BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN
THƯƠNG MẠI CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI DƯỚI GIÁC ĐỘ
PHÁP LUẬT VIỆT NAM[1]
“ Cũ người mới ta” - khi câu chuyện về licensing (hợp đồng
li-xăng), rồi chuyển giao công nghệ đã dần trở nên quen
thuộc với Việt Nam thì vài ba năm lại đây giới thương nhân,
những nhà nghiên cứu luật học, kinh tế học lại sôi nổi luận
bàn về nhượng quyền thương mại (Franchising) - được coi
như “người anh em” của hai hoạt động nói trên [2] . Với một
quốc gia đang phát triển như Việt Nam, việc nhận quyền
thương mại từ các doanh nghiệp - những thương hiệu mạnh
của nước ngoài đã, đang và chắc hẳn vẫn còn là một xu
hướng chủ đạo. Một vài doanh nghiệp lớn của Việt Nam
cũng đã và sẽ dùng nhượng quyền thương mại như một
công cụ hữu dụng để mở đường ra thế giới. Đặt trong bối
cảnh đó, tạm chấp nhận với những gì đang có của pháp luật
Việt Nam dành cho hợp đồng nhượng quyền thương mại nói
chung để đi tìm khuôn khổ pháp lý và chia sẻ vài suy nghĩ
bước đầu về hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố
nước ngoài (International Franchise Agreement)[3] dưới
giác độ pháp luật Việt Nam chính là mục tiêu của bài viết
này.
1. Đôi nét về hợp đồng nhượng quyền thương mại nói
chung
Như “cây phải có gốc”, bàn luận về hợp đồng nhượng
quyền thương mại có yếu tố nước ngoài rõ ràng và dứt
khoát phải trên cái nền hiểu biết về hợp đồng nhượng quyền
thương mại nói chung. Trong bối cảnh mà quan niệm về
nhượng quyền thương mại, hợp đồng nhượng quyền
thương mại ở Việt Nam vẫn còn nhiều khác biệt và mới mẻ
thì lẽ dĩ nhiên cũng nên khởi đầu bằng những suy nghĩ
mang tính cốt lõi về loại hợp đồng này. Với sự xuất hiện ở
Mỹ từ những năm 1850 và bắt đầu lan rộng từ năm 1980 thì
những định nghĩa về nhượng quyền thương mại, hợp đồng
nhượng quyền thương mại dĩ nhiên cũng hết sức đa
dạng[4]. Trong khi đó, cho dù nhượng quyền thương mại đã
“chớm nở” từ năm 1990 ở Việt Nam với sự xuất hiện thậm
chí của những nhà nhượng quyền nội địa như Cà phê Trung
Nguyên (1996), AQ Silk (2002) nhưng dưới góc độ pháp lý
thì phải sau một thời gian náu mình với cái tên “cấp phép
đặc quyền kinh doanh”[5] nhượng quyền thương mại mới
chính thức được thừa nhận trong Luật Thương mại Việt
Nam năm 2005 (LTMVN 2005). Đáng tiếc rằng, dù Điều 285
LTMVN 2005 đã có được cái tên là “hợp đồng nhượng
quyền thương mại” và tại Nghị định 35/2006/NĐ-CP ngày
31/03/2006 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương
mại về hoạt động nhượng quyền thương mại (sau đây gọi
tắt là Nghị định 35) đã có hai định nghĩa khá rõ về “hợp
đồng phát triển quyền thương mại” và “hợp đồng nhượng
quyền thương mại thứ cấp” nhưng rốt cuộc nội dung của
Điều 285 chỉ nói về hình thức của hợp đồng nhượng quyền
thương mại. Dẫu vậy, dựa vào định nghĩa về hoạt động
nhượng quyền thương mại tại Điều 284 LTMVN 2005 và
các quy định pháp luật liên quan có thể gián tiếp rút ra quan
niệm về hợp đồng nhượng quyền thương mại theo pháp luật
Việt Nam như sau:
“Hợp đồng nhượng quyền thương mại là thỏa thuận giữa
bên nhượng quyền và bên nhận quyền, trong đó bên
nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự
mình tiến hành việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ
theo các điều kiện sau:
1. Việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ được tiến hành
theo cách thức tổ chức kinh doanh do bên nhượng quyền
quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng hóa, tên thương
mại, bí quyết kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo
của bên nhượng quyền;
2. Bên nhượng quyền được nhận một khoản tiền nhượng
quyền, có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyền
trong việc điều hành công việc kinh doanh”.
