Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Vận dụng mô hình AMO đánh giá hành vi gian lận nghĩa vụ bảo hiểm xã hội – nghiên cứu trường hợp tại tỉnh Đồng Tháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (341.93 KB, 6 trang )

TẠP CHÍ KINH TẾ - CƠNG NGHIỆP

Số 25 – Tháng 11/2020

VẬN DỤNG MƠ HÌNH AMO ĐÁNH GIÁ HÀNH VI GIAN LẬN
NGHĨA VỤ BẢO HIỂM XÃ HỘI – NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP TẠI
TỈNH ĐỒNG THÁP
Applying the Amo model for assessing the fraudulent behavior of Social
Insurance obligations - case study in Dong Thap province
Huỳnh Văn Minh1
1

Học viên Cao học Trường Đại học Kinh tế Cơng nghiệp Long An


Tóm tắt — Nghiên cứu được thực hiện nhằm xác định các nhân tố tác động tới hành vi gian lận nghĩa
vụ Bảo hiểm Xã hội của người sử dụng lao động tại tỉnh Đồng Tháp. Mẫu nghiên cứu là 250 cán bộ phụ
trách Bảo hiểm Xã hội tại các doanh nghiệp tại tỉnh Đồng Tháp. Qua phân tích mơ hình hồi quy bội ở
mức tin cậy 95%. Kết quả chỉ ra động lực phụ thuộc vào 3 thành phần là: (1) Khả năng thực hiện hành vi
gian lận, (2) Động cơ để thực hiện hành vi gian lận, (3) Cơ hội hành vi gian lận. Khi xem xét có sự khác
biệt về hành vi gian lận theo các yếu tố giới tính ta nhận thấy rằng có sự khác biệt giữa nam và nữ trong
đó nam có xu hướng thực hiện hành vi cao hơn nữ. Khi xem xét có sự khác biệt về hành vi gian lận theo
các yếu tố kinh nghiệm làm việc cho thấy những người có kinh nghiệm làm việc lâu năm có xu hướng
gian lận nhiều hơn. Từ kết quả nghiên cứu, tác giả đã đề xuất một số hàm ý quản trị nhằm hạn chế việc
thực hiện hành vi gian lận nghĩa vụ Bảo hiểm Xã hội tại tỉnh Đồng Tháp.
Abstract — The research paper was conducted to identify human factors affecting the fraudulent
behavior of social insurance obligations of employers in Dong Thap province. The research sample is 250
social insurance officers in enterprises in Dong Thap province. Through multiple regression model
analysis at 95% confidence level, the results show that motivation depends on 3 components: (1) The
ability to commit the fraudulent behavior, (2) The motivation to commit fraud, (3) The opportunity for
fraud. When considering the difference in cheating behavior by gender factors, it is noticed that there is


a difference between men and women in which men tend to perform higher level behaviors than women.
Considering the difference in cheating behavior according to work experience factors, it shows that people
with long-term working experience tend to cheat more. From the research results, the author has proposed
a number of administrative implications to limit the fraudulent behavior implementation of social
insurance obligations in Dong Thap province.
Từ khóa — Bảo hiểm Xã hội, gian lận, hành vi, social insurance, fraud, behavior

