Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Tài liệu Bài thảo luận môn Tiền tệ Ngân Hàng Đề tài: Tổng quan về Thị trường tài chính Việt Nam doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (281.53 KB, 19 trang )

Bài thảo luận môn Tiền tệ Ngân Hàng
Đề tài:

Tổng quan về Thị trường
tài chính Việt Nam


I.Lý thuyết chung
1.Thị trường tài chính là gì?
2..Chức năng và vai trị của thị trường tài chính

II.Thực trang thị trường tài chính Việt Nam
1.Đánh giá tổng quan về thị trường tài chính Việt Nam
2.Thị trường tài chính Việt Nam trước khi gia nhập WTO
3.Thị trường tài chính Việt Nam sau khi gia nhập WTO
4.Đánh giá thực trạng và các giải pháp khắc phục những hạn
chế hiện nay


Nhóm thực hiện: KNORR
I.Lý thuyết chung:
1.Thị trường tài chính là gì?
Bắt ng̀n từ mới quan hệ nhân quả giữa đầu tư và tiết kiệm: một nền kinh
tế muốn tăng trưởng thì phải có hoạt động đầu tư; trước khi muốn đầu tư, phải huy
động vốn từ nguồn tiết kiệm; đầu tư có hiệu quả sinh ra lợi nhuận lại làm tăng
thêm nguồn tiết kiệm. Vì vậy, mối quan hệ nhân quả này tuần hoàn và tạo nên sự
phát triển kinh tế xã hội.
Tuy nhiên, vấn đề là làm sao để cho đầu tư gặp được tiết kiệm; phải có nơi
để tạo ra sự gặp gỡ này. Đó chính là quá trình giao lưu vốn hay nói khác hơn đó là
thị trường tài chính, là nơi tạo ra cơ chế cho những nguồn vốn nhàn rỗi không có
chỗ đầu tư giao lưu với những nhà đầu tư đang cần vốn.


Như vậy, thị trường tài chính là thị trường giao dịch, mua bán, trao đổi các
sản phẩm tài chính ngắn hạn, trung hạn, dài hạn để đáp ứng nhu cầu khác nhau của
các chủ thể trong nền kinh tế. Trong đó, các chủ thể thừa vốn thì tìm kiếm lợi
nhuận thông qua hoạt động đầu tư, còn các chủ thể thiếu vốn bổ sung vốn cho hoạt
động sản xuất kinh doanh và các nhu cầu đầu tư khác. Việc hình thành quá trình
giao lưu vốn giữa những chủ thể thừa vốn và thiếu vốn đã tạo nên một thị trường
với đầy đủ cơ chế như trong một nền kinh tế thị trường. Đồng thời, do sản phẩm
trên thị trường là sản phẩm tài chính, có tính nhậy cảm và ảnh hưởng đến mọi
thành phần trong nền kinh tế nên thị trường tài chính là thị trường bậc cao. Do đó,
thị trường tài chính phải là loại thị trường bậc cao, chỉ tồn tại và hoạt động trong
điều kiện của nền kinh tế thị trường.
2.Chức năng và vai trò của thị trường tài chính
2.1.Chức năng:
Chức năng đầu tiên, cũng là chức năng quan trọng nhất của thị trường
tài chính là khơi thông các nguồn vốn và dẫn vốn để đáp ứng các nhu cầu của
nền kinh tế xã hội. Để thực hiện được chức năng này, thị trường phải tạo ra các
kênh huy động vốn từ nơi thừa, như: cá nhân, hộ gia đình, các đơn vị kinh tế, tổ
chức đoàn thể xã hội, Chính phủ, … ở trong và ngoài nước để chuyển sang các
nhà đầu tư thiếu vốn, như: các đơn vị kinh tế, Chính phủ, cá nhân, hộ gia đình, …
Chức năng thứ hai của thị trường tài chính là kích thích tiết kiệm và đầu
tư. Thị trường tạo ra sân chơi, để những người có tiền nhàn rỗi có cơ hội đầu tư
như nhau và được tự do tham gia vào thị trường để tìm kiếm những nơi đầu tư có
suất sinh lợi cao nhất, tạo thành thói quen tích lũy tiền tệ một cách thường xuyên
hơn, là một nguồn đầu vào không thể thiếu của thị trường. Nếu thị trường không
kích thích được người dân tích lũy và tham gia vào thị trường như là một kênh dẫn


vốn cho nền kinh tế thì thị trường đó sẽ không thể hoạt động tốt. Đồng thời, nhà
đầu tư trên thị trường khi tìm kiếm nguồn vốn tài trợ cho các hoạt động đầu tư
phải nhận thức được việc sử dụng vốn sao cho có hiệu quả nhất, có hiệu suất sử

dụng đồng vốn cao nhất để bảo toàn vốn, sinh lời và tích lũy. Chính vì vậy, thị
trường tài chính có chức năng nâng cao năng suất và hiệu quả hoạt động của toàn
bộ nền kinh tế, kích thích đổi mới, áp dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ tiên tiến
để tăng hiệu quả đầu tư, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế xã
hội.
Chức năng thứ ba của thị trường tài chính là làm gia tăng tính thanh
khoản cho các tài sản tài chính. Tính thanh khoản là tính chất dễ dàng chuyển
hóa các tài sản tài chính thành tiền mặt và được thực hiện ở thị trường thứ cấp, là
thị trường mua bán, giao dịch cổ phiếu và các giấy tờ có giá đã phát hành trên thị
trường sơ cấp. Tính thanh khoản ở thị trường tài chính càng cao thì càng thu hút
nhiều chủ thể tham gia vào thị trường và giúp chủ sở hữu các tài sản tài chính dễ
dàng chuyển đổi danh mục đầu tư theo yêu cầu. Do đó, mỗi thị trường khác nhau
có tính thanh khoản khác nhau, phụ thuộc vào trình độ phát triển các định chế tài
chính của thị trường ấy. Nếu các cơ chế của thị trường thông thoáng sẽ tạo điều
kiện thuận lợi cho các công cụ tài chính lưu thông thông suốt. Ngoài ra, thị trường
tài chính còn có chức năng định giá tài sản tài chính, phân phối vốn trên thị trường
theo tín hiệu của thị trường.
2.2.Vai trị:
a, TTTC góp phần năng cao năng suất và hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế:
Bất kỳ nền kinh tế nào, trong quá trình fát triển cũng fải đối đầu với sự
khan hiếm về nguồn lực. TTTC là sản fẩm tất yếu của sự đòi hỏi tập trung tài
nguyên cho sản xuất lớn và chống lãng fí dưới mọi hình thức. Với chức năng dẫn
vốn và chức năng tiết kiệm, TTTC đã tạo điều kiện để huy động nguồn lực trong
xã hội, lôi kéo các cá nhân trở thành các nhà đtư, tận dụng mọi nguồn lực nhỏ
nhất, thúc đẩy hoạt động sang tạo ra sp và dvụ.
Đối với ngân sách Nhà nước, việc bù đắp các khoản bội chi bằng cách vay
nợ trên TTTC thay vì fát hành thêm giấy bạc NH và lưu thơng là một biện fáp hết
sức quan trọng, bởi vì làm như vậy sẽ vừa có thể kiềm chế được lạm fát vừa có thể
tạo đk cho tăng trưởng nền ktế.
Tóm lại, một TTTC hđ có hiệu quả sẽ tận dụng được ở mức cao nhất mọi