Nếu tham khảo định nghĩa của pháp luật các nước, các hiệp
hội, các nhà khoa học trên thế giới và thực tiễn của hoạt
động nhượng quyền thương mại thì có thể nhận ra cách
quan niệm của Việt Nam chưa thực sự lột tả hết nội dung
của loại hợp đồng này. Điều dễ nhận ra nhất là đối tượng
của hợp đồng này có thể còn bao hàm nhiều đối tượng của
quyền sở hữu trí tuệ khác chứ không chỉ là một vài đối
tượng được chỉ ra tại Điều 284. Chẳng hạn, tại sao đối
tượng của hợp đồng nhượng quyền thương mại không thể
gồm cả nhãn hiệu dịch vụ mà chỉ là nhãn hiệu hàng hóa?
Bỏ qua những hạn chế về quan niệm của pháp luật Việt
Nam đối với hoạt động nhượng quyền thương mại, hợp
đồng nhượng quyền thương mại, cũng cần nhận diện chủ
thể, hình thức và nội dung của loại hợp đồng này theo quy
định của pháp luật Việt Nam hiện hành. Về chủ thể của hợp
đồng nhượng quyền thương mại, quy định của LTMVN 2005
và Nghị định 35 cho thấy để trở thành chủ thể của loại hợp
đồng này thì trước hết phải là thương nhân (thương nhân
Việt Nam hoặc thương nhân nước ngoài). Bên cạnh đó,
pháp luật Việt Nam còn đòi hỏi các điều kiện kèm theo đối
với chủ thể nhượng quyền và nhận quyền. Cụ thể là thương
nhân nhượng quyền phải hội đủ các điều kiện như[6]: thứ
nhất, hệ thống kinh doanh dự định dùng để nhượng quyền
đã hoạt động được ít nhất 01 năm (nếu thương nhân Việt
Nam là bên nhận quyền sơ cấp từ bên nhượng quyền nước
ngoài, thương nhân Việt Nam đó phải kinh doanh theo
phương thức nhượng quyền thương mại ít nhất 01 năm ở
Việt Nam trước khi tiến hành cấp lại quyền thương mại); thứ
hai, đã đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại với cơ
quan có thẩm quyền theo quy định. Trong khi đó, điều kiện
đối với bên nhận quyền là phải có đăng ký ngành nghề kinh
doanh phù hợp với hoạt động nhượng quyền thương mại.
Về hình thức của hợp đồng nhượng quyền thương mại,
Điều 285 LTMVN 2005 quy định hợp đồng nhượng quyền
thương mại phải được lập thành văn bản hoặc bằng hình
thức khác có giá trị pháp lý tương đương. Các hình thức
khác có giá trị pháp lý tương đương văn bản gồm có điện
báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu và các hình thức khác
theo quy định của pháp luật.
Dù pháp luật Việt Nam không đưa ra một định nghĩa cụ thể
về hợp đồng nhượng quyền thương mại, nhưng cũng đã
khuyến cáo những nội dung cần có của hợp đồng này, đó
là[7]: nội dung của quyền thương mại; quyền, nghĩa vụ của
Bên nhượng quyền; quyền, nghĩa vụ của Bên nhận quyền;
giá cả, phí nhượng quyền định kỳ và phương thức thanh
toán; thời hạn hiệu lực của hợp đồng; gia hạn, chấp dứt hợp
đồng và giải quyết tranh chấp. Cũng với những quy định từ
Nghị định 35 thì một trong những vấn đề then chốt của nội
dung hợp đồng nhượng quyền thương mại đã được đề cập
- đối tượng của hợp đồng. Theo đó, đối tượng của hợp đồng
nhượng quyền thương mại là “quyền thương mại” và nội
hàm của quyền thương mại được xác định bao gồm một,
một số hoặc toàn bộ các quyền sau[8]:
a) Quyền được Bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu
Bên nhận quyền tự mình tiến hành công việc kinh doanh
cung cấp hàng hoá hoặc dịch vụ theo một hệ thống do Bên
nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng
hoá, tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh
doanh, quảng cáo của Bên nhượng quyền;
b) Quyền được Bên nhượng quyền cấp cho Bên nhận
quyền sơ cấp quyền thương mại chung[9];
c) Quyền được Bên nhượng quyền thứ cấp cấp lại cho Bên
nhận quyền thứ cấp theo hợp đồng nhượng quyền thương
mại chung;
d) Quyền được Bên nhượng quyền cấp cho Bên nhận
quyền quyền thương mại theo hợp đồng phát triển quyền
thương mại.
Trong đó, cần thấy rằng theo quy định của pháp luật Việt
Nam thì không phải bất kỳ loại hàng hóa, dịch vụ nào cũng
được phép tiến hành nhượng “quyền thương mại”. LTMVN
2005 và Nghị định 35 quy định hàng hóa, dịch vụ được phép
kinh doanh nhượng quyền thương mại phải là hàng hóa,
dịch vụ không thuộc Danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh
doanh. Đối với hàng hoá, dịch vụ thuộc Danh mục hàng
hoá, dịch vụ hạn chế kinh doanh, Danh mục hàng hoá, dịch
vụ kinh doanh có điều kiện, doanh nghiệp chỉ được kinh
doanh sau khi được cơ quan quản lý ngành cấp Giấy phép
kinh doanh, giấy tờ có giá trị tương đương hoặc có đủ điều
kiện kinh doanh.
2. Hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước
ngoài
Tìm về nội hàm khái niệm hợp đồng nhượng quyền thương
mại có yếu tố nước ngoài
Khi mà định nghĩa về hợp đồng nhượng quyền thương mại
nói chung không tồn tại, thì đương nhiên việc pháp luật Việt
Nam không chỉ rõ thế nào là hợp đồng nhượng quyền
thương mại có yếu tố nước ngoài cũng là điều dễ hiểu! Đặt
trong bối cảnh hợp đồng nhượng quyền thương mại là một
loại hợp đồng thương mại, Bộ luật dân sự Việt Nam năm
2005 (BLDSVN 2005) chính thức được xây dựng với vai trò
là một “đạo luật mẹ” bao trùm cả về thương mại, lao động,
hôn nhân gia đình thì hoàn toàn có thể vận dụng Điều 758
BLDSVN 2005 quy định về quan hệ dân sự có yếu tố nước
ngoài để làm rõ nội hàm khái niệm hợp đồng nhượng quyền
thương mại có yếu tố nước ngoài. Điều đầu tiên dễ nhận ra
đó là để trở thành một hợp đồng nhượng quyền thương mại
có yếu tố nước ngoài thì: thứ nhất, phải là hợp đồng
nhượng quyền thương mại; và thứ hai, phải có yếu tố nước
ngoài. Nếu theo quy định mang tính chung cho mọi quan hệ
dân sự thì yếu tố nước ngoài có thể rơi vào chủ thể, sự kiện
pháp lý hoặc đối tượng của quan hệ. Liệu điều đó có xảy ra
với hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước
ngoài? Trước hết, về chủ thể, hợp đồng nhượng quyền
thương mại sẽ có yếu tố nước ngoài khi có sự tham gia của
ít nhất một trong các bên chủ thể là thương nhân nước
ngoài. Với quy định tại khoản 1 Điều 16 LTMVN 2005 thì
thương nhân nước ngoài là thương nhân được thành lập,
đăng ký kinh doanh theo pháp luật nước ngoài hoặc được
pháp luật nước ngoài công nhận. Theo đó, hợp đồng
nhượng quyền thương mại giữa Cà phê Trung Nguyên với
Daisu Corporation (Nhật Bản) năm 2001, giữa AQ Silk với
một thương nhân Mỹ vào năm 2002, đều là những hợp
đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài. Về
sự kiện pháp lý của quan hệ, nếu theo Điều 758 BLDSVN
2005 thì hợp đồng nhượng quyền thương mại sẽ có yếu tố
nước ngoài khi sự kiện xác lập, sự kiện thay đổi hoặc sự
kiện chấm dứt quan hệ nhượng quyền thương mại diễn ra ở
nước ngoài. Trường hợp này hoàn toàn có thể xảy ra trên
thực tế đối với hợp đồng nhượng quyền thương mại. Chẳng
hạn, hợp đồng nhượng quyền thương mại giữa Phở 24 cho
các bên nhận quyền là thương nhân Việt Nam nhưng hợp
đồng được ký ở Singapore thì hợp đồng nhượng quyền
thương mại đó cũng được coi là có yếu tố nước ngoài
Nhưng với trường hợp đối tượng của hợp đồng có yếu tố
nước ngoài, mà theo như Điều 758 là “tài sản liên quan đến
quan hệ nằm ở nước ngoài”, thì liệu có xảy ra đối với hợp
đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài?
Như đã phân tích ở trên, đối tượng của hợp đồng nhượng
quyền thương mại là “quyền thương mại”, dĩ nhiên đã là
quyền thì thuộc về “tài sản vô hình” - nghĩa là không thể xác
định được nó đang ở đâu. Vì lẽ đó, không thể xảy ra tình
huống hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước
ngoài xuất phát từ việc đối tượng của nó có yếu tố nước
ngoài. Như vậy, theo quy định của pháp luật Việt Nam, một
hợp đồng nhượng quyền thương mại sẽ có yếu tố nước
ngoài khi xuất hiện một trong các yếu tố sau: thứ nhất, chủ
thể của hợp đồng có sự tham gia của thương nhân nước
ngoài; thứ hai, khi sự kiện xác lập hoặc sự kiện thay đổi
hoặc sự kiện chấm dứt hợp đồng diễn ra ở nước ngoài.
Vấn đề chủ thể của hợp đồng nhượng quyền thương mại có
yếu tố nước ngoài
Xem xét về hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố
nước ngoài trước hết cần xác định chủ thể của nó cần thỏa
mãn những điều kiện gì. Điều này không hề đơn giản, bởi lẽ
nó phụ thuộc vào từng hệ thống pháp luật của mỗi nước.
Theo pháp luật Việt Nam, vấn đề năng lực chủ thể của hợp
đồng nói chung được xác định theo Điều 761, Điều 762
(dành cho cá nhân) và Điều 765 BLDSVN 2005 (dành cho
pháp nhân). Tuy nhiên, cần lưu ý là khác với hợp đồng nói
chung, đối với năng lực chủ thể của hợp đồng nhượng
quyền thương mại có yếu tố nước ngoài thì Nghị định 35 đã
quy định rõ điều kiện dành cho thương nhân nhượng quyền
và thương nhân nhận quyền dù đó là thương nhân Việt Nam
hay thương nhân nước ngoài[10]. Theo đó thì chủ thể của
hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài
cũng cần thỏa mãn các điều kiện giống như chủ thể của hợp
đồng nhượng quyền thương mại nói chung (đã nói ở phần
trên).
Hình thức của hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu
tố nước ngoài
Do Nghị định 35 xác định đối tượng áp dụng là cả thương
nhân Việt Nam và thương nhân nước ngoài tham gia vào
hoạt động nhượng quyền nên rõ ràng các quy định về hình
thức của hợp đồng nhượng quyền thương mại nói chung
được hiểu là dành cho cả hợp đồng nhượng quyền thương
mại có yếu tố nước ngoài. Nghĩa là hợp đồng nhượng
quyền thương mại có yếu tố nước ngoài phải được lập
thành văn bản hoặc hình thức khác có giá trị pháp lý tương
đương. Tham khảo thêm Điều 12 Nghị định 35 thì “Hợp
đồng nhượng quyền thương mại phải được lập bằng tiếng
Việt. Trường hợp nhượng quyền từ Việt Nam ra nước ngoài,
ngôn ngữ của hợp đồng nhượng quyền thương mại do các
bên thoả thuận”. Như vậy, về nguyên tắc mọi hợp đồng
nhượng quyền thương mại trong đó bao hàm cả hợp đồng
nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài phải được
lập bằng văn bản dưới ngôn ngữ là tiếng Việt. Duy chỉ có
trường hợp đối với hợp đồng nhượng quyền thương mại có
yếu tố nước ngoài mà bên nhượng quyền là thương nhân
Việt Nam và bên nhận quyền là thương nhân nước ngoài thì
ngôn ngữ có thể theo sự thỏa thuận lựa chọn của các bên.
Nội dung hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố
nước ngoài
Về vấn đề này, Điều 11 Nghị định 35 quy định “Trong trường
hợp các bên lựa chọn áp dụng luật Việt Nam, hợp đồng
nhượng quyền thương mại có thể có các nội dung chủ yếu
sau đây: ”. Nghĩa là pháp luật thương mại Việt Nam không
ấn định hệ thống pháp luật nào sẽ được áp dụng để xác
định tính hợp pháp về mặt nội dung của hợp đồng nhượng
quyền thương mại có yếu tố nước ngoài. Quy định này chỉ
cho thấy một điều rõ ràng là các bên chủ thể của hợp đồng
nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài hoàn toàn
có quyền thỏa thuận lựa chọn hệ thống pháp luật của một
nước nào đó sẽ được áp dụng để điều chỉnh quyền và
nghĩa vụ của các bên chủ thể. Khi mà pháp luật chuyên
ngành không quy định trực tiếp và cũng không đề cập đến
luật áp dụng để điều chỉnh thì việc xem xét luật áp dụng để
điều chỉnh nội dung hợp đồng nhượng quyền thương mại có
yếu tố nước ngoài dĩ nhiên được vận dụng theo trường hợp
như hợp đồng dân sự nói chung - nghĩa là theo Điều 769
BLDSVN 2005[11]. Cụ thể là nội dung của hợp đồng sẽ
được xác định theo pháp luật của nước mà các bên chủ thể
thỏa thuận áp dụng. Nếu các bên chủ thể không thỏa thuận
pháp luật áp dụng thì nội dung hợp đồng sẽ được xác định
theo pháp luật của nước nơi thực hiện hợp đồng. Đặt tình
huống pháp luật được áp dụng để điều chỉnh nội dung hợp
đồng nhượng quyền thương mại là pháp luật Việt Nam thì
với quy định của Điều 11 Nghị định 35 cho thấy rằng pháp
luật Việt Nam cũng chỉ “gợi mở” một số điều khoản nên đưa
vào nội dung hợp đồng (như đã đề cập tại phần hợp đồng
nhượng quyền thương mại nói chung ở trên) mà không
mang tính bắt buộc các bên chủ thể. Căn cứ vào tinh thần
của các Điều 4, Điều 122 BLDSVN 2005 thì theo pháp luật
Việt Nam, nội dung hợp đồng nhượng quyền thương mại nói
chung, trong đó có hợp đồng nhượng quyền thương mại có
yếu tố nước ngoài sẽ được coi là hợp pháp nếu không vi
phạm các điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã
hội Việt Nam.
Vấn đề cơ quan giải quyết tranh chấp và luật áp dụng cho
hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài
Khác với hợp đồng nhượng quyền thương mại trong nước,
hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài
hoàn toàn có thể được giải quyết bởi cơ quan tài phán nước
ngoài và hoàn toàn có khả năng bị chi phối bởi hệ thống
pháp luật nước ngoài và các điều ước quốc tế có liên quan.
Những gì đã bàn ở trên về chủ thể, hình thức hay nội dung
của hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước
ngoài chỉ dưới giác độ pháp luật Việt Nam hiện hành. Do
vậy, chúng chỉ đúng khi pháp luật Việt Nam được áp dụng.
Trong khi pháp luật Việt Nam có được áp dụng hay không
lại lệ thuộc vào cơ quan nào có thẩm quyền giải quyết vụ
việc cũng như vấn đề luật áp dụng đối với hợp đồng? Vì thế,
lưu tâm đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp
và vấn đề luật áp dụng chính là điều tối quan trọng cho hợp
đồng dân sự có yếu tố nước ngoài nói chung, trong đó có
hợp đồng nhượng quyền thương mại.
Tầm quan trọng của vấn đề lựa chọn cơ quan giải quyết
tranh chấp? Cho dù khi tranh chấp xảy ra thì lúc đó các bên
mới nghĩ tới chuyện cơ quan tài phán, nhưng với hợp đồng
có yếu tố nước ngoài nói chung thì cơ quan tài phán nước
nào có thẩm quyền giải quyết lại đóng vai trò quan trọng cho
vấn đề luật áp dụng - cũng có nghĩa là tới kết quả phán
quyết sau này. Lý do cơ bản là bởi nếu không có điều ước
quốc tế có liên quan điều chỉnh thì cơ quan tài phán nước
nào sẽ sử dụng ngay hệ thống pháp luật nước đó để xem
xét các vấn đề của hợp đồng. “Sử dụng ngay” ở đây không
nên đồng nhất với việc cuối cùng cơ quan tài phán sẽ áp
dụng các quy định cụ thể của pháp luật nước đó (trong tư
pháp quốc tế gọi là các quy định của pháp luật thực chất) để
giải quyết tranh chấp. Điều này chỉ đúng khi trong pháp luật
nước đó có quy phạm thực chất trực tiếp điều chỉnh hợp
đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài (ví
dụ trường hợp hình thức hợp đồng nhượng quyền thương
mại có yếu tố nước ngoài được pháp luật Việt Nam quy định
cụ thể như đã nói ở trên). Còn nếu pháp luật nước đó sử
dụng quy phạm xung đột (ví dụ vấn đề nội dung hợp đồng
nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài quy định
trong pháp luật Việt Nam như đã đề cập ở trên) thì “sử dụng
ngay” chỉ là “sử dụng quy phạm xung đột của pháp luật
nước đó”, rốt cuộc pháp luật thực chất nước nào sẽ được
áp dụng thì lại phụ thuộc vào sự chỉ dẫn của quy phạm xung
đột được áp dụng ấy. Nhưng rõ ràng với việc “sử dụng
ngay” pháp luật của nước có cơ quan tài phán thụ lý vụ việc
cho thấy tầm quan trọng lớn lao của việc chọn cơ quan giải
quyết tranh chấp. Bởi lẽ nó quyết định tới số phận của việc
áp dụng pháp luật thực chất nước nào để điều chỉnh hợp
đồng. Pháp luật Việt Nam hiện hành không đưa tranh chấp
về hợp đồng nhượng quyền thương mại vào diện thuộc
thẩm quyền riêng biệt của tòa án Việt Nam. Do vậy, tranh
chấp về hợp đồng này hoàn toàn có thể được giải quyết bởi
cơ quan trọng tài, tòa án nước ngoài. Đây chính là điều
đáng lưu tâm cho các thương nhân Việt Nam khi thực hiện
việc nhận hay nhượng quyền thương mại. Giải pháp dành
cho họ trong bối cảnh hiện nay và chắc hẳn còn cho nhiều
năm tới nữa chính là thỏa thuận rõ cơ quan tài phán phù
hợp trong hợp đồng - hay nhất có lẽ vẫn là trọng tài hoặc
tòa án Việt Nam. Đó sẽ là sự thuận lợi lớn cho các thương
nhân Việt Nam khi phải đối mặt với các tranh chấp xét trên
hai phương diện cơ bản: chi phí và sự am hiểu luật pháp.
Đối với việc lựa chọn pháp luật áp dụng cho hợp đồng, về
nguyên tắc các bên chủ thể có quyền thỏa thuận những gì
mà pháp luật không cấm. Như đã nói ở trên, “pháp luật
không cấm” ở đây sẽ là pháp luật của nước có cơ quan tài
phán thụ lý vụ việc nếu như không có điều ước quốc tế về
vấn đề này. Hiện nay, pháp luật Việt Nam cũng như hầu hết
pháp luật các nước trên thế giới và các điều ước quốc tế
đều cho phép các bên chủ thể của đa số hợp đồng dân sự
có yếu tố nước ngoài trong đó có hợp đồng nhượng quyền
thương mại có yếu tố nước ngoài được quyền thoả thuận
luật áp dụng cho nội dung hợp đồng. Vì thế, pháp luật thực
chất được áp dụng để điều chỉnh nội dung hợp đồng
nhượng quyền thương mại sẽ không còn bị “lệ thuộc” vào
sự lựa chọn cơ quan tài phán nếu như các bên chủ thể đã
thỏa thuận rõ trong hợp đồng về vấn đề này. Để minh bạch
hóa mọi nội dung của hợp đồng, tránh những tình huống
pháp lý khó xử cho chính mình trong bối cảnh vẫn còn nhiều
hạn chế về sức mạnh kinh tế, về hiểu biết pháp lý quốc tế
trong tính so sánh với các thương nhân nước ngoài, thiết
nghĩ cố gắng để đạt được sự thống nhất trong việc lựa chọn
hệ thống pháp luật Việt Nam hoặc ít nhất là một hệ thống
pháp luật mà mình có khả năng tiếp cận sẽ là một việc làm
thông minh cho giới thương nhân Việt Nam.