1. Đặt vấn đề
Quản lý thu Bảo hiểm Xã hội (BHXH) bắt buộc là nhiệm vụ quan trọng và khó khăn của
ngành BHXH. Để thu BHXH bắt buộc đạt hiệu quả cao thì địi hỏi phải có quy trình quản lý
thu chặt chẽ, hợp lý, khoa học. Với tính ý thức về pháp luật cịn thấp, do vậy khi những nhân
tố về cơ hội có được thì việc “lách luật” sẽ tạo cho họ những hành vi sai trái, do vậy mơ hình
AMO đáp ứng được vấn đề này. Xuất phát từ những vấn đề trên, việc nghiên cứu “Vận dụng
mơ hình AMO đánh giá hành vi gian lận nghĩa vụ BHXH - Nghiên cứu trường hợp tại tỉnh
Đồng Tháp” là hết sức cần thiết nhằm tìm ra giải pháp phù hợp hạn chế hành vi gian lận nghĩa
vụ BHXH tại tỉnh Đồng Tháp.
2. Cơ sở lý thuyết và mơ hình nghiên cứu
2.1. Cơ sở lý thuyết
2.1.1. Bảo hiểm Xã hội:
Theo ILO thì “Bảo hiểm Xã hội là sự bảo vệ của cộng đồng xã hội với các thành viên của
mình thơng qua sự huy động các nguồn đóng góp vào quỹ BHXH để trợ cấp trong các trường
hợp ốm đau, tai nạn, thương tật, già yếu, thất nghiệp đồng thời chăm sóc y tế và trợ cấp cho các
gia đình đơng con để ổn định đời sống của các thành viên và bảo đảm an toàn xã hội”.
52


TẠP CHÍ KINH TẾ - CƠNG NGHIỆP

Số 25 – Tháng 11/2020


Theo Điều 3 Luật BHXH số 58/2014/QH13 ngày 20/11/2014 quy định: “BHXH là sự bảo
đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu
nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động
hoặc qua đời, trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH”. BHXH bắt buộc là loại hình BHXH do Nhà
nước tổ chức mà người lao động và người sử dụng lao động phải tham gia. BHXH tự nguyện
là loại hình BHXH do Nhà nước tổ chức mà người tham gia được lựa chọn mức đóng, phương
thức đóng phù hợp với thu nhập của mình và Nhà nước có chính sách hỗ trợ tiền đóng BHXH
để người tham gia hưởng chế độ hưu trí và tử tuất.
2.1.2. Một số hình thức gian lận Bảo hiểm Xã hội:
Cán bộ cơ quan BHXH gian lận
Hình thức gian lận phổ biến là việc điều chỉnh tăng lương cho người tham gia hoặc là bổ
sung thêm các khoản thời gian mà đơn vị sử dụng lao động khơng đăng ký đóng cho người lao
động hoặc cán bộ cơ quan BHXH là việc giả mạo hồ sơ của người tham gia, bằng việc lạm
dụng các phơi bìa sổ BHXH trắng, lạm dụng quyền hạn sử dụng các chương trình nghiệp vụ do
bản thân cán bộ nghiệp vụ quản lý; Cán bộ cơ quan BHXH lợi dụng sự hiểu biết của bản thân
trong thực thi nhiệm vụ được giao để tư vấn, hướng dẫn cho đơn vị sử dụng lao động thực hiện
các hành vi gian lận hoặc lợi dụng các kẽ hở của luật nhằm mang lại lợi ích cho đơn vị.
Đơn vị sử dụng lao động gian lận
Hình thức gian lận về lĩnh vực BHXH phổ biến nhất hiện nay là tình trạng đơn vị sử dụng
lao động thỏa thuận với người lao động về việc khơng đóng BHXH khi ký kết hợp đồng lao
động. Tỷ lệ đóng BHXH hiện nay là 25%, trong đó người lao động đóng 8%, cịn lại đơn vị sử
dụng lao động là 17%, với việc khơng đóng BHXH đơn vị sử dụng lao động sẽ không phải chi
trả thêm 17% tiền lương của người lao động cũng như người lao động không bị mất đi 8%
lương. Nếu không xét đến nghĩa vụ phải thực hiện về BHXH của đơn vị sử dụng lao động cũng
như người lao động, thì đây là một thỏa thuận có lợi cho hai bên.
Người tham gia BHXH gian lận
Hình thức gian lận phổ biến nhất hiện nay là việc người lao động khai gian lận về họ tên,
năm sinh để đi làm và tham gia BHXH. Lý do là người lao động không đáp ứng các điều kiện
về tuyển dụng nhưng có nhu cầu về việc làm nên đã gian lận để được đi làm, trong đó phần lớn
là các đối tượng đi làm công nhân trong các khu công nghiệp. Điều kiện cơ bản để người lao

động có thể xin việc cơng nhân là từ 18 tuổi trở lên và phải có bằng tốt nghiệp phổ thông trung
học.
2.1.3. Lý thuyết về mô hình AMO:
Mơ hình AMO (Ability - Motivation - Opportunity) cho rằng, sự tương tác của 3 thành
phần (1) khả năng, (2) động cơ, (3) cơ hội sẽ tác động đến hiệu quả cơng việc nói chung (job
performance) theo Blumberg và Pringle [6], Waldman và Spangler [9] được trích trong Nguyễn
Đình Thọ và Nguyễn Thị Mai Trang [8].
Động cơ (Motivation): Đó chính là sự sẵn lịng (willingness) thực hiện cơng việc.
Cơ hội (Opportunity): Đó chính là điều kiện, nguồn lực (resources required) cần thiết để
thực hiện cơng việc.
Trong đó Khả năng (Ability): chính là kiến thức và kỹ năng để thực hiện cơng việc.
Vận dụng mơ hình vào nghiên cứu
Hành vi lảng tránh trách nhiệm (gian lận): Theo từ điển tiếng Việt, hành vi gian lận là
hành vi thiếu trung thực, dối trá, mánh khóe nhằm lừa gạt người khác. Theo nghĩa rộng hơn
gian lận đó chính là hành vi khơng hợp pháp nhằm trục lợi cho bản thân và gây thiệt hại cho
đối tác hay bên thứ 3. Trong trường hợp đối với người sử dụng lao động theo quy định của luật
pháp tức là sau thời gian thử việc, người lao động phải được ký hợp đồng chính thức và được
53


Số 25 – Tháng 11/2020

TẠP CHÍ KINH TẾ - CƠNG NGHIỆP

hưởng các chế độ khác như được chủ sử dụng lao động mua BHXH, BHYT, BHTN. Hành vi
lảng tránh trách nhiệm BHXH của người sử dụng lao động ở đây là khơng nộp, nộp khơng đầy
đủ hoặc trích nộp nhưng sau đó khơng nộp khi người lao động thơi việc thì người sử sụng lao
động trả lại chính số tiền của người lao động bị trích nộp trách nhiệm nộp BHXH của người sử
dụng lao động bị lảng tránh (gian lận) và thiệt hại ở đây là hoàn toàn thuộc về người lao động.
Động cơ lảng tránh trách nhiệm (gian lận): Hành vi gian lận của con người bắt nguồn từ

động cơ. Một khi con người có động cơ thực hiện họ luôn sẵn sàng thực hiện hành động khi cơ
hội đến. Tuy nhiên hành vi gian lận đó phụ thuộc vào cá tính con người. Với người khơng trung
thực, có lẽ là dễ dàng hợp lý hóa hành vi gian lận hơn những người có tiêu chuẩn đạo đức cao.
Động cơ thực hiện hành vi gian lận bị tác động bởi những yếu tố bên trong như thể hiện khả
năng của bản thân (Nguyễn Đình Thọ và Nguyễn Thị Mai Trang [8]) và lẫn bên ngoài như áp
lực về lợi ích (Donald [7]).
Cơ hội lảng tránh trách nhiệm (gian lận): Theo Donald [7] hành vi gian lận còn chịu tác
động của yếu tố cơ hội. Một khi đã có động cơ, thì đối tượng sẵn sàng hành động khi họ có cơ
hội. Nếu hành vi gian lận quá dễ dàng do khơng có biện pháp ngăn chặn, cơ hội bày ra trước
mắt họ thì khả năng dẫn đến hành vi gian lận là tất nhiên. Hành động của đối tượng chịu sự ảnh
hưởng từ sự nhận thức của mình về tình huống đó. Khi họ nhận thức được vấn đề thông qua
việc nắm bắt thông tin như: kẽ hở của pháp luật, các văn bản hướng dẫn không rõ ràng, chế tài
cho hành vi gian lận quá nhẹ không đủ răng đe thì tất nhiên sẽ thúc đẩy hành vi đó được thực
hiện.
Khả năng lảng tránh trách nhiệm (gian lận): Cũng theo Donald [7], khả năng thực hiện
hành vi hay nói cách khác sự hiểu biết về khả năng thực hiện của chính đối tượng đó sẽ là quyết
định cuối cùng cho đối tượng thực hiện hành vi. Khả năng ở đây có thể được theo nghĩa rộng
đó là khả năng che giấu hành vi, khả năng tự mình thực hiện, có thể tổ chức cho người khác
thực hiện hay dùng tiền để mua chuộc yêu cầu người khác thực hiện.
2.2. Mơ hình nghiên cứu
Hình 1. Mơ hình nghiên cứu

