Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

Tài liệu Đề Tài: Những lý luận cơ bản về Marketing pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (406.24 KB, 32 trang )









Đồ án


Đề Tài:



Những lý luận cơ bản về
Marketing


1
Lời mở đầu
Công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế - xã hội nước ta mở đầu từ
Đại hội VI đến nay đã trải qua 20 năm, chúng ta đã có những thay đổi to lớn,
sâu sắc và đạt được những thành tựu nhất định, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh
tế. Trước hết đó là sự đổi mới trong tư duy phát triển, chuyển từ nền kinh tế
dựa chủ yếu trên kế
hoạch hóa tập trung, bao cấp sang phát triển nền kinh tế
hàng hóa có sự quản lý vĩ mô của nhà nước và hiện nay là xây dựng nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường.
Chúng ta đã thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, đời sống
nhân dân được nâng cao, hiện nay nền kinh tế Việt Nam đang trên đà phát


triển theo xu hướng hội nhập quốc tế. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là sứ
c cạnh
tranh của nền kinh tế Việt Nam còn rất thấp. Để nâng cao hiệu quả kinh
doanh, tăng cường khả năng cạnh tranh trong quá trình hội nhập vào hệ thống
kinh doanh quốc tế và khu vực, các doanh nghiệp Việt Nam không có sự lựa
chọn nào khác là phải nâng cao khả năng nhận thức lý thuyết và thực hành
Marketing vào kinh doanh. Đặc biệt là trong cơ chế thị trường hiện nay,
Marketing hiện đại và quản trị kinh doanh theo triết lý Marketing là một
phương pháp cốt yếu và phổ biến trong quản trị kinh doanh của các doanh
nghiệp. Chính vì vậy Marketing có một vai trò hết sức quan trọng, không chỉ
đối với những doanh nghiệp lớn mà cả với những doanh nghiệp vừa và nhỏ,
nhất là đối với các doanh nghiệp thương mại.
Nắm được lý thuyết Marketing doanh nghiệp sẽ có được công cụ
hữu hiệu để chiễm lĩnh thị trường với những chi
ến lược và kế hoạch
Marketing hợp lý. Tuy nhiên không phải ngay từ đầu Marketing đã phát triển
thành một lý thuyết hoàn chỉnh và trong thực tiễn hiện nay không phải doanh
nghiệp nào cũng nhận thức đầy đủ và áp dụng đúng lý thuyết Marketing vào
quản trị kinh doanh của doanh nghiệp.


2
Marketing nói chung và Marketing thương mại nói riêng là một nội
dung rất rộng và khó khăn nhưng nó lại vô cùng hấp dẫn và quan trọng. Do
đó, em xin phép được tìm hiểu và trình bày đề tài này để làm rõ được vai trò
và tác dụng của Marketing đối với một doanh nghiệp thương mại trong cơ chế
thị trường.
Vì trình độ và điều kiện có hạn nên đề án của em không thể tránh
khỏi nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận được sự giúp đỡ và góp ý c
ủa thầy để

đề án được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

















3
Chương I: Những lý luận cơ bản về Marketing
1.1. Vai trò của Marketing trong kinh doanh của doanh nghiệp
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản của Marketing
Nhiều người thường lầm tưởng Marketing với việc bán hàng và các
hoạt động kích thích tiêu thụ vì vậy họ quan niệm Marketing là hệ thống các
biện pháp mà người bán hàng sử dụng để cốt sao bán được hàng và thu được
tiền về cho người bán. Tuy nhiên Marketing hiện đại được định nghĩa như
sau:
Marketing là quá trình xúc tiến với thị trường nhằm thỏa mãn nhu
cầu, mong muốn của con người hay Marketing là một dạng hoạt động của con

người nhằm thỏa mãn nhu cầu và mong muốn thông qua trao đổi.
Từ góc độ doanh nghiệp thì Marketing là một dạng hoạt động chức
năng của doanh nghiệp nhằm đạt được các mục tiêu thông qua trao đổi hàng
hóa trên thị trường và trên cơ sở thỏa mãn tốt nhất nhu cầu, mong muốn của
khách hàng mục tiêu.
Vậy nhu cầu, mong muốn, khách hàng mục tiêu… là gì?
Nhu cầu thường được người ta hiểu một cách quá đơn giản là sự đòi
hỏi của con người về một vật phẩm nào đó. Nhưng thực ra thuật ngữ đó bao
hàm một nội dung rộng lớn hơn mà nếu nhà kinh doanh chỉ dừng ở đó thì khó
có thể tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm của mình lên được. Nhu cầu là một
thuật ngữ mà nội dung của nó hàm chứa ba mức độ: nhu cầu tự nhiên, mong
muốn và nhu cầu có khả năng thanh toán.
Nhu cầ
u tự nhiên phản ánh sự cần thiết của con người về một vật
phẩm. Nhu cầu tự nhiên là một trạng thái tâm lý của con người, là một sự
thiếu hụt cái gì đó mà con người chủ thể có thể cảm nhận được, nó là nguồn
gốc của mọi sự khát khao, là động lực của hành động. Khi xuất hiện nhu cầu


4
tự nhiên con người có hai cách giải quyết đó là kiềm chế nhu cầu hoặc tìm
cách thỏa mãn nhu cầu bằng cách tìm đối tượng để thỏa mãn và nhìn chung
người ta sẽ chọn cách thứ hai, đây chính là cách thức tồn tại của con người.
Marketing không thể tạo ra nhu cầu tự nhiên cũng không thể sáng
tạo ra nó nhưng Marketing có khả năng phát hiện ra nhu cầu tự nhiên. Tuy
nhiên nếu hoạt động của các nhà quản trị Marketing chỉ d
ừng lại ở việc phát
hiện ra nhu cầu tự nhiên của con người và sản xuất ra loại sản phẩm thuộc
danh mục hàng hóa thỏa mãn nhu cầu đó, thì trên thực tế họ không cần phải
động não nhiều. Nhưng kinh doanh như vậy trong điều kiện hiện nay sẽ mang