nguồn vốn tiềm tàng trong nước và từ nước ngoài để phát triển kt và cải thiện đời
sống của nhân dân.
b, TTTC tạo môi trường thuận lợi để dung hịa các lợi ích kt của các chủ thể kt
khác nhau trên thị trường:
Thông qua các cuộc đấu giá tập trung giữa các nguồn cung và nguồn cầu,
cơ chế thị trường sẽ hình thành nên mức giá cả tốt nhất, có lợi cho cả người mua
và người bán, đảm bảo sự công bằng trên thị trường. Các cá nhân hoặc cộng đồng
chỉ có thể tìm thấy sự fát triển tốt nhất cho chính mình trong sự hỗ trợ để các cá
nhân hoặc cộng đồng khác cùng fát triển. Nếu thiếu TTTC hoặc TTTC kém fát


triển, điều kiện để cung cầu gặp gỡ, cọ xát sẽ bị hạn chế, do đó ko thể có mức giá
cả fản ánh đầy đủ chính xác sức mua, sức bán.
c, TTTC tạo nên cơng cụ kích thích tính hiệu quả của các DN:
Tự bản thân cơ chế giao dịch của TTTC sẽ chọn ra các DN, các dự án đtư
có triển vọng để tài trợ. Các DN hay các dự án có triển vọng sẽ có thể có thêm vốn
với chi fí rẻ hơn. Ngược các các DN kém và các dự án tồi sẽ khó thu hút vốn hoặc
fải trả chi fí sử dụng vốn cao hơn. Do đó, các DN hay các dự án đtư muốn huy
động vốn và duy trì vốn hoạt động thơng qua TTTC fải tính tốn sao cho sản xuất
kinh doanh lành mạnh và có hiệu quả ngày càng cao hơn.
d, TTTC tạo đk thuận lợi cho các giao dịch tài chính.
TTTC là nơi dẫn vốn từ chủ thể thừa vốn đến chủ thể thiếu vốn. Nhờ vào
sự fát triển của công nghệ thông tin liên lạc mà chủ thể thừa vốn và chủ thể thiếu
vốn cách nhau hang ngàn dặm có thể giao dịch một cách có hiệu quả, từ đó tiết
kiệm chi fí liên quan đến các giao dịch tài sản tài chính như: chi fí thu thập thơng
tin, chi fí nghiên cưú, chi fí tìm gặp….

II.Thực trang thị trường tài chính Việt Nam
1.Đánh giá tổng quan về thị trường tài chính Việt Nam
Trong những năm qua, cùng với q trình cải cách kinh tế, TTTC Việt Nam đã có

những bước phát triển nhất định.
Trước hết, các thị trường cấu thành cơ bản của TTTC đã được hình thành và từng
bước hồn thiện. Nhiều loại hình định chế trung gian tài chính được thành lập. Đặc
biệt, thị trường chứng khốn đã được thiết lập và có những đóng góp ban đầu
trong việc huy động các nguồn vốn dài hạn cho nền kinh tế.
Thứ hai, trong hơn 5 năm lại đây, hệ thống ngân hàng đã được cơ cấu lại nhằm
giảm thiểu những yếu kém của hệ thống và những sai lệch trong chính sách tín
dụng. Chương trình cơ cấu lại tập trung vào việc lành mạnh hoá và tăng cường
năng lực tài chính của hệ thống ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng thương mại
(NHTM) Nhà nước. Hoạt động tín dụng đã được đổi mới theo hướng các tổ chức
tín dụng có quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong quyết định cho vay, lựa chọn
khách hàng và biện pháp đảm bảo tiền vay trên nguyên tắc thương mại, đảm bảo
an toàn và hiệu quả.
Thứ ba, các nguyên tắc quản lý tài chính tiên tiến và chuẩn mực quốc tế về tính
minh bạch, kế tốn, kiểm tốn, giám sát... đã và đang từng bước được thể chế hoá
và ứng dụng rộng rãi hơn trong thực tế. Các thể chế về quản trị doanh nghiệp (kể
cả ngân hàng) cũng được hoàn thiện một bước, nhất là đối với các công ty niêm
yết trên thị trường chứng khốn.
Cuối cùng, song khơng kém phần quan trọng, khung pháp luật của TTTC đang
ngày càng phù hợp hơn với các chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Chính sách tín
dụng ngày càng đối xử bình đẳng hơn đối với các doanh nghiệp tư nhân và có


vốnđầu tư nước ngồi. Các định chế tài chính nước ngoài ngày càng được phép
mở rộng phạm vi, lĩnh vực hoạt động kinh doanh của mình.
2.Thị trường tài chính Việt Nam trước khi gia nhập WTO
A, Thị trường tín dụng:
Mẫu hình TTTC Việt Nam cơ bản là dựa vào ngân hàng hay do ngân hàng chi
phối (bank-based or bank dominated financial market), trong khi thị trường tín
dụng lại chứa đựng khơng ít vấn đề như:

- Mức độ tích tụ và phân khúc thị trường còn cao. Các NHTM nhà nước hiện
chiếm gần 80% thị phần huy động tiền gửi và tín dụng của tồn hệ thống ngân
hàng. Nhóm khách hàng truyền thống của các NHTM Nhà nước là các doanh
nghiệp Nhà nước (DNNN) Các ngân hàng thương mại cổ phần chủ yếu tập trung
vào đối tượng các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tỷ trong tín dụng dành cho khu vực
DNNN đã giảm từ 70% vào đầu thập niên 1990 xuống 57% năm 1996, 45% năm
2000 và 34% năm 2004. Tín dụng theo ngành cũng phản ánh sự phân khúc thị
trường tín dụng, nhất là đối với các NHTM Nhà nước
.- Rủi ro tín dụng, nhất là vấn đề nợ xấu vẫn còn hiện hữu. Tỷ lệ nợ quá hạn so
với tổng dư nợ của hệ thống NHTM được công bố đã giảm từ 13% năm 2000
xuống còn 3,4% năm 2005. Tuy nhiên, nếu dựa trên cách phân loại quốc tế về nợ,
thì tỷ lệ nợ xấu của hệ thống NHTM có thể lớn gấp nhiều lần con số cơng bố. Hơn
nữa, nguy cơ tiếp tục phát sinh nợ quá hạn là khá cao do nhiều dự án đầu tư chưa
được kiểm định chặt chẽ về tính hiệu quả và khả thi, trong khi quá trình cải cách
các DNNN lớn mới chỉ thực sự được triển khai từ năm 2005.
- Vấn đề “sai lệch kép” cũng đáng lo ngại. Với tỷ trọng nguồn vốn huy động
không kỳ hạn và ngắn hạn vẫn chiếm khoảng 75%, nguy cơ sai lệch về cơ cấu thời
hạn trong bảng cân đối tài sản của hệ thống NHTM là tương đối lớn. Nguy cơ này
có thể tăng trong bối cảnh các NHTM có thể sử dụng tới 25-30% tổng huy động
vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn. Sai lệch về cơ cấu đồng tiền tuy có
giảm trong hai ba năm lại đây, song mức độ vẫn còn khá lớn và lại rất nhạy cảm
với biến động tỷ giá, lãi suất, nhất là trong mơi trường đơ la hóa cao.
- Rủi ro tín dụng có thể tăng cịn do thu nhập của các NHTM chủ yếu dựa trên
nguồn thu từ chênh lệch lãi suất huy động và lãi suất cho vay, mặc dù nhiều loại
hình dịch vụ ngân hàng đã có bước phát triển trong 3-4 năm lại đây. Hơn nữa, áp
lực cho vay theo chỉ định của Chính phủ trên thực tế và vấn đề “rủi ro đạo đức”
vẫn tồn tại. Phần lớn các khoản vay lại được thế chấp bằng bất động sản, trong khi
thị trường bất động sản biến động mạnh. Các khoản vay được thế chấp chứng
khốn tuy có tỷ trọng chưa lớn song cũng đáng lo ngại khi năng lực của các nhà
đầu tư cá nhân còn thấp và thị trường chứng khoán (TTCK) vẫn tiềm ẩn nhiều yếu

tố gây biến động lớn về giá cả.


