năm 2002 đã khép lại bằng những
thành tựu kinh tế_xã hội mà Việt Nam đã đạt được trong bối cảnh không ít khó khăn
thách thức đó. Nền kinh tế tiếp tục tăng tưởng với tốc độ khá cao, đạt 7,04%, giá trị sản
lượng công nghiệp tăng 14,5%. Việt Nam đã khẳng định mình là một quốc gia ổn định
trên con đường phát triển và hội nhập. Trong thành tựu chung đó có sự đóng góp quan
trọng của ngành Dầu khí Việt Nam.
Một thực tế là, nhiều năm nay, Dầu khí là một trong những ngành đầu tư hấp dẫn
nhất. Kim ngạch xuất khẩu Dầu khí chiếm tỷ trọng đáng kể và đóng góp quan trọng đối
với nền kinh tế nhiều nước .Riêng với ngành Dầu khí Việt Nam, cơ hội đầu tư có nhiều,
nhưng vốn đầu tư còn hạn chế. Thêm vào đó ta nhận thấy ngành công nghiệp Dầu khí thế
giới đang đi vào giai đoạn đỉnh để bước sang giai đoạn suy tàn, cuộc khủng bố ở
Newyork ngày 11.9.2001 đã mang lại những thay đổi to lớn trong bức tranh địa lý_ chính
trị Dầu khí toàn cầu. Và những gì chúng ta đã và đang thấy trong hoạt động chính trị-
quân sự của Mỹ ở Trung Cận Đông phần nào nói lên tầm quan trọng của năng lượng Dầu
khí.
Trước sự quan trọng như vậy của năng lượng Dầu khí, cùng với một tiềm năng Dầu
khí không phải là ít ở Việt Nam, thì vấn đề đầu tư vào phát triển ngành Dầu khí ở Việt
nam là vấn đề đang được quan tâm. Chính vì lẽ đó, mà trong bài viết này em xin trình bày
về tình hình huy động vốn đầu tư vào phát triển ngành Dầu khí ở Việt Nam, nhằm đánh
giá một cách cụ thể hơn các hoạt động đầu tư vào phát triển ngành Dầu khí Việt Nam,
cũng như sự phát triển ngành Dầu khí nước ta giai đoạn hiện nay, để từ đó có những giải
pháp cụ thể thu hút các nguồn vốn đầu tư vào phát triển ngành Dầu khí. Đưa ngành Dầu
khí phát triển xứng đáng với tiềm năng sẵn có của đất nước.
Tuy bài viết đã có nhiều cố gắng, song không tránh khỏi những thiếu sót và còn nhiều
hạn chế, em mong sự đóng góp của thầy cô giáo để bài viết được hoàn thành tốt hơn.
Bài viết được hoàn thành với sự hướng dẫn tận tình của cô giáo, Thạc sỹ: Trần Mai
Hương. Em xin chân thành cảm ơn cô.
Hà Nội: 11.2003.
Nội dung
Chương I: Khái quát chung về đầu tư và vấn đề huy động vốn đầu tư vào ngành
Dầu khí Việt Nam.
Trước khi đi sâu vào nghiên cứu vấn đề “huy động vốn đầu tư cho sự phát triển ngành
Dầu khí”, em xin trình bày những khái niệm cơ bản về đầu tư, đầu tư cho phát triển và
các nguồn vốn cơ bản cần huy động cho công cuộc đầu tư.
I / Đầu tư và nguồn vốn đầu tư.
1. Khái niệm về đầu tư, đầu tư phát triển
“Đầu tư là thuật ngữ có thể được hiểu đồng nghĩa với “sự bỏ ra”, sự hi sinh”. Từ đó
có thể coi “Đầu tư” là sự bỏ ra, sự hi sinh những cái gì đó ở hiện tại để tiến hành các hoạt
động nhằm đem lại cho người đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các
nguồn lực đã bỏ ra.
Các nguồn lực bỏ ra có thể là tiền, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động, tài sản vật
chất khác. Còn những kết quả đạt được có thể là tăng thêm tài sản tài chính, tài sản vật
chất, tài sản trí tuệ và nguồn lực có đủ điều kiện để làm việc với năng suất lao động và
hiệu suất công tác cao hơn trong nền sản xuất xã hội.
Những kết quả đã đạt được ở trên đây, những kết quả là tài sản vật chất, tài sản trí tuệ
và nguồn nhân lực tăng thêm có vai trò quan trọng trong mọi lúc, mọi nơi, đối với cả
người bỏ vốn và nền kinh tế. Những 1kết quả này không chỉ riêng người đầu tư mà cả
nền kinh tế được hưởng.
Trong hoạt động đầu tư có bao gồm Đầu tư cho tài chính, Đầu tư thương mại và Đầu
tư cho phát triển. Đầu tư vào ngành dầu khí là hoạt động thuộc thuộc lĩnh vực Đầu tư
phát triển.
Vậy Đầu tư cho phát triển là gì?
Đầu tư cho phát triển được hiểu là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn
lực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở
đang tồn tại và tạo ra tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội, tạo việc làm và nâng cao đời
sống của mọi thành viên trong xã hội.
* Đặc điểm của đầu tư phát triển:
Khác với các hoạt động đầu tư khác, Đầu tư phát triển có đặc điểm sau:
Hoạt động Đầu tư phát triển đòi hỏi một khối lượng vốn lớn, vốn nằm khế đọng,
không vận động suốt quá trình thực hiện đầu tư. Đây chính là cái giá khá lớn của Đầu tư
phát triển.
Thời gian để tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khi các thành quả của nó phát
huy tác dụng thường đòi hỏi nhiều thời gian với nhiều biến động xảy ra.
Thời gian cần huy động đòi hỏi để có thể thu hồi đủ vốn đã bỏ ra đối với các cơ sở vật
chất kỹ thuật phục vụ sản xuất kinh doanh thường là lớn và do đó không tránh khỏi sự tác
động hai mặt (tích cực, tiêu cực) của các yếu tố không ổn định về tự nhiên, xã hội, chính
trị, kinh tế …
Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển có giá trị sử dụng lâu dài nhiều năm, có
khi hàng trăm, hàng ngàn năm và thậm chí tồn tại vĩnh viễn như các công trình nổi tiếng
thế giới ( Kim Tự Tháp cổ ở Ai Cập, nhà thờ La Mã ở Rome, Vạn Lý Trường Thành ở
Trung Quốc, Đền AngcoVat của Campuchia ). Điều này nói lên giá trị của các thành quả
Đầu tư phát triển.
Các thành quả hoạt động Đầu tư phát triển là công trình xây dựng sẽ hoạt động ở
ngay nơi mà nó được tạo dựng. Do đó các điều kiện về địa lý, địa hình nơi đầu tư sẽ ảnh
hưởng lớn đến quá trình thực hiện đầu tư cũng như tác dụng sau này của các kết quả đầu
tư.
Mọi thành quả và hậu quả của quá trình thực hiện đầu tư chịu ảnh hưởng nhiều của
các yếu tố không ổn định theo thời gian và điều kiện pháp lý của không gian.
Từ những đặc điểm trên, ta thấy Đầu tư phát triển không những tác động đến nền kinh
tế mà còn tác động đến toàn bộ xã hội. Vì vậy mà Đầu tư phát triển có những vai trò quan
trọng đối với nền kinh tế nói riêng và toàn xã hội nói chung.
* Vai trò của Đầu tư phát triển:
Các nhà kinh tế đều cho rằng Đầu tư phát triển là chìa khoá của sự tăng trưởng. Vai
trò này được thể hiện ở các mặt sau:
Thứ nhất: Trên giác độ toàn bộ nền kinh tế của đất nước:
+ Đầu tư vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu:
Về mặt cung: Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào
hoạt động thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên (đường S dịch chuyển
sang đường S’), kéo theo sản lượng tiềm năng từ Q1 đến Q2 và do đó giá cả sản phẩm từ
P1 đến P2. Sản lượng tăng, giá cả giảm, cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng đến lượt
mình lại tiếp tục kích thích sản xuất hơn nữa sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để
tăng tích luỹ, phát triển kinh tế - xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời
sống của mọi thành viên trong xã hội.
