Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Trẻ vị thành niên có hành vi lệch chuẩn tiếp cận dưới góc độ công tác xã hội (Nghiên cứu trường hợp tại trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.94 MB, 98 trang )


1
ĐạI HọC QUốC GIA Hà NộI
TRƯờNG ĐạI HọC KHOA HọC Xã HộI Và NHÂN VĂN

cao minh huệ


TR V THNH NIấN Cể HNH VI LCH CHUN
TIP CN DI GểC CễNG TC X HI




LUậN văn thạc Sỹ
Chuyờn ngnh: Cụng tỏc xó hi



Hà NộI - 2014

2
ĐạI HọC QUốC GIA Hà NộI
TRƯờNG ĐạI HọC KHOA HọC Xã HộI Và NHÂN VĂN

cao minh huệ


TR V THNH NIấN Cể HNH VI LCH CHUN
TIP CN DI GểC CễNG TC X HI


(NGHIấN CU TRNG HP TI TRNG GIO DNG S 2 NINH BèNH)
Chuyờn ngnh: Cụng tỏc xó hi
Mó s: 60 90 01 01


LUậN văn thạc Sỹ

Ngi hng dn khoa hc: PGS.TS Hong Bỏ Thnh


Hà NộI - 2014

3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xã hội cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật ngày càng mang
đến cho con người nhiều tiện nghi trong cuộc sống nhưng cũng kéo theo đó là
những mặt trái còn tồn tại nhức nhối trong mọi mặt đời sống. Chúng ta đang
phải đối mặt với những thách thức to lớn từ môi trường tự nhiên và môi
trường xã hội đặc biệt là mối quan hệ giữa người với người. Trước đây, trẻ
thường được học văn hóa, ứng xử thông qua gia đình, làng xã, văn hóa dân
gian, chương trình giáo dục chính quy… thì ngày nay, những chuyển biến xã
hội diễn ra quá nhanh chóng đã phần nào hạn chế chức năng giáo dục của gia
đình và các thiết chế truyền thống đem lại cho lứa tuổi thanh thiếu niên, đặc
biệt là các em ở tuổi vị thành niên nhiều thử thách.
Thực tế cho thấy trong những năm gần đây, tình trạng các em trong lứa
tuổi vị thành niên có hành vi lệch chuẩn như: quay cóp, vô lễ với giáo viên,
đua xe, vi phạm pháp luật, sử dụng ma túy, quan hệ tình dục sớm, bạo lực…
đang ngày càng gia tăng và ở mức báo động, gây ảnh hưởng xấu đến môi
trường học đường và nhân cách trong tương lai. Đặc biệt là tình hình người

phạm tội chưa thành niên trong những năm qua rất phức tạp, tăng cả số lượng,
tính chất và mức độ nghiêm trọng.
Ở trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình, các em chưa thành niên là những
học sinh “đặc biệt” phải nhập trường bằng hồ sơ thụ án pháp nhân, bằng
những dấu vân tay, thầy cô là những người quản giáo nghiêm khắc… Đặc
điểm nổi bật của những học sinh ở đây là nhận thức hạn chế, có hành vi lệch
chuẩn ở mức độ cao là vi phạm pháp luật, đa số các em vi phạm pháp luật
nhiều lần như: trộm cắp, quậy phá, sa vào tệ nạn xã hội, nghiện ma túy, cờ
bạc và nhiều thói quen xấu. Một số em thực hiện hành vi có dấu hiệu của tội
phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng do cố ý như: giết người, cướp
tài sản, hiếp dâm trẻ em nhưng do chưa đủ độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.

4
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến việc trẻ chưa thành niên phạm tội,
nhưng trong đó quan trọng nhất là việc giáo dục hành vi của trẻ vị thành niên
chưa được quan tâm đúng mức, cần được xã hội nói chung và ngành giáo dục
nói riêng thực sự chú trọng. Chính vì vậy, người nghiên cứu đã chọn đề tài:
“Trẻ vị thành niên có hành vi lệch chuẩn tiếp cận dưới góc độ công tác xã
hội (Nghiên cứu trường hợp tại trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình)” là đề
tài nghiên cứu của mình, góp phần là yếu tố tác động vào sự hình thành và
phát triển nhân cách toàn diện của trẻ vị thành niên.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
2.1. Nghiên cứu nước ngoài
Vấn đề trẻ em phạm tội với những đặc trưng tâm lý, nhân cách đã được
nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu.
Theo David P.Farrington (1996), tính hiếu động và tính hay bốc đồng
là những nét tính cách quan trọng nhất của trẻ giúp cho việc phán đoán khả
năng phạm tội sau này. Ông đã tiến hành điều tra tại Thụy Điển cho thấy, các
em học sinh bị giáo viên nhận xét là hiếu động ở độ tuổi 13 thì thường phạm
các tội có sử dụng bạo lực cho đến độ tuổi 26. Ngoài ra ông còn tiến hành

nghiên cứu trí tuệ của trẻ chưa thành niên phạm tội. Cuộc điều tra ở Thụy
Điển cho thấy, trẻ được kiểm tra nếu thiểu năng trí tuệ lúc 3 tuổi thì sẽ có
nguy cơ phạm tội cao cho tới độ tuổi 30. Nghiên cứu ở Cambridge cho thấy
trẻ có điểm IQ nhỏ hơn 90 trong độ tuổi từ 8-10 tuổi có tỷ lệ phạm tội cao gấp
đôi các em khác. Như vậy, theo kết quả nghiên cứu của ông tại Thụy Điển
việc trẻ hiếu động ở tuổi 13 và khả năng nhận thức kém của trẻ cũng là một
trong những yếu tố dẫn đến việc trẻ có hành vi lệch chuẩn ở mức độ cao là
làm trái pháp luật trong tương lai.
Dựa trên kết quả nghiên cứu của mình, nhà tâm lý học tội phạm người
Nga A.I Đongova đã đưa ra nhận định rằng, những người chưa thành niên
phạm tội thường có tính phô trương, khoe khoang, thể hiện phẩm chất tiêu
cực thiếu lành mạnh của mình, làm ra vẻ anh hùng rơm… Chúng thường thỏa

5
hiệp với những nét tính cách của mình như: Sống không có lý tưởng, hoài
bão, dễ chịu ảnh hưởng tiêu cực từ những người khác, thiếu tính điềm đạm,
bình tĩnh mà chỉ quen ăn chơi, đàng điếm, lười biếng, nghiện. [24] Đặc biệt ở
giai đoạn này trẻ thay đổi mối quan hệ gia đình và xã hội, giành nhiều thời
gian hơn cho bạn bè. Thời kỳ này, trẻ rất sợ bị bỏ rơi, tẩy chay, loại khỏi
nhóm bạn, và đặc biệt hơn, trẻ mong muốn được vào nhóm để thể hiện tính
cách và đóng góp vào lợi ích chung của nhóm.
Theo các nhà tâm lý Nga [22], ở người chưa thành niên phạm tội cũng
như những người chưa thành niên bình thường thì các quan điểm pháp luật ,
nhận thức pháp luật không được hình thành hoặc bị lệch lạc. Điều này tạo khả
năng phát sinh hành vi không phù hợp với các qui định của pháp luật.
Môi trường xã hội có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình hình thành và
phát triển nhân cách của người chưa thành niên nói chung và người chưa
thành niên có hành vi phạm tội nói riêng. Qua các nghiên cứu cho thấy có
nhiều nguyên nhân dẫn người chưa thành niên đến việc thực hiện những hành
vi phạm tội. Đó là nguyên nhân từ phía gia đình và nhóm bạn bè vẫn được