Trong khi đó, năng lực giám sát, quản trị ngân hàng cịn nhiều hạn chế. Cơng tác
giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu. Quá trình giám sát từ xa còn bất cập trong
việc tổng hợp, thu thập và xử lý thông tin, đặc biệt trong bối cảnh các chuẩn mực
về kế toán, kiểm toán chưa được áp dụng thật rộng rãi, nhất qn. Cơng tác giám
sát tín dụng cũng chưa bao quát hết toàn bộ các định chế tài chính có liên quan đến
hoạt động tín dụng do thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý Nhà
nước và do mơ hình quản lý hệ thống tài chính hiện tại về thực chất là quản lý theo
định chế tài chính. Các quy định quản lý theo tiêu chuẩn quốc tế như quản lý rủi
ro, quản trị tài sản có, tài sản nợ, kiểm tốn nội bộ,…mới được áp dụng, nên chưa
thật sự có hiệu lực và hiệu quả. Nhìn chung, trình độ quản trị nội tại ngân hàng
chưa đáp ứng tốt các chuẩn mực quốc tế như CAMEL và BASEL.
B, Thị trường tiền tệ- Thị trường ngoại hối
Năm 2005, Diễn biến lãi suất luôn gắn với diễn biến của thị trường tiền tệ,
thị trường hàng hóa. Với thị trường tiền tệ, ảnh hưởng mạnh nhất đến lãi suất
VNĐ là khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) liên tục công bố tăng lãi suất cơ bản.
Với thị trường hàng hóa, do ảnh hưởng của việc tăng giá người dân phải chi tiêu
tiền nhiều hơn là gửi ngân hàng.
Lãi suất huy động kỳ hạn 3 tháng từ 0,63%-0,65%/tháng, kỳ hạn 6 tháng từ
0,65%-0,67%/tháng, kỳ hạn 12 tháng từ 0,68%-0,72%/tháng, so với đầu năm lãi
suất huy động tăng từ 0,01%-0,02%/tháng (0,12%-0,24%/năm).
Lãi suất cho vay hiện nay các tổ chức tín dụng (TCTD) đang áp dụng từ
0,78%-1,2%/tháng tùy theo thời hạn vay, khách hàng và đối tượng vay, so với đầu
năm đã tăng từ 0,11%-0,28%/năm. Dù tăng nhưng đây là diễn biến phù hợp với
tình hình biến động của giá cả hàng hóa trên thị trường.
Với ngoại tệ, ngồi sự tác động bởi quan hệ cung cầu về vốn, lãi suất ngoại
tệ chịu sự chi phối và tác động mạnh từ lãi suất thị trường thế giới. Sự thay đổi lãi
suất của FED trong 5 tháng đầu năm 2005 đã làm thay đổi lãi suất huy động tiền

gửi ngoại tệ trong nước cũng như lãi suất cho vay bằng ngoại tệ. So với đầu năm,
lãi suất ngoại tệ tăng khoảng 0,04% -0,2%/tháng, trong đó tăng cao nhất là tiền gửi
kỳ hạn 3 tháng.
Đối với người dân, gửi tiết kiệm bằng VNĐ vẫn có lợi hơn. Mức lãi suất
cho vay của các ngân hàng thương mại đã đồng loạt tăng lên và lãi suất trái phiếu
chính phủ, tín phiếu kho bạc cũng tăng, cho thấy, mặt bằng lãi suất mới đã hình
thành, phù hợp với sự mất giá của đồng tiền cũng như chỉ số giá cả 5 tháng đầu
năm đã tăng 4,8%.


NHNN Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2005 đã cho tăng lãi suất cơ bản
từ 0,625% lên mức 0,65%, là mức lãi suất phù hợp với diễn biến thị trường hàng
hóa, thị trường tiền tệ

Thời gian này, Việt Nam đang tiếp tục mở cửa nền kinh tế theo xu hướng
hội nhập, thực hiện các cam kết của Hiệp định thương mại Việt - Mỹ, AFTA, cam
kết gia nhập WTO, nên thị trường trong nước diễn biến theo sát thị trường quốc
tế. Thị trường hàng hóa ở nước ta cũng như trên thế giới, tập trung là giá các loại
vật tư quan trọng, nguyên nhiên liệu chủ yếu... liên tục tăng giá cao. Ngược lại thị
trường ngoại hối, thể hiện ở giá vàng và tỷ giá USD tăng rất thấp, thậm chí cịn
giảm xuống.
C, Thị trường chứng khốn:
Thị trường chứng khoán Việt Nam được thành lập vào tháng 7/2000 và hiện nay
đã có 26 cơng ty niêm yết với tổng số vốn huy động được là 236 triệu USD và 207
loại trái phiếu chính phủ với tổng giá trị là 1,5 tỷ USD. Theo thống kê, trong năm
2004, tổng giá trị giao dịch tại thị trường chứng khoán là 1,3 tỷ USD, tăng 6,6 lần
so với năm 2003.
Trong năm 2006, thị trường chứng khốn (TTCK) Việt Nam đã có bước phát triển
vượt bậc cả về khuôn khổ pháp luật, hàng hố cũng như hệ thống các tổ chức tài
chính trung gian. Hoạt động giao dịch trên TTCK trở nên rất sôi động và đã thu

hút được một khối lượng vốn khá lớn thơng qua hoạt động đấu thầu trái phiếu
Chính phủ, đấu giá cổ phần lần đầu của các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) cổ
phần hố. Nhìn tổng thể, TTCK Việt Nam đã thể hiện rõ vai trị tích cực của
mình đối với nền kinh tế, thể hiện qua một số điểm sau:
1. Luật Chứng khoán được Quốc hội Việt Nam thơng qua vào tháng 6/2006, có
hiệu lực thi hành từ 01/01/2007 đã có nhiều qui định theo hướng phù hợp với
thơng lệ quốc tế, theo đúng lộ trình cam kết, đàm phán gia nhập WTO: mở rộng
phạm vi điều chỉnh về chào bán chứng khốn ra cơng chúng; quản lý giám sát
thông qua cơ chế công bố thông tin của các cơng ty đại chúng, bảo vệ lợi ích nhà
đầu tư; cho phép doanh nghiệp Việt Nam niêm yết tại các sàn giao dịch chứng
khốn (SGDCK) nước ngồi; tăng cường tự quản cho các thị trường giao dịch
chứng khoán (TTGDCK), SGDCK theo hướng là những tổ chức hoạt động độc
lập, tự chủ tài chính và chịu sự quản lý giám sát bằng công cụ pháp luật từ Ủy ban
Chứng khốn Nhà nước (UBCKNN); cho phép mở chi nhánh cơng ty chứng
khốn nước ngồi và thành lập cơng ty chứng khốn 100% vốn nước ngồi tại
Việt Nam; thành lập cơng ty đầu tư chứng khoán (quỹ đầu tư chứng khoán dạng
pháp nhân đầy đủ) tại Việt Nam....


