TRƯỜNG ………………….
KHOA……………………….
CHUYÊN ĐỂ THỰC TẬP
Đề tài:
Thực tiễn tiến hành phiên toà sơ thẩm
vụ án dân sự của Toà án địa phương
MỤC LỤC
I- GIỚI THIỆU CHUYÊN ĐỀ
Cùng với tình hình đổi mới và đi lên chung của đất nước, Thành phố
Thanh Hoá đó đạt được nhiều thành tựu to lớn, đó ngày càng khẳng định vị trí
của mình trong nền kinh tế cả nước. Tình hình an ninh trật tự xã hội được đảm
bảo, đời sống nhân dân ngày càng được đảm bảo và nâng cao. Song bên cạnh đó
vẫn còn tồn tại những mặt trái của nó, đó là sự phân hoá giàu nghèo ngày càng
sâu sắc, sự tha hoá trong lối sống, đạo đức, lối sống chạy theo đồng tiền bất chấp
pháp luật. Xuất phát từ tình hình đó quyền dân sự của công dân ngày càng có ý
nghĩa quan trọng.
2
Với bản chất của Nhà nước ta là: “ Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân và vì dân”, Nhà nước ta bảo hộ quyền dân sự chính đáng của
người dân. Để bảo hộ các quyền dân sự đó, Nhà nước quy định nhiều biện pháp,
cách bảo vệ khác nhau nhưng đặc biệt hơn cả là biện pháp khởi kiện vụ án dân
sự theo trình tự tố tụng dân sự. Thực hiện phương thức này, cá nhân, cơ quan, tổ
chức và các chủ thể khác có quyền dân sự bị xâm phạm có quyền khởi kiện vụ
án dân sự để yêu cầu toà án có thẩm quyền buộc người có hành vi xâm phạm
quyền dân sự phải chấm dứt hành vi trái pháp luật hoặc phải bồi thường thiệt hại
hoặc phải chịu chế tài phạt vi phạm v.v… Bằng hoạt động xét xử, toà án góp
phần bảo vệ và củng cố pháp chế xã hội chủ nghĩa đồng thời nâng cao hiệu quả
xét xử, xác lập chế độ trách nhiệm cao đối với nhân dân và một môi trường pháp
lý an toàn. Trong đó xét xử tại phiên toà sơ thẩm là giai đoạn tố tụng quan trọng
nhất, quyết định nhất tại đó các đương sự công khai bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình trước Toà án.
Nhận thấy vai trò và tầm quan trọng của công tác xét xử sơ thẩm vụ án
dân sự trong thực tiễn, với kiến thức được trang bị và những tìm hiểu thực tế
trong đợt thực tập cuối khoá tại Toà án nhân dân Thành phố Thanh hoá, em đã
chọn đề tài:
“ Thực tiễn tiến hành phiên toà sơ thẩm vụ án dân sự của Toà án địa phương”
cho chuyên đề cuối khoá của mình. Do thời gian nghiên cứu còn hạn chế, kinh
nghiệm tích luỹ còn chưa nhiều nên chuyên đề khó tránh khỏi những thiếu sót,
rất mong các thầy cô giáo và các bạn sinh viên đóng góp ý kiến để chuyên đề
này thêm hoàn thiện.
Em xin chân thành cảm ơn!
3
II- TỔNG QUAN CHUNG VỀ THÀNH PHỐ THANH HOÁ
Thành phố Thanh hoá là đô thị trẻ, nằm bên bờ sông Mã, có vị trí, cảnh
quan sinh thái rất thuận lợi, khí hậu khá ôn hoà: mùa đông ấm áp, mùa hè mát
mẻ. Quốc lộ 1A xuyên Việt chạy qua trung tâm Thành phố dài gần 10km, cảng
Lệ Môn, Sầm Sơn ở phía Đông, đường sắt Bắc-Nam chạy ở phía Tây, tạo thành
một mạng lưới giao thông đa dạng và thuận tiện. Nhờ đó, Thành phố Thanh hoá
đã trở thành trung tâm chính trị - kinh tế – văn hoá của tỉnh Thanh hoá, phía bắc
giáp huyện Hoằng Hoá, phía nam giáp huyện Quảng Xương, phía Tây giáp
4
huyện Đông Sơn, phía Đông giáp với thị xã Sầm Sơn, đồng thời ở vào vị thế
thuận lợi trong việc giao thương với tất cả các tỉnh trong nước.