Nguồn: Tác giả nghiên cứu lý thuyết và đề xuất

Giả thuyết H1: Khả năng thực hiện hành vi gian lận có tác động cùng chiều với hành vi
lảng tránh trách nhiệm BHXH.
Giả thuyết H2: Cơ hội thực hiện hành vi gian lận có tác động cùng chiều với hành vi lảng
tránh trách nhiệm BHXH.
Giả thuyết H3: Động cơ thực hiện hành vi gian lận có tác động cùng chiều với hành vi lảng
tránh trách nhiệm BHXH.


54


TẠP CHÍ KINH TẾ - CƠNG NGHIỆP

Số 25 – Tháng 11/2020

3. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện thông qua 2 bước chính là nghiên cứu định tính và nghiên cứu
định lượng. Nghiên cứu định tính được tác giả thực hiện bằng phương pháp thảo luận nhóm
nhằm kiểm tra mức độ rõ ràng của từ ngữ, khả năng diễn đạt, sự trùng lắp nội dung nếu có của
các biến quan sát, từ đó điều chỉnh thang đo phù hợp. Trong nghiên cứu định lượng, tác giả thu
thập thông tin mẫu nghiên cứu bằng kỹ thuật phỏng vấn đáp viên với bảng câu hỏi soạn sẵn.
Tác giả gửi trực tiếp phiếu khảo sát bằng câu hỏi giấy đến 250 cán bộ phụ trách BHXH tại các
doanh nghiệp tại tỉnh Đồng Tháp. Để sử dụng EFA chúng ta cần kích thước mẫu lớn. Trong
EFA, kích thước mẫu thường xác định dựa vào (1) kích thước tối thiểu, (2) số lượng biến được
đưa vào phân tích. (Hair và cộng sự 2006, trích bởi Nguyễn Đình Thọ [5] trang 415) mẫu tối
thiểu là 50, tốt nhất là 100 và tỷ lệ biến quan sát (Observations)/biến đo lường (Items) là 5:1 và
tốt nhất là 10:1 trở lên. Dựa vào tổng số biến quan sát trong mơ hình là 22. Tác giả chọn mẫu
thuận tiện với kích thước là 250 > (n = 22*5 = 110) có dự phịng những bảng câu hỏi trả lời
khơng đạt yêu cầu. Kết quả khảo sát, sau khi loại bỏ các phiếu khảo sát không hợp lệ, tác giả
đưa dữ liệu vào phần mềm SPSS 20.0 để xử lý. Thang đo được đánh giá bằng phương pháp
đánh giá độ tin cậy dựa vào hệ số Cronbach’s Alpha, phân tích nhân tố khám phá EFA, phân
tích hồi quy được sử dụng để kiểm định mơ hình.
4. Kết quả nghiên cứu và hàm ý chính sách
4.1. Kết quả nghiên cứu
4.1.1. Đánh giá độ tin cậy của thang đo:
Kiểm định độ tin cậy thang đo Cronbach’s Alpha
Thang đo sẽ được phân tích hệ số tin cậy Cronbach’s Alpha, các biến có hệ số tương quan