2. Qui mơ TTCK có tổ chức ngày càng mở rộng. Đến 15/12/2006, thị trường đã
có 65 cơng ty niêm yết và 28 công ty đăng ký giao dịch tại các TTGDCK với tổng
giá trị vốn hoá thị trường cổ phiếu đạt 164.000 tỷ đồng, chiếm 19,6 % GDP (tăng
hơn 16 lần so với cuối năm 2005, vượt xa kế hoạch mục tiêu trong Chiến lược
phát triển TTCK đến 2010 là 10-15% GDP). Có gần 400 loại trái phiếu Chính phủ,
trái phiếu đô thị và trái phiếu ngân hàng niêm yết với tổng giá trị trên 70.000 tỷ
đồng, bằng 8,5% GDP. Chỉ số VN Index đã tăng khoảng 165% so với thời điểm
đầu năm và đạt 809,86 điểm vào phiên giao dịch ngày 20/12/2006.
Các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia TTCK ngày càng đơng đảo. Tính
đến tháng 12/2006, số tài khoản giao dịch của các nhà đầu tư là 95.000 (tăng hơn
3 lần so với cuối năm 2005 và trên 30 lần so với năm đầu tiên mở thị trường); nhà

đầu tư nước ngồi có khoảng 1.700 tài khoản và hiện đang nắm giữ khoảng 2530% số lượng cổ phiếu của các công ty niêm yết, trong đó có một số tên tuổi của
các nhà đầu tư chứng khoán quốc tế như JP Morgan, Merryll Lynch, Citigroup...
3. TTCK bước đầu khẳng định vị trí của mình như một kênh dẫn vốn dài hạn
cho nền kinh tế. Ngày càng có thêm nhiều doanh nghiệp huy động vốn thành cơng
qua TTCK, chỉ tính riêng 11 tháng năm 2006 đã có trên 27 doanh nghiệp niêm yết,
huy động và tăng vốn qua TTCK với tổng giá trị cổ phần và trái phiếu trên 1.300
tỷ đồng (Thí dụ như Ree, khi cổ phần hoá vốn điều lệ là 16 tỷ đồng và khi niêm
yết năm 2000 vốn là 150 tỷ đồng, đến nay đã đạt mức vốn chủ sở hữu là 512 tỷ
đồng; Sacom khi niêm yết có vốn điều lệ là 120 tỷ đồng đến nay vốn chủ sở hữu
đã tăng lên 625 tỷ đồng; Agrifish khi niêm yết có vốn điều lệ là 40 tỷ đồng nay
vốn chủ sở hữu đã tăng lên 117 tỷ đồng) . Nhìn chung, các cơng ty niêm yết đều
có mức tăng trưởng khá cả về doanh thu và lợi nhuận, trình độ quản lý, trình độ
quản trị cơng ty được nâng cao, tính cơng khai, minh bạch ngày càng được tăng
cường, do đó càng thuận lợi trong huy động vốn.
Các công ty cổ phần cũng gia tăng xu hướng phát hành cổ phiếu ra công chúng
để huy động vốn - điều trước đây chưa hề có. Trong năm 2006, đã có 17 cơng ty
cổ phần đăng ký với UBCKNN phát hành 250 tỷ đồng vốn cổ phần.
Ngoài ra, việc phát hành trái phiếu của các Ngân hàng, Tổng công ty cũng gia
tăng. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) và Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Việt Nam (BIDV) đã phát hành 3.350 tỷ đồng và đã được đưa vào niêm
yết trên TTCK. Sau khi Chính phủ ban hành Nghị định 52/2006/NĐ-CP về phát
hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ, Tổng công ty điện lực Việt Nam (EVN) đã
phát hành 2.600 tỷ đồng; Cơng ty chứng khốn Sài gịn đã phát hành 500 tỷ đồng
trái phiếu chuyển đổi...
Về công tác đấu giá cổ phần hố thơng qua chào bán cổ phần lần đầu trên
TTCK, thực hiện Nghị định 187/2004/NĐ-CP về cổ phần hóa DNNN thông qua


đấu giá cổ phần hóa trên TTCK, tính đến hết tháng 11/2006, các TTGDCK đã tổ
chức được 177 phiên đấu giá với tổng vốn điều lệ của các doanh nghiệp tham gia

đấu giá là 26.391 tỷ đồng; tổng số cổ phiếu chào bán là hơn 768 triệu cổ phiếu;
tổng số cổ phiếu bán được là hơn 645 triệu cổ phiếu, đạt khoảng 84% so với tổng
số lượng chào bán với tổng giá trị thu được là hơn 12.880 tỷ đồng.
4. Hệ thống các tổ chức trung gian được hình thành, phát triển và tích luỹ được
những kinh nghiệm bước đầu trong hoạt động trên TTCK. Đã có 21 cơng ty chứng
khoán (CTCK) với tổng số vốn điều lệ gần 2.255 tỷ đồng (bình qn mỗi cơng ty
khoảng 100 tỷ đồng), hoạt động trong các nghiệp vụ môi giới, tự doanh, bảo lãnh
phát hành, quản lý danh mục đầu tư và tư vấn. Nhìn chung, các CTCK phát triển
tốt, nhiều CTCK đã đạt mức tăng trưởng gấp 2-3 lần và đã nâng quy mơ vốn lên
rất nhanh và hiện có 2 CTCK đã trở thành công ty đại chúng niêm yết trên
TTGDCK. Ngồi ra, cũng đã có 8 cơng ty quản lý quỹ và 6 quỹ đầu tư chứng
khoán được cấp phép hoạt động; có 6 ngân hàng được cấp phép hoạt động ngân
hàng lưu ký (2 ngân hàng trong nước và 4 ngân hàng nước ngồi); 8 cơng ty kiểm
tốn độc lập được chấp thuận kiểm tốn cho các cơng ty tham gia TTCK; BIDV
được lựa chọn là ngân hàng chỉ định thanh toán.
Về cơ sở vật chất, kỹ thuật và ứng dụng công nghệ tin học vào hoạt động giao
dịch. Hiện tại, ngoại trừ một số CTCK trực thuộc hệ thống các ngân hàng thương
mại có đầu tư trang bị hệ thống cơng nghệ tồn ngành, nên đã có hệ thống giao
dịch, công bố thông tin tương đối tốt, đáp ứng được yêu cầu tra cứu thông tin và
giao dịch qua mạng điện tử, số CTCK cịn lại có hệ thống công nghệ tương đối
thấp, chỉ đáp ứng nhu cầu đầu tư hiện tại, nếu thị trường tăng trưởng nhanh về quy
mơ và chất lượng thì sẽ khó đáp ứng nổi (ví dụ TTGDCK tăng thêm số lần khớp
lệnh hoặc chuyển qua giao dịch khớp lệnh liên tục). Ngoài ra, mạng lưới kinh
doanh của các CTCK mới chỉ tập trung ở các thành phố lớn, chứ chưa rộng khắp
trong toàn quốc.
5. Hệ thống thể chế TTCK từng bước hoàn thiện và phát triển:
- TTGDCK Thành phố Hồ Chí Minh đưa vào hoạt động từ tháng 7/2000 đang
từng bước được nâng cấp, mở rộng, đáp ứng yêu cầu giao dịch cổ phiếu niêm yết
của các công ty lớn.
- TTGDCK Hà Nội hoạt động từ tháng 3/2005 đã đóng góp tích cực vào hoạt