2.1. Vị trí địa lý tự nhiên
Thành phố Thanh hoá nằm trên trục giao lưu Bắc- Nam, đi lại dễ dàng, có
vị trí địa kinh tế rất thuận lợi:
- Nằm trên tuyến đường sắt xuyên Việt và quốc lộ 1, tạo điều kiện thuận lợi
cho giao lưu thông thương với các huyện trong tỉnh, với các tỉnh trong cả nước
và với các nước trên thế giới.
- Có thuận lợi lớn về đưòng biển, trong tương lai Thành phố Thanh hoá sẽ mở
rộng về phía thị xã Sầm Sơn để hình thành một thành phố ven biểncó quy mô
lớn.
Vị trí địa lý là lợi thế quan trọng tạo điều kiện thuận lợi cho thành phố
Thanh hoá mở rộng giao lưu kinh tế với các tỉnh trong khu vực và cả nước cũng
như với nước ngoài, tạo lực để trở thành một trong những cực phát triển phía
Nam của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, đồng thời cũng đặt ra những thách
thức to lớn cho Thành phố Thanh hoá trong sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội
thời gian tới: đó là thể hiện vai trò đầu tàu thúc đẩy, lôi kéo phát triển kinh tế –
xã hội của toàn tỉnh, tránh tụt hậu so với cả nước.
2.2. Quy mô, cơ cấu và chất lượng dân số
Thành phố Thanh hoá có cơ cấu dân số tương đối trẻ, thể hiện ở con số
57% dân số trong tuổi lao động. Trình độ dân trí của thành phố Thanh hoá tương
đối cao, hầu hết dân trong thành phố được phổ cập phổ thông cơ sở. Đặc biệt
dân số có trình độ học vấn từ tốt nghiệp phổ thông trung học trở lên của thành
phố Thanh hoá nói riêng hay của tỉnh Thanh hoá nói chung đều cao hơn hẳn so
với mức trung bình của cả nước. Chất lượng dân số ngày càng được cải thiện sẽ
tạo điều kiện thuận lợi cho thành phố thực hiện thành công quy hoạch tổng thể
kinh tế – xã hội đến năm 2010 và 2020.
Nhìn chung các chính sách xã hội, lao động giải quyết việc làm thực hiện
tương đối tốt, mức sống nhân dân được nâng cao, đời sống nhân dân được cải
thiện. Tăng trưởng kinh tế sẽ kéo theo những vấn đề xã hội nảy sinh, đó là sự
5
phân hoá giữa giàu và nghèo, đây là vấn đề mà thành phố cần quan tâm và có
những chính sách xã hội thích hợp trong thời gian tới.