Về mặt cầu: Đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền
kinh tế. Theo số liệu của Ngân hàng thế giới, đầu tư thường chiếm khoảng 24% - 28%
trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Đối với tổng cầu tác động của đầu
tư là ngắn hạn. Với tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu
tăng (đường D dịch sang D’) kéo theo lượng cân bằng tăng theo từ Qo đến Q1 và giá cả
của các đầu vào của đầu tư tăng từ Po đến P1. Điểm cân bằng dịch chuyển từ Eo đến E1.
Sự tác động của đầu tư đến cung, cầu được thể hiện qua mô hình sau:
Đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế:
Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cầu và đối với
tổng cung của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư, dù là tăng hay giảm đều
cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền
kinh tế của mọi quốc gia.
+ Đầu tư với việc tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất nước:
Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá. Đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự
phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của đất nước ta hiện nay. Theo đánh giá của
các chuyên gia công nghệ, trình độ công nghệ của Việt nam lạc hậu nhiều thế hệ so với
thế giới và khu vực. Theo UNIDO, nếu chia quá trình phát triển công nghệ thế giới ra làm
7 giai đoạn thì Việt nam năm 1990 ở vào giai đoạn 1 và 2. Chúng ta đều biết rằng có hai
con đường cơ bản để có công nghệ từ nước ngoài. Dù là tự nghiên cứu hay nhập từ nước
ngoài đều cần phải có tiền, cần phải có vốn đầu tư. Mọi phương án đổi mới công nghệ
không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là phương án không khả thi.
+ Đầu tư và sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế:
Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy, con đường tất yếu có thể tăng
trưởng nhanh với tốc độ mong muốn là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển
nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch vụ.
Đối với các ngành nông – lâm nghiệp, thuỷ hải sản do những hạn chế về đất đai và
khả năng sinh học, để đạt được tốc độ tăng trưởng từ 5% - 6% là rất khó khăn. Như vậy
D’
D
E2
E1
S
S’
Eo
Qo
Q1
Q2
Po
P2
P1
Q
P
chính sách đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các quốc gia nhằm
đạt được tốc độ tăng nhanh của toàn bộ nền kinh tế.
Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mặt cân đối về phát triển
giữa các vùng, lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng nghèo đói,
phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị của những
vùng có khả năng phát triển nhanh, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát
triển.
+ Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển nền kinh tế:
Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy: Muốn giữ tốc độ phát triển ở mức
trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt từ 15% - 20% so với GDP, tuỳ thuộc vào ICOR của
mỗi nước
ICOR = => Mức tăng GDP =
Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư.
Thứ hai: Xét trên giác độ các đơn vị kinh tế của đất nước, Đầu tư phát triển có những
vai trò sau:
+ Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ: Đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại
và phát triển của mỗi cơ sở. Chẳng hạn, để tạo dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho sự ra
đời của bất kỳ cơ sở nào đều cần phải xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và
lắp đặt thiết bị máy móc trên nền bệ, tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và thực hiện
các chi phí khác gắn với sự hoạt động trong một chu kỳ của các cơ sở vật chất kỹ thuật
vừa được tạo ra. Các hoạt động này chính là hoạt động đầu tư.
Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh phục vụ đang tồn tại, sau một thời gian hoạt
động, các cơ sở vật - chất kỹ thuật của các cơ sở này hao mòn hư hỏng. Để duy trì được
sự hoạt động bình thường cần định kỳ tiến hành sửa chữa lớn hoặc thay mới các cơ sở vật
chất - kỹ thuật đã hư hỏng, hao mòn hoặc đổi mới để thích ứng với điều kiện hoạt động
mới của sự phát triển khoa học kỹ thuật và nhu cầu tiêu dùng của nền sản xuất xã hội,
mua sắm các thiết bị mới thay thế cho các trang thiết bị cũ đã lỗi thời, cũng có nghĩa là
phải đầu tư.
+ Đối với các cơ sở vô vị lợi, để duy trì sự hoạt động, ngoài tiến hành sửa chữa lớn
định kỳ, các cở sở vật chất - kỹ thuật còn phải thực hiện các chi phí thường xuyên. Tất cả
những hoạt động và chi phí này đều là những hoạt động đầu tư.
Như vậy : Đầu tư có một vai trò vô cùng to lớn đối với toàn bộ sự phát triển của một
quốc gia. Muốn hoạt động đầu tư ta cần có vốn đầu tư. Vậy vốn là gì? Vốn huy động từ
đâu?
2. Vốn và nguồn vốn
* Khái niệm về vốn:
Xét một phương diện tổng quát nguồn vốn đầu tư là thuật ngữ dùng để chỉ các nguồn
tập trung và phân phối vốn cho đầu tư kinh tế đáp ứng nhu cầu chung của nhà nước và
của xã hội. Nguồn vốn đầu tư bao gồm nguồn đầu tư trong nước và nguồn đầu tư nước
ngoài.
Vốn
đầu tư
Mức tăng GDP
Vốn
đầu tư
ICOR
Nếu chỉ xét theo nguồn hình thành và mục tiêu sử dụng thì vốn đầu tư là tiền tích luỹ
của xã hội, của các cơ sở sản xuất kinh doanh phục vụ, là tiền tiết kiệm của dân cư và vốn
huy động từ các nguồn khác được đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản xuất xã hội,
nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo ra tiềm lực mới cho nền sản xuất xã hội.
* Các nguồn vốn cơ bản:
Có rât nhiều cách phân chia các nguồn vốn huy động vào hoạt động đầu tư phát triển
kinh tế. ở đây tôi xin đưa ra một cách phân chia nguồn vốn huy động, mà ta sẽ dựa vào
các nguồn này để xem xét vấn đề huy động vốn vào ngành đầu khí ở phần sau. Đó là cách
phân chia nguồn vốn huy động căn cứ vào quyền sở hữu nguồn vốn. Có 3 nhà sở hữu vốn
ở đây là:
+ Sở hữu của nhà nước (bao gồm ODA)
+ Sở hữu của tư nhân (chủ yếu doanh nghiệp tư nhân)
+ Sở hữu của nước ngoài (chủ yếu FDI)
Đối với nguồn vốn thuộc sở hữu của nhà nước bao gồm nguồn vốn của ngân sách
nhà nước (trong đó bao gồm cả nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức – ODA từ các
chính phủ, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ thực hiện dưới hình thức khác
nhau là viện trợ hoàn lại, viện trợ không hoàn lại, cho vay ưu đãi với thời hạn dài, lãi suất
thấp và hai nguồn vốn nữa là nguồn vốn tín dụng và nguồn vốn của doanh nghiệp nhà
nước.
Nguồn vốn ngân sách nhà nước : Là nguồn chi của ngân sách nhà nước cho đầu tư.
Đó là một nguồn vốn đầu tư quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của mỗi
quốc gia. Nguồn này thường được sử dụng cho các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội,
quốc phòng an ninh, hỗ trợ cho các dự án của doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực cần tham
gia của nhà nước, chi cho công tác lập và thực hiện các dự án quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế xã hội vùng, lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn.
Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước. Cùng với quá trình đổi mới và
mở cửa, tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước ngày càng đóng vai trò đáng kể trong
chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Nếu như trước năm 1990, vốn tín dụng Đầu tư phát
triển của nhà nước chưa được sử dụng như một công cụ quản lý và điều tiết nền kinh tế
thì trong giai đoạn 1991- 2000 nguồn vốn này đã có mức tăng trưởng đáng kể và bắt đầu
có vị trí quan trọng trong chính sách đầu tư của chính phủ.
Nguồn vốn tín dụng của nhà nước có tác dụng tích cực trong việc giảm đáng kể sự
bao cấp vốn trực tiếp của nhà nước. Với cơ chế tín dụng, các đơn vị sử dụng vốn này phải
đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay. Chủ đầu tư phải tính kỹ hiệu quả đầu tư, sử dụng
vốn tiết kiệm hơn. Vốn tín dụng của nhà nước là một hình thức quá độ chuyển từ phương
thức cấp phát ngân sách sang phương thức tín dụng đối với các dự án có khả năng thu hồi
vốn trực tiếp.