động đấu giá cổ phần hoá và giao dịch chứng khoán các doanh nghiệp chưa niêm
yết.
- Trung tâm Lưu ký Chứng khoán (TTLKCK) bắt đầu đi vào hoạt động từ
tháng 5/2006 trên cơ sở tiếp nhận nhiệm vụ đăng ký, lưu ký và bù trừ thanh toán
chứng khoán từ các TTGDCK. Đến nay, TTLKCK đã có 23 tổ chức tham gia hoạt


động lưu ký chứng khốn, trong đó có 20 tổ chức lưu ký, 2 tổ chức tài chính và Sở
giao dịch Ngân hàng Nhà nước đăng ký mở tài khoản trực tiếp. TTLKCK đã nhận
lưu ký cho trên 400 triệu cổ phiếu của các công ty cổ phần, hơn 550 triệu trái
phiếu và gần 50 triệu chứng chỉ quỹ. Hoạt động lưu ký thơng suốt, ổn định đảm
bảo thanh tốn kịp thời chính xác các giao dịch chứng khốn.
Năm 2006 là năm TTCK Việt Nam phát triển bùng nổ về khối lượng giao dịch,
số lượng nhà đầu tư cũng như số lượng các công ty niêm yết, đăng ký giao dịch và
các tổ chức trung gian (cơng ty chứng khốn, quỹ đầu tư). Song bên cạnh đó,
TTCK Việt Nam vẫn cịn tồn tại một số hạn chế sau:
- Quy mơ TTCK của Việt Nam vẫn còn nhỏ so với các nước (mức bình quân
của các quốc gia trong khu vực khoảng 30-40% GDP). Nhìn chung, ngoại trừ một
số cơng ty lớn, lĩnh vực kinh doanh tương đối ổn định, có mức tăng trưởng đều
qua các năm (khoảng trên 10 công ty), cịn lại phần lớn các cơng ty niêm yết vẫn
chưa phải là những công ty lớn nhất trong nền kinh tế và chưa đại diện tiêu biểu
cho các ngành kinh tế đóng góp tỷ trọng lớn vào GDP của Việt Nam. Chính vì
vậy, chỉ số giá cổ phiếu VN-Index tăng, giảm thất thường và chưa trở thành phong
vũ biểu của nền kinh tế. TTCK trong thời gian qua vẫn chưa đảm bảo sự tăng
trưởng bền vững.
- Hệ thống các tổ chức trung gian và hỗ trợ thị trường còn nhiều hạn chế về
năng lực tài chính. Mặc dù các CTCK đã phát hành thêm cổ phiếu, trái phiếu để
tăng quy mô vốn hoạt động hoặc tăng vốn điều lệ từ các chủ sở hữu vốn (đối với
CTCK trực thuộc các ngân hàng thương mại) nhưng nhìn chung, mức vốn điều lệ
vẫn rất thấp so với các nước trong khu vực, điều này làm ảnh hưởng đến khả năng

tham gia thị trường của các cơng ty trong vai trị tạo lập thị trường, hoặc hạn chế
năng lực khi thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành.
- Số lượng tài khoản đầu tư gia tăng nhanh, nhưng phần lớn tập trung vào tài
khoản cá nhân, mua bán cổ phiếu ngắn hạn và bị chi phối rất lớn từ các nhà đầu tư
lớn trên thị trường, do thiếu kỹ năng phân tích đầu tư. Một số loại hình tổ chức
như cơng ty quản lý quỹ, quỹ đầu tư đã hình thành nhưng chưa nhiều, tỷ trọng
tham gia đầu tư của các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp (ngân hàng, bảo hiểm, quỹ
đầu tư) còn hạn chế, chiếm khoảng 20% thị phần. Một số nhà đầu tư lớn nước
ngoài mở tài khoản giao dịch nhưng chưa tham gia vào đầu tư (JP Morgan,
Merryll Lynch…), các quỹ đầu tư nước ngoài tham gia thị trường trong nước
thông qua các tài khoản uỷ thác cá nhân và đầu tư tập trung vào cổ phiếu của các
doanh nghiệp cổ phần hóa, chưa tham gia đầu tư nhiều trên các TTGDCK.
- Công tác quản lý, giám sát các hoạt động và tuân thủ pháp luật trên TTCK
bước đầu đã đi vào nền nếp, nhưng nhìn chung vẫn còn nhiều bất cập. Đặc biệt,
trước những diễn biến mới của thị trường, địi hỏi cơng tác quản lý, giám sát phải


chuyên sâu và có phương tiện giám sát hiện đại (phần mềm giám sát) chứ không
thuần tuý giám sát thông qua báo cáo hoặc nắm tình hình thơng thường.
3.Thị trường tài chính Việt Nam sau khi gia nhập WTO
A, Thị trường tín dụng
Việc gia nhập WTO có thể mang lại nhiều cơ hội phát triển cho TTTC Việt
Nam. Mở cửa thị trường làm tăng mức độ cạnh tranh và tính “sơi động” của thị
trường. Chính phủ buộc phải giảm can thiệp trực tiếp vào hoạt động của các ngân
hàng và các định chế tài chính khác, qua đó, giảm chi phí giao dịch. Nguồn vốn tín
dụng trước được “dành” cho các dự án ưu tiên sẽ phải giảm dần và chuyển sang 6
những khoản đàu tư có lợi nhuận cao hơn, góp phần nâng cao hiệu quả phân bổ
nguồn lực trong nền kinh tế
Hai gói kích cầu của Chính phủ đang được triển khai đã giúp một lượng lớn
DN có nguồn vốn rẻ để phát triển sản xuất - kinh doanh, đồng thời cũng là cơ hội

cho ngân hàng (NH) tăng trưởng tín dụng. Song theo nhận định của ơng Hồ Hữu
Hạnh, Giám đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) - Chi nhánh TP. HCM, nếu cứ
theo đuổi mục tiêu tăng trưởng, nhưng lỏng lẻo trong khâu kiểm soát rủi ro thì sẽ
rất nguy hiểm, vì nguy cơ nợ xấu ln tiềm ẩn khi tốc độ tín dụng tăng trưởng cao.
Thực tế, để chủ động kiểm soát lạm phát, năm 2009 Chính phủ đã có chỉ
đạo và NHNN đưa ra chủ trương khống chế tăng trưởng tín dụng dưới 30%, sau
đó hạ xuống 25 - 27% trước động thái đẩy mạnh vốn cho vay của các ngân hàng
hơn 2 quý đầu năm. Tuy nhiên, đến cuối tháng 9/2009 vừa qua, NHNN lại nâng
hạn mức tăng trưởng tín dụng của tồn ngành trong năm trở lại mức 30%.
Trong báo cáo của Chính phủ trước Quốc hội phiên khai mạc Kỳ họp thứ 6
sáng 20/10 vừa qua cũng có chi tiết đáng chú ý, đó là năm 2009, Chính phủ ước
tính tổng phương tiện thanh toán cả năm sẽ tăng khoảng 25%, tổng dư nợ tín dụng
tăng khoảng trên 30%. Điều này có nghĩa là tăng trưởng tín dụng năm 2009 của
ngành ngân hàng có thể sẽ tăng trên mức 30%, tức cao hơn giới hạn cho phép đưa
ra trước đó.
Báo cáo mới nhất về tình hình tiền tệ quý III được NHNN đưa ra cho thấy,
tín dụng đối với nền kinh tế ước đến cuối quý III tăng khoảng 28% so với cuối
năm 2008. Trong thời gian qua, khi lãi suất trên thị trường liên NH có dấu hiệu
tăng, NHNN đã phải điều chỉnh lượng cung tiền qua thị trường mở. Theo nhận xét
của một chuyên gia ngành NH, nếu các NH tiếp tục “tùy ý” điều chỉnh lãi suất với
mục đích thu hút tiền gửi thì thị trường tiền tệ rất dễ bị tổn thương
B, Thị trường chứng khoán:
Việc gia nhập WTO cũng tạo điều kiện tăng cả cung lẫn cầu, nhất là cầuđầu
tư chứng khoán. Những kỳ vọng về tăng trưởng kinh tế, thương mại và đầu tư có
thể kích thích cầu đầu tư trên TTCK, nhất là thị trường cổ phiếu.
Việc mở rộng tiếp cận thị trường có thể thúc đẩy phát triển các định chế
chứng khoán trung gian (thông qua cạnh tranh, nắm bắt và chuyển giao kinh


