Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Khái quát chung về đầu tư và vấn đề huy động vốn đầu tư vào ngành Dầu khí Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.19 KB, 25 trang )

Khái quát chung về đầu tư và vấn đề huy động vốn đầu tư vào
ngành Dầu khí Việt Nam.
Trước khi đi sâu vào nghiên cứu vấn đề “huy động vốn đầu tư cho
sự phát triển ngành Dầu khí”, em xin trình bày những khái niệm cơ bản
về đầu tư, đầu tư cho phát triển và các nguồn vốn cơ bản cần huy động
cho công cuộc đầu tư.
1. Đầu tư và nguồn vốn đầu tư.
1.1. Đầu tư và đầu tư phát triển.
“Đầu tư là thuật ngữ có thể được hiểu đồng nghĩa với “sự bỏ ra”, sự
hy sinh”. Từ đó có thể coi “đầu tư” là sự bỏ ra, sự hi sinh những cái gì
đó ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm đem lại cho người đầu tư
các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra.
Các nguồn lực bỏ ra có thể là tiền, tài nguyên thiên nhiên, sức lao
động, tài sản vật chất khác. Còn những kết quả đạt được có thể là tăng
thêm tài sản tài chính, tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn lực có đủ
điều kiện để làm việc với năng suất lao động và hiệu suất công tác cao
hơn trong nền sản xuất xã hội.
Những kết quả đã đạt được ở trên đây, những kết quả là tài sản vật
chất, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực tăng thêm có vai trò quan trọng
trong mọi lúc, mọi nơi, đối với cả người bỏ vốn và nền kinh tế. Những
kết quả này không chỉ riêng người đầu tư mà cả nền kinh tế được
hưởng.
Trong hoạt động đầu tư có bao gồm Đầu tư cho tài chính, Đầu tư
thương mại và Đầu tư cho phát triển. Đầu tư vào ngành dầu khí là hoạt
động thuộc thuộc lĩnh vực Đầu tư phát triển.
Đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính,
nguồn lực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để xây dựng, sửa chữa
nhà cửa và kiến trúc hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng
trên nền bệ và, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện chi phí
thường xuyên gắn liền với hoạt động của các tài sản này nhăm duy trì
tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho


nền kinh tế - xã hội,tạo ra việc làm và nâng cao đời sống của mọi thành
viên trong xã hội.
Đầu tư phát triển làm gian tăng tài sản cho nền kinh tế mà không
phải là sự chu chuyển giữa đơn vị này sang đơn vị kia của nền kinh tế.
1.1.1. Đặc điểm của đầu tư phát triển.
Khác với các hoạt động đầu tư khác, Đầu tư phát triển có đặc điểm
sau:
Hoạt động Đầu tư phát triển đòi hỏi một khối lượng vốn lớn, vốn tồn
đọng, không vận động suốt quá trình thực hiện đầu tư. Đây chính là cái
giá khá lớn của Đầu tư phát triển.
Thời gian để tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khi các thành
quả của nó phát huy tác dụng thường đòi hỏi nhiều thời gian với nhiều
biến động xảy ra.
Thời gian cần huy động đòi hỏi để có thể thu hồi đủ vốn đã bỏ ra
đối với các cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất kinh doanh thường
là lớn và do đó không tránh khỏi sự tác động hai mặt (tích cực và tiêu
cực) của các yếu tố không ổn định về tự nhiên, xã hội, chính trị, kinh tế

Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển có giá trị sử dụng
lâu dài nhiều năm, có khi hàng trăm, hàng ngàn năm và thậm chí tồn tại
vĩnh viễn như các công trình nổi tiếng thế giới (Kim Tự Tháp cổ ở Ai
Cập, nhà thờ La Mã ở Rome, Vạn Lý Trường Thành ở Trung Quốc, Đền
AngcoVat của Campuchia). Điều này nói lên giá trị của các thành quả
Đầu tư phát triển.
Các thành quả hoạt động Đầu tư phát triển là công trình xây dựng
sẽ hoạt động ở ngay nơi mà nó được tạo dựng. Do đó các điều kiện về
địa lý, địa hình nơi đầu tư sẽ ảnh hưởng lớn đến quá trình thực hiện đầu
tư cũng như tác dụng sau này của các kết quả đầu tư.
Mọi thành quả và hậu quả của quá trình thực hiện đầu tư chịu ảnh
hưởng nhiều của các yếu tố không ổn định theo thời gian và điều kiện

pháp lý của không gian.
Từ những đặc điểm trên, ta thấy Đầu tư phát triển không những tác
động đến nền kinh tế mà còn tác động đến toàn bộ xã hội. Vì vậy mà
Đầu tư phát triển có những vai trò quan trọng đối với nền kinh tế nói
riêng và toàn xã hội nói chung.
1.1.2. Vai trò của Đầu tư phát triển.
Các nhà kinh tế đều cho rằng Đầu tư phát triển là chìa khoá của sự
tăng trưởng. Vai trò này được thể hiện ở các mặt sau:
Thứ nhất: Trên giác độ toàn bộ nền kinh tế của đất nước.
* Đầu tư là nhân tố quan trọng tác động đên tăng trưởng và phát
triển kinh tế. Về mặt lý luận, hầu hết các tư tưởng, mô hình và lý thuyết
về tăng trưởng kinh tế đều trực tiếp hoặc gián thiếp thừa nhận đầu tư và
việc tích luỹ vốn cho đầu tư là một nhân tố quan trọng cho việc gia tăng
năng lực sản xuất, cung ứng dịch vụ cho nền kinh tế. Từ các nhà kinh tế
học cổ điển như Adam Smith trong cuốn “của cải của các dân tộc” đó
cho rằng vốn đầu tư là yếu tố quyết định chủ yếu của số lao động hữư
dụng và hiệu quả. Việc gia tăng quy mô vốn đầu tư sẽ góp phần quan
trọng ttrong việc gia tăng sản lượng quốc gia và sản lượng bình quân
mỗi lao động. Theo mô hình của Harrod-Domar, mức tăng trưởng của
nền kinh tế phụ thuộc trực tiếp vào mức gia tăng vốn đầu tư thuần.
g =∆Y/Y =∆Y/y*∆K/∆K=∆Y/∆K*∆K/Y=1/ICOR*I/Y
=> ∆Y=1/ICOR*I
Trong đó: ∆Y: mức gia tăng sản lượng
∆K: Mức gai tăng vốn đầu tư
I: Mức đầu tư thuần
K: Tổng quy mụ vốn của nền kinh tế
Y: Tổng sản lượng của nền kinh tế
ICOR: Là hệ số gia tăng vốn-sản lượng.
Mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng thể hiện cũng rất rõ trong
tiến trình đổi mới của nền kinh tế nước ta thời gian qua. Với chính sách

đổi mới, các nguồn vốn đầu tư cả trong nước và nước ngoài ngày càng
được đa dạng hoá và gia tăng về quy mô, tốc độ tăng truởng của nền
kinh tế đạt được cũng rất thoả đáng. Cuộc sống vật chất và tinh thần
của đại bộ phận dân cư ngày càng được cải thiện.
* Đầu tư vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu:
Về mặt cung: Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các
năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài
hạn tăng lên (đường S dịch chuyển sang đường S’), kéo theo sản lượng
tiềm năng từ Q1 đến Q2 và do đó giá cả sản phẩm từ P1 đến P2. Sản
lượng tăng, giá cả giảm, cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng đến
lượt mình lại tiếp tục kích thích sản xuất hơn nữa sản xuất phát triển là
nguồn gốc cơ bản để tăng tích luỹ, phát triển kinh tế - xã hội, tăng thu
nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong
xã hội.
Về mặt cầu: Đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu
của toàn bộ nền kinh tế. Theo số liệu của Ngân hàng thế giới, đầu tư
thường chiếm khoảng 24% - 28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các
nước trên thế giới. Đối với tổng cầu tác động của đầu tư là ngắn hạn.
Với tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm cho tổng
cầu tăng (đường D dịch sang D’) kéo theo lượng cân bằng tăng theo từ
Qo đến Q1 và giá cả của các đầu vào của đầu tư tăng từ Po đến P1.
Điểm cân bằng dịch chuyển từ Eo đến E1.
Sự tác động của đầu tư đến cung, cầu được thể hiện qua mô hình
sau:
S
S’
E
1
P
E

2
P
1
E
0
P
2
D’
P
0
Q
D
Q2
Q
1
Q
0
Đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế.
Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với
tổng cầu và đối với tổng cung của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi
của đầu tư, dù là tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì
sự ổn định vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế của mọi
quốc gia.
* Đầu tư với việc tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của
đất nước. Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá. Đầu tư là điều
kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ
của đất nước ta hiện nay. Theo đánh giá của các chuyên gia công nghệ,
trình độ công nghệ của Việt nam lạc hậu nhiều thế hệ so với thế giới và
khu vực.
Đầu tư và đặc biệt là ĐTPT trực tiếp tạo mới và cải tạo chất lượng

và năng lực sản xuất, phục vụ của nền kinh tế và các đơn vị cơ sở.
Chính vì vậy, đâu tư cũng là điều kiện tiên quyết cho quá trình đổi mới
và nâng cao năng lực công nghệ của quốc gia theo cơ cấu kĩ thuật của
đầu tư, trong giai đoạn vừa qua, tỷ trọng giá trị máy móc thiết bị trong
tổng vốn đầu tư của VN chiếm khoảng 28% (xây dựng chiếm khoảng
57%).
Cơ cấu này chưa phản ánh đúng yêu cầu CNH-HĐH, tuy nhiên nó
cũng là con số không nhỏ tạo ra năng lực công nghê cho toàn bộ nền
kinh tế. Đối với đầu tư nước ngoài, hoạt động của doanh nghiệp FDI
thường gắn với các chương trình chuyển giao công nghệ trong đó nước
nhận vốn cũng có thể là điểm đến của một số công nghệ và phương
thức dản xuất mới. Đối với chi đầu tư của nhà nước cho nghiên cứu
khoa học và phát triên công nghệ mới mặc dù vẫn cũn nhỏ về quy mô,
thấp về tỷ trọng (giai đoạn 2001-2005 là 7,6 nghìn tỷ đồng chiếm 0.9%
vốn đầu tư toàn xã hội) nhưng ở đây cũng là một trong những biểu hiện
của đầu tư và ở mức độ nhận định nó cũng có tạo ra và tăng cường
năng lực khoa học công nghệ nước ta (đạt được những thành tựu nhất
định trong lĩnh vực nông nghiệp: giống mới, công nghệ ren…)
* Đầu tư và sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế.
Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy, con đường tất
yếu có thể tăng trưởng nhanh với tốc độ mong muốn là tăng cường đầu
tư nhằm tạo ra sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch vụ.
Đối với các ngành nông - lâm nghiệp, thuỷ hải sản do những hạn
chế về đất đai và khả năng sinh học, để đạt được tốc độ tăng trưởng từ
5% - 6% là rất khó khăn. Như vậy chính sách đầu tư quyết định quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các quốc gia nhằm đạt được tốc độ
tăng nhanh của toàn bộ nền kinh tế.
Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mặt cân
đối về phát triển giữa các vùng, lãnh thổ, đưa những vùng kém phát
triển thoát khỏi tình trạng nghèo đói, phát huy tối đa những lợi thế so

sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị của những vùng có khả
năng phát triển nhanh, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng
phát triển. Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy: muốn giữ
tốc độ phát triển ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt từ 15% - 20%
so với GDP, tuỳ thuộc vào ICOR của mỗi nước
ICOR = => ICOR =
Vồn đầu tưVồn đầu tư
ICORMức tăng GDP
Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn
đầu tư.
Thứ hai: Xét trên giác độ các đơn vị kinh tế của đất nước, Đầu tư
phát triển có những vai trò sau:
* Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ: đầu tư quyết định
sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở. Chẳng hạn, để tạo dựng
cơ sở vật chất - kỹ thuật cho sự ra đời của bất kỳ cơ sở nào đều cần
phải xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt thiết bị
máy móc trên nền bệ, tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và thực
hiện các chi phí khác gắn với sự hoạt động trong một chu kỳ của các cơ
sở vật chất kỹ thuật vừa được tạo ra. Các hoạt động này chính là hoạt
động đầu tư.
Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh phục vụ đang tồn tại, sau
một thời gian hoạt động, các cơ sở vật - chất kỹ thuật của các cơ sở này
hao mòn, hư hỏng. Để duy trì được sự hoạt động bình thường cần định
kỳ tiến hành sửa chữa lớn hoặc thay mới các cơ sở vật chất - kỹ thuật
đã hư hỏng, hao mòn hoặc đổi mới để thích ứng với điều kiện hoạt động
mới của sự phát triển khoa học kỹ thuật và nhu cầu tiêu dùng của nền
sản xuất xã hội, mua sắm các thiết bị mới thay thế cho các trang thiết bị
cũ đã lỗi thời, cũng có nghĩa là phải đầu tư.
* Đối với các cơ sở vô vị lợi, để duy trì sự hoạt động, ngoài tiến
hành sửa chữa lớn định kỳ, các cở sở vật chất - kỹ thuật còn phải thực

hiện các chi phí thường xuyên. Tất cả những hoạt động và chi phí này
đều là những hoạt động đầu tư.
Như vậy: Đầu tư có một vai trò vô cùng to lớn đối với toàn bộ sự
phát triển của một quốc gia. Muốn hoạt động đầu tư ta cần có vốn đầu
tư. Vậy vốn là gì? Vốn huy động từ đâu?
1.2. Vốn và nguồn vốn.
1.2.1 Khái niệm về vốn.
Xét một phương diện tổng quát nguồn vốn đầu tư là thuật ngữ dùng
để chỉ các nguồn tập trung và phân phối vốn cho đầu tư kinh tế đáp ứng
nhu cầu chung của nhà nước và của xã hội. Nguồn vốn đầu tư bao gồm
nguồn đầu tư trong nước và nguồn đầu tư nước ngoài.
Nếu chỉ xét theo nguồn hình thành và mục tiêu sử dụng thì vốn đầu
tư là tiền tích luỹ của xã hội, của các cơ sở sản xuất kinh doanh phục
vụ, là tiền tiết kiệm của dân cư và vốn huy động từ các nguồn khác
được đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản xuất xã hội, nhằm duy trì
tiềm lực sẵn có và tạo ra tiềm lực mới cho nền sản xuất xã hội.
1.2.2 Các nguồn vốn cơ bản:
1.2.2.1. Nguồn vốn trong nước

×