Nguồn vốn đầu tư từ Doanh nghiệp nhà nước(DNNN): Được xác định là thành phần
giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, các DNNN vẫn nắm giữ một khối lượng nhà nước
khá lớn. Theo báo cáo tổng kết tổng kiểm kê tài sản và xác định lại giá trị tài sản DNNN
tại thời điểm 0h ngày 1 tháng 1 năm 2000 tổng nguồn vốn chủ sở hữu tại các DNNN là:
173857 tỷ đồng. Mặc dù vẫn còn một số hạn chế nhưng đánh giá một cách công bằng thì
khu vực kinh tế nhà nước với sự tham gia của các DNNN vẫn đóng vai trò chủ đạo trong
nền kinh tế nhiều thành phần.
Nguồn vốn thuộc sở hữu của tư nhân: Bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích
luỹ của các DN dân doanh, các hợp tác xã. Theo đánh giá sơ bộ, khu vực kinh tế ngoài
nhà nước vẫn sở hữu một lượng vốn tiềm năng rất lớn mà chưa được huy động triệt để.
Nguồn vốn này xấp xỉ bằng 80% tổng nguồn vốn huy động của toàn bộ hệ thống ngân
hàng. Thực tế phát hành trái phiếu của chính phủ và trái phiếu của một số ngân hàng
thương mại quốc doanh cho thấy, chỉ trong thời gian ngắn đã huy động được hàng ngàn
tỷ đồng và hàng chục triệu USD từ khu vực dân cư.
Thực hiện chính sách đổi mới, cơ chế cởi mở nhằm huy động mọi nguồn lực cho đầu
tư được thực hiện, trong những năm gần đây các loại hình doanh nghiệp dân doanh có
những bước phát triển mạnh mẽ. Hàng chục ngàn doanh nghiệp được thành lập mới với
số vốn hàng chục ngàn tỷ đồng( chỉ riêng 8 tháng đầu năm 2001có khoảng 11 ngàn doanh
nghiệp mới được thành lập với số vốn 13000 tỷ đồng)
Nguồn vốn đầu tư trực trực tiếp nước ngoài (FDI).
Đây là nguồn vốn quan trọng cho đầu tư và phát triển không chỉ đối với các nước
nghèo mà kể cả các nước công nghiệp phát triển. Theo số liệu của ngân hàng thế giới
(WB) trong năm 1999 toàn bộ các nước đang phát triển chỉ thu hút được 165 tỷ USD vốn
FDI, thì chỉ riêng Mỹ đã thu được mức132,8 tỷ USD.
Nguồn FDI có đặc điểm cơ bản khác với các nguồn vốn nước ngoài khác là việc tiếp
nhận nguồn vốn này không phát sinh nợ cho các nước tiếp nhận. Thay vì nhận lãi suất
trên vốn đầu tư, nhà đầu tư sẽ nhận được phần lợi nhuận thích đáng khi dự án đầu tư hoạt
động có hiệu quả FDI mang theo toàn bộ tài nguyên kinh doanh vào các nước nhận đầu
tư vốn nên nó có thể thúc đẩy phát triển ngành nghề mới, đặc biệt là những ngành đòi hỏi
cao v k thut, cụng ngh, hay cn nhiu vn. Vỡ th ngun vn ny cú tỏc dng cc k
to ln vi quỏ trỡnh cụng nghip hoỏ, chuyn dch c cu kinh t v tc tng trng
nhanh cỏc nc nhn u t.
i vi Vit Nam, sau hn 10 nm thc hin chớnh sỏch m ca, ngun vn u t
trc tip nc ngoi ó gúp phn b sung vn quan trng cho u t phỏt trin, tng
cng tim lc khai thỏc v nõng cao hiu qu s dng cỏc ngun lc trong nc nh
du khớ, in Tớnh t nm 1988 n nm 2000 trờn phm vi c nc ó cú 3251 d ỏn
c cp phộp vi tng s vn ng ký l 44587 triu USD cho n nay, Vit Nam ó
thu hỳt c 65 quc gia v vựng lónh th a vn vo u t.
ỏnh giỏ v t trng cỏc ngun vn so vi tng u t ton xó hi ta xem xột qua
bng s liu sau õy:
Bng 1: C cu tng u t xó hi (% giỏ hin hnh )
1998 1999 2000 2001 2002
Tổng vốn 100 100 100 100 100
I.Vốn Nhà n ớc 53.97 61.6 61.94 24.7 22.6
1. Vốn ngân sách Nhà n ớc 22.82 25.02 23.22 24.7 22.6
2.Vốn tín dụng 10.49 18.29 20.48 14.4 10.9
3.Vốn của các doanh nghiệp 20.66 18.29 18.24 19.3 18.8
II.Vốn ngoài quốc doanh 21.06 20.21 19.49 23.5 28.8
III.Vốn đầu t trực tiếp n ớc ngoài 24.97 18.19 18.57 18.3 18.8
Nm 2002 tng vn u t ton xó hi t 180,4 nghỡn t ng, ỏnh giỏ mc cao
nht t trc ti nay v t l tng vn u t so vi GDP (33,7%). u t nm 2002 ó
vt mc 4% mc tiờu k hoch ó c quc hi thụng qua v tng 10,3% so vi nm
2001.
Nm 2002 u t Nh nc chim 52,3% tng u t xó hi. Nm 2001, vn tớn dng
ca nh nc c thc hin ch t 83,4% so vi mc tiờu k hoch. Nguyờn nhõn ch
yu l do vn h tr phỏt trin chớnh thc( ODA) c gii ngõn t 1,58 t USD, ch
bng 88% k hoch. u t nh nc tuy vn l ngun quan trng nht, song ó cú xu
hng gim dn xột trong t trng vn u t xó hi (bng1). Hn na, mc gim t
trng vn u t ngõn sỏch Nh nc cho thy gii hn ca nh nc trong vic tng u
t t ngõn sỏch c v con s tuyt i v tng i (xột trong tng quan gia thu v chi,
gia chi thng xuyờn v chi u t phỏt trin).
Năm 2002, đầu tư của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tiếp tục tăng mạnh, đạt
28,8% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, mức kỷ lục từ trước tới nay. Mức đóng góp của vốn
FDI thực hiện xét theo tỷ trọng trong tổng số vốn đầu tư toàn xã hội đã có bước sụt giảm
đáng kể sau năm 1998 và hầu như không đổi trong những năm 1999-2000. Xu hướng này
còn có thể tiếp tục vì vốn FDI cam kết cũng đang có xu hướng giảm.
Xu hướng suy giảm FDI diễn ra trong tình hình Việt Nam được xem là quốc gia ổn
định nhất trong khu vực và Việt Nam đã thực hiện nhiêu biện pháp để cải thiện môi
trường cho Đầu tư Nhà nước kể từ năm 2000. Rõ ràng những nỗ lực vừa qua là chưa đủ
hấp dẫn FDI. Những vấn đề đang cản trở thu hút FDI vẫn được các nhà Đầu tư Nhà nước
liệt kê là: quy trình, thủ tục hành chính rườm rà và tệ nạn tham nhũng, các hệ thống văn
bản pháp luật chưa đồng bộ và thiếu minh bạch, quy chế hai giá và chi phí dịch vụ hạ
tầng hỗ trợ sản xuất kinh doanh đắt đỏ, thuế thu nhập cá nhân quá cao, quy định về tuyển
dụng lao động cứng nhắc, tổ chức xúc tiến đầu tư chưa hiệu quả. Nhiều tắc trách, thiếu
nhất quán và mâu thuẫn trong xử lý các vấn đề phát sinh cả đối với FDI và đầu tư.
Các hình thức huy động vốn nói chung:
Hiện nay có rất nhiều hình thức huy động vốn thích hợp trong các điều kiện nhất
định, vì vậy, có thể sử dụng nhiều hình thức khác nhau đối với các nhu cầu khác nhau về
vốn. Ta có thể xem xét các hình thức khá phổ biến như sau : Huy động vố thông qua ngân
hàng, các tổ chức tín dụng phi ngân hàng, thị trường chứng khoán, nguồn tín dụng phi
chính thức. Ngoài ra hình thức huy động vốn theo dự án, phát hành trái phiếu công trình
đối với các dự án lớn cũng là phương thức huy động vốn đáng chú ý.
+ Huy động vốn thông qua các tổ chức ngân hàng.