nghiệm quản lý, cơng nghệ, vốn...), thúc đẩy tính cơng khai, minh bạch và kỷ luật

thị trường, qua đó thúc đẩy tăng cầu đầu tư trên thị trường (tăng tính chuyên
nghiệp của nhà đầu tư, độ tin cậy đối với các cơng ty đại chúng/niêm yết,...) và
cung chứng khốn (thơng qua bảo lãnh phát hành).
Tính đến thời điểm 6 tháng đầu ănm 2009, tổng giá trị vốn hoá của thị
trường cổ phiếu niêm yết đã đạt trên 300 nghìn tỷ đồng, tương đương khoảng 20
tỷ USD và bằng khoảng 31% GDP. Riêng vốn hoá của thị trường trái phiếu đạt
trên 80.000 tỷ đồng, bằng 8% GDP.
Đó là những con số vượt trội, khi đến cuối năm 2006, tổng giá trị vốn hoá
thị trường cổ phiếu niêm yết chỉ khoảng 14 tỷ USD, chiếm 22,7% GDP.
Hiện tại, thị trường đã có 55 cơng ty chứng khốn hoạt động với vốn điều lệ
bình quân khoảng 90 tỷ đồng; dự kiến đến cuối năm là khoảng 100 cơng ty. Ngồi
ra cịn có 18 công ty quản lý quỹ, 61 tổ chức lưu ký.
Về số lượng nhà đầu tư tham gia, hiện có trên 200.000 tài khoản đã được
mở, trong đó có 4.400 tài khoản của nhà đầu tư nước ngoài; tăng 7 lần so với năm
2005 và 1,5 lần so với năm 2006. Có 206 tổ chức đầu tư nước ngồi đăng ký tham
gia thị trường và lượng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài ước đạt khoảng 5 tỷ USD.
C,Thị trường tiền tệ
Theo thống kê từ NHNN, đến cuối tháng 6-2009, lãi suất huy động VND bình
quân đầu vào của các NHTM 8,2%/năm, lãi suất cho vay VND bình quân khoảng
10,04%/năm (so với cuối năm 2008, lãi suất huy động tăng 1%/năm, lãi suất cho
vay giảm 3,5%/năm).

Nguồn: Báo cáo SacombankSC (tính đến 29/06/2009)
Lãi suất thị trường liên ngân hàng tương đối ổn định từ đầu năm đến nay; lãi suất
huy động USD tối đa là 1,5%/năm, cho vay là 3 – 5%/năm (giảm 2-3%/năm so với
cuối năm 2008); lãi suất cơ bản và tái cấp vốn của NHNN là 7%/năm. Mặt bằng
lãi suất từ tháng 4 đến nay đã trở về thời kỳ ổn định.


Nguồn: SacombankSC

Theo các chuyên gia ngân hàng, trong tháng 7-2009, NHNN công bố lãi suất cơ
bản là 7%/năm, cho thấy mục tiêu kiểm soát lãi suất thị trường tiếp tục theo hướng
ổn định.
Các căn cứ lần lượt được đưa ra là:
Thứ nhất, tình hình kinh tế vĩ mơ trong nước 6 tháng đầu năm có chuyển biến tích
cực (GDP đạt 3,9%; chỉ số giá tiêu dùng tăng 2,68%; nhập siêu 2,1 tỷ USD).
Thứ hai, hoạt động sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp và hộ sản xuất giảm
dần khó khăn và tiếp tục phát triển, theo số liệu gần đây của Phịng Thương mại và
Cơng nghiệp Việt Nam, có 91% số doanh nghiệp duy trì và ổn định sản xuất –
kinh doanh, giữ được việc làm.
Thứ ba, thị trường tiền tệ và hoạt động ngân hàng ổn định, đảm bảo an tồn, cung
– cầu vốn khơng có biến động lớn, vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng (TCTD)
đảm bảo khả năng thanh toán, lãi suất USD giảm, tỷ giá khơng có biến động lớn.
Thứ tư, theo dự báo của NHNN và các bộ, ngành, kinh tế trong nước và hoạt động
sản xuất – kinh doanh trong những tháng cuối năm 2009 có chiều hướng ổn định
và thuận lợi hơn.
Tuy nhiên, theo quan sát, từ hơn một tháng nay, nhiều ngân hàng thương mại đẩy
mạnh khuyến mại, tăng lãi suất để huy động VND, đã thu hẹp dần khoảng cách
giữa lãi suất huy động và lãi suất cho vay tối đa (10,5%/năm).
Tiền gửi VND hiện đã được hưởng mức lãi suất đỉnh, 10,2%/năm (của ngân hàng
Việt Nam Tín Nghĩa). Sự ấm lên của các kênh đầu tư khác như chứng khoán, bất
động sản, vàng, cũng buộc các ngân hàng phải điều chỉnh lãi suất huy động, đồng
thời để chuẩn bị tốt nguồn vốn cho vay trung, dài hạn, bên cạnh đó gia tăng lợi
nhuận từ cho vay tiêu dùng.
Ơng Nguyễn Ngọc Bảo – Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ NHNN cho rằng, sự
điều chỉnh lãi suất huy động chỉ xảy ra ở một vài ngân hàng, lãi suất 10%/năm
được ấn định cho kỳ hạn 2 năm trở lên. Vì vậy hiện tượng này khơng ảnh hưởng
đáng kể đến mặt bằng lãi suất thị trường.
Theo ông Bảo, lãi suất hiện nay đã trở về thời kỳ ổn định, các NHTM đã kịp thời
rút ra những bài học kinh nghiệm trong năm 2008 về quản trị, điều hành vốn kinh



doanh, đảm bảo cân đối nguồn vốn và sử dụng vốn, chấp hành các tỷ lệ an toàn
vốn kinh doanh, khơng nới lỏng các điều kiện cho vay, từ đó sẽ làm cho mặt bằng
lãi suất huy động và cho vay ít biến động.
Biến động trên thị trường ngoại hối
Trong 6 tháng đầu năm, thị trường ngoại hối có những diễn biến không thuận lợi.
Do áp lực từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, lo ngại rủi ro biến động tỷ giá,
các doanh nghiệp có tâm lý găm giữ ngoại tệ.
Mặt khác, do tác động phụ của chính sách hỗ trợ lãi suất cho vay bằng VND và
việc điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản bằng VND, nhiều doanh nghiệp không muốn
vay ngoại tệ mà chuyển sang vay VND để mua ngoại tệ dẫn đến nhu cầu mua
ngoại tệ tăng mạnh, tình hình cung cầu ngoại tệ trở nên căng thẳng.

Diễn biến USD tháng 5/2009 (nguồn: ACB)

Diễn biến USD tháng 6/2009 (nguồn: ACB)
Để tăng nguồn cung và ổn định thị trường ngoại tệ, Ngân hàng Nhà nước
đã triển khai quyết liệt nhiều giải pháp, phải kể đến việc mở rộng biên độ ấn định
tỷ giá mua bán USD/VND của các ngân hàng thương mại từ +3% lên +5% so với
tỷ giá bình quân liên ngân hàng.
Đồng thời, NHNN cũng tiến hành một loạt các biện pháp nhằm chấn chỉnh
hoạt động của thị trường ngoại hối.
Đặc biệt, nhằm hạn chế tâm lý găm giữ ngoại tệ của các doanh nghiệp và
người dân NHNN đã yêu cầu các ngân hàng thương mại nhà nước giảm lãi suất
cho vay và huy động bằng ngoại tệ (lãi suất cho vay giảm từ mức 6 – 6,5%/năm
xuống không quá 4%/năm kể từ ngày 15/4/2009 và giảm tiếp xuống mức không


quá 3%/năm kể từ ngày 01/6/2009, lãi suất huy động giảm xuống mức không quá

1,5%/năm kể từ ngày 01/6/2009).
Tuy nhiên, điều đó đã khơng tác động nhiều đến tâm lý găm giữ ngoại tệ
của người dân và doanh nghiệp. Nguyên nhân được xác định là do người dân vẫn
lo lắng về biến động tỷ giá trong thời gian tới.
Trên thị trường hiện nay vẫn tồn tại tình trạng huy động USD của các ngân
hàng rất nhiều nhưng lại thiếu USD nguồn vốn để có thể bán lại cho các doanh
nghiệp. Do đó, để đảm bảo hoạt động kinh doanh nhiều công ty vẫn phải chấp
nhận mua đồng USD ở thị trường tự do với mức giá cao hơn so với mức giá của
NHNN quy định.
4.Đánh giá thực trạng và các giải pháp khắc phục những hạn chế hiện nay
A, Thị trường tín dụng:
Báo cáo mới nhất về tình hình tiền tệ quý III được NHNN đưa ra cho thấy,
tín dụng đối với nền kinh tế ước đến cuối quý III tăng khoảng 28% so với cuối
năm 2008. Trong thời gian qua, khi lãi suất trên thị trường liên NH có dấu hiệu
tăng, NHNN đã phải điều chỉnh lượng cung tiền qua thị trường mở. Theo nhận xét
của một chuyên gia ngành NH, nếu các NH tiếp tục “tùy ý” điều chỉnh lãi suất với
mục đích thu hút tiền gửi thì thị trường tiền tệ rất dễ bị tổn thương.
Chuyên gia tài chính NH Dỗn Hữu Tuệ nói rằng, thơng thường, tăng trưởng tín
dụng với tăng trưởng huy động vốn phải tương ứng để đảm bảo sự cân đối giữa
đầu vào (huy động) và đầu ra (tín dụng). Tuy nhiên, thực tế cho thấy, gần đây tăng
trưởng huy động thấp, trong khi tăng trưởng tín dụng lại cao. Có nhiều ngun
nhân để dịng tiền lưu chuyển khơng cân đối, trong đó có sự sơi động trở lại của
thị trường chứng khốn và bất động sản
.Ông Cao Sĩ Kiêm – nguyên Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, hiện là Chủ
tịch Hiệp hội Doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam cho rằng, mức tăng tín dụng của
năm 2009 phải nâng lên trên dưới 30%.
Theo ơng Kiêm, gói kích cầu đã có kết quả, chuyển biến nhưng chưa giải
quyết hết được tất cả yêu cầu của các doanh nghiệp. Ví dụ trước đây nguồn vốn
1.000 tỷ USD (khoảng 17.000 tỷ đồng) thì mới giải quyết được 1/3 yêu cầu vốn,
mặc dù Chính phủ đã có thêm một số vốn khác nhưng khả năng đáp ứng vốn còn

rất hạn chế.
Khi đề ra giải pháp này chúng ta đã phải có những chú ý, đề phịng lạm
phát trở lại. Ví dụ như phải kiểm sốt chặt chẽ, cho vay đúng đối tượng, hiệu quả,
cho những nơi sử dụng nhiều lao động, tạo thu nhập, việc làm vay. Tất cả những
điều này tạo ra nguồn hàng cân đối lại, tạo sức mua để thu tiền về. Bên cạnh đó,
chúng ta cịn có những động tác thu tiền về bằng những biện pháp phi hàng hoá


như phát hành trái phiếu, các hoạt động huy động vốn của doanh nghiệp… Cách
điều hành như vậy đã thể hiện tốt trong 7 tháng qua. Năm nay, Quốc hội dự kiến
lạm phát ở mức dưới 2 con số, khả năng chúng ta còn thực hiện được dưới mức
này và kiểm sốt được tình hình.
Vấn đề lạm phát trở lại là có thực nhưng khơng đáng lo ngại đến mức mà
chúng ta cần có những động tác xử lý ngay mà chỉ đề phòng, ngăn ngừa. Khả năng
năm nay, lạm phát sẽ dừng ở mức trên dưới 7%.
Theo Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Giàu, dù theo kịch bản nào thì tiềm
năng tăng trưởng kinh tế 2010 cũng đạt từ 6-7%. Các kịch bản vẫn để ngỏ khả
năng duy trì tốc độ tăng của tín dụng và tổng phương tiện thanh toán năm 2009
khoảng 30%. Nếu năm 2009 tốc độ tăng tín dụng 30% thì năm 2010 sẽ giảm
xuống cịn 25-27%. Nếu tăng trưởng tín dụng 2009 từ 25-27% thì năm 2010 còn
23-25%.
Rõ ràng việc lựa chọn chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng được xác định trong
mối tương quan với lạm phát và sẽ được giảm dần trong các năm tiếp theo. Với
mức tăng trưởng tín dụng cao trong hai khả năng trên, mức lạm phát năm 2010
cũng chỉ ở mức từ 10%
B, Thị trường chứng khoán:
Theo tiến sĩ Nguyễn Trọng Nghĩa - GĐ khối phân tích-đầu tư CTCK Thăng
Long, 4 yếu tố quan trọng sẽ ảnh hưởng đến TTCKVN những tháng còn lại của
năm 2009 bao gồm: Diễn biến của TTCK thế giới, trong đó đặc biệt là TTCK Mỹ;
yếu tố nội tại của nền kinh tế Việt Nam như tăng trưởng GDP, lợi nhuận của DN