lại hiệu quả rất thấp, trừ khi doanh nghiệp kinh doanh loại sản phẩm ở vào vị
thế độc quyề
n.
Rõ ràng người làm Marketing không thể chỉ dừng lại ở nhu cầu tự
nhiên, để tạo ra được sản phẩm hàng hóa thích ứng với nhu cầu thị trường,
tăng cường khả năng cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
người ta phải hiểu một khía cạnh thứ hai của nhu cầu thị trường đó là mong
muốn.
Mong muốn là một dạng cụ thể của nhu cầu tự nhiên g
ắn liền với
những điều kiện cụ thể, những đặc điểm cụ thể về mọi phương diện của con
người cá thể như trình độ văn hóa, tính cách cá nhân,… Ví dụ, đói là một cảm
giác thiếu hụt lương thực, thực phẩm trong dạ dày, sự đòi hỏi về lương thực
và thực phẩm để chống đói là nhu cầu tự
nhiên của con người. Nhưng người
này thì muốn ăn cơm, người khác lại muốn ăn bánh mì, người này muốn ăn
cơm khô, người khác lại muốn ăn cơm dẻo… Những sự khác nhau đó trong
nhu cầu đòi hỏi được đáp lại bằng cùng một loại sản phẩm nhưng có những
đặc tính khác nhau phản ánh ước muốn của con người.
Như vậy mong muốn ở đây là
đề cập đến cách thức để thỏa mãn
nhu cầu tự nhiên, nhu cầu chính là cơ sở của mong muốn, mong muốn là dạng
đặc thù của nhu cầu tự nhiên, một nhu cầu có thể hướng tới nhiều mong muốn


5
và do đó mà hướng tới nhiều hàng hóa khác nhau, vì mong muốn luôn luôn
biến đổi rất phong phú do nó mang dấu ấn văn hóa và tính cách cá nhân của
con người. Mong muốn đòi hỏi một sản phẩm cụ thể và chỉ khi doanh nghiệp
phát hiện ra mong muốn thì họ mới thiết kế được sản phẩm cung ứng ra thị

trường.
Nhu cầu tự nhiên và mong muốn của con người là vô hạn, nhà kinh
doanh không chỉ phát hiện và sản xuất ra sả
n phẩm để thích ứng với chúng
như là những sản phẩm cho không, mà phải thông qua trao đổi để vừa thỏa
mãn lợi ích của người tiêu dùng, vừa thỏa mãn mục đích của nhà kinh doanh.
Vì vậy trong khi đáp lại nhu cầu tự nhiên và mong muốn của con người nhà
kinh doanh phải tính đến một nội dung khác của nhu cầu thị trường đó là nhu
cầu có khả năng thanh toán.
Nhu cầu có khả năng thanh toán là đối tượng khai thác trực ti
ếp của
Marketing vì đây mới là nhu cầu hiện thực đem lại doanh thu và lợi nhuận
cho doanh nghiệp. Nhu cầu có khả năng thanh toán chính là mong muốn được
hỗ trợ bởi sức mua và phù hợp với khả năng thanh toán của khách hàng. Tức
là nó gắn với hai điều kiện người tiêu dùng phải có mong muốn và người tiêu
dùng có khả năng chi trả và sẵn sàng chi trả.
Để hiểu được nhu cầu thị trường đòi h
ỏi nhà quản trị Marketing
phải nghiên cứu thị trường, nghiên cứu người tiêu dùng về các phương diện
của nhu cầu. Doanh nghiệp muốn thắng lợi trong cạnh tranh thương trường,
muốn đi đầu trong việc làm thỏa mãn và khai thác nhu cầu thị trường, muốn
khỏi rơi vào thế đối phó bị động, thì việc nghiên cứu, tìm hiểu và xác định
đúng đắn nhu cầu là một loại hoạt động tất yế
u phải được thực hiện thường
xuyên và chủ động bởi một bộ phận chuyên môn.
Trong kinh doanh muốn có cơ hội thực sự thì phải đo lường được
cầu về số lượng và tính chất. Hiểu được nhu cầu thị trường , bước tiếp theo
doanh nghiệp cần thiết kế được sản phẩm. Sản phẩm được hiểu là tất cả mọi



6
hàng hóa và dich vụ có thể đem chào bán, có khả năng thỏa mãn một nhu cầu
hay mong muốn nào đó của con người, gây sự chú ý, kích thích sự mua sắm
và tiêu dùng của họ. Ý nghĩa lớn nhất của sản phẩm đối với người tiêu dùng
không phải là quyền sở hữu chúng mà là chúng đã thỏa mãn nhu cầu mong
muốn của người tiêu dùng như thế nào. Như vậy nhiệm vụ đặt ra cho cac nhà
kinh doanh là phải xác định chính xác nhu cầu mong mu
ốn và do đó lợi ích
mà người tiêu dùng cần được thỏa mãn, từ đó sản xuất và cung cấp những
hàng hóa và dịch vụ có thể đảm bảo tốt nhất những lợi ích cho người tiêu
dung.
Nhiều nhà kinh doanh thường phạm phải sai lầm là: chỉ chú ý tới
bản thân sản phẩm, mà coi nhẹ những lợi ích do sản phẩm đó có thể mang lại.
Trái lại, các doanh nghiệp thực hàng Marketing thành công thường hành động
theo triết lý: “hãy yêu quý khách hàng h
ơn là sản phẩm” hoặc là: “hãy quan
tâm tới lợi ích có thể đem lại cho khách hàng hơn là sản phẩm”
Khi khách hàng quyết định mua sắm một nhãn hiệu hàng hóa cụ thể
họ thường kỳ vọng vào những lợi ích do tiêu dùng nhãn hàng hóa đó mang
lại. Cùng một nhu cầu có nhiều hàng hóa hoặc nhãn hiệu hàng hóa có thể
hướng đến để thỏa mãn nhưng theo cảm nhận của người tiêu dùng thì mức độ
cung cấp những lợi ích c
ủa các hàng hóa đó không giống nhau. Hàng hóa này
có ưu thế về cung cấp lợi ích này, nhưng lại có hạn chế trong việc cung cấp
lợi ích khác. Khi quyết định mua buộc người tiêu dùng phải lựa chọn, để lựa
chọn người tiêu dùng phải căn cứ vào khả năng cung cấp các lợi ích và khả
năng thỏa mãn nhu cầu của từng hàng hóa.
Giá trị tiêu dùng đối với một hàng hóa là sự đánh giá của người tiêu
dùng về
khả năng của nó trong việc thỏa mãn nhu cầu đối với họ. Lợi ích mà

người tiêu dùng kỳ vọng gồm lợi ích vật chất, tinh thần, xã hội và những lợi
ích khác như: sự hài lòng, thoải mái…, những lợi ích này không chỉ do sản