2.3. Toà án nhân dân Thành phố Thanh hoá
Toà án nhân dân Thành phố Thanh hoá tiền thân là Toá án thị xã Thanh
hoá. Hiện tại, Toà án có 30 cán bộ, công chức với 1 chánh án, 2 phó chánh án,
15 thẩm phán va một bộ phận giúp việc. Là đơn vị trọng điểm của ngành Toà án
tỉnh Thanh hoá, Toà án nhân dân Thành phố Thanh hoá trong quá trình hoạt
động đã có nhiều đóng góp trong công tác của ngành toà án. Với lực lượng cán
bộ tương đối nhiều, tuổi đời còn khá trẻ, cơ sở vật chất ngày càng được hoàn
thiện và khang trang hơn, Toà án nhân dân Thành phố Thanh hoá đã và đang
ngày càng khẳng định vai trò to lớn của mình trong công tác của ngành toà án
tỉnh Thanh hoá. Cụ thể, theo đánh giá của toà án nhân dân tỉnh Thanh hoá, số
lượng các vụ, việc do Toà án nhân dân Thành phố Thanh hoá giải quyết hàng
năm nhiều gấp 4 đến 5 lần ttổng số lượng vụ việc dân sự của Toà án các huyện
cộng lại. Với mục tiêu phổ cập tin học trong cơ quan hành chính Nhà nước, hiện
nay mỗi phòng của thẩm phán đều đã được tranh bị máy vi tính. Đây là điều
kiện thuân lợi để các thẩm phán có điều kiện nghiên cứu thêm kiến thức chuyên
môn của mình, đồng thời cũng thường xuyên cập nhập được các văn bản mới
ban hành nhằm thuận lợi trong việc giải quyết công việc của Toà án. Để đạt
được những kết quả tôt đẹp như ngày hôm nay là nhờ vào sự nỗ lực cố gắng hết
mình của tập thể cán bộ, công chưc. Đây là những thành tựu đáng được ghi nhận
va khen ngợi tại Toà án nhân dân Thành phố Thanh hoá.
III- THỰC TIỄN TIẾN HÀNH PHIÊN TOÀ SƠ THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ
TẠI TOÀ ÁN THÀNH PHỐ THANH HOÁ
Phiên toà sơ thẩm vụ án dân sự là phiên xét xử vụ án dân sự lần đầu của
vụ án. Tất cả các vụ án dân sự nếu đã phải đưa ra xét xử thì đều phải trải qua
việc xét xử tại phiên toà sơ thẩm. Phiên toà sơ thẩm dân sự được tiến hành trong
một thời điểm, thời gian nhất định. Tại phiên toà sơ thẩm tập trung các hoạt
6
động tố tụng của những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố
tụng như thẩm phán, hội thẩm, thư ký toà án, đương sự và người bảo vệ quyền
lợi của đương sự v v…Hội đồng xét xử thực hiện việc xét xử qua việc nghe các
bên đương sự trình bày, tranh luận, kiểm tra, xác minh các tài liệu, chứng cứ của
vụ án một cách toàn diện và khách quan; áp dụng đúng pháp luật quyết định giải
quyết vụ án. Khác với việc hoà giải vụ án toà án chỉ tập trung vào những vấn đề
cơ bản, ở phiên toà sơ thẩm, toà án phải giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án.
Theo Điều 15 BLTTDS, việc xét xử của toà án được tiến hành công khai. Vì
vậy, mọi hoạt động tố tụng ở phiên toà của các cơ quan tiến hành tố tụng và
những người tham gia tố tụng phải được công khai hoá, mọi người đều có quyền
tham dự phiên toà. Toà án chỉ được căn cứ vào những tài liệu, chứng cứ đã được
thẩm tra, xem xét, đánh giá tại phiên toà để giải quyết vụ án chứ không được căn
cứ vào những tài liệu, tin tức chưa được xem xét tại phiên toà. Hội đồng xét xử
quyết định giải quyết mọi vấn đề thuộc về nội dung vụ án cũng như thuộc về thủ
tục tố tụng tại toà bằng việc biểu quyết theo đa số.
Phiên toà sơ thẩm là phiên xử lần đầu nhưng có ý nghĩa rất quan trọng đối
với việc giải quyết vụ án dân sự. Tại phiên toà sơ thẩm toà án sẽ quyết định giải
quyết các vấn đề của vụ án, xác định quyền và nghĩa vụ của các đương sự làm
cơ sở cho việc thi hành án. Phiên toà sơ thẩm cũng là nơi toà án thực hiện việc
giáo dục pháp luật. Thông qua hoạt động xét xử của toà án, những người tham
dự phiên toà biết rõ hơn các quy định của pháp luật được toà án áp dụng giải
quyết vụ án từ đó nâng cao được ý thức pháp luật của họ. Hoạt động xét xử của
toà án ở phiên toà sơ thẩm là để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của cơ quan xét
xử, thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Nếu hoạt động này
được tiến hành tốt sẽ làm tăng thêm tác dụng của công tác giáo dục chính trị,
giáo dục pháp luật. Ngược lại, nếu phiên toà sơ thẩm tiến hành không tốt, có
nhiều sai sót thì kết quả của công tác giáo dục sẽ bị hạn chế, gây ảnh hưởng xấu,
làm cho mọi người thiếu tin tưởng vào hoạt động xét xử của toà án.