Đây là hình thức huy động vốn phổ biến nhất đối với nhu cầu vốn ngắn hạn, trung
hạn và dài hạn. Tuy nhiên hiện nay huy động vốn trung và dài hạn qua ngân hàng còn hạn
chế, do rất nhiều nguyên nhân. Do đó, bên cạnh nguồn vốn huy động dưới dạng tín dụng
ngân hàng, có thể huy động thêm vốn của ngân hàng dưới dạng góp vốn ( vốn cổ phần ),
theo quyết định mới đây của ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Cách huy động này ngoài
tác dụng đáp ứng nhu cầu về vốn, còn tạo nên sợi dây gắn bó ngân hàng và nhà đầu tư, do
đó giảm bớt độ rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng và tăng cơ hội vay vốn
trung và dài hạn của các nhà đầu tư.
+ Huy động vốn thông qua các tổ chức tài chính phi ngân hàng.
Các tổ chức tài chính phi ngân hàng ở Việt Nam hiện nay chủ yếu bao gồm các công
ty tài chính và các công ty bảo hiểm hoạt động khá khiêm tốn,phạm vi hẹp, đối tượng
phục vụ có giới hạn. Tuy vậy đây là hình thức huy động vốn mà các nhà đầu tư bắt đầu
quan tâm, do đó cần có những thông tin phổ biến hơn về các điều kiện huy động vốn từ
các tổ chức trên, để đa dạng hoá nguồn vốn nhằm tăng khả năng đảm bảo nhu cầu về vốn,
đồng thời là tăng tính cạnh tranh giữa các tổ chức ngân hàng và phi ngân hàng. Một trong
những hình thức huy động qua các công ty tài chính rất đáng quan tầm là hình thức tín
dụng thuê mua. Tuy nhiên,cần xem lại thủ tục và lãi suất của tín dụng thuê mua để tăng
sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư.
+ Huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán.
Thị trường tài chính thứ cấp ở nước ta còn kém phát triển, mặc dù thị trường chứng
khoán đã hoạt động từ tháng 7 năm 2000, nhưng quy mô hoạt động còn nhỏ bé, dung
lượng giao dịch không đáng kể, hơn nữa phần lớn mang tính chất thu lợi ngắn hạn. Vì
vậy theo em trong tương lai gần khó có thể coi đây là hình thức huy động vốn nhiều
Ưtiĩutytuy vọng. Mặc dù vậy thị trường tài chính vẫn là một kênh dẫn vốn quan trọng và
tạo điều kiện luân chuyển vốn dễ dàng hơn, đặc biệt có tác động tới hình thức đầu tư dưới
dạng góp vốn.
+ Huy động vốn thông qua hình thức tài trợ theo dự án.
Để tăng nguồn vốn cho các dự án, các nhà đầu tư nên sử dụng rộng rãi hơn hình thức
tài trợ theo dự án, bao gồm phát hành trái phiếu theo các công trình để huy động vốn.
Hình thức này rất có lợi do mang tính độc lập tương đối đối với các kết quả hoạt động
khác các ngành cần vốn lớn, nhưng đã vay nợ nhiều nên không thể huy động thêm vốn
theo cách thông thường. Tuy nhiên, đây là hình thức đòi hỏi có sự hỗ trợ của các tổ chức
tín dụng, đồng thời phải được chuẩn bị chu đáo để tạo lập uy tín cho dự án và tăng cường
sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư nước ngoài.
+ Huy động vốn thông qua các hình thức tín dụng phi chính thức.
Mặc dù nguồn vốn phi chính thức coi như là nguồn vốn không được kiểm soát và
không được khuyến khích. Tuy vậy không thể phủ nhận một thực tế là hình thức huy
động không chính thức này hiện nay khá hấp dẫn. Điều đó là do tính đơn giản trong việc
huy động vốn, chi phí giao dịch thấp. Đây cũng là một cách làm rất có hiệu quả để huy
động các nguồn vốn đa dạng còn nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư theo hình thức tài trợ
trực tiếp.
II. Đặc điểm của ngành dầu khí và vấn đề huy động vốn đầu tư vào ngành dầu
khí.
1.Đặc điểm của ngành dầu khí.
“Dầu khí là thuật ngữ gọi tắt cho “dầu mỏ” và “khí đốt”. Chúng là những hợp chất
hữu cơ tự nhiên. Riêng khí đốt còn gọi là khí tự nhiên. Khí này tồn tại cùng với dầu thô
gọi là “ khí đồng hành”. Dầu khí không chỉ là nhiên liệu mà còn là nguyên liệu nên nó
ảnh hưởng rất lớn đối với nền kinh tế thế giới. Khác với than đá, hay các khoáng sản
khác, việc thăm dò – khai thác chế biến phân phối dầu thô đã rất nhanh chóng mang tính
toàn cầu. Do đó về mặt công nghệ, trình độ công nghiệp dầu khí ở tất cả các nước đều
gần như nhau, không phân biệt đó là nước phát triển cao hay lạc hậu.
Ngành dầu khí là ngành công nghiệp bao gồm rất nhiều công đoạn không những thăm
dò, khai thác mà còn phải chế biến từ dầu thô trở thành dầu tinh. Theo thông lệ, ngành
dầu khí được chia là ba nhóm loại hình hoạt động gọi là thượng nguồn, trung nguồn, và
hạ nguồn. Nhóm thượng nguồn gồm các hoạt động nghiên cứu địa chất, tìm kiếm, thăm
dò, khai thác mỏ. Nhóm trung nguồn gồm các hoạt động tàng trữ vận chuyển, và nhóm hạ
nguồn gồm các hoạt động xử lý, chế biến ( lọc dầu, hoá dầu, hoá khí ) và phân phối. Ba
nhóm này có những đặc điểm riêng nhưng gắn kết với nhau tạo thành một vòng khép kín
của một ngành công nghiệp hoàn chỉnh.
Trong ngành công nghiệp dầu khí để khai thác được một tấn sản phẩm thì phải mất
nhiều năm từ việc thăm dò khai thác, khảo sát địa chất công trình, thẩm định trữ lượng,
đánh giá tiềm năng, phát triển đưa mỏ vào khai thác cũng phải qua rất nhiều công đoạn.
Thêm vào đó điều kiện địa lý thiên nhiên ngày càng xấu đi, việc khai thác vận chuyển đòi
hỏi chi phí tăng nhanh. Nói cách khác, đối với ngành dầu mỏ càng khai thác được nhiều
thì ngày càng khó khai thác. Một vấn đề nữa của ngành dầu khí là công nghệ rất hiện đại,
vốn đầu tư cực kỳ lớn, rủi ro cao, lợi nhuận nhiều và tính quốc tế cao. Vì các đặc điểm đó
mà cho đến giữa thế kỷ 20, ngành này hoàn toàn nằm trong tay các nước phát triển cao,
cùng các tập đoàn siêu quốc gia mang tính độc quyền. Cho nên các quốc gia đang phát
triển dù có một tiềm năng lớn về tài nguyên dầu khí thì vấn đề phát triển dầu khí vẫn còn
khó khăn.
2/ Sự cần thiết phải huy động vốn đầu tư vào ngành dầu khí ở Việt Nam
Từ nhiều năm nay dầu khí là một trong những ngành đầu tư hấp dẫn nhất. Kim ngạch
xuất khẩu dầu khí chiếm tỷ lệ đáng kể và đóng góp quan trọng đối với nền kinh tế nước.
Trong lĩnh vực thăm dò và khai thác dầu khí, đặc biệt là trong môi trường thềm lục địa và
tiềm năng dầu khí của Việt Nam, cơ hội đầu tư có nhiều nhưng vốn đầu tư có hạn. Vì vậy
vấn đề huy động vốn đầu tư vào phát triển ngành dầu khí không những phục vụ cho lĩnh
vực thăm dò khai thác dầu thô, mà điều quan trọng nữa là chúng ta cần vốn để trang bị
công nghệ, kiến thức tơi tinh lọc dầu. Khi đó mới hy vọng đất nước đi theo con đường
CNH-HDH mà ngành dầu khí là ngành dẫn đầu.
Nếu đặt nền kinh tế Việt Nam trong quỹ đạo kinh tế thế giới: ta thấy hiện nay năng
lượng và nhiên liệu luôn được coi là đầu tàu cho sự phát triển kinh tế-xã hội, vậy mà vẫn
chưa tìm ra một năng lượng, nhiên liệu nào thay thế than, dầu khí. Dự báo trong vòng 15
năm tơi tiêu thụ dầu mỏ trên toàn thế giới sẽ đạt mức cao nhất, khoảng 90-95 triệu
thùng/ngày, so với hiện tại là 70-77 triệu thùng. Sau đó sẽ giảm dần vì khai thác giảm đi,
giá dầu tăng vọt, các nước có thể rơi vào khủng hoảng năng lượng. Thực tế là hiện nay,
giá dầu thô tăng kỷ lục. Ngày 14/2/2000, giá dầu trên thị trường NewYork tăng vượt quá
mức giá 30USD/ thùng tại thời điểm này năm 1999. Đây là mức giá cao nhất kể từ cuộc
chiến tranh vùng vịnh 1991. Nguyên nhân khiến cho giá dầu tăng mạnh là do tốc độ phục
hồi kinh tế toàn cầu đã đẩy mạnh nhu cầu sử dụng dầu thô, đặc biệt là ở châu á và Nhật
Bản. Dự báo giá dầu thô vẫn có thể tăng trong thời gian tới.
Chính vì nhu cầu dầu trên thế giới ngày một tăng lên Việt Nam cần có sự ưu tiên
trong vấn đề khai thác dầu khí, nguồn năng lượng mà thiên nhiên ban tặng.
Một thực tế ở Việt Nam hiện nay trong vấn đề phát triển ngành dầu mỏ là: Chúng ta
chỉ mới tập trung thăm dò và khai thác dầu khí, còn khâu chế biến thành dầu tinh hầu như
ta chưa có khả năng. Một trong những nguyên nhân của vấn đề này là ta chưa có nguồn
vốn đủ lớn để tập trung công nghệ và trí tuệ chế biến dầu tinh. Mặt khác nếu chỉ riêng
vấn đề khai thác thăm dò và khai thác chúng ta vẫn gặp nhiều trở ngại do thiếu vốn, thiếu
máy móc thiết bị. Vì vậy việc huy động vốn vào ngành dầu khí là việc cần thiết.
Chương II : Thực trạng và giải pháp huy động vốn đầu tư vào ngành Dầu khí ở
Việt Nam giai đoạn hiện nay.
I/ Thực trạng huy động vốn đầu tư vào ngành dầu khí ở Việt Nam.
1/ Tình hình phát triển ngành dầu khí ở Việt Nam những năm qua.
Ngành dầu khí Việt Nam đến nay về cơ bản đã được xây dựng gần hoàn chỉnh, bao
gồm các hoạt động đầu tư thượng nguồn đến hạ nguồn. Các tổ chức được xếp vào ngành
này hiện ở Việt Nam là:
1. Tổng công ty dầu khí Việt Nam (Petro Vietnam)
2. Tổng công ty xăng dầu Việt Nam (PetroLimex)
3. Công ty xăng dầu hàng không (Vinapco)
4. Công ty dầu khí TPHCM (Saigon Petro)
5. Công ty dầu khí Hà nội (Hanoi Petro)
Trong các tổ chức kể trên chỉ có tổng công ty dầu khí Việt Nam với tiền thân của nó
là “ Tổng cục dầu khí Việt Nam “ hoạt động trong tất cả các khâu từ nghiên cứu tìm
kiếm, thăm dò, khai thác, vận chuyển, tàng trữ, kinh doanh dầu thô, khí đốt và sản phẩm
dầu khí, dịch vụ dầu khí.
Một thực tế là Việt Nam có một tiềm năng dầu khí không phải là nhỏ. Cùng với việc
công nghiệp hoá -hiện đại hoá đất nước, ngành dầu khí Việt Nam cũng từng bước phát
triển. Từ chỗ phải nhập từng lít dầu hoả để thắp đèn, sau 27 năm thành lập, Tổng cục dầu
khí Việt Nam đã đưa ngành công nghiệp dầu khí Việt Nam phát triển tương xứng với
tiềm năng của nó. Theo thống kê của thế giới, nước ta được xếp hạng thứ 35 từ năm 2001
và năm 2002 được nâng thứ 31 trong danh sách các nước sản xuất dầu khí. Như vậy trong
27 năm từ khi được thành lập đến nay, ngành dầu khí Việt Nam đã có những bước phát
triển to lớn, là một trong những ngành kinh tế hàng đầu của đất nước, đóng góp đáng kể
cho nguồn thu ngân sách của quốc gia, phục vụ Tích cực cho công cuộc phát triển và đổi
mới nền kinh tế Việt Nam.
Ta xem xét tình hình phát triển của ngành dầu khí Việt Nam qua các lĩnh vực như
sau:
Về hoạt động tìm kiếm thăm dò và khai thác dầu khí:
“ở hoạt động tìm kiếm thăm dò” với phương châm chủ yếu là phát huy Nội lực, kết
hợp tăng cường hợp tác quốc tế, thu hút đầu tư về khoa học và công nghệ của nước ngoài.
Hiện nay, Tổng công ty dầu khí Việt Nam đang quản lý giám sát và tham gia hoạt động
điều hành 19 hợp đồng trong giai đoạn tìm kiếm thăm dò, nghiên cứu TM và chuẩn bị
phát triển.
Bên cạnh đó, PetroVietnam đã triển khai nhiều dự hợp tác nghiên cứu, Khảo sát khu
vực với các công ty dầu khí nước ngoài để đánh giá tiềm năng dầu khí tổng thể của Việt
Nam, quy hoạch khí tổng thể, nghiên cứu địa lý, vật lý vùng thềm lục địa Việt Nam
Tổng công ty đã triển khai một số đề án độc lập đạt kết quả tốt, khẳng định trình độ, khả
năng quản lý và điều hành của mình.
Theo kết quả nghiên cứu, khảo sát thu thập được tiềm năng dầu khí của Việt Nam dự
báo có khoảng 3-3,5 tỷ tấn dầu quy đổi. Cho đến nay công tác tìm kiểm thăm dò khai thác
dầu khí mới được thực hiện trên 30% diện tích vùng biển Việt Nam, phát hiện xác minh
khoảng 30-35% trữ lượng báo, đảm bảo cho khai thác với sản lượng 22-24 triệu tấn quý
đầu vào năm 2005.
“ở hoạt động khai thác dầu khí” của Tổng công ty dầu khí Việt Nam Được duy trì tại
6 mỏ: Bạch Hổ, Rồng, Đại Hùng, Rạng Đông, PM3 và Ruby. Toàn ngành đã đặt mức
khai thác 100 triệu tấn dầu vào ngày 13/2/2001. Sản lượng khai thác của xí nghiệp liên
doanh Vietsovpetro năm 2001 đạt 13,46 triệu tấn bằng 105,15% kế hoạch năm.
“Về công nghiệp khí”: Được triển khai tích cực theo quy hoạch tổng thể Sử dụng khí,
nhiều dự án khí sẽ phát huy hiệu quả ngay trong giai đoạn 2001-2005. Hệ thống đường
ống dẫn khí đồng hành vận hành ổn định công Suất cấp khí đạt 4,8-5,3 triệu m
3
/ ngày.
Năm 2001 đã đưa vào bờ trên 1,7 tỷ m
3
khí đồng hành. Đề án Nam Côn Sơn chính thức
phát động cuối tháng 5/2001, hiện đang được triển khai khẩn trương để hoàn thành công
trình vào cuối năm 2002. Dự án đường ống dẫn khí PM3-Cà Mau nhà máy Đạm và nhà
máy Điện Cà Mau đang triển khai các công tác chuẩn bị.
Về lĩnh vực chế biến lọc hoá dầu: Trong điều kiện chưa có được nhà máy lọc dầu và
một liên hợp lọc hoá dầu hoàn chỉnh. Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đã triển khai kế
hoạch phát triển ngành công nghiệp hoá dầu theo hướng nhập nguyên liệu trung gian từ
nước ngoài để chế biến và sản xuất các sản phẩm hoá dầu, sau đó dần dần phát triển và
tiến tới chuyển sang sử dụng nguyên liệu trong nước tạo thành một chu trình khép kín từ
khâu lọc dầu đến hoá dầu.
Về các dịch vụ kỹ thuật dầu khí: Trong những năm gần đây, Tổng công ty Dầu khí
Việt Nam đã đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, phát triển các dịch vụ kỹ thuật chuyên ngành
và dịch vụ phục vụ sinh hoạt hết sức đa dạng với quy mô từ thấp đến cao, từng bước
vươn lên cung cấp các dịch vụ có hàm lượng công nghệ cao đạt tiêu chuẩn quốc tế, mở
rộng ra thị trường khu vực và quốc tế. Mức tăng trưởng của lĩnh vực dịch vụ dầu khí
trong giai đoạn 1996-2000 đạt từ 15-20%/năm, doanh số thực hiện khoảng 3000 tỷ đồng.
Về công tác nghiên cứu khoa học và đào tạo cán bộ:
Trong nghiên cứu khoa học; giai đoạn 1996-2000 Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đã
thực hiện được 150 đề tài. Nhiều đề án trong lĩnh vực nghiên cứu địa chất, dầu khí, công
nghệ trong các lĩnh vực khoan và khai thác, kỹ thuật an toàn, bảo vệ môi trường được
đánh giá cao.
Đội ngũ cán bộ khoa học, các nhà quản lý, kỹ sư, công nhân lành nghề của Tổng công
ty Dầu khí Việt Nam đang tự khẳng định năng lực của mình, đảm nhiệm hầu hết các khâu
quan trọng của ngành công nghiệp dầu khí.
Tổng số cán bộ công nhân viên ngành dầu khí đến nay khoảng 14000 người, tỷ lệ cán
bộ khoa học công nghệ và công nhân kỹ thuật là khá cao (chiếm 83%).
2/ Quy mô và tốc độ huy động vốn vào ngành Dầu khí ở Việt Nam.
Từ nhiều năm nay, dầu khí là một trong những ngành đầu tư hấp dẫn nhất. Kim ngạch
xuất khẩu dầu khí chiếm tỷ lệ đáng kể và đóng góp quan trọng đối với nền kinh tế nhiều
nước. Trong lĩnh vực thăm dò và khai thác dầu khí, đặc biệt là trong môi trường thêm lục
địa và tiềm năng dầu khí của Việt Nam cơ hội đầu tư có nhiều nhưng vốn đầu tư của ta có
hạn. Tuy vậy, đến nay vốn đầu tư vào ngành dầu khí đã đạt mức độ đáng kể.
• Ta xem tổng vốn đầu tư vào ngành khai thác mỏ, cớ cấu nguồn vốn thuộc khu
vực Nhà nước và nguồn vốn không thuộc khu vực Nhà nước ( bao gồm vốn khu vực
ngoài quốc doanh và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài). Qua bảng số liệu các năm sau:
Bảng 2:
(Nguồn niên giám thống kê 2001).
Năm Tổng vốn đầu tư Vốn thuộc khu vực
Nhà nước
Vốn ngoài quốc
doanh
Tỷ đồng Cơ
cấu(%)
Tỷ đồng Cơ
cấu(%)
Tỷ đồng Cơ
cấu(%)
Giá
thực
tế
1995 3645 100 1089.8 30 2555.2 70
1996 3788.7 100 1458.8 38.5 2329.9 61.5
1997 4374.6 100 1789.5 40.9 2543.1 59.1
1998 3735.5 100 2492.1 66.7 1243.4 33.3
1999 3688.6 100 2864.5 77.66 824.1 22.34
2000 3737.7 100 2778 74.32 959.7 25.68
2001 4140 100 3080 74.4 1060 25.6
Giá
thực
tế
1995 3255.4 100 973 29.9 2282.4 70.1
1996 3221.7 100 1263.4 39.2 1958.3 60.8
1997 3576.8 100 1463.2 40.9 2113.6 59.1
1998 2900.5 100 1935.1 66.7 965.4 33.3
1999 2808.3 100 2180.6 77.6 6282 22.4
2000 2845.3 100 2114.7 74.3 730.6 25.7
2001 3143.4 100 2338.6 74.4 804.8 25.6
Nhìn vào bảng số liệu ta thấy: Tổng vốn đầu tư vào ngành khai thác có xu hướng ổn
định đến năm 2001 đã tăng nhanh cho thấy đầu tư vào ngành dầu khí ngày càng hấp dẫn.
Riêng khu vực nhà nước những năm 1995, 1996, 1997 đầu tư vào ngành còn thấp, nhưng
đến năm 2001 đã tăng lên nhanh chóng, cho thấy rằng ngành dầu khí ngày càng được nhà
nước quan tâm đầu tư phát triển, nhất là lĩnh vực khai thác mỏ.
Nhìn chung, ngành dầu khí ngày càng thu hút các nhà đầu tư, đầu tư vào ngành từ
lĩnh vực tìm kiếm thăm dò khai thác dầu khí đến lĩnh vực chế biến, lọc hoá dầu.
Nếu năm 2000 tổng vốn đầu tư vào ngành dầu khí là 4200 tỷ đồng, thì năm 2001 tăng
lên 5600 tỷ đồng và năm 2002 ước tính trên 700 tỷ đồng, trong đó, vốn ngân sách lấy từ
phần lãi dầu được để lại chiếm 25%, vốn vay các loại 63% và vốn tự bổ sung 12%.
Một ngành công nghiệp muốn phát triển, nhất là ngành công nghiệp mũi nhọn như
ngành dầu khí rất cần nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. Và thực tế, những năm
gần đây để khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài, pháp luật Việt Nam đã thông thoáng
đối với đầu tư nước ngoài nên vốn FDI vào lĩnh vực dầu khí tăng nhanh. Theo số liệu của
Bộ Kế hoạch & Đầu tư, vốn FDI thực hiện trong năm 2002 dạt 2345 triệu USD, tăng 2%
so với năm 2001. Trong số các ngành kinh tế, ngành công nghiệp dầu khí có số vốn trực
tiếp thực hiện lớn nhất, đạt gần 1 tỷ USD do có nhiều hợp đồng thăm dò khai thác dầu khí
chuẩn bị phát triển mỏ và do dự án đường ống dẫn khi Nam Côn Sơn với vốn đăng ký
581 triệu USD đi vào giai đoạn kết thúc.
Như vậy: Nguồn vốn huy động được vào ngành dầu khí ở Việt Nam trong thời gian
qua là những con số không nhỏ, từ đó đã mang lại những kết quả khả quan trong ngành
công nghiệp nói chung và ngành công nghiệp dầu khí nói riêng. Song ngành dầu khí như
ta đã thấy đặc điểm của công nghiệp dầu khí là cần vốn lớn, chịu nhiều rủi ro, hơn nữa
Dầu khí còn là ngành công nghiệp mũi nhọn của Việt Nam và tiềm năng vốn có của thiên
nhiên ban tặng. Việt Nam trong thế kỷ 21 này cần có nhiều biện pháp để huy động vốn
vào ngành dầu khí.
II/ Đánh giá thực trạng huy động vốn đầu tư vào ngành dầu khí ở Việt Nam
thời gian qua:
1./ Những kết quả đạt được:
Trong thời gian qua, ngành dầu khí đã được đầu tư phát triển, nguồn vốn đầu tư vào
không phải là nhỏ. Nhìn chung, các mỏ dầu khí được đầu tư vào những năm trước đây đã
và đang phát huy hiệu quả. Ta có thể thấy kết quả mà ngành dầu khí đã làm được trong
những năm gần đây như sau:
- Trong hoạt động tìm kiếm, thăm dò khai thác dầu khí, những năm gần đây Việt
Nam đã ký 43 hợp đồng dưới nhiều hình thức với công ty nước ngoài (riêng năm 2000 đã
ký 6 hợp đồng), thu hút trên 3 tỷ USD vào lĩnh vực này. Nhiều mỏ dầu và khí có giá trị
thương mại đã được phát hiện và đưa vào khai thác.
- Về hoạt động khai thác dầu khí tính đến ngày 13/2/2001 PetroVietnam đã khai
thác được 100 triệu tấn dầu thô và 50722 tỷ m
3
khí, đóng góp đáng kể cho ngân sách nhà
nước (trong giai đoạn 1996-2000 khoảng 5 tỷ USD và 5000 tỷ VND) PetroVietnam được
xếp trong số 100 công ty có doanh số bán ra lớn nhất tại khu vực châu á- Thái Bình
Dương (không kể Nhật Bản và Trung Quốc). Hiện nay liên doanh Vietsovpetro là đơn vị
có sản lượng khai thác lớn, chiếm trên 80% toàn bộ sản lượng dầu thô và 1,58 tỷ m3 khí
đồng hành.
- Tính đến hết tháng 6/2002, sản lượng khai thác dầu khí đạt 9,505 triệu tấn dầu thô
quy đổi, trong đó 8,423 triệu tấn dầu thô bằng 50,4% kế hoạch năm, khai thác khí đạt
1082 triệu m
3
khí, bằng 54% kế hoạch; xuất khẩu dầu thô đạt 8,31 triệu tấn, bằng 50,36%
kế hoạch, kim ngạch xuất khẩu đạt 256771 tỷ đồng, đạt 56% kế hoạch, nộp ngân sách
13411 tỷ đồng.
Trong lĩnh vực công nghiệp khí. Hệ thống đường ống dẫn khí đồng hành Bạch Hổ
vận hành ổn định, đạt mức công suất thiết kế 6 triệu m
3
/ngày. Lượng khí đồng hành đưa
vào bờ 6 tháng đầu năm dạt 1082,6 triệu m
3
. Đề án khí Nam Côn Sơn đang được triển
khai theo đúng tiến độ ở hầu hết các khâu để công trình hoàn thành vào cuối năm 2002.
Trong lĩnh vực chế biến lọc hoá dầu: Ngoài đề án nhà máy lọc dầu số 1 Dung Quất,
đề án Đạm Phú Mỹ (800 000 tấn/ năm) là dự án hoá dầu đầu tiên và lớn nhất Việt Nam
đang được triển khai theo tiến độ nhằm đưa nhà máy vào hoạt động năm 2004. Đề án lọc
dầu số 2 đang được chính phủ xem xét phê chuẩn báo cáo nghiên cứu tiền khả thi.
Như vậy: Bằng những nỗ lực không nhỏ để huy động vốn đầu tư vào ngành Dầu khí.
Bên cạnh đó nhờ tiếp xúc thường xuyên với các đối tác nước ngoài và công tác đào tạo
cán bộ rất cần được coi trọng, nên PetroVietnam có thể nói là đơn vị kinh tế hội nhập khá
thuận lợi vào ngành dầu khí thế giới. Trong nhiều năm liên tục công tác tài chính kế toán
luôn đạt được những kết quả cao nhờ hoạt động sản xuất kinh doanh luôn phát triển vượt
mức kế hoạch đề ra.
Tổng doanh thu của PetroVietnam năm 2001 đạt 50415 tỷ đồng thì năm 2002 đạt 61
000 tỷ đồng, gần tương đương với GDP của TPHCM. Trong số đó doanh thu từ dầu thô
năm 2002 ước đạt 2732 triệu USD, từ kinh doanh sản phẩm khí đạt 3551 tỷ đồng, từ các
hoạt động sản xuất kinh doanh khác đạt 10 861 tỷ đồng và có 5 đơn vị thành viên đạt
doanh thu trên 1000 tỷ đồng/năm. Tỷ lệ lợi nhuận trên doanh thu bình quân toàn Tổng
công ty đạt 18,8%, đơn vị đạt cao nhất đến 32%. Một chỉ tiêu quan trọng khác để đánh
giá hoạt động của một đơn vị kinh tế là số thu nộp ngân sách. Theo chỉ tiêu này thì năm
2000 đạt 26616 tỷ đồng, năm 2001 đạt 26 682 tỷ đồng và năm 2002 ước đạt 27 000 tỷ
đồng.
Ta có thể thấy tổng doanh thu, nộp ngân sách của ngành dầu khí Việt Nam từ 1995
đến năm 2001 ở bảng 3a, sản lượng và doanh thu của các sản phẩm dầu khí từ 1995 đến
2000 ở bảng 3b, để từ đó so sánh qua các năm và rút ra cho mình những nhận xét về kết
quả mà ngành dầu khí Việt Nam đã đạt được trong những năm qua.
Bảng 3a
Năm 1995-
1996
1997 1998 1999 2000 2001
Tổng
doanh thu
trong đó
Triệu
USD
1437 1247 1911 3194 3900
Tỷ VND 1870 2374 4113 4866
Nộp ngân
sách trong
đó
Triệu
USD
2196 781 692 1030 1778 2300
Tỷ VND 723 893 906 752
Bảng 3b
Năm Dầu thô Khí đồng hành
1995 Sản lượng 7.7 Triệu tấn 182 Triệu m
3
Doanh thu (USD) 1.03 Tỷ 9.1 Triệu
1996 Sản lượng 8.6 Triệu tấn 274.5 Triệu m
3
Doanh thu (USD) 1.35 Tỷ 19.5 Triệu
1997 Sản lượng 9.8 Triệu tấn 527 Triệu m
3
Doanh thu (USD) 1.44 Tỷ 41.3 Triệu
1998 Sản lượng 11.8 Triệu tấn 828 Triệu m
3
Doanh thu (USD) 1.13 Tỷ 70 Triệu
1999 Sản lượng 14.88 Triệu tấn 1031 Triệu m
3
Doanh thu (USD) 2.062 Tỷ 71.16 Triệu
2000 Sản lượng 15.5 Triệu tấn 1400 Triệu m
3
Doanh thu (USD) 3.194 Tỷ
Qua bảng số liệu trên ta thấy sản lượng dầu thô và khí đồng hành từ 1995 đến nay liên
tục tăng, nếu năm 1995 sản lượng dầu thô là 7,7 triệu tấn thì đến năm 2000 đạt 15,5 triệu
tấn, chỉ trong vòng 5 năm mà sản lượng dầu thô đã tăng lên gấp đôi. Sản lượng khí đồng
hành năm 1995 là 182 triệu m
3
thì chỉ sau 5 năm sản phẩm khí đã tăng hơn gấp 7 lần (14
000 triệu m
3
). Rõ ràng nguồn vốn huy động tăng và sử dụng hiệu quả, khi đó sản lượng
các sản phẩm dầu khí mới tăng một cách nhanh chóng như vậy. Và dẫn đến doanh thu từ
ngành dầu khí cũng tăng nhanh, năm 1997 doanh thu là 1 437 triệu USD nộp vào ngân
sách là 781 triệu USD thì đến năm 2001 doanh thu tăng lên 3 900 triệu USD, nộp vào
ngân sách là 2 300 triệu USD.
Để có được những kết quả khả quan như vậy, những năm gần đây ngành dầu khí
không những được sự đầu tư phát triển của Nhà nước để trở thành một ngành công
nghiệp mũi nhọn, mà ngành đã thu hút lượng vốn đầu tư vào rất lớn, có thể nói là lớn
nhất trong các ngành công nghiệp ở Việt Nam. Thật vậy, theo số liệu của Bộ Kế hoạch &
Đầu tư, nguồn vốn FDI năm 2002 đầu tư vào ngành dầu khí chiếm 42,6% tổng nguồn vốn
FDI thực hiện. Dẫn đến doanh thu xuất khẩu dầu thô năm 2002 đạt 1/2 tổng kim ngạch
xuất khẩu cả nước. Đây là một tỷ lệ lớn mà ngành dầu khí đã đóng góp vào nền kinh tế
quốc gia. Với tốc độ thu hút vốn đầu tư và phát triển như hiện nay, nhất định trong tương
lai ngành dầu khí sẽ là ngành công nghiệp mũi nhọn không thể thiếu được góp phần thực
hiện CNH-HĐH của đất nước ta.
2/ Những hạn chế còn tồn tại trong vấn đề huy động vốn và phát triển ngành dầu khí
ở nước ta.
Một vấn đề bao giờ cũng có hai mặt của nó, bên cạnh những kết quả to lớn mà ngành
dầu khí đã làm được, vẫn tồn tại những sai sót hạn chế trong vấn đề huy động vốn vào
ngành và đưa ra một số đánh giá sơ bộ về tình hình phát triển của ngành dầu khí Việt
Nam.
Trong vấn đề huy động vốn đầu tư vào ngành, mặc dù những năm gần đây Nhà nước
rất quan tâm đến phát triển công nghiệp dầu khí và tích cực kêu gọi các nhà đầu tư nước
ngoài đầu tư vào lĩnh vực tìm kiếm, thăm dò khai thác, chế biến dầu khí. Song cần thẳng
thắn thừa nhận rằng, môi trường đầu tư nước ta chưa có sức cạnh tranh so với các nước
trong khu vực.