xem là hai yếu tố có ảnh hưởng lớn đối với hành vi phạm tội của người chưa
thành niên. Tiêu biểu cho quan điểm này phải kể đến các tác giả như V.M
Koromosikov, Margot Prior (2000), Rutter Giller (1983) và Sarnecki (1985).
2.2. Nghiên cứu trong nước
Tác giả Phạm Minh Đức (1981) đã tiến hành nghiên cứu 265 học sinh
có hành vi lệch chuẩn ở độ tuổi từ 10-17, học tại hai trường phổ thông công -
nông nghiệp. Theo tác giả các em học sinh phạm pháp nói chung phát triển
bình thường về mặt trí tuệ nhưng do động cơ học tập bị suy thoái, nhu cầu
nhận thức thấp, nhu cầu tầm thường khác cao nên dẫn đến hành vi phạm tội
của các em.
Tác giả Nguyễn Xuân Thủy (1993) đã khẳng định rằng [30], người
chưa thành niên phạm tội về cơ bản cũng có những đặc điểm tâm lý như
những trẻ em bình thường khác cùng lứa tuổi. Song, do tiếp xúc thường

6
xuyên với những điều kiện tiêu cực và trong quá trình phạm tội mà nhân cách
của các em bị giảm sút nghiêm trọng
Theo tác giả Trần Trọng Thủy [31], ở phần lớn các thiếu niên phạm
pháp, phẩm chất tiêu cực chiếm ưu thế trong cấu trúc nhân cách, đó là: thiếu
quyết tâm, vô trách nhiệm, hay bắt chước một cách mù quáng, thô lỗ, gây gổ.
Trong quá trình nghiên cứu của mình, tác giả Nguyễn Duy Xi là một nhà
tâm lý học làm công tác quản lý trại giam của Bộ Công An đã đưa ra một số
nhận xét cơ bản về đặc điểm tâm lý của trẻ em làm trái pháp luật như sau [19]:
- Về trí tuệ, ở trẻ làm trái pháp luật có sự phát triển chậm, tư duy trừu
tượng kém hơn trẻ bình thường, không biết phân tích đánh giá đúng một số
hiện tượng mà nặng về tư duy cụ thể thực dụng và rất khéo léo “mưu trí”
trong thực hiện hành vi trái pháp luật như kỹ xảo ăn cắp, móc túi, che dấu, đối
phó với sự theo dõi phát hiện của nhà chức trách”
- Về hứng thú, ham muốn của các em thường nặng về vật chất tầm
thường, thấp hèn, thậm chí kỳ quặc. Các em không còn hứng thú học tập, hiểu

biết như trẻ bình thường, thích đua đòi, ăn chơi như người lớn (có 82%
nghiện thuốc lá, 70% uống bia rượu, 72% nghiện cafe, chè.
- Về tình cảm, thiếu bền vững, thay đổi dễ dàng, nhanh chóng, nhưng
lại mạnh mẽ. Tình cảm có tính rung động cao, dễ bị kích động, bồng bột, sôi
nổi là đặc trưng cơ bản của tình cảm ở trẻ em làm trái pháp luật.
- Về tính cách, nét tính cách đặc trưng là các em muốn vươn lên làm
người lớn, muốn hoạt động để thử sức và có xu hướng bắt chước cái xấu của
người lớn. Có tính độc lập và tự trọng cao, nên nếu bị chửi rủa, đánh mắng,
xúc phạm thì các em thường có phản ứng quyết liệt, chống trả lại hoặc nảy
sinh tiêu cực bỏ nhà đi lang thang, tỏ ra bất cần đời.
Nghiên cứu của tác giả Phạm Minh Hạc [9], đi sâu tìm hiểu nguyên
nhân dẫn đến hành vi phạm pháp ở người chưa thành niên. Kết quả nghiên
cứu đã chỉ ra: giao tiếp nhóm (có quan hệ trong nhóm bạn bè) có thể là
nguyên nhân khá cơ bản và rất trực tiếp đưa đứa trẻ tới hành vi phạm pháp,

7
với những trẻ này, giao tiếp nhóm không hướng trẻ vào hoạt động học tập mà
hướng trẻ vào hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất.
Theo tất cả những nghiên cứu cho tới nay thì mối quan hệ với bạn đồng
lứa dẫn đến hành vi lệch chuẩn của trẻ vị thành niên là rất lớn. Trẻ rất dễ bắt
chước, học nhau những hành vi xấu và coi đó là trò vui, tiêu khiển. Bên cạnh
đó, khi trẻ vị thành niên bị bạn bè từ chối mối quan hệ, coi thường… thì dễ
sinh ra cảm giác cô độc, ghẻ lạnh hoặc có thể liên quan đến sức khỏe tâm thần
và những vấn đề phạm pháp. Một số nhà nghiên cứu mô tả văn hóa bạn đồng
lứa của trẻ vị thành niên là ảnh hưởng đồi bại, làm giảm giá trị tác động và sự
kiểm soát của cha mẹ. Tệ hơn, nó có thể lôi kéo trẻ vị thành niên vào rượu
chè, ma túy, phạm pháp và những hành vi lệch lạc khác.
Ngoài ra, còn nguyên nhân từ phía gia đình. Theo số liệu thống kê của
Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao [37] cho thấy 71% trẻ vị thành niên phạm
pháp là do không được quan tâm chăm sóc đến nơi đến chốn. Một nghiên cứu

mới đây của Bộ Công an cũng chỉ ra nguyên nhân phạm tội của trẻ vị thành
niên xuất phát từ gia đình: 8% trẻ phạm tội có bố mẹ ly hôn, 28% phàn nàn bố
mẹ không đáp ứng nhu cầu cơ bản của các em, 49% phàn nàn về cách đối xử
của bố mẹ.
Các kết quả thống kê đã chỉ ra rằng, đa số các trường hợp làm trái pháp
luật ở trẻ em đều rơi vào khoảng độ tuổi từ 14 đến dưới 18 tuổi, một số ít
trường hợp rơi vào lứa tuổi từ 13 tuổi trở xuống. Vì vậy, tìm hiểu về tâm lý
trẻ em làm trái pháp luật, ngoài việc nghiên cứu tâm lý trẻ vị thành niên nói
chung, chúng ta sẽ tập trung nghiên cứu và lý giải các hiện tượng tâm lý ở lứa
tuổi 14 đến dưới 18 là lứa tuổi tập trung nhiều nhất các hành vi làm trái pháp
luật ở trẻ em.
Theo tác giả Trần Thị Minh Đức [6, Tr.31,32] người chưa thành niên
có hành vi vi phạm pháp luật thường thuộc nhóm trẻ em chưa ngoan. Các đặc
điểm tâm lý nổi trội là:
- Lệch lạc trong nhận thức về hành vi vi phạm: Đó là những sai lệch về