3.1. Tổng quan chung về vụ án dân sự của Toà án nhân dân Thành phố
Thanh Hoá
7
Trong những năm gần đây, với việc chuyển đổi nền kinh tế sang nền kinh tế
thị trường, thành phố Thanh hoá đã đạt được tốc độ phát triển kinh tế khá cao.
Đời sống nhân dân được cai thiện rõ dệt, trình độ dân trí được nâng cao. Song
song với những mặt tích cực của nền kinh tế là những mặt trái của nó đã tác
động trực tiếp đến đời sồng, xã hội. Thể hiện rõ trong lối sống của mỗi người,
tình cảm giữa con người với con người ngày càng mai một thay vào đó là lối
sống chạy theo đồng tiền.
Vì vậy, những năm gần đây số vụ án dân sự phải đưa ra xét xử ngày càng ra
tăng thể hiên ở các loại án như: các tranh chấp về đất đai, tranh chấp về tài sản,
xét xử án Hôn nhân và gia đình ngày càng tăng cao rõ dệt.
- Đối với việc giải quyết, xét xử án Hôn nhân và gia đình: Năm 2006 án Hôn
nhân và gia đình: Tổng số vụ, việc phải giải quyết 228 vụ, việc, đã giải quyết
196 vụ, việc, tỷ lệ giải quyết 86%. Năm 2007 án Hôn nhân và gia đình: Tổng
sốvụ việc phải giải quyết 291 vụ, đã giải quyết 250 vụ, việc, tỷ lệ giải quyết
86%. Một số nguyên nhân chính dẫn đến việc xin ly hôn như bị hành hạ ngược
đãi, do cờ bạc nghiện hút ma tuý, do ngoại tình, mâu thuẫn gia đình. Tất cả
những nguyên nhân trên đều do mặt trái của xã hội mang lại. Trong số án đã giải
quyết, số vụ án phải đưa ra xét xử năm 2006 là 36 trường hợp chiếm 18,4%,
năm 2007 là 48 vụ chiếm 19,2%. Khi giải quyết loại án này do tính chất ảnh
hưởng của nó đến xã hội, các thẩm phán, cán bộ luôn chú trọng công tác hoà
giải, phân tích, tìm hiểu nguyên nhân mâu thuẫn, các quan hệ về tài sản, công
nợ, con cái….để có phương pháp giải quyết phù hợp, thấu tình đạt lý, đảm bảo
được quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Đồng thời hạn chế việc ảnh
hưởng đến công tác, học tập của đương sự và con cái của họ sau ly hôn.
- Đối với việc giải quyết, xét xử án dân sự khác: Năm 2006 tổng số phải giải
quyết là 118 vụ, đã giải quyết 86 vụ, tỷ lệ giải quyết 72,9%. Loại án này tăng 27
vụ so với năm 2005; một số loại việc kiện có số lượng nhiều là: Kiện hợp đồng
vay tài sản 22 vụ, kiện thực hiện nghĩa vụ trả tiền 13 vụ, kiện đòi tài sản 10 vụ,
kiện thừa kế 5 vụ…Trong số án đã giải quyết số phải đưa ra xét xử là 32 vụ
chiếm 32,7%, có 18 vụ kháng cáo ( 20,9% ), cấp phúc thẩm đã xử 12 vụ, trong
8
đó y án 10 vụ, cải sửa 2 vụ, không có vụ nào bị xử huỷ. Năm 2007 tổng số phải
giải quyết 113 vụ, đã giải quyết 86 vụ, tỷ lệ giải quyết 76,1%, loại án này giảm 5
vụ so với năm 2006. Tuy nhiên tính chất của các vụ án phức tạp hơn, đa dang
hơn thể hiện ở một số tranh chấp có số lượng nhiều và tăng hơn so với năm
2006 là: Tranh chấp về hợp đồng vay tài sản là 47 vụ, tranh chấp về quyền sử
dụng đất 14 vụ, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng 12 vụ, thực hiện nghĩa vụ
trả tiền 10 vụ…Số án phải đưa ra xét xử 38 vụ chiếm 44,2%, tăng hơn so với
năm 2006, có 14 vụ kháng cáo chiếm 16,3%. Cấp phúc thẩm đã xử 9 vụ: trong
đó y án 4 vụ, cải sửa 3 vụ, huỷ 2 vụ. Mặc dù số vụ án bị kháng cáo có giảm song
do tính chất phức tạp nên có 2 vụ bị huỷ.