Trong số những mặt tồn tại của môi trường đầu tư Việt Nam có lẽ trước hết cần nhắc
nhở tới sự thiếu quy hoạch dài hạn và rõ ràng về ngành và về sản phẩm. Từ đó dẫn tới
những chính sách hạn chế và thay đổi trong một số lĩnh vực, rất khó lường trước đối với
các nhà đầu tư. Thứ hai là chi phí đầu tư tại Việt Nam tuy đã có xu hướng giảm xuống,
nhưng so với các nước trong khu vực thì tính cạnh tranh vẫn còn thấp. Thứ 3 là việc hạn
chế cho việc chấp hành luật pháp chưa nghiêm, vận dụng luật pháp chưa nhất quán giữa
các ngành, các cấp. Đặc biệt trong bối cảnh đẩy nhanh tiến trình hội nhập quốc tế việc am
hiểu và vận dụng các điều khoản của các hiệp định quốc tế song phương và đa phương
còn không ít bất cập không chỉ có các cơ quan địa phương mà còn ở các cơ quan quản lý
ở TW. Ngoài ra vẫn còn không ít vướng mắc liên quan đến chính sách thuế, nhất là thuế
tài nguyên và thuế lợi tức.
Bên cạnh những hạn chế trong môi trường đầu tư của Việt Nam, đã làm giảm các nhà
đầu tư vào Việt Nam. Một hạn chế lớn trong vấn đề huy động vốn vào ngành dầu khí là:
Giá dầu hiện nay đang biến động nên khiến các nhà đầu tư nước ngoài thường chú trọng
đầu tư vào lĩnh vực tìm kiếm khai thác dầu thô ở Việt Nam rồi mang dầu thô ra nước
ngoài tinh lọc hóa dầu. Ngành dầu khí là ngành cần đầu tư công nghệ, máy móc thiết bị,
đầu tư công nghệ thì các nhà đầu tư nước ngoài không muốn đầu tư. Còn nguồn vốn
trong nước thì hạn hẹp nên vấn đề huy động vốn vào hệ thống công nghiệp lọc hoá dầu
còn rất hạn chế.
Chính vì thiếu nguồn vốn, hơn nữa nguồn vốn huy động vào ngành sử dụng không
còn phù hợp trong các lĩnh vực của ngành dầu khí, nên ngành dầu khí nước ta phát triển
chưa tương xứng với tiềm năng vốn có của nó. Một đất nước bán nguyên liệu để nhập
thành phẩm là một nước lạc hậu và Việt Nam đang là nước bán dầu thô để nhập từng lít
xăng. Mặc dù đề án lọc dầu ở Việt Nam được đặt ra từ rất sớm, trước cả khi thành lập
Tổng công ty Dầu khí Việt Nam. Lợi nhuận biên của công nghiệp lọc dầu rất thấp nên
việc huy động vốn nước ngoài gặp nhiều khó khăn. Nhà máy lọc dầu số 1 Dung Quất,
một liên doanh giữa PetroVietnam và Zarubeznheft (Nga) với tỷ lệ góp vốn 50/50 đã
được Bộ Kế hoạch & Đầu tư cấp giấy phép và đi vào hoạt động từ 28/12/1998 nhưng
trong điều hành triển khai gặp nhiều trắc trở nên chính phủ đã quyết định tự đầu tư từ
cuối năm 2002. Vì vậy PetroVietnam phải phấn đấu nỗ lực rất cao mới hy vọng hoàn
thành đúng tiến độ xây dựng do nhà nước quy định. Dự án khu liên hợp lọc hoá dầu số 2
ở Nghi Sơn-Thanh Hoá có công suất 7 triệu tấn/năm, báo cáo nghiên cứu khả thi đã được
chính phủ phê duyệt trong tháng 8/2002 nhưng hình thức đầu tư còn chưa xác định
PetroVietnam còn đang trong giai đoạn tìm kiếm đối tác. Do đó mục tiêu đưa nhà máy
này vào hoạt động trong năm 2008 như trước đây đã công bố có lẽ khó thành hiện thực.
Tất cả những điều nói trên có nghĩa là Việt Nam trong thập niên đầu thế kỷ 21 sẽ vẫn bán
dầu thô và nhập sản phẩm xăng dầu.
Trong lĩnh vực hoá dầu cho đến nay mới có hai dự án sản xuất nhựa PVC công suất
100 000 tấn/ năm và dự án sản xuất DOP công suất 30 000 tấn/năm đã đi vào sản xuất.
Còn tất cả các dự án khác, như chế biến Condensat thành xăng thương phẩm (công suất
270 000 tấn/năm), dự án đạm Cà Mau, các dự án polypropylen (m
3
), LAB (công suất 30
000 tấn/năm) đều trong giai đoạn triển khai xây dựng hoặc đang lập báo cáo khả thi.
Nói cách khác tất cả đều đang ở phía trước và đang cần nguồn vốn lớn để đầu tư vào
ngành lọc hoá dầu, hy vọng ngành lọc hoá dầu sẽ vươn lên đúng với tầm vóc mà nó phải
có để góp phần vào phát triển ngành dầu khí xứng đáng là ngành công nghiệp mũi nhọn
của đất nước. Muốn vậy, Việt Nam cần có các giải pháp cơ bản để huy động vốn và có
định hướng để phát triển ngành dầu khí trong thế kỷ 21 này.
III Một số giải pháp nhằm huy động vốn đầu tư vào phát triển nghành Dầu khí ở Việt
Nam
1. Định hướng phát triển ngành Dầu khí những năm tới:
Trong bối cảnh khu vực hoá, toàn cầu hoá các nền kinh tế, việc hội nhập thành
công và phát triển đều tuỳ thuộc vào sự nổ lực vươn lên của từng quốc gia, từng doanh
nghiệp trong nền kinh tế. Nhận thức được điều đó, ngành Dầu khí đã xác định mục tiêu
chiến lược phát triển của mình từ nay đến năm 2020 là: Phấn đấu xây dựng ngành Dầu
khí Việt Nam phát triển toàn diện, xây dựng tổng công ty Dầu khí Việt Nam trở thành
một tập đoàn kinh tế mạnh, hoạt động đa chức năng, tham gia tích cực vào quá trình hợp
tác khu vực và quốc tế, đáp ứng nhu cầu nhiên liệu năng lượng, sản phẩm hoá dầu cho
nền kinh tế trong thế kỷ 21, đồng thời góp phần vào việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên
và môi trường sinh thái. Những định hướng chủ đạo làm cơ sở để hoạch định cho từng
giai đoạn để phát triển đã được đề ra trong chiến lược phát triển của tổng công ty Dầu khi
Việt Nam giai đoạn 2001_2005 là:
Tiếp tục đẩy mạnh công tác tìm kiếm thăm dò Dầu khí, nhằm sớm xác định tiềm
năng Dầu khí của đất nước, làm cơ sở cho viẹc hoạch định, chiến lược phát triển ngành
Dầu khí. Tích cực gia tăng sản lượng khai thác Dầu khí, góp phần đảm bảo ngân sách
quốc gia, đồng thời tạo tiền đề phát triển toàn diện ngành công nghiệp mũi nhọn của đất
nước. Đảm bảo thoả mãn nhu cầu khí thiên nhiên cho đất nước.
Phát triển ngành công ngiệp khí đầy tiềm năng của đất nước, khuyến khích để mở
rộng thị trường tiêu thụ khí, xây dựng và vận hành hệ thống đường ống dẫn khí quốc gia,
tham gia liên kết vào hệ thống đường ống đường ống dẫn khí khu vực, nhằm đảm bảo
phát triển ổn định ngành công nghiệp khí, thoả mãn nhu cầu khí thiên nhiên cho đất nước.
Đẩy mạnh khâu chế biến Dầu khí, nhằm từng bước đảm bảo an ninh nhiên liệu
cho phát triển đất nước, đồng thời cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp hoá dầu, đặc
biệt là nguyên liệu sản xuất sợi tổng hợp cho ngành công nghiệp dệt may, sản xuất phân
đạm cho nông nghiệp, chất nổ, chất dẻo, nguyên liệu cho các ngành công nghiệp khác,
dầu nhờn, nhựa đường, chất tổng hợp,
Phát triển công tác thương mại, tài chính và dịch vụ Dầu khí. Tham gia một cách
có hiệu quả vào thị trường kinh doanh dầu thô và sản phảm dầu khí quốc tế. Đảm bảo