8
tư duy, kiểu suy nghĩ ủng hộ cho hành vi vi phạm xã hội hay chống đối xã hội
của trẻ (các hành vi này thường thể hiện qua cơ chế biện minh, hợp lý hóa).
Các lệch lạc trong suy nghĩ ăn sâu, bám rễ trong nhận thức và được lặp đi lặp
lại trong hành vi trở thành thói quen hành động của trẻ. Các lệch lạc trong
nhận thức thường thể hiện ở các mức độ sau:
+ Nói giảm nhẹ hành vi vi phạm của mình để người nghe chấp nhận
được: “Cháu chỉ lấy mỗi một cái bánh thôi”, “Vì cháu đói”, “Chúng cháu
chỉ giả vờ chơi vợ chồng thôi”, “Cháu chỉ đánh nó mấy cái”
+ Chối bỏ trách nhiệm về hành vi của mình: “Không phải là lỗi của
cháu”, “Cháu không biết”, “Nó bảo cháu làm thế thì cháu làm, còn bán được
bao nhiêu thì cháu không biết”
+ Niềm tin về sở hữu, khi cho rằng mình có quyền đối với tài sản của
người khác: “Cháu chỉ mượn đi tạm thôi”, “Nếu cháu không được thì họ

cũng đừng hòng được hưởng”, “Của cháu, họ đã hứa cho cháu mà”
+ Cho rằng mình có quyền gây tổn thương cho người khác: “Cháu có
quyền làm như vậy”, “Đáng lẽ cháu còn cho ăn đòn nặng hơn”
+ Đổ lỗi cho nạn nhân: “Nó bắt đầu trước chứ”, “Ai bảo họ có tiền mà
không biết giữ”, “Ai bảo nó mách lẻo”
- Đặc điểm tính cách xấu nổi trội ở trẻ vi phạm pháp luật
+ Không vâng lời, bướng bỉnh, có xu hướng chống đối các biện pháp
giáo dục
+ Vô kỷ luật, dối trá, xấc xược, hung tính, dễ manh động
+ Lười biếng, thiếu quyết tâm, thiếu trách nhiệm đối với bản thân và
người khác
+ A dua, bắt chước
+ Thất vọng ở bản thân
+ Xu hướng xung đột nội tâm, mâu thuẫn trong hành vi
+ Thiếu kiềm chế, xúc cảm thất thường (sự tức giận, lo hãi, vênh váo
kiểu “anh hùng rơm”

9
Khi vị thành niên bị người thân bỏ rơi, thiếu nâng đỡ tinh thần hoặc bị
bạo lực, chửi rủa, xỉ vả và xúc phạm liên tục, hoặc trẻ bị sống trong lo sợ,
căng thẳng trẻ dễ bị tổn thương tâm lý. Đôi khi để giải tỏa trạng thái tâm lý
tiêu cực trong gia đình trẻ có những phản ứng chống trả quyết liệt, bỏ học, bỏ
nhà đi lang thang, sử dụng các chất kích thích, gây ra những hành vi rối loạn
xã hội, như gây hấn với người khác, phá hoại tài sản, trộm cắp, thậm chí tự
hủy hoại bản thân (tự làm đau mình, tự sát)
Hành vi lệch chuẩn cũng là một hiện tượng tâm lý của con người và
đằng sau đó là những nhu cầu được lắng nghe, được thấu hiểu và giúp đỡ của
trẻ vị thành niên. Qua những nghiên cứu của các tác giả về trẻ vị thành niên
có hành vi lệch chuẩn cho thấy được vị thế và vai trò của gia đình và xã hội
trong việc giáo dục nhận thức và hành vi của thế hệ trẻ. Điều này đã gợi mở

cho tôi hướng đến việc nghiên cứu thực trạng và nguyên nhân dẫn đến trẻ vị
thành niên có hành vi lệch chuẩn và hướng đến những giải pháp giúp cha mẹ
và giáo viên tiếp cận gần hơn với các em để hiểu và giảm thiểu những hành vi
lệch chuẩn đó.
3. Ý nghĩa nghiên cứu
Nhìn chung các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước đều khẳng
định môi trường gia đình không thuận lợi và nhóm bạn bè tiêu cực có ảnh
hưởng rất lớn tới hành vi phạm tội của người chưa thành niên. Tuy nhiên
những nghiên cứu về thực trạng, nguyên nhân dẫn tới hành vi lệch chuẩn của
trẻ vị thành niên, tâm lý và nhu cầu của các em trong trường giáo dưỡng số 2
còn chưa nhiều. Vì vậy việc tiếp tục nghiên cứu về vấn đề này là rất cần thiết
và có ý nghĩa cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn.
3.1. Về mặt lý luận: Luận văn góp phần làm phong phú thêm cơ sở lý
luận về trẻ vị thành niên có hành vi lệch chuẩn. Đặc biệt, luận văn nghiên cứu
sâu vào cơ sở giáo dưỡng số 2 Ninh Bình, củng cố thêm những kiến thức về
cơ sở và trẻ vị thành niên đang theo học tại cơ sở đó.
3.2. Về mặt thực tiễn:

10
- Luận văn góp phần làm rõ thêm cơ sở lý luận về nhu cầu của trẻ vị
thành niên và thực trạng, nguyên nhân dẫn đến hành vi lệch chuẩn của trẻ vị
thành niên, vai trò người Nhân viên công tác xã hội đối với trẻ vị thành niên
có hành vi lệch chuẩn.
- Luận văn cũng góp phần bổ sung nguồn học liệu, làm tài liệu tham
khảo cho sinh viên ngành công tác xã hội về những vấn đề có liên quan đến
trẻ vị thành niên nói chung và trẻ có hành vi lệch chuẩn nói riêng:
+ Là nguồn học liệu cho học phần Công tác xã hội với trẻ em
+ Tài liệu tham khảo với các trường giáo dưỡng.
4. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu: Trẻ vị thành niên có hành vi lệch chuẩn

dưới góc độ công tác xã hội.
4.2. Khách thể nghiên cứu
- Trẻ vị thành niên độ tuổi từ 12 – dưới 18 tuổi thực hiện hành vi lệch
chuẩn tại trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình
- Cán bộ, giáo viên đang trực tiếp tham gia quản lý, giảng dạy tại
trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình
5. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Nội dung: Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu hành vi lệch chuẩn của trẻ
vị thành niên ở các khía cạnh:
+ Thực trạng hành vi lệch chuẩn của trẻ vị thành niên ở trường giáo
dưỡng số 2 Ninh Bình, đó là hành vi làm trái pháp luật, như: trộm cắp, cướp
tài sản, cố ý gây thương tích, gây rối, giết người, hiếp dâm…
+ Nguyên nhân hình thành hành vi lệch chuẩn của trẻ vị thành niên, ở
mức độ làm trái pháp luật tại trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình
+ Nhu cầu của trẻ vị thành niên tại trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình
Trên cơ sở đó đưa ra các góp ý giúp cho quản giáo có thể dễ dàng tiếp
cận và định hướng hành vi của trẻ vị thành niên.

11
- Phạm vi không gian: Trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình, xã Mai
Sơn, Huyện Yên Mô, Tỉnh Ninh Bình.
- Phạm vi thời gian: Tháng 1/2010 – Tháng 07/2013
6. Câu hỏi nghiên cứu
- Thực trạng hành vi lệch chuẩn của trẻ vị thành niên tại trường giáo
dưỡng số 2 Ninh Bình như thế nào?
- Tại sao trẻ vị thành niên lại có hành vi lệch chuẩn như vậy?
- Nhu cầu của trẻ vị thành niên có hành vi lệch chuẩn tại trường giáo
dưỡng số 2 Ninh Bình như thế nào?
- Vai trò của Công tác xã hội trong việc trợ giúp trẻ có hành vi lệch
chuẩn tại trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình được thể hiện như thế nào?

7. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
7.1 Mục đích nghiên cứu: Mô tả thực trạng, chỉ ra các nguyên nhân
dẫn đến trẻ vị thành niên có hành vi lệch chuẩn và nhu cầu của trẻ có hành vi
lệch chuẩn tại trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình. Trên cơ sở đó, đưa ra một
số gợi ý nhằm giúp quản giáo có thể dễ dàng tiếp cận trẻ và định hướng hành
vi tích cực cho trẻ trong cuộc sống.
7.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
7.2.1 Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về: nhu cầu, đặc điểm tâm sinh
lý của trẻ vị thành niên, hành vi, đặc điểm hành vi của trẻ vị thành niên…
7.2.2 Khảo sát thực trạng: Thông qua điều tra bằng bảng hỏi, phỏng
vấn sâu, mô tả hình thức lệch chuẩn để đưa ra thực trạng và nguyên nhân dẫn
đến hành vi làm trái pháp luật của trẻ vị thành niên tại trường giáo dưỡng số 2
Ninh Bình.
7.2.3 Đưa ra kết luận và khuyến nghị: Từ kết quả nghiên cứu, đưa ra
những khuyến nghị và giải pháp đối với nhân viên công tác xã hội làm việc
với trẻ vị thành niên có hành vi lệch chuẩn tại trường giáo dưỡng và tại địa
phương nơi trẻ cư trú.


12
8. Giả thuyết nghiên cứu
- Nhóm trẻ vị thành niên trộm cắp, cướp tài sản, cố ý gây thương tích,
gây rối, giết người, hiếp dâm … thường có những biểu hiện tiêu cực, quản
giáo rất khó khăn trong tiếp cận và trợ giúp trẻ.
- Trình độ học vấn, hoàn cảnh gia đình, ảnh hưởng của bạn bè xấu và
đặc trưng tâm lý lứa tuổi là nguyên nhân và yếu tố tạo nên sự khác biệt về
hành vi lệch chuẩn của trẻ vị thành niên.
9. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phối hợp các nhóm phương pháp nghiên cứu sau:
9.1 Phương pháp phân tích tài liệu: sử dụng phương pháp phân tích, so

sánh, tổng hợp tài liệu, luật pháp, chính sách… liên quan đến đề tài nghiên cứu.
9.2 Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: nhằm tìm hiểu thực trạng và
nguyên nhân dẫn đến hành vi lệch chuẩn của trẻ vị thành niên tại trường giáo
dưỡng số 2 Ninh Bình. Đề tài sử dụng hai phương pháp sau:
9.2.1 Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Đề tài nghiên cứu sử dụng một
bảng hỏi, được thu trên một nhóm khách thể. Bảng hỏi điều tra 100 trẻ vị thành
niên đang học tại trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình nhằm tìm hiểu nhu cầu của
trẻ, thực trạng và nguyên nhân dẫn đến hành vi lệch chuẩn của trẻ vị thành niên.
9.2.2 Phương pháp phỏng vấn sâu: sử dụng phương pháp phỏng vấn
với 5 trẻ vị thành niên đang học tại trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình và 5
cán bộ, giáo viên, nhằm tìm hiểu sâu hơn về nhu cầu, thực trạng và nguyên
nhân dẫn đến hành vi lệch chuẩn của các em.
9.3 Phương pháp xử lý số liệu: sử dụng thống kê toán học bằng phần
mềm SPSS for Windows 11.5.
10. Mô tả mẫu nghiên cứu
- Tổng số: 100 học sinh Nam: 93 học sinh Nữ: 7 học sinh
- Trình độ học vấn: Đa số các em có trình độ học vấn thấp, hầu hết đã bỏ
học trước khi vào trường, nhận thức hạn chế (nhất là về pháp luật). Các em chủ
yếu không thích học, lười học và coi việc học rất chán ghét và áp lực. Cụ thể:

13
+ Không đi học: 12 em, chiếm 12%
+ Trình độ học vấn cấp 1: 21 em, chiếm 21%
+ Trình độ học vấn cấp 2: 52 em, chiếm 52%
+ Trình độ học vấn cấp 3: 15 em, chiếm 15%
- Nhóm tuổi: Các em đều ở trong độ tuổi từ 12 – dưới 18 tuổi. Cụ thể:
+ Từ 12 đến dưới 14 tuổi: 21 em, chiếm 21%
+ Từ 14 đến dưới 16 tuổi: 63 em, chiếm 63%
+ Từ 16 đến dưới 18 tuổi: 16 em, chiếm 16%
- Hoàn cảnh gia đình:

+ Còn cha mẹ và hiện đang chung sống: 75 em, chiếm 75%
+ Cha mẹ ly hôn hoặc bỏ đi: 19 em, chiếm 19%
+ Cha mẹ đi tù hoặc cai nghiện: 3 em, chiếm 3%
+ Mồ côi: 3 em, chiếm 3%
- Hình thức phạm tội: Tính chất, mức độ, hành vi vi phạm pháp luật của
các học sinh trong mẫu nghiên cứu rất đa dạng, cụ thể:
+ Không trả lời: 6 em, chiếm 6%
+ Gây rối trật tự công cộng: 8 em, chiếm 8%
+ Cướp tài sản: 2 em, chiếm 2%
+ Cưỡng đoạt tài sản: 2 em, chiếm 2%
+ Cố ý gây thương tích: 11 em, chiếm 11%
+ Liên quan đến ma túy: 2 em, chiếm 2%
+ Trộm cắp tài sản: 42 em, chiếm 42%
+ Hình thức khác: 27 em, chiếm 27%
- Số lần vào trường giáo dưỡng: 77 em, chiếm 77% lần đầu vào trường;
23 em, chiếm 23% vào trường lần thứ hai.
- Thuận lợi và khó khăn khi nghiên cứu:
+ Thuận lợi: Ban giám hiệu và cán bộ, giáo viên rất tạo điều kiện để tác
giả thu thập thông tin qua bảng hỏi và phỏng vấn sâu. Các em học sinh được
hỏi nhìn chung có tinh thần hợp tác trong quá trình nghiên cứu.

14
+ Khó khăn: Do đặc thù là trường giáo dưỡng nên việc tiếp xúc với mẫu
nghiên cứu còn nhiều hạn chế, cần phải có sự giám sát của cán bộ nhà trường.
Ngoài ra, khi trả lời trong bảng hỏi, nhiều em còn chưa trả lời hoặc trả lời chưa
rõ khiến việc thu thập thông tin và xử lý dữ liệu còn gặp nhiều khó khăn.



























15
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.1. Một số lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu
1.1.1. Thuyết nhận thức – hành vi
Các cách thức con người hành động đều xuất phát từ sự hiểu biết và
nhận thức của họ. Nếu sự nhận thức dựa trên các quan điểm hay niềm tin phi
lý nó thường gây ra các hỗn loạn cảm xúc và các ứng xử không thích ứng. Có

thể diễn giải quan điểm của tiếp cận nhận thức – hành vi như sau: Suy nghĩ,
cảm xúc và hành vi liên quan mật thiết với nhau. Suy nghĩ, nhận thức quyết
định sự biểu hiện của cảm xúc và hành vi. Những rối loạn cảm xúc có thể
xuất hiện do những suy nghĩ lệch lạc, tiêu cực. Nếu thay đổi những suy nghĩ
lệch lạc, tiêu cực sẽ giúp cá nhân cải thiện những rối loạn cảm xúc và đặc biệt
sẽ dẫn đến thay đổi về hành vi. Nhận thức là yếu tố quyết định chủ yếu việc
cá nhân có cảm xúc và hành động như thế nào. Các rối loạn hành vi có nguồn
gốc trong quá khứ vẫn có ảnh hưởng đến các cá nhân qua hệ thống niềm tin
phi lí của họ. Ví dụ, một cô gái luôn bị cha mẹ chê trách, bỏ rơi, cô tin rằng
“Mình là đồ kém cỏi”, “Mình là đồ bỏ đi”. Điều này làm cô gái chán nản
muốn bỏ nhà ra đi bụi đời, đập phá, tấn công người khác hay tự sát. Các hành
vi vi phạm này ở một khía cạnh nào đó có thể là những minh chứng tiêu cực
rằng “tôi không phải là đồ kém cỏi”, “hãy coi chừng”. Với trẻ chưa thành niên
vi phạm pháp luật, những ý nghĩ và niềm tin lệch lạc có thể là [6, Tr.31,32]:
- Để tránh bị người khác lừa thì tốt nhất ta nên lừa họ
- Hành vi phạm tội là chấp nhận được
- Để sống được ở trên đời cần phải biết bon chen
- Chỉ có những đứa ngốc nghếch mới bị người khác bắt nạt
- Bản chất của con người là ác
- Không thể tin vào người khác được
- Thà tiêu diệt nó còn hơn để nó tiêu diệt mình
Những niềm tin phi lý trên đã gây nên những ứng xử lệch lạc, thậm chí
dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật. Một trong những mục tiêu của Công tác

16
xã hội với trẻ vị thành niên vi phạm pháp luật là giúp các em đối diện với các
nhìn tiêu cực về cuộc sống và xây dựng một quan điểm sống tích cực và có lý
trí. Để giúp trẻ vi phạm pháp luật thay đổi nhận thức, nhà tham vấn phải thiết
lập một mối quan hệ nống ấm, không phê phán; thu thập bằng chứng hoặc đặt
một loạt câu hỏi để phát hiện những suy luận vô lý trong nhận thức của trẻ;

giúp các em đặt mình vào vị trí của người khác, nhìn nhận sự việc từ quan
điểm của người khác để có cái nhìn hợp lý hơn về cuộc sống, sự hưởng thụ,
trách nhiệm, từ đó giúp các em tìm ra các giải pháp thay thế tích cực đối với
hành vi vi phạm của mình.
1.1.2. Thuyết nhu cầu con người
Abraham Maslow (1908 - 1970) nhà tâm lý học đại diện cho trường
phái Tâm lý học Nhân văn, với lý thuyết phân bậc nhu cầu, đã nhìn nhận nhu
cầu của con người theo hình thái phân cấp, sắp xếp theo thứ tự tăng dần từ
nhu cầu cấp thấp đến nhu cầu cấp cao nhất. A. Maslow nhận định rằng khi
nhu cầu được thoả mãn thì nó không còn là động lực thúc đẩy. Và những
nhu cầu cơ bản của con người được ông xác định theo cấp tăng dần và thể
hiện trong các mức độ sau:
+ Mức thứ nhất (Nhu cầu cơ bản): Các nhu cầu sinh lý, là nhu cầu cơ
bản để duy trì bản thân cuộc sống của con người, như: Nhu cầu về thức ăn,
nước uống, nhà ở, thoả mãn tình dục
+ Mức thứ hai (Nhu cầu được an toàn): Các nhu cầu an ninh, an toàn, là
nhu cầu tránh sự nguy hiểm về thân thể, sự đe doạ mất việc làm, mất tài sản.
+ Mức thứ ba (Nhu cầu về xã hội): Là nhu cầu giao lưu với người khác
và được người khác thừa nhận.
+ Mức thứ tư (Nhu cầu được tôn trọng): Là xu thế muốn được độc lập
và muốn được người khác tôn trọng của con người khi được chấp nhận là
mục tiêu nào đó.
+ Mức thứ năm (Nhu cầu được thể hiện mình): Là nhu cầu được khẳng
định mình, thể hiện năng lực để đạt được thành quả và phát triển trong xã hội.

17
Mỗi cá nhân trong quá trình tồn tại và phát triển của mình đều trải qua
các mức độ phát triển nhu cầu khác nhau, đi từ thấp tới cao. Sự không đáp
ứng của một thang nhu cầu nào cũng có ảnh hưởng đến sự mất cân bằng
trong quá trình phát triển và hoàn thiện nhân cách của cá nhân. Đó cũng là

nguyên nhân gây ra những khó khăn tâm lý, những rối loạn hành vi. Ví dụ
nếu trẻ vị thành niên sinh ra trong một gia đình nghèo, nhu cầu cơ bản về thể
chất, thức ăn, nước uống không được đáp ứng và thiếu sự chăm sóc tinh
thần, ở trẻ có thể nảy sinh những hành vi vi phạm chuẩn mực như gây hấn,
trộm cắp. Cũng như vậy, trẻ em không thể tồn tại thiếu các mối quan hệ từ
gia đình, bạn bè, trường học Các cảm giác không được yêu thương, không
được chấp nhận, không được tôn trọng có thể là nguồn gốc của các hành vi
lệch lạc xã hội [6, Tr.27,28].
Như vậy hành vi phạm pháp của trẻ em có thể được xem xét, lý giải từ
sự thiếu đáp ứng của người lớn về thể chất và tinh thần cho sự tồn tại và phát
triển của trẻ. Thực tế về học sinh vi phạm pháp luật ở các trường giáo dưỡng
cho thấy: đa số các em sống trong gia đình có khó khăn về kinh tế, gia đình
thiếu hụt sự chăm sóc về thể chất, tinh thần do bị cha mẹ bỏ rơi, có cha mẹ ly
hôn, ly thân, cha mẹ mất, cha mẹ đi tù hoặc phạm pháp. Khi các nhu cầu cơ
bản của trẻ em không được đáp ứng sẽ có thể sinh ra những rối loạn hành vi ở
các em, trong đó có những hành vi vi phạm pháp luật
1.1.3. Thuyết học tập xã hội
Thuyết học tập xã hội nhấn mạnh rằng hành động của cá nhân là kết
quả của sự bắt chước và quan sát xã hội. Tiếp cận hành vi từ góc độ tập nhiễm
xã hội cho thấy rằng hành vi gây hấn, hành vi tội phạm hình thành là do tiếp
thu các mẫu ứng xử sai lệch trong xã hội [6, Tr.33].
Cá nhân trong xã hội có thể tiếp thu các hành vi vi phạm chuẩn mực
không chỉ bằng việc từng trải qua và chịu hậu quả mà nó gây ra, mà còn bằng
việc quan sát người khác. Cũng như với hầu hết các hành vi xã hội, cá nhân
lĩnh hội được nhiều điều về hành vi sai lệch thông qua việc xem người khác

18
hành động và lưu ý đến hậu quả của những hành động đó. Nếu đứa trẻ sống
trong môi trường nghèo khó và thiếu giáo dục thì việc quan sát người khác
trộm cắp, cướp giật để có tiền tiêu một cách thoải mái, hoặc a dua theo chúng

bạn đánh nhau để chứng tỏ bản thân, để giải tỏa bức xúc là điều khó tránh
khỏi. Tuy nhiên, biểu hiện hành vi đặc biệt là hành vi vi phạm pháp luật ở mỗi
cá nhân là không giống nhau, chúng phụ thuộc và nền văn hóa nơi họ đang
sống, các kinh nghiệm đã có từ trước và mức độ học hỏi của cá nhân.
Nếu bố mẹ, thầy cô giáo tỏ ra hung hãn thì trẻ sẽ mau chóng bắt chước
và thấy hành vi đó là bình thường. Thuyết học tập xã hội cũng được sử dụng
để điều chỉnh hành vi. Ví dụ, việc quan sát hành vi mẫu mực của các thầy cô
trong các trường giáo dưỡng cũng ít nhiều giúp trẻ vi phạm pháp luật điều
chỉnh hành vi lệch lạc của mình. Vì vậy trẻ em cần tập nhiễm, nuôi dưỡng
những mẫu ứng xử tốt đẹp trong xã hội.
Thuyết học tập xã hội cũng giải thích về các hiện tượng lây lan tâm lý từ
cá nhân này sang cá nhân khác trong nhóm khi hành vi của cá nhân nào đó được
sủng ái, được nhiều cá nhân hưởng ứng. Hiện tượng này thường xuất hiện ở các
băng, nhóm trẻ em vi phạm pháp luật, trong đó các “đại ca”, “đại bàng” có hành
vi phạm pháp được xem như mẫu ứng xử cho một số cá nhân khác làm theo.
Các nhà tâm lý học theo thuyết học tập xã hội khẳng định phim ảnh,
game bạo lực có một tầm quan trọng trong việc hình thành và củng cố các
hành vi phạm tội ở trẻ em do đồng nhất mình với các nhân vật trong phim.
Tham vấn cho trẻ em vi phạm pháp luật đòi hỏi nhà tham vấn phân tích
hành vi của các em xem liệu hành vi này có nguyên nhân từ việc a dua, bắt
chước, bị lôi kéo từ nhóm bạn xấu, từ môi trường sống không thuận lợi và các
em là nạn nhân hay chủ mưu để có phương thức tác động thích hợp.
1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài nghiên cứu
1.2.1. Khái niệm công tác xã hội
Công tác xã hội là một nghề trợ giúp, một ngành khoa học ứng dụng
mới được phát triển tại Việt Nam. Hoạt động nghề nghiệp này có đối tượng

19
tác động, có quy định cụ thể về nhiệm vụ, chức năng, nơi làm việc và dựa trên
nền tảng hệ thống lý thuyết khoa học và kỹ năng nghề nghiệp. Công tác xã

hội được hiểu và định nghĩa khác nhau tùy vào từng giai đoạn lịch sử, từng
nền văn hóa và trình độ phát triển công tác xã hội.
Theo Từ điển CTXH (1995): Đó là một khoa học xã hội ứng dụng
nhằm giúp con người thực hiện chức năng tâm lý xã hội một cách có hiệu
quả và tạo ra những thay đổi trong xã hội để đem lại an sinh cao nhất cho
con người.
Hiệp hội CTXH quốc tế và các trường đào tạo CTXH quốc tế (2011)
định nghĩa lại về CTXH như sau: Công tác xã hội là nghề nghiệp tham gia
vào giải quyết vấn đề liên quan tới mối quan hệ của con người và thúc đẩy sự
thay đổi xã hội, tăng cường sự trao quyền và giải phóng quyền lực nhằm nâng
cao chất lượng sống của con người. CTXH sử dụng các học thuyết về hành vi
con người và lý luận về hệ thống xã hội vào can thiệp sự tương tác của con
người với môi trường sống.
Như vậy, CTXH là một ngành khoa học ứng dụng được sử dụng để
giúp cá nhân, nhóm, cộng đồng tăng cường khả năng thực hiện các chức năng
xã hội để tự giải quyết vấn đề của mình.
1.2.2. Khái niệm trẻ vị thành niên và sự biến đổi tâm sinh lý của trẻ vị
thành niên
1.2.2.1. Khái niệm trẻ vị thành niên
Công ước Quyền trẻ em của Liên hợp quốc đưa ra định nghĩa về trẻ em
như sau: “Trẻ em là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với
trẻ em có quy định tuổi thành niên sớm hơn” [26, điều 1].
Bên cạnh đó, định nghĩa về trẻ em còn được giải thích rõ thêm trong
Tuyên bố về Quyền trẻ em của Liên hợp quốc năm 1959: “Trẻ em, do chưa
trưởng thành về tinh thần và thể lực, cần có sự bảo vệ và chăm sóc đặc biệt,
bao gồm sự bảo vệ về mặt pháp lý thích hợp, trước cũng như sau khi sinh”.

20
Luật Bảo vệ, Chăm sóc, Giáo dục trẻ em năm 2004 của Quốc hội nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam xác định: “Trẻ em là công dân Việt

Nam dưới mười sáu tuổi” [18, điều 1].
Trong cuốn Cho người chưa thành niên vi phạm pháp luật của tác giả
Trần Thị Minh Đức, tác giả có đưa ra khái niệm như sau: “Đó là những
người dưới 18 tuổi. Bao gồm tất cả trẻ em (những người chưa đủ 16 tuổi) và
vị thành niên (những người trong độ tuổi từ 12 đến dưới18 tuổi). Đó là
người chưa trưởng thành (đang phát triển) về thể chất, thần kinh – tâm lý và
xã hội”.
Như vậy, theo tác giả của luận văn này, trẻ vị thành niên là những
người trong độ tuổi từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi.
1.2.2.2 Một số nét đặc trưng về tâm lý trẻ vị thành niên
Bước vào tuổi vị thành niên, một mặt, các em bước đầu đòi hỏi thoát
khỏi sự giám sát của bố mẹ và có được địa vị bình đẳng trong gia đình. Mặt
khác, các em bắt đầu bước ra khỏi khuôn khổ gia đình, đi vào xã hội, nếm
trải giao tiếp với mọi người với tư cách một cá thể tồn tại độc lập. Thiếu
niên bắt đầu muốn tự mình xác định mục tiêu và kế hoạch cuộc đời, dùng lý
trí phán đoán của mình xem xét mọi sự việc, không muốn có sự can thiệp
của bất cứ ai, kể cả bố mẹ. Sự phát triển của tự ý thức đòi hỏi thiếu niên luôn
muốn thoát khỏi sự ràng buộc của mối quan hệ phụ thuộc trước kia để trở
thành cá thể độc lập. Nhưng giữa những mong muốn mang tính cá nhân và
những thách thức của cuộc sống đôi lúc không có sự tương ứng nên các em
sẽ dễ rơi vào trạng thái có thái độ phản kháng bằng các hình thức lì lợm,
lạnh nhạt, bất hợp tác.
Lứa tuổi vị thành niên thường được các nhà nghiên cứu tâm sinh lý giới
hạn trong khoảng từ 12 đến dưới 18 tuổi, là một giai đoạn chuyển tiếp của sự
phát triển từ tuổi thơ sang người lớn. Đây là giai đoạn đặc biệt, duy nhất của
cuộc sống vì đồng thời xảy ra một loạt những thay đổi, bao gồm: sự chín
muồi về thể chất, sự biến đổi, điều chỉnh tâm lý và sự biến đổi các quan hệ xã