7
phẩm mang lại mà còn do sự nỗ lực ở tất cả các khâu như: bán hàng, quảng
cáo, phân phối hàng hóa tới tận tay người tiêu dùng…
Việc đánh giá giá trị tiêu dùng đối với các hàng hóa là suy diễn đầu
tiên của khách hàng hướng đến với hàng hóa. Để dẫn tới quyết định mua hàng
khách hàng phải quan tâm tới chi phí đối với nó. Theo quan niệm của người
tiêu dùng thì chi phí đối với một hàng hóa là tất cả những hao tổn mà người
tiêu dùng phả
i bỏ ra để có được những lợi ích do tiêu dùng hàng hóa đó mang
lại. Như vậy để có được những lợi ích tiêu dùng khách hàng phải chi ra tiền
của sức lực, thời gian và thậm chí cả chi phí do khắc phục những hậu quả phát
sinh bởi việc tiêu dùng sản phẩm hàng hóa. Những chi phí này bao gồm cả chi
phí mua sắm, sử dụng và đào thải sản phẩm. Đây cũng là cơ sở để khách hàng
lựa chọn nhữ
ng hàng hóa khác nhau trong việc thỏa mãn cùng một nhu cầu.
Khi đã đánh giá được giá trị tiêu dùng và chi phí đối với từng hàng
hóa khách hàng đã có căn cứ để lựa chọn hàng hóa. Tất nhiên khách hàng sẽ
lựa chọn hàng hóa nào có khả năng thỏa mãn nhu cầu của họ tốt nhất. Sự thỏa
mãn là mức độ của trạng thái cảm giác của người tiêu dùng bắt nguồn từ việc
so sánh kết quả thu được từ việc tiêu dùng sả
n phẩm với những kỳ vọng của
họ. Như vậy người làm Marketing cần phải rút ra được những kinh nghiệm đó
là: để sản phẩm tiêu thụ một cách dễ dàng cần tăng giá trị tiêu dùng và giảm
chi phí sử dụng của người tiêu dùng và không thể dùng Marketing không
trung thực để phát triển kinh doanh như quảng cáo, lăng xê, gian lận thương
mại.

Có thể thấy Marketing xuất hiện khi người ta quyết định th
ỏa mãn
nhu cầu và mong muốn thông qua trao đổi. Trao đổi là hành động tiếp nhận
một sản phẩm mong muốn từ một người nào đó bằng cách đưa cho họ một
thứ khác. Trao đổi là khái niệm căn bản nhất tạo nền móng cho hoạt động
Marketing nhưng để tiến tới trao đổi cần phải có các điều kiện sau:
• Ít nhất phải có hai bên.


8
• Mỗi bên cần phải có một thứ gì đó có giá trị đối với bên kia.
• Mỗi bên đều có khả năng giao dịch và chuyển giao thứ mình
có.
• Mỗi bên đều có quyền tự do chấp nhận hay từ chối đề nghị
của bên kia.
• Mỗi bên đều tin chắc là mình nên hay muốn giao dịch với
bên kia.
Trao đổi là một quá trình chứ không phải là một sự việc, hai bên
được xem là
đang thực hiện trao đổi nếu họ đang thương lượng để đi đến
những thỏa thuận. Khi đã đạt được sự thỏa thuận thì người ta nói rằng một
giao dịch đã hoàn thành. Giao dịch là đơn vị đo lường cơ bản của trao đổi.
Giao dịch là một cuộc trao đổi mang tính chất thương mại những vật có giá trị
giữa hai bên.
Như vậy các giao d
ịch thương mại chỉ có thể diễn ra thực sự khi hội
đủ các điều kiện:
• Ít nhất có hai vật có giá trị.
• Những điều kiện thực hiện giao dịch đã thỏa thuận xong.
• Thời gian thực hiện đã thỏa thuận xong.

• Địa điểm thực hiện đã thỏa thuận xong.
Những thỏa thuận này có thể đượ
c thể hiện trong cam kết hoặc hợp
đồng giữa hai bên, trên cơ sở một hệ thống luật pháp buộc mỗi bên phải thực
hiện cam kết của mình.
Khái niệm trao đổi, giao dịch dẫn ta đến khái niệm thị trường. Thị
trường là tập hợp những người mua nhất định có nhu cầu và mong muốn cụ
thể mà doanh nghiệp có thể thỏa mãn được, thị trường bao gồm những ng
ười
mua hiện tại và tiềm ẩn. Như vậy theo quan niệm này thì quy mô thị trường sẽ


9
tùy thuộc vào số người có cùng nhu cầu và mong muốn, vào lượng thu nhập,
lượng tiền vốn mà họ sẵn sàng bỏ ra để mua sắm hàng hóa thỏa mãn nhu cầu
và mong muốn đó. Quy mô thị trường không phụ thuộc vào số người đã mua
hàng và cũng không phụ thuộc vào số người có nhu cầu và mong muốn khác
nhau. Marketing quan niệm những người bán hợp thành ngành sản xuất cung
ứng còn người mua hợp thành thị trường. Do đó thuật ngữ
thị trường được
dùng để ám chỉ một nhóm khách hàng có nhu cầu và mong muốn nhất định
được thỏa mãn bằng một loại sản phẩm cụ thể, họ có đặc điểm giới tính hay
tâm sinh lý nhất định, độ tuổi nhất định và sinh sống ở một vùng cụ thể.
Qua những khái niệm trên chúng ta đã có thể hiểu được một cách
đầy đủ và đúng đắn về khái niệm Marketing nói chung. Từ
đó thấy được bản
chất của Marketing là đạt được mục tiêu của chủ thể bằng cách thỏa mãn nhu
cầu mong muốn của khách thể. Đứng trên góc độ doanh nghiệp thì bản chất
của Marketing là các hoạt động để thỏa mãn nhu cầu và mong muốn của thị
trường.