niêm yết; chính sách tiền tệ; và bản thân tiềm năng của CP trên bình diện quan hệ
giữa giá CK và lợi nhuận (P/E).
Theo nghiên cứu của CTCK Thăng Long, VN-Index hiện đang có mức độ
phụ thuộc khá lớn vào chỉ số S&P 500 của Mỹ (chỉ số quan trọng nhất thể hiện
diễn biến giá CP của 500 đại Cty của Mỹ) vào khoảng 72%. Điều đó có nghĩa là
nếu chỉ số S&P 500 tăng điểm thì có 72% khả năng VN-Index cũng tăng điểm
theo. Khi mối quan hệ này ngày càng chặt chẽ thì NĐT càng có xu hướng theo dõi
các sự kiện ảnh hưởng đến thị trường quốc tế.
Hai nguyên nhân dẫn đến thực trạng này là độ mở lớn của nền kinh tế Việt
Nam với thế giới, thể hiện ở giá trị kim ngạch xuất khẩu chiếm tới 70% GDP và
dòng vốn nước ngoài (cả trực tiếp và gián tiếp) chảy vào Việt Nam. TTCK Mỹ
những tháng gần đây mặc dù có điều chỉnh, nhưng vẫn trong xu hướng tăng. Liên
tiếp các báo cáo, điều tra xã hội học lẫn các phát ngơn của những chun gia có uy
tín đều nhìn nhận tình hình dần sáng sủa hơn và nền kinh tế Mỹ đang trong giai
đoạn phục hồi. Điều đó sẽ ảnh hưởng rất tích cực tới thị trường Việt Nam.


Đối với nền kinh tế trong nước, mức độ tăng trưởng tính đến quý II và số
liệu mới nhất tính đến tháng 8.2009 cho thấy dấu hiệu tăng tốc về cuối năm càng
rõ nét. Theo đánh giá của tiến sĩ Võ Trí Thành - Phó Viện trưởng Viện Quản lý
kinh tế T.Ư - tốc độ tăng trưởng trên 5% là khả thi và bội chi ngân sách ở mức
dưới 7%.
Từ góc độ DN, ơng Nghĩa cho rằng lợi nhuận của DN niêm yết 6 tháng
đầu năm tăng trưởng tốt, bất chấp suy thoái. Cụ thể, thống kê cho thấy tổng lợi
nhuận quý I/2009 của các DN niêm yết vào khoảng 5.371 tỉ đồng thì tổng lợi
nhuận quý II đã là 9.360 tỉ đồng, tương đương mức tăng trưởng 74,3%. Với diễn
biến vĩ mô không thể xấu hơn nếu không muốn nói là tốt hơn về cuối năm, lợi
nhuận của DN sẽ có xu hướng cịn tăng nữa, với tốc độ khoảng 20-30% trong hai
quý tới.
C, Thị trường tiền tệ:

Theo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), tuần qua, nhóm ngân hàng
thương mại (NHTM) nhà nước tăng lãi suất huy động VND ở kỳ hạn trên 12 tháng
là 0,1 - 0,2%/năm; lãi suất USD tăng 0,2 - 0,5%/năm; nhóm NHTM cổ phần tăng
lãi suất VND 0,1 - 0,3%/năm; USD: 0,1 - 0,2%/năm. Nhìn chung, mức lãi suất
huy động VND cao nhất trên thị trường đã vượt lên 10%/năm. Nhận định tình hình
này, ơng Nguyễn Đình Tùng, Phó tổng giám đốc Ngân hàng Hàng Hải (Maritime
Bank) nói rằng, từ trung tuần tháng 8 đến nay, một loạt NHTM vẫn tăng lãi suất
huy động vốn.
Bởi vậy, các NH khác không thể đứng yên trước xu hướng tăng lãi suất của
NH khác, nếu không muốn mất khách hàng, đã góp phần tạo nên vịng xoáy tăng
lãi suất. Các chỉ tiêu kinh doanh khả quan trong hai quý trước cũng giúp các NH
mạnh tay hơn trong những quyết định tăng lãi suất huy động. Còn theo bà Dương
Thu Hương, Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (VNBA), thị trường
chứng khoán và thị trường trái phiếu chưa phát triển, nên gánh nặng về nguồn vốn
trung và dài hạn chủ yếu dồn lên vai các NHTM. Có tới 80% tổng số dư tiền gửi
tại các NH là tiền gửi có kỳ hạn ngắn, dưới 6 tháng. Bởi vậy, áp lực trong cân đối
nguồn vốn các kỳ hạn buộc các NH phải tăng lãi suất.
Khi lãi suất huy động tăng cao thì lãi suất cho vay cũng tăng lên tương ứng.
Hiện lãi suất cho vay VND phục vụ nhu cầu đời sống và cho vay thông qua thẻ tín
dụng ở mức 12 - 16%/năm. Lãi suất cho vay USD tăng từ 0,5 - 1%/năm và đang
phổ biến ở mức 3,5 - 7,5%/năm, tăng hơn 1% so với đầu năm.
Về gói kích cầu thơng qua hỗ trợ lãi suất 4%, báo cáo của NHNN cho thấy
cơ cấu dư nợ cho vay hỗ trợ lãi suất của NHTM và Cty tài chính đến đầu tháng
8.2009 là 92,1% cho vay ngắn hạn, 7,77% là cho vay trung -dài hạn. Dư nợ cho
vay của các DN ngoài nhà nước chiếm 66,95%; DN nhà nước chiếm 15,64%; hợp


tác xã và hộ giađìnhchiếm17,41%.
Theo đánh giá của NHNN, việc hỗ trợ lãi suất đã giúp mặt bằng lãi suất thị
trường tương đối ổn định, hệ thống NHTM không hạ lãi suất cho vay và không

tăng lãi suất huy động. Trong 7 tháng đầu năm, nguồn vốn để cho vay hỗ trợ lãi
suất hoàn toàn do các NHTM huy động từ nền kinh tế để cho vay, NHNN không
bơm thêm tiền phát hành ra lưu thông, bằng chứng là quy mô và tốc độ huy động
vốn của các NHTM tương ứng với vốn tín dụng.
Theo Thống đốc Nguyễn Văn Giàu, cơ chế hỗ trợ lãi suất được Chính phủ
quy định thực hiện trong năm 2009 và công bố công khai từ khi triển khai cơ chế.
DN sẽ không bị "sốc" về mặt thời điểm chấm dứt cơ chế. Tuy nhiên, với mức hỗ
trợ 4%/năm là khá lớn, làm giảm chi phí tiền vay hơn 30%, xét về mặt tâm lý và
hạch tốn giá thành sản phẩm thì cần có bước đi giảm dần về đối tượng, lãi suất để
ổn định tâm lý.
Để tối đa hố những lợi ích cũng như giảm thiểu những tác động tiêu cực
của việc gia nhập WTO đối với TTTC, Việt Nam cần thực hiện nhiều giải pháp
đồng bộ, có tính bổ sung và hỗ trợ lẫn nhau. Việc thực hiện nghiêm túc các
cam
kết WTO là tiền đề quan trọng đảm bảo sự vận hành của TTTC trên cơ sở các
quan hệ thật sự thị trường. Điều này có liên quan chặt chẽ đến việc thực hiện
các nguyên tắc cơ bản là giảm thiểu sự can thiệp hành chính của nhà nước,
tăng cường cạnh tranh và đảm bảo giá cả phản ánh đúng quan hệ cung cầu
trên thị trường (nhất là đối với tỷ giá) Vấn đề cốt lõi đối với sự phát triển TTTC
là bảo đảm thực hiện các nguyên tắc/chuẩn mực tiên tiến về minh bạch hố
thơng tin, kế tốn, kiểm tốn,giám sát và quản trị.



×