21
hội nhằm đáp ứng các nhiệm vụ phát triển. Đây cũng là giai đoạn nảy sinh

nhiều rối nhiễu tâm lý nhất so với các lứa tuổi khác.
Theo tác giả Hà Thị Thư, Trường Đại học Lao động - Xã hội trong giáo
trình Tâm lý học phát triển, Nhà xuất bản Lao động - Xã hội, năm 2007, có
nhiều quan điểm khác nhau về việc phân chia độ tuổi của các giai đoạn phát
triển, trong đó quan điểm của tâm lý học mác-xít phân chia lứa tuổi vị thành
niên thành hai giai đoạn: giai đoạn thiếu niên từ 12 đến dưới 15 tuổi, giai
đoạn đầu thanh niên từ 15 đến dưới 18 tuổi với những đặc trưng về tâm lý
riêng biệt.
Thứ nhất, giai đoạn thiếu niên (từ 12 đến dưới 15 tuổi)
Có thể nói tuổi thiếu niên vẫn còn mang nhiều đặc trưng của một đứa
trẻ, phụ thuộc nhiều vào gia đình, quan tâm nhiều đến những thay đổi của cơ
thể, hay suy tư về hình ảnh cơ thể, dễ băn khoăn lo lắng, buồn rầu về những
nhược điểm của cơ thể. Mối quan tâm đến bạn bè bắt đầu nổi lên như là một
đáp ứng chuẩn bị cho giai đoạn phát triển mới.
Về mặt sinh lý, cơ thể đang diễn ra quá trình cải tổ hình thái sinh lý một
cách mạnh mẽ và mang tính không cân đối. Có sự phát triển mạnh mẽ về tầm
vóc cả về chiều cao, hệ cơ và hệ xương, nhưng không có sự cân đối giữa
chiều cao và cơ bắp, khiến cho trẻ chưa có khả năng làm việc bền bỉ, dẻo dai.
Sự phát triển về tính dục bắt đầu diễn ra nhanh chóng ở cả nam và nữ. Do đó,
sự tò mò băn khoăn về bản thân và giới tính là không tránh khỏi.
Về mặt tâm lý tình cảm, các em bắt đầu có các tư duy trừu tượng, khối
lượng tri giác tăng lên, các em có khả năng phân tích, tổng hợp các thông tin
ở mức độ cao. Các em cũng rất dễ tỏ ra băn khoăn, lo lắng hay buồn rầu về
những nhược điểm của cơ thể mình khi so sánh với các bạn cùng lứa. Lúc
này, các em bắt đầu quan tâm đến người khác giới và nảy sinh những rung
cảm, xúc cảm mới lạ. Các em bắt đầu coi trọng tình bạn và mong muốn được
chấp nhận và khẳng định được vị trí của mình trong nhóm bạn. Bên cạnh đó,
các em thường rất sợ bị tẩy chay trong nhóm bạn, nên cố gắng điều chỉnh

22

hành vi phù hợp với chuẩn mực nhóm. Đây là thời kỳ cam go và có nhiều đột
biến trong tâm lý của các em, có thể dẫn tới khủng hoảng, người lớn thường
gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp xúc hoặc giáo dục thanh, thiếu niên ở độ
tuổi này. Các em rất dễ bị kích thích, lôi kéo và có thể tham gia vào các nhóm
xã hội không tốt, thậm chí làm trái pháp luật vì suy nghĩ nông nổi. Ở độ tuổi
này, các em có sự phát triển một cách mạnh mẽ tính độc lập, không thích sống
bó buộc trong khung cảnh gia đình mà muốn tách mình ra khỏi sự quản lý và
kiểm soát của gia đình, tìm kiếm những mối quan hệ với bạn bè cùng lứa. Đặc
biệt, ở một số em có tâm lý không thích được sự quan tâm quá mức ở cha mẹ
và không tỏ ra hài lòng khi cha mẹ luôn coi các em còn quá bé nhỏ. Nhu cầu
về tình bạn trở lên quan trọng, các em bắt đầu nhận thấy cần cộng tác với
nhau, không chỉ trong những trò nghịch ngợm, mà cả trong các việc nghiêm
túc như học tập, sinh hoạt và điều đặc biệt là các em bị ảnh hưởng bởi thái độ
và hành vi của nhóm bạn. Các em có khuynh hướng muốn làm người lớn, nên
thường bắt chước người lớn trong cách thể hiện hành vi và thái độ, nhất là đối
với các em là anh, chị lớn trong gia đình.
Về sự phát triển xã hội, các em có sự thay đổi về vai trò, vị trí của mình
trong gia đình. Thể hiện qua việc được thừa nhận là thành viên tích cực, được
giao các nhiệm vụ cụ thể như: nấu cơm, dọn nhà, trông em quan trọng hơn,
là các em đã được tham gia vào việc bàn bạc một số công việc của gia đình.
Những thay đổi đã kích thích các em hoạt động một cách độc lập và tích cực
hơn. Đối với xã hội, lứa tuổi này cũng được thừa nhận như là một thành viên
tích cực, được giao một số công việc như tuyên truyền, cổ động, giúp đỡ gia
đình thương binh liệt sỹ Như vậy, ở lứa tuổi này các em có sự thay đổi đáng
kể về mặt vị trí xã hội. Các em đã có sự ý thức về vấn đề này và thường nỗ
lực cố gắng hoạt động để phù hợp với sự thay đổi này.
Thứ hai, giai đoạn thiếu niên lớn (từ 15 đến dưới 18 tuổi)
Về mặt thể chất, nhịp độ tăng trưởng về chiều cao, cân nặng đều chậm
lại nhưng lại tăng nhanh về thể lực. Chức năng của não bộ phát triển khiến


23
kích thích tư duy ngôn ngữ và những phẩm chất ý chí ở các em. Sự dậy thì
đầy đủ thường xảy ra ở giai đoạn này (có kinh nguyệt, phóng tinh). Các
hormone tính dục phát triển mạnh mẽ ở thời kỳ này.
Những biến đổi tâm lý đặc trưng, thường thấy của giai đoạn này là:
- Nỗ lực cao nhất tìm kiếm sự độc lập, tách khỏi sự kiểm soát của cha
mẹ (vì vậy hay có xung đột với cha mẹ).
- Phát triển mạnh cá tính và sự xã hội hóa.
- Có xu hướng lý tưởng hóa, vị tha (định hướng vào cái tôi xã hội).
- Tiếp tục quan tâm đến hình ảnh của cơ thể (thích chăm sóc cơ thể).
- Thích hò hẹn, khám phá giới kia (nhu cầu hấp dẫn, chinh phục bạn
khác giới), nhóm bạn có vị trí quan trọng số 1, đặc biệt là bạn khác giới.
- Biểu lộ mạnh mẽ xúc cảm yêu đương, hay nhầm lẫn ngộ nhận giữa
xúc cảm bạn bè khác giới và tình yêu, dễ yêu, dễ thất vọng (hay có hành vi
trầm cảm, tự sát).
- Tiếp tục phát triển mạnh tư duy trừu tượng.
Tuổi thiếu niên lớn nỗ lực tìm kiếm những quan hệ ngoài gia đình,
hướng tới những người bạn đồng lứa. Tuổi này có nhu cầu đặc biệt về tình
bạn, cảm nhận được những tinh tế trong tình bạn. Nhu cầu tình bạn trở thành
cấp thiết và quan trọng nhất, đặc biệt là nhu cầu về người bạn khác giới. Tuổi
thiếu niên lớn tràn đầy xúc cảm, dễ xúc động, khó kiềm chế xúc cảm bộc
phát, dễ bị tổn thương. Trạng thái tình cảm của các em thất thường, không ổn
định (dễ nổi nóng, dễ nản ở con trai; dễ khóc, dễ tủi thân ở con gái). Các em
thường lúng túng, bối rối trước những vấn đề khó khăn trong cuộc sống mà
mình gặp phải, quá chán nản đến mức tưởng như mọi thứ sụp đổ vì những
thất bại đầu tiên, đặc biệt là những khúc mắc trong tình cảm, dễ nhầm lẫn
giữa tình bạn và tình yêu.
Tuổi tiếu niên lớn thích sưu tầm danh ngôn, thích văn thơ triết lý, nhu
cầu thần tượng hóa cũng nổi rõ, nhưng các em cũng hay cực đoan trong ý
nghĩ và hành động. Không ít những chàng trai hay các cô gái tuổi này thích


24
những hành động “anh hùng” phiêu lưu, mạo hiểm vì vậy chúng hay bị lôi
kéo vào các hoạt động của nhóm bạn xấu, hay bị kẻ xấu lợi dụng.
Nhận thức của tuổi này về thế giới xung quanh khác với nhận thức của
người lớn. Các em có một thế giới về mình với những quyền lợi, điều tốt, điều
phải riêng của chúng. Các em ít có khả năng nhận biết rõ ràng mối quan hệ
giữa bản thân nó với người khác và ít có khả năng nhận biết rõ các sự kiện mà
chúng không liên quan trực tiếp đến chính bản thân.
1.2.3. Hành vi lệch chuẩn và quy định đối tượng vào trường giáo dưỡng
1.2.3.1. Hành vi lệch chuẩn và khái niệm trẻ vị thành niên có hành vi
lệch chuẩn
Hành vi là cách xử sự của con người trong một hoàn cảnh cụ thể được
biểu hiện ra bên ngoài bằng lời nói, cử chỉ nhất định [20, Tr.24]. Hành vi lệch
chuẩn là một thuật ngữ để chỉ những biểu hiện trong hệ thống hành vi con
người. Tuy chưa ám chỉ một hành vi nào cụ thể nhưng những hành vi lệch
chuẩn thường là những hành vi không phù hợp với các quy tắc chung cũng
như các giá trị, chuẩn mực của cá nhân, nhóm và cộng đồng.
Hành vi được coi là lệch chuẩn khi nó được đem so sánh, đối chiếu với
một tình huống cụ thể của hành vi thuộc lĩnh vực đạo đức, giá trị, pháp luật,
văn hóa, lối sống… Không thể có hành vi lệch chuẩn nằm bên ngoài hoặc bên
trên hệ thống các hành vi của con người. Chỉ có hành vi lệch chuẩn khi so
sánh với hành vi chuẩn nào đó. Tuy nhiên, hành vi lệch chuẩn cũng mang ý
nghĩa tương đối, bởi sự lệch chuẩn trong tình huống hiện thực này cũng có thể
được coi là chuẩn mực trong tình huống hiện thực khác.
Theo Frohlich. W.D: “Hành vi lệch chuẩn là hành vi không phù hợp
với chuẩn mực xã hội hiện hành. Ở đây sự sai lệch là khái niệm dùng để chỉ
những sự khác nhau về chất hay lượng giữa hành vi của một cá nhân và một
chuẩn mực, một hệ quy chiếu” [30, Tr.37]
Đề cập đến vấn đề này, tác giả Nguyễn Quang Uẩn cho rằng: Hành vi

xã hội phù hợp với các chuẩn mực xã hội gọi là hành vi chuẩn mực. Còn

25
những hành vi không phù hợp với chuẩn mực xã hội được gọi là hành vi sai
lệch.[28]
Với tư cách là đối tượng của Công tác xã hội, có thể định nghĩa về hành
vi lệch chuẩn như sau: “Hành vi lệch chuẩn là hành vi tâm lý, xã hội của cá
nhân, nhóm không phù hợp với lợi ích, những quan niệm về đạo đức, giá trị,
chuẩn mực, văn hóa, lối sống của một nhóm hay cộng đồng xã hội trong từng
thời điểm lịch sử nhất định”[4, Tr.13]
Như vậy trẻ vị thành niên có hành vi lệch chuẩn là trẻ từ đủ 12 tuổi đến
dưới 18 tuổi thực hiện hành vi không phù hợp với lợi ích, những quan niệm
về đạo đức, giá trị, chuẩn mực, văn hóa, lối sống của một nhóm hay cộng
đồng xã hội trong từng thời điểm lịch sử nhất định.
1.2.3.2. Làm trái pháp luật và khái niệm trẻ vị thành niên làm trái
pháp luật
Làm trái pháp luật là việc không thực hiện hành vi đúng các yêu cầu
của pháp luật. Hành vi trái pháp luật chỉ được coi là vi phạm pháp luật khi
hành vi đó thoả mãn các dấu hiệu của một hành vi vi phạm pháp luật. Do đó,
một hành vi vi phạm pháp luật luôn là hành vi trái pháp luật, nhưng hành vi
trái pháp luật chưa chắc đã là hành vi vi phạm pháp luật. Trong nhiều trường
hợp, hành vi trái pháp luật được thực hiện trong hoàn cảnh người thực hiện
hành vi không có sự tự do về ý chí, tức là có thể đang bị người khác cưỡng
ép, khống chế hay trong trường hợp người chưa đủ độ tuổi gánh chịu trách
nhiệm pháp lý hoặc người mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác dẫn đến mất
khả năng nhận thức và điều khiển hành vi thì hành vi của họ trái pháp luật
cũng không được coi là vi phạm pháp luật
Trẻ vị thành niên làm trái pháp luật là những người từ đủ 12 tuổi đến
dưới 18 tuổi thực hiện không đúng các yêu cầu của pháp luật nhưng chưa bị
coi là vi phạm pháp luật.

1.2.3.3 Đặc điểm tâm lý của trẻ vị thành niên làm trái pháp luật
Trẻ vị thành niên có hành vi làm trái pháp luật, ngoài những đặc điểm
tâm lý chung của lứa tuổi thiếu niên còn có những tâm lý đặc thù, riêng biệt.

×