Qua thực tiễn số liệu của năm 2006, năm 2007 về số liệu án Hôn nhân và
gia đình và án dân sự khác tại toà án nhân dân thành phố Thanh hoá cho thấy số
án phải đưa ra xét xử phiên toà sơ thẩm vụ án dân sự là khá lớn, đòi hỏi sự nổ
lực cao của đội ngủ thẩm phán, cán bộ toà án. Tính chất các vụ án càng ngày
càng phức tạp.
Ví dụ: Vụ án về việc đòi tài sản.
Nguyên đơn: Ông Phan Văn Vinh sinh năm 1938
Bị đơn : Ông Nguyễn Mậu Dụy sinh năm 1949
Ông Tô Đình Trưng sinh năm 1950
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
Ông Lê Xuân Đính sinh năm 1949
Ông Đỗ Minh Dũng sinh năm 1957
Sở Thương mại Thanh hoá: Đại diện uỷ quyền: Ông Nguyễn Trọng Thoàn, sinh
năm 1948 – chức vụ chánh thanh tra sở thương mại Thanh hoá.
Năm 1975 khi có lệnh hồi cư ông Vinh về thị xã đòi lại nhà, vụ án phát sinh và
kéo dài từ năm 1975 cho tơi nay vẫn chưa giải quyết xong. Mặc dù đã trãi qua
một đợt xét xử sơ thẩm và phúc thẩm, do việc xuất hiện thêm chứng cứ mới nên
toà phúc thẩm đã huỷ bản án sơ thẩm. Vừa qua vào cuối năm 2007 toà án thành
phố Thanh hoá vừa xét xử lại phiên toà sơ thẩm nhưng vụ việc vẫn chưa được
chấm dứt, do bên bị đơn tiếp tục kháng cáo phúc thẩm. Việc xét xử tại phiên toà
9
sơ thẩm của vụ án nói riêng và việc giải quyết toàn bộ vụ án nói chung là rất
phức tạp, thẩm phán và cán bộ toà án đã gặp rất nhiều trở ngại trong việc xét xử
sơ thẩm vụ án này.
Nguyên nhân dẫn tới tình trạng trên là do nhiều nguyên nhân nhưng tập
trung ở một số nguyên nhân chính sau: Vấn đề của vụ án đã phát sinh và kéo dài
từ năm 1975, đây là một khoảng thời gian rất dài, nó làm phát sinh nhiều khó
khăn như: Việc xác định lại hiện trạng ban đầu của tái sản tranh chấp; việc xác
minh các chứng minh, chứng cứ tại phiên toà sơ thẩm; việc triệu tập người làm
chứng. Do phát sinh trong một thời gian dài nên nó liên quan tới nhiều người
nên việc giải quyết vụ án đòi hỏi phải có sự phối kết hợp của nhiều cơ quan, ban
ngành phối kết hợp với toà án để giải quyết. Một nguyên nhân quan trọng ảnh
hưởng tới phiên toà sơ thẩm đấy là nhận thức của các đương sự tại phiên toà, họ
đã có những cử chỉ hành vi không đúng tại phiên toà gây khó khăn trong việc
giải quyết vụ án.