biến tổng (Corrected Item - Total Correlation) nhỏ hơn 0,3 sẽ bị loại và thang đo được chấp
nhận để phân tích trong các bước tiếp theo khi có độ tin cậy Cronbach’s Alpha từ 0,6 trở lên.
Kiểm định Cronbach’s Alpha của các biến độc lập: Khả năng (A) có hệ số là 0,758 với 4
biến quan sát; biến Cơ hội (O) có hệ số là 0,890 với 4 biến quan sát; biến Động cơ (M) có hệ
số là 0,913 với 5 biến quan sát. Tất cả các biến quan sát đều có hệ số tương quan biến tổng đạt
yêu cầu ( >= 0,3), do đó chúng được sử dụng cho phân tích EFA tiếp theo.
Kiểm định Cronbach’s Alpha của biến phụ thuộc cho thấy độ tin cậy Cronbach’s Alpha đạt
0,840 trong ngưỡng được chấp nhận và hệ số tương quan biến tổng đều đạt yêu cầu là >= 0,3
thang đo đạt được độ tin cậy cần thiết so với ban đầu.
Phân tích nhân tố khám phá EFA
Kết quả phân tích EFA biến độc lập: Sau khi phân tích Cronbach’s Alpha các biến độc lập
với 13 biến quan sát. Phân tích nhân tố dùng để đánh giá độ hội tụ giá trị phân biệt của các biến
quan sát theo các thành phần. Với giả thuyết đặt ra trong phân tích này là giữa 13 biến quan sát
trong tổng thể khơng có mối tương quan với nhau. Kiểm định KMO và Barlett’s trong phân
tích nhân tố có kết quả Sig = 0,000 và hệ số KMO = 0,879 > 0,5 qua đó bác bỏ giả thuyết trên,
chứng tỏ phân tích nhân tố khám phá (EFA) thích hợp được sử dụng trong nghiên cứu này. Tại
mức giá trị Eigenvalue = 1,447 với phương pháp trích principal component, phép quay Varimax
cho phép trích được 3 nhân tố từ biến quan sát và phương sai trích được là 71,468% (>50%).
Như vậy là phương sai trích đạt yêu cầu.
Kết quả phân tích EFA biến phụ thuộc: Phương pháp trích nhân tố principal component,
phép quay Varimax cho phép trích được 01 nhân tố với 3 biến quan sát và phương sai trích đạt
75,884% (> 50%), giá trị Eigenvalue là 2,277 (lớn hơn 1), các hệ số tải nhân tố của các biến
quan sát đều lớn hơn 0,5.

55


TẠP CHÍ KINH TẾ - CƠNG NGHIỆP

Số 25 – Tháng 11/2020


4.1.2. Kiểm định mơ hình nghiên cứu:
Kết quả hồi quy cho thấy hành vi lảng tránh trách nhiệm BHXH của người sử dụng lao
động nói chung phụ thuộc vào 3 thành phần là (1) khả năng lảng tránh trách nhiệm BHXH, (2)
cơ hội lảng tránh trách nhiệm BHXH, (3) động cơ lảng tránh trách nhiệm BHXH. Ba giả thuyết
được thỏa mãn là H1, H2, H3, với độ tin cậy 95% và phương trình hồi quy chuẩn hóa là:
HV = 0,230*Khả năng + 0,343*Cơ hội + 0,265*Động cơ
Qua phương trình hồi quy ta nhận thấy nhân tố cơ hội (O) có hệ hồi quy cao nhất (β =
0,343). Khi dị tìm sự vi phạm của các giả định cần thiết cho thấy các giả định như: Sự phù hợp
của mơ hình (F = 60,991; Sig = 0,000); Hiện tượng tự tương quan: phần dư là độc lập không
xảy ra hiện tượng tự tương quan (Durbin-Watson = 1,838). Hiện tượng phương sai thay đổi:
chẩn đốn bằng hình ảnh ScatterPlot, khơng thấy có quan hệ nào rõ ràng giữa giá trị dự báo và
phần dư chuẩn hóa. Sai số phân phối chuẩn: ta thấy Mean = 3,73E-15 (gần bằng 0), Std.Dev =
0,993 (gần bằng 1), xem như sai số có phân phối chuẩn. Hiện tượng đa cộng tuyến: Hệ số VIF
đều nằm trong ngưỡng chấp nhận 0 < VIF < 2.
4.1.3. Kiểm định sự khác biệt về hành vi đối với giới tính và kinh nghiệm làm việc:
Phân tích T-Test khi xem xét sự khác biệt trong hành vi với các nhóm theo giới tính ta thấy
rằng khơng có sự khác biệt nào trong hành vi lảng tránh trách nhiệm BHXH với các đối tượng
là nam và nữ. Kiểm định Levene's Test cho thấy phương sai các nhóm là như nhau và khơng
có sự khác biệt giữa các nhóm, và kiểm định T-Test Cho thấy (Sig = 0,000) và độ chênh lệch
giữa nam và nữ là 0,39753 chứng tỏ hành vi lảng trách đối với nam là cao hơn nữ.
Phân tích ANOVA về sự khác biệt hành vi theo biến kinh nghiệm làm việc ta thấy kiểm
định Levene Sig = 0,606 > 0,05 cho thấy phương sai của các nhóm trong độ tuổi có phương sai
bằng nhau. Kết quả phân tích Post Hoc để tìm rõ nhóm nào khác biệt với nhóm nào bằng phân
tích Bonferroni, ta thấy nhóm có kinh nghiệm làm việc từ 10 đến dưới 15 năm có sự khác biệt
với nhóm có kinh nhiệm làm việc từ 15 năm trở lên, cịn lại là khơng có sự khác biệt nào giữa
các nhóm. Theo đó nhóm có kinh nhiệm làm việc từ 15 năm trở lên có xu hướng hành vi lảng
tránh trách nhiệm BHXH cao hơn nhóm 10 đến dưới 15 năm (Mean Difference (I-J) = 1,33333.
4.2. Hàm ý chính sách
Để hạn chế việc thực hiện hành vi gian lận BHXH, dựa vào kết quả nghiên cứu và kinh

nghiệm cơng tác trong ngành tác giả đề xuất ba nhóm giải pháp tương ứng với kết quả nghiên
cứu như sau:
Khả năng thực hiện hành vi: Để hạn chế phần nào khả năng đơn vị sử dụng lao động có
thể gian lận trong lĩnh vực BHXH, tác giả cho rằng cần phải nâng cao hơn nữa các mức xử phạt
khi phát hiện đơn vị có hành vi gian lận, các mức xử phạt phải cao đủ để đơn vị sử dụng lao
động phải cân đo đong đếm chi phí nộp phạt so với lợi ích do gian lận mang lại. Bên cạnh đó,
quy trình thủ tục để ban hành các quyết định xử phạt đơn vị còn rườm rà, phức tạp, cần nhiều
ý kiến, văn bản của nhiều đơn vị. Cải cách thủ tục hành chính, phân cơng trách nhiệm của từng
cơ quan quản lý Nhà nước cụ thể, rõ ràng là một giải pháp cần phải thực hiện để rút ngắn quá
trình ban hành các quyết định xử phạt khi phát hiện sai phạm nhằm hạn chế, xóa bỏ khả năng
đơn vị sử dụng lao động gian lận trong lĩnh vực BHXH.
Cơ hội thực hiện hành vi: Để hạn chế phần nào cơ hội đơn vị sử dụng lao động, cán bộ cơ
quan BHXH có thể gian lận trong lĩnh vực BHXH, tác giả cho rằng cần phải thường xuyên rà
sốt các quy trình thực hiện lĩnh vực BHXH, kịp thời phát hiện, chỉnh sửa những kẽ hở còn tồn
tại, không tạo cơ hội cho những các nhân thực hiện có thể tìm kiếm, khai thác. Đối với đơn vị
sử dụng lao động thì bên cạnh việc hồn thiện quy định, quy trình thì cần phải tăng cường cơng
tác thanh tra, kiểm tra từ phía cơ quan BHXH cũng như các cơ quan có thẩm quyền. Đối với
người lao động, đặc biệt là công nhân làm việc trong các khu cơng nghiệp với trình độ học thức
khơng cao, thì chỉ cần có cơ hội thực hiện hành vi gian lận, họ sẽ nắm bắt và thực hiện, không
56


TẠP CHÍ KINH TẾ - CƠNG NGHIỆP

Số 25 – Tháng 11/2020

cân nhắc đến các hậu quả về sau. Cơ quan BHXH cũng như các cơ quan quản lý Nhà nước
trong lĩnh vực BHXH cần phải đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền đến từng người lao
động đặc biệt là đối tượng công nhân trong các khu công nghiệp. Bằng việc tuyên truyền, phổ
biến các quy định của pháp luật, hướng dẫn cho người lao động trong việc tuân thủ quy định

của pháp luật, và hơn nữa là phổ biến các chế tài của pháp luật xử lý khi phát hiện các hành vi
gian lận của người tham gia BHXH sẽ giảm đi các cơ hội để người lao động thực hiện các hành
vi gian lận.
Động cơ thực hiện hành vi: Đơn vị sử dụng lao động phải thực hiện đúng quy trình, quy
định về tuyển dụng và sử dụng người lao động, mặt khác Nhà nước phải có các văn bản quy
định cụ thể để xử lý các hành vi gian lận này. Đối với hành vi gian lận của cán bộ cơ quan
BHXH trong việc thực hiện chức trách nhiệm vụ, giả mạo hồ sơ, điều chỉnh dữ liệu quản lý thu
thì động cơ thực hiện là rất phức tạp và khó đánh giá cũng như đưa ra giải pháp để xử lý. Đối
với hành vi lợi dụng sự hiểu biết của bản thân về quy định, quy trình, về thủ tục hồ sơ để tư vấn,
hướng dẫn nhằm mang lại lợi ích cho đơn vị sử dụng lao động là hành vi khó đánh giá và xử lý
nhất vì đây chỉ là hành vi lợi dụng các kẽ hở của pháp luật để trục lợi cho bản thân, chưa đến
mức độ sai phạm pháp luật; hành vi gian lận này cũng rất khó phát hiện trong thực tế vì hành
vi này khơng sai khi đối chiếu với các quy định của pháp luật, do đó cơ quan quản lý nhà nước
cũng như cơ quan BHXH không thực hiện rà soát, xem xét và xác định mức độ sai phạm để tìm
ra cá nhân sai phạm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bảo hiểm Xã hội tỉnh Đồng Tháp, Báo cáo Tổng kết thi hành luật Bảo hiểm xã hội giai đoạn 2016
- 2019, 2019
[2] H.Trọng và C.N.M.Ngọc, Phân tích dữ liệu với SPSS. Hà Nội: NXB Thống Kê, 2005.
[3] H.Trọng và C.N.M.Ngọc, Thống kê ứng dụng trong kinh tế xã hội. Hà Nội: NXB Thống Kê, 2008.
[4] L.T.T.Hà, (2019). “Gian lận và kiểm soát gian lận trong các doanh nghiệp Việt Nam”, Tạp chí
Khoa học và Đào tạo. Số 205, tập 54, trang 23 – 30, 2019.
[5] N.Đ.Thọ, Phương pháp nghiên cứu khoa học trong kinh doanh. TPHCM: NXB Tài Chính, 2013.
[6] M. Blumberg & G. Pringle, “The missing opportunity in organizational research: Some
implications for a theory of work performance”. Academy of Management Review, 7(4), 560–569,
1982.
[7] R.C. Donanld, (1987) The fraud triangle. AU Business. [Online]. Available: Website: http://
fraudtriangie.co.uk/.
[8] N.D.Tho & N.T.M.Trang, “Can knowledge be transferred from usiness school to business
organization throught in - service trainning students? SEM and fs QCA findings”. Journal of

Business Research, 2015.
[9] D.A.Waldman & W.D. Spangler, “Putting together the pieces: A closer look at the determinants of
job performance”. Human Performance, 2(1), 29–59, 1989.
Ngày nhận: 02/08/2020
Ngày duyệt đăng: 22/10/2020

57



×