1.1.2. Vai trò và vị trí của Marketing trong hoạt động
kinh doanh
Xét về mặt lịch sử, sự ra đời lý thuyết Marketing hiện đại và ứng
dụng nó là một quá trình, quá trình đó gắn liền với quá trình tìm kiếm các triết
lý và phương pháp quản trị doanh nghiệp hướng ra thị trường. Trong thực tiễn
tồn tại 5 triết lý hay 5 quan điểm định hướng cho kinh doanh của doanh
nghiệp.
Khi nền kinh tế chưa phát triển hay phát triển thấp, cung chưa đáp
ứng đủ cầu, sả
n xuất chưa đáp ứng được tiêu dùng và nhu cầu của người tiêu
dùng còn giản đơn thì quan điểm chỉ đạo các nhà kinh doanh là: quan điểm
định hướng sản xuất. Quan điểm này cho rằng: Người tiêu dùng sẽ ưu thích
nhiều sản phẩm được bán rộng rãi với giá hạ. Vì vậy những nhà quản trị các
doanh nghiệp cần phải tập trung vào việc tăng quy mô sản xuất và mở rộng


10
phạm vi tiêu thụ. Như vậy ở đây người ta cho rằng điều mấu chốt nhất quyết
định sự thành bại của doanh nghiệp là số lượng sản phẩm sản xuất ra và mức
giá bán, nhưng hiện nay quan điểm này đã quá lỗi thời.
Những năm 20, 30 của thế kỷ XX khi nền kinh tế đã phát triển khả
năng cung ứng sản phẩm
đã tốt hơn, nhu cầu của người tiêu dùng đã nâng cao
kèm theo sức mua đã gia tăng thì quan điểm định hướng vào hoàn thiện sản
phẩm ra đời. Theo quan điểm này thì: người tiêu dùng luôn ưa thích những
sản phẩm có chất lượng cao nhất, nhiều công dụng và tính năng mới. Vì vậy
các nhà quản trị doanh nghiệp muốn thành công phải luôn tập trung mọi
nguồn lực vào việc tạo ra các sản phẩm có chất lượng hoàn h
ảo nhất và
thường xuyên cải tiến chúng Ưu điểm của quan điểm này là đã chú ý đến lợi

ích của người tiêu dùng, tuy nhiên nhược điểm là chưa chú ý đến nhu cầu và
mong muốn của khách hàng .
Khi nền kinh tế phát triển mạnh nhờ sự phát triển mạnh của cung
thỏa mãn cầu và bắt đầu xuất hiện tình trạng dư thừa, tiêt thụ sản phẩm trở
nên khó khăn do cạ
nh trạnh khốc liết thì quan điểm tập trung vào bán hàng ra
đời. Quan điểm này cho rằng người tiêu dùng thường bảo thủ và do đó có sức
ỳ hay thái độ ngần ngại, chần chừ trong việc mua sắm hàng hóa. Vì vậy để
thành công doanh nghiệp cần tập trung mọi nguồn lực và sự cố gắng vào việc
thúc đẩy tiêu thụ và khuyến mãi. Tuy nhiên quan điểm này có hạn chế đó là
vẫn chưa đáp ứng nhu cầ
u vá mong muốn của người tiêu dùng mà chỉ chú ý
đến khâu bán hàng.
Giữa thế kỷ XX, các doanh nghiệp phải đối mặt với cạnh tranh gay
gắt và sự thường xuyên biến đổi của nhu cầu, điều đó đòi hỏi người cung ứng
phải bán những thứ thị trường cần chứ không phải những gì mình có, do đó
quan điểm Marketing ra đời. Nội dung của quan điểm là: chìa khóa để đạt
được m
ục tiêu trong kinh doanh của doanh nghiệp là phải xác định đúng nhu
cầu và mong muốn của thị trường mục tiêu từ đó tìm ra những biện pháp thỏa


11
mãn nhu cầu mong muốn này bằng phương thức có lợi thế hơn hẳn đối thủ
cạnh tranh.
Đến những năm 90 của thế kỷ XX xã hội phải đối mặt với những
vấn nạn như lãng phí tài nguyên, môi trường sinh thái bị phá vỡ, sự giảm sút
các chuẩn mực xã hội… thì quan điểm Marketing đạo đức xã hội ra đời. Theo
quan điểm thì nhiệm vụ của doanh nghiệ
p là xác định đúng đắn những nhu

cầu mong muốn của thị trường mục tiêu trên cơ sở đó đảm bảo thỏa mãn nhu
cầu và mong muốn này bằng phương thức hiệu quả hơn các đối thủ cạnh tranh
đồng thời bảo toàn hoặc củng cố mức sống sung túc cho người tiêu dùng và
xã hội. Có thể thấy đây là quan điểm tiến bộ và hiện đại nhất cho đến nay.
Nh
ư vậy doanh nghiệp cần phải hiểu đúng khái niệm Marketing và
xác định đúng quan điểm tiếp cận khi nghiên cứu và vận dụng Marketing vào
hoạt động kinh doanh của mình bởi vì nó ảnh hưởng trực tiếp tới hướng đi
của doanh nghiệp. Có định hướng đúng doanh nghiệp sẽ có cơ hội thành công
hơn, nhất là trong môi trường cạnh tranh của cơ chế thị trường.
Qua nghiên cứu và phân tích lịch s
ử phát triển của Marketing các
nhà kinh tế còn khẳng định Marketing ra đời trước hết chính là để nhằm hỗ
trợ có hiệu quả cho hoạt động thương mại, tiêu thụ sản phẩm, giải quyết
những khó khăn rủi ro mà doanh nghiệp phải đối mặt cũng như xác định được
cơ hội của doanh nghiệp, từ đó giúp doanh nghiệp đưa ra giải pháp kinh
doanh có hiệu quả nhất.
Marketing còn có chứ
c năng hết sức quan trọng đó là chức năng kết
nối mọi hoạt động của doanh nghiệp với thị trường. Marketing hướng các nhà
quản trị vào việc trả lời hai câu hỏi:
Một là, liệu thị trường có cần hết hay mua hết số sản phẩm doanh
nghiệp tạo ra hay không?


12
Hai là, liệu cái giá mà doanh nghiệp định bán, người tiêu dùng có
đủ tiền mua hay không?
Qua đó Marketing đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp hướng theo thị trường, biết lấy thị trường – nhu cầu và mong muốn

của khách hàng làm chỗ dựa vững chắc nhất cho mọi quyết định kinh doanh.
Marketing là một chức năng cơ bản của kinh doanh, nó là đầu mối
quan trọng của một cơ thể quản lý thống nh
ất, trong điều kiện của kinh tế thị
trường. Nhìn chung chức năng hoạt động Marketing của doanh nghiệp luôn
luôn chỉ cho doanh nghiệp biết rõ những nội dung cơ bản sau:
• Khách hàng của doanh nghiệp là ai? Họ sống và mua hàng ở
đâu? Họ là nam hay nữ? Già hay trẻ? Họ mua bao nhiêu? Vì
sao họ mua?
• Họ cần loại hàng hóa nào? Loại hàng hóa đó có những đặc
tính gì? Bao gói ra sao? Vì sao họ cần những đặc tính đó ma
không phải là những đặc tính khác, những đặc tính hiện thời
của hàng hóa còn thích hợp với khách hàng nữa hay không?
So với hàng hóa của nhãn hiệu cạnh tranh, hàng hóa của công
ty có những ưu thế và hạn chế gì? Có cần phải thay đổi hàng
hóa không? Thay đổi yếu tố và đặc tính nào? Nếu không thay
đổi thì sao? Nếu thay đổi thì sẽ gặp những điều gì?
• Giá hàng của công ty nên quy định là bao nhiêu? Tại sao lại
quy định mức giá như vậy mà không phải là mức giá khác?
M
ức giá trước đây còn thích hợp không? Nên tăng hay giảm
giá? Khi nào tăng hoặc giảm? tăng giảm bao nhiêu? Ở đâu?
Với ai?


13
• Doanh nghiệp nên tự tổ chức lực lượng bán hàng hay dựa vào
lực lựong khác? Cụ thể dựa vào ai? Khi nào thì đưa hàng hóa
ra thị trường? khối lượng là bao nhiêu?
• Làm thế nào để khách hàng biết, mua và yêu thích hàng hóa

của doanh nghiệp? Tại sao lại dùng cách thức này mà không
dùng cách thức khác? Các hàng hóa cùng loại người ta giới
thiệu với công chúng bằng cách nào? Tại sao người ta làm
vậy?
• Hàng hóa của doanh nghiệp có cần dịch vụ sau khi bán
không? Loại d
ịch vụ nào doanh nghiệp có khả năng cung cấp
nhất? vì sao? Vì sao doanh nghiệp lựa chọn loại dịch vụ này
mà không phải loại khác?
Đó là những vấn đề mà ngoài chức năng Marketing ra thì không
một hoạt động chức năng nào khác của công ty phải có trách nhiệm trả lời,
điều này phản ánh tính chất độc lập của chức năng Marketing so với các chức
năng quản lý khác của công ty. Đương nhiên khi đề cập đế
n những nội dung
trên nhà quản trị Marketing không thể thoát ly khỏi các khả năng về tài chính,
về sản xuất và công nghệ, trình độ của nguồn nhân lực, vì giữa chúng có
mối liên hệ với nhau.
Đối với các doanh nghiệp thương mại thì Marketing thương mại
đóng một vai trò đặc biệt quan trọng. Marketing thương mại được hiểu là:
“quá trình tổ chức, quản lý và điều khiển các hoạt động nhằm tạo ra khả n
ăng
và đạt được mục tiêu tiêu thụ có hiệu quả nhất sản phẩm của một tổ chức trên
cơ sở thỏa mãn một cách tốt nhất nhu cầu của nhà sản xuất, nhà thương mại
và người tiêu thụ”.
Mục tiêu của Marketing thương mại cuối cùng vẫn là đảm bảo lợi
nhuận có thể có của doanh nghiệp khi tham gia vào quá trình kinh doanh trên


14
thị trường. Nhưng mục tiêu trực tiếp của Marketing thương mại có thể được

xác định là tạo ra những cơ hội lớn nhất để tiêu thụ sản phẩm của doanh
nghiệp mà qua đó mới có thể đạt đến mục tiêu lợi nhuận. Marketing thương
mại được nghiên cứu và phát triển là để nhằm giảm thiểu rủi ro trong hoạt
động thương mại. Thực ch
ất của Marketing thương mại là xác định lại cho
phù hợp với điều kiện của nền kinh tế hiện đại vị trí của nhà kinh doanh và
khách hàng trong hoạt động kinh tế. Từ đó sử dụng một cách đồng bộ và khoa
học các quan điểm lý thuyết hiện đại về tổ chức và quản trị kinh doanh trong
quá trình tiếp cận và chinh phục khách hàng để tiêu thụ sản phẩm.
1.2. Nội dung của quản trị Marketing
Quản trị Marketing là phân tích, lập kế hoạch, thực hiện và kiểm tra
việc thi hành các biện pháp nhằm thiết lập củng cố và duy trì những cuộc trao
đổi có lợi với những người mua đã được lựa chọn để đạt được những mục tiêu
của doanh nghiệp đã đề ra.
Các quan điểm quản trị Marketing là những tư tưởng cơ bản của
Marketing đóng vai trò định hướng ho
ạt động Marketing của doanh nghiệp
nhằm thỏa mãn nhu cầu mong muốn của khách hàng và giúp doanh nghiệp
cạnh tranh có hiệu quả. Có 5 quan điểm quản trị Marketing và đã được trình
bày ở phần trên. Bản chất của quá trình quản trị Marketing là gồm 3 bước:
• Bước 1: tìm kiếm và lựa chọn giá trị: tức là nghiên cứu và
tìm kiếm giá trị chưa được thỏa mãn và lựa chọn giá trị cung
ứng để thỏa mãn nhu cầ
u mong muốn của khách hàng
• Bước 2: tạo giá trị : tìm kiếm các ý tưởng thiết kế những sản
phẩm thỏa mãn nhu cầu mong muốn của khách hàng là định
giá bán hợp lý, thiết kế kênh phân phối.


15

• Bước 3: thông báo giá trị: thực hiện các hoạt động truyền
thông lựa chọn những hình thức tiêu thụ hợp lý, thực hiện các
dịch vụ hỗ trợ khách hàng.
Quá trình quản trị Marketing gồm 5 bước sau:
1. phân tích các cơ hội Marketing.
2. phân đoạn thị trường lựa chọn thị trường mục tiêu
3. lập kế hoạch chiến lược Marketing
4. hoạch
định chương trình Marketing
5. tổ chức thực hiện kiểm tra kiểm soát (và điều chỉnh
nếu có)
1.3. Những yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động Marketing
của doanh nghiệp
Hoạt động Marketing của bất kỳ doanh nghiệp nào cũng chịu tác
động của nhiều nhân tố, các nhân tố đó hình thành môi trường kinh doanh của
một doanh nghiệp. Môi trường được tiếp cận dưới góc độ Marketing là môi
trường Marketing.
Môi trường Marketing là tổng hợp tất cả các yếu tố, những lực
lượng bên trong và bên ngoài doanh nghiệp có ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu
cực đến hoạt động hoặc ra các quyết định c
ủa bộ phận Marketing trong doanh
nghiệp đến khả năng thiết lập hoặc duy trì mối quan hệ giữa doanh nghiệp với
khách hàng.
Những thay đổi của môi trường Marketing ảnh hưởng sâu sắc và
mạnh mẽ tới các doanh nghiệp. Bao gồm cả ảnh hưởng tốt và xấu tới kinh
doanh. Môi trường không chỉ có những thay đổi, những diễn biến từ từ và dễ
dàng phát hiện và dự báo mà nó còn luôn tiềm ẩn nhữ
ng biến động khôn
lường, thậm chí những cú sốc.



16
Như vậy, môi trường Marketing tạo ra cả những cơ hội thuận lợi và
cả những sức ép, sự đe dọa cho tất cả các nhà kinh doanh. Điều căn bản là họ
phải sử dụng các công cụ nghiên cứu Marketing, các hệ thống Marketing để
theo dõi, nắm bắt và xử lý nhạy bén các quyết định Marketing nhằm thích ứng
với những thay đổi từ phía môi trường.
Môi trường Marketing là tập h
ợp của môi trường Marketing vi mô
và môi trường Marketing vĩ mô. Môi trường Marketing vi mô bao gồm các
yếu tố liên quan chặt chẽ đến doanh nghiệp và nó ảnh hưởng đến khả năng
của doanh nghiệp khi phục vụ khách hàng. Đó là các nhân tố nội tại của công
ty, các kênh Marketing, thị trường khách hàng, người cạnh tranh, người cung
cấp, các tổ chức trung gian,… các nhân tố này tác động trực tiếp tới hoạt động
của doanh nghiệp và doanh nghiệp cũng có ảnh hưở
ng nhất định tới những
yếu tố này.
Môi trường Marketing vĩ mô bao gồm các yếu tố, các lực lượng
mang tính chất xã hội rộng lớn, chúng có tác động ảnh hưởng tới toàn bộ môi
trường Marketing vi mô và tới các quyết định Marketing của doanh nghiệp.
Môi trường Marketing vĩ mô tập hợp tất cả các yếu tố mà doanh nghiệp
không thể kiểm soát và thay đổi được đây chính là nguồn gốc nảy sinh các cơ
hộ
i và rủi ro cho doanh nghiệp. Những yếu tố đó là những yếu tố thuộc về
nhân khẩu học, kinh tế, tự nhiên, kỹ thuật, công nghệ, chính trị pháp luật, đạo
đức và văn hóa xã hội,…
1.4. Kế hoạch hóa hoạt động Marketing trong doanh
nghiệp
1.4.1. Chiến lược Marketing
Để duy trì sự phát triển của mình, mọi doanh nghiệp đều phải nhìn

về phía trước với những mục tiêu cần đạt tới và những cách thức để đạt được
mục tiêu đó. Ngày nay, việc quản lý dựa trên những kinh nghiệm, trực giác và


17
sự khôn ngoan không thể là một sự đảm bảo cho thành công của doanh
nghiệp. Vì vậy, một kế hoạch chiến lược được thiết lập và phát triển cho toàn
bộ các hoạt động của doanh nghiệp là điều cần thiết
Kế hoạch chiến lược giúp cho doanh nghiệp thấy rõ hơn mục tiêu
chỉ đạo, sự phối hợp các hoạt động được hoàn hảo hơn. Đồng thờ
i nó cũng
giúp cho nhà quản trị suy nghĩ có hệ thống những vấn đề kinh doanh nhằm
mang lại những chuyển biến tốt đẹp hơn cho công ty, doanh nghiệp.
Kế hoạch chiến lược của công ty là một chủ thuyết quản trị kinh
doanh làm cơ sở cho việc lập kế hoạch chiến lược kinh doanh sao cho đảm
bảo sự phát triển và duy trì sự thích nghi chiến lược giữa một bên là các mục
tiêu và khả n
ăng của công ty và bên kia là các cơ hội thị trường đầy biến
động.
Như vậy, quá trình lập kế hoạch chiến lược của một công ty là sự
thể hiện của việc tìm hiểu và nhận biết những yếu tố, môi trường bên ngoài,
đánh giá những điều kiện và khă năng bên trong của công ty để soạn thảo các
kế hoạch chiến lược nhằm đạt tới những m
ục tiêu nhất định.
1.4.2.Kế hoạch hóa hoạt động Marketing
Kế hoạch hóa hoạt động Marketing là quá trình phân tích, lập kế
hoạch, tổ chức thực hiện và kiểm tra các chương trình Marketing đối với từng
nhóm khách hàng mục tiêu có nhu cầu và mong muốn cụ thể
Như vậy kế hoạch hóa Marketing có từng điểm nổi bật đáng lưu ý
là:

Một là, kế hoạch hóa hoạt động Marketing là một quá trình bao
gồm: phân tích, lập kế hoạch, tổ chức thực hiện và kiể
m tra.
Hai là, kế hoạch hóa Marketing được triển khai cho từng nhóm
khách hàng mục tiêu có nhu cầu nhất định.


18
Ba là, mỗi nhóm khách hàng mục tiêu có nhu cầu và mong muốn
riêng, nên cũng có thể hiểu kế hoạch hóa Marketing được đặt ra với từng hàng
hóa riêng biệt, từng thị trường cụ thể.
Các giai đoạn của quá trình kế hoạch hóa hoạt động Marketing bao
gồm:
1. Phân tích thị trường và chiến lược Marketing hiện tại:
Phân tích thị trường và chiến lược Marketing hiện tại nhằm đánh
giá những đặc đi
ểm chủ yếu của thị trường như quy mô, cơ cấu, xu hướng
biến động và ảnh hưởng của môi trường Marketing tới việc mua sắm của
khách hàng. Một lần nữa, những nội dung phân tích môi trường lại được đề
cập và tiếp cận để có thể xác định vị thế của công ty trong hiện tại. Chỉ có
điều sự phân tích này phải gắn với từng sản ph
ẩm cụ thể. Đồng thời công ty
cũng cần phải phân tích cạnh tranh như: xác định các đối thủ cạnh tranh, thị
phần và chiến lược của họ. Khi phân tích chiến lược Marketing hiện tại, các
chiến lược bộ phận của Marketing hỗn hợp sẽ được xem xét lại. Cụ thể công
ty xét duyệt lại sản phẩm về doanh số, giá cả và lợi nhuận của những sản
ph
ẩm chính, những nội dung trong chiến lược giá, phân phối và xúc tiến bán
cũng sẽ được xem xét lại trong hoàn cảnh mới.
2. Phân tích cơ may và rủi ro:

Từ những phân tích môi trường và thị trường, những cơ may và rủi
ro đe dọa được nhận biết và xác định. Những cơ may có thể sẽ mở ra những
khả năng phát triển mới nếu công ty tận dụng được. Những rủi ro, đe dọa c
ần
được nhận biết để có biện pháp giảm thiểu và phòng ngừa.
3. Xác định các mục tiêu Marketing:
Một mặt, các mục tiêu Marketing phải thống nhất và được định
hướng từ các mục tiêu của kế hoạch chiến lược, mặt khác các mục tiêu này
phải được thiết lập một cách rõ ràng, cụ thể và có thể đo lường được. Vì vậy


19
những mục tiêu của kế hoạch Marketing thường là: doanh số bán, lợi nhuận
và thị phần cần đạt được, chất lượng và đặc điểm nổi bật của sản phẩm, giá
cả, dịch vụ, vị thế doanh nghiệp.Thông thường, một kế hoạch Marketing có
thể có nhiều mục tiêu, những mục tiêu này có thể không thống nhất và mỗi
mục tiêu có tầm quan trọng khác nhau vì vậ
y cần sắp xếp một thứ tự mục tiêu
trong quá trình thực hiện theo tầm mức quan trọng của nó.
4. lựa chọn thị trường mục tiêu:
Dựa trên những kết quả phân tích môi trường thị trường chiến lược
Marketing hiện hành của công ty và nhiệm vụ mục tiêu mà công ty mong
muốn đạt tới, thực chất của việc lựa chọn thị trường mục tiêu là lựa chọn
nh
ững nhóm khách hàng tiềm năng mà công ty sẽ phục vụ với các sản phẩm
nhất định. Những thị trường mục tiêu được lựa chọn có thể là một hay một số
đoạn thị trường chính hay toàn bộ thị trường
Khi lựa chọn các thị trường mục tiêu cần làm rõ các vấn đề sau đây:
• loại sản phẩm sẽ được bán để thỏa mãn nhu cầu của khách
hàng.


Phương thức thỏa mãn nhu cầu đó
• Quy mô và tiềm năng tăng trưởng của thị trường.
• Khả năng bán và thu lợi nhuận
• Mức độ phù hợp giữa một bên là nhu cầu của khách hàng
ở các thị trường được lựa chọn và bên kia là khả năng
thỏa mãn những nhu cầu đó
Tùy thuộc vào việc phân tích, đánh giá những vấn đề nói trên mà
công ty sẽ lựa chọ
n được những thị trường tiềm năng tốt nhất, được xem như
là những đối tượng của kế hoạch Marketing.
5. Thiết lập Marketing – mix


20
Marketing – mix ( Marketing hỗn hợp ) là một tập hợp các biến số
mà công ty có thể kiểm soát và quản lý được và nó được sử dụng để cố gắng
đạt tới những tác động và gây được những ảnh hưởng có lợi cho khách hàng
mục tiêu. Các bộ phận cấu thành của Marketing hỗn hợp được biết đến như là
4P: chiến lược sản phẩm (product), chiến lược giá cả (price), chiến lược phân
phố
i (places) và chiến lược xúc tiến khuếch trương (promotion).
• Chiến lược sản phẩm: đó là việc xác định danh mục
sản phẩm, chủng loại, sản phẩm và các đặc tính của nó
như tên gọi, nhãn hiệu, các đặc tính kỹ thuật, bao gói,
kích cỡ và dịch vụ sau bán hàng.
• Chiến lược giá cả: là việc xác định mục tiêu của chiến
lược giá, lựa chọn các phương pháp định giá, các chiến
lượ
c giá của công ty.

• Chiến lược phân phối: bao gồm các vấn đề như thiết
lập các kiểu phân phối, lựa chọn các trung gian thiết
lập mối liên hệ trong kênh và toàn bộ mạng lưới phân
phối, các vấn đề về dự trữ, ,kho bãi, phương thức vận
chuyển…
• Chiến lược xúc tiến và khuếch trương: là mọi hoạt
động của công ty nhằm truyền bá những thông tin về
sả
n phẩm và dịch vụ của công ty, nó bao gồm các hoạt
động như: quảng cáo, kích thích tiêu thụ và các hoạt
động khuyến mại khác.
Đi liền với các chiến lược bộ phận sẽ là một hệ thống các biện pháp
cụ thể nhằm đạt tới mục tiêu của doanh nghiệp. Các chiến lược bộ phận và
các biện pháp được phối hợp trong quá trình thực hiện sau này.
6. Đề ra chương trình hành động và dự
đoán ngân sách


21
Một chương trình hành động cho toàn bộ kế hoạch Marketing của
công ty là cần thiết để đảm bảo rằng kế hoạch này sẽ được thực hiện dưới sự
kiểm soát và điều khiển của các nhà quản trị Marketing. Chưong trình hành
động phải trả lời được các câu hỏi sau:
• Cái gì sẽ được thực hiện?
• Khi nào thực hiện?
• Ai có trách nhiệm thực hi
ện?
• Tổng chi phí cho nó là bao nhiêu?
Đồng thời cần phải dự đoán ngân sách hay những kết quả tài chính
có thể của kế hoạch Marketing để phù hợp với chương trình và tiến hành thực

hiện một cách tốt nhất.

Tất cả những nội dung trình bày ở trên là nhằm khái quát về
Marketing và tác dụng của nó trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp,
sau đây em sẽ trình bày về hoạt động Marketing trong một doanh nghiệp
thươ
ng mại. Cụ thể là công ty TNHH sản xuất và thương mại Nam Thành,
đây là một doanh nghiệp trẻ đang nghiên cứu, tìm tòi để ứng dụng thành công
Marketing hiện đại trong quản trị kinh doanh. Trong giới hạn của để tài em
chỉ đề cập đến hoạt động kinh doanh thương mại của công ty trên thị trường
may vi tính.





22
Chương II: Thực trạng và một số biện pháp nâng cao
hiệu quả hoạt động Marketing của công ty TNHH sản xuất và
thương mại Nam Thành

2.1. Thực trạng hoạt động Marketing
2.1.1. Lựa chọn thị trường mục tiêu
Thị trường tổng thể luôn gồm một số lượng rất lớn khách hàng với
những nhu cầu đặc tính mua và khả năng tài chính rất khác nhau. Sẽ không có
một doanh nghiệp nào có thể với tới tất cả các khách hàng tiềm năng, hơn nữa
mỗi doanh nghiệp thường chỉ có một thế manh xét trên một phương diện nào
đó trong việc thỏa mãn nhu cầu thị trường. Do đó phân đoạn thị trườ
ng, lựa
chọn thị trường mục tiêu là một trong những nội dung quan trọng nhất của lý

thuyết Marketing và là một khâu không thể thiếu được của tiến trình hoạch
định các chiến lược Marketing. Nắm được điều này nên Nam Thành xác định
rằng: chỉ có thể đáp ứng được nhu cầu và mong muốn của khách hàng bằng
những nỗ lực Marketing nổi trội hơn đối thủ cạnh tranh khi đã chọn
được một
thị trường mục tiêu phù hợp.
Hiện nay, Việt Nam đang ra sức xây dựng một nền kinh tế thị
trường phát triển để vững vàng trên hành trình hội nhập thế giới, chủ động với
những cơ hội và thách thức sắp tới. Chúng ta đang đẩy nhanh tiến trình đàm
phán gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) và khẳng định: bằng
những bướ
c tiến vững chắc, trong năm 2006, Việt Nam chắc chắn sẽ gia nhập
WTO. Do ảnh hưởng của toàn cầu hóa, nền kinh tế thế giới hiện nay đang
chuyển thành một hệ thống liên kết ngày càng chặt chẽ thông qua mạng lưới
công nghệ thông tin. Điều này cho thấy vai trò quan trọng của khoa học và


23
công nghệ trong phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao đời sống của con
người.
Thế kỷ XX đánh dấu những biến đổi bước ngoặt của khoa học và
công nghệ, có thể nói sự ra đời của máy vi tính là một phát minh hết sức vĩ
đại. Nó được sử dụng trong mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế và đời sống xã
hội, đảm nhận nhiều chức năng củ
a lao động trí óc. Từ đó trên thị trường thế
giới và cả Việt Nam xuất hiện nhu cầu rất lớn về máy vi tính. Máy vi tính với
tốc độ tính toán nhanh và bộ nhớ lớn hơn con người rất nhiều có thể giúp
người sử dụng học tập, nghiên cứu, làm việc hoặc đơn thuần chỉ là giải trí. Nó
giúp con người những công việc từ đơn giản như: tạo lập văn b
ản, tính

toán,… đến những công việc phức tạp hơn như: nghiệp vụ văn phòng, làm đồ
họa,viết nhạc hay thiết kế thời trang. Các phần mềm mang tính thực tiễn cao
được ứng dụng ngày càng nhiều giúp con người giải quyết công việc một
cách nhanh gọn và chính xác, thực tế là một chiếc máy vi tính có thể thay thế
cho rất nhiều người. Bên cạnh đó máy vi tính còn là công cụ giúp con người
kết nối với toàn c
ầu thông qua mạng Internet.
Qua nghiên cứu tổng quan về thị trường Nam Thành đã quyết định
chọn thị trường mục tiêu theo phương án: chuyên môn hóa theo sản phẩm.
Theo phương án này công ty tập trung vào kinh doanh sản phẩm máy vi tính
và các linh kiện máy vi tính để đáp ứng cho 2 đoạn thị trường đó là: hộ gia
đình và văn phòng.
Tiếp theo đó công ty đã chọn áp dụng chiến lược Marketing phân
biệt để tiếp cận thị trường mục tiêu, tứ
c là soạn thảo chương trình Marketing
riêng cho từng đoạn thị trường. Đó là vì nhu cầu sử dụng và mong muốn của
khách hàng không giống nhau. Đối với những công việc đơn giản thì chỉ cần
một chiếc máy tính bình thường và thông dụng, nhưng đối với những công
việc mang tính phức tạp thì tùy vào phần mềm sử dụng và tính chất công việc
người tiêu dùng sẽ chọn máy có tốc độ cao hơn, bộ nhớ
lơn hơn, nhiều phụ


24
kiện chuyên dụng hơn… Mặt khác, việc chia thị trường mục tiêu ra những
phân khúc khác nhau giúp công ty hướng vào những nhu cầu thị trường cụ thể
hơn, có biện pháp quảng bá và cách tiếp cận hữu hiệu hơn, định giá phù hợp
hơn.
Tuy nhiên thực tế hiện nay có rất nhiều doanh nghiệp kinh doanh
trong lĩnh vực này, vấn đề đặt ra tiếp theo đối với Nam Thành là phải xây

dựng chương trình hành động nh
ư thế nào để hiệu quả nhất và có tính cạnh
tranh mạnh nhất.
2.1.2. Chiến lược và chương trình hành động
Đối với bất kỳ một người làm Marketing nào cũng phải nắm chắc 4
tham số cơ bản của hệ thống Marketing hỗn hợp, đó là:
• Product: sản phẩm.
• Price: giá cả.
• Places: phân phối
• Promotion: xúc tiến hỗn hợp.
a. Chiến lược sản phẩm:
Nam Thành đề ra chủ trương tập trung vào việc chào bán lợi ích của
sản phẩm chứ không phải là đặ
c tính của sản phẩm, chú trọng thỏa mãn nhu
cầu và lợi ích của khách hàng để đạt được mục tiêu lâu dài của công ty.
Theo quan điểm Marketing – từ góc độ người tiêu thụ thì sản phẩm
của doanh nghiệp được hiểu là một hệ thống thống nhất các yếu tố có liên hệ
chặt chẽ với nhau nhằm thỏa mãn đồng bộ nhu cầu của khách hàng bao gồm
sản phẩm vật chất, bao bì, nhãn hiệ
u hàng hóa, dịch vụ, cách thức bán hàng…
Từ đó công ty vạch ra chiến lược phát triển sản phẩm theo 2 hướng:

×