Nhìn chung tình hình xét xử tại phiên toà sơ thẩm vụ án dân sự tại toà án
nhân dân thành phố Thanh hoá được thể hiện qua bảng số liệu thống kê sau:
Năm
Hôn nhân và gia đình Dân sự khác
Số án xét xử
sơ thẩm
Số vụ án bị
kháng cáo
Số án xét xử
Sơ thẩm
Số vụ án bị
kháng cáo
2003 49 12 65 16
2004 51 18 45 10
2005 40 18 34 13
2006 32 5 40 18
2007 48 7 38 14
Bảng số liệu thống kê phiên toà sơ thẩm vụ án dân sự tại toà án nhân dân Thành
phố Thanh hoá
Qua tìm hiểu tình hình xét xử phiên toà sơ thẩm tại toà án nhân dân thành
phố Thanh hoá cùng bảng số liệu thống kê, nhìn chung cho thấy công tác xét xử
tại phiên toà sơ thẩm của toà án nhân dân thành phố Thanh hoá đạt hiệu quả khá
10
cao cả về mặt số lượng lẫn chất lượng. Theo đánh giá của toà án nhân dân tỉnh
Thanh hoá số lượng các vụ, việc do toà án nhân dân thành phố Thanh hoá giải
quyết hàng năm nhiều gấp 4 đến 5 lần tổng số lượng vụ việc dân sự của toà án
các huyện Thanh hoá cộng lại. Theo số liệu của các năm từ năm 2003 đến năm
2007 số lượng các vụ án xét xử tại phiên toà sơ thẩm qua các năm có thể tăng
giảm nhưng tính chất và mức độ phức tạp của các vụ án tăng lên rõ rệt. Chất
lượng xét xử ngày càng tăng thể hiện ở số vụ án bị kháng cáo. Mặt khác Bộ luật
tố tụng dân sự mới có hiệu lực từ 01/ 01/ 2005 có nhiều quy định mới, chặt chẽ
hơn, cụ thể hơn, tuy nhiên các thẩm phán, cán bộ toà án đã có sự cố gắng cao
trong đầu tư, nghiên cứu; trong thu thập các nguồn chứng cứ , trong sự phối hợp
tốt với các cơ quan hữu quan và chính quyền địa phương để cùng giải quyết. Do
vậy hầu hết các bản án, quyết định của Toà án đã đảm bảo tốt quyền và lợi ích
hợp pháp của các đương sự , được nhân dân đồng tình.
3.2. Cách thức tiến hành phiên toà đối với loại vụ án dân sự tại toà án nhân
dân TPTH
Nhìn chung cách thức tiến hành phiên toà đối với loại vụ án dân sự tại
Toà án nhân dân thành phố Thanh hoá được thực hiện một cách chu đáo, nghiêm
túc, tuân thủ đầy đủ những nguyên tắc của tố tụng dân sự được quy định tại các
điều, từ điều 3 đến điều 24 BLTTDS. Nó góp phần quan trọng trong việc giải
quyết đúng các vụ án dân sự. Phiên toà sơ thẩm được tiến hành đúng thời gian,
địa điểm đã được ghi trong quyết định đưa vụ án ra xét xử hoặc trong giấy báo
mở lại phiên toà trong trường hợp phải hoãn phiên toà nhằm đảm bảo cho các
đương sự tham gia phiên toà thực hiện được đầy đủ các quyền và nghĩa vụ tố
tụng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, tránh sự phiền hà và tổn thất về
thời gian, tiền bạc cho đương sự.
Phiên toà sơ thẩm dân sự được tiến hành theo phương thức xét xử trực
tiếp, bằng lời nói và liên tục. Thực hiện việc xét xử trực tiếp và bằng lời nói
nhằm bảo đảm cho toà án thẩm định và xác minh được đầy đủ, chính xác các tài
liệu, chứng cứ của vụ án và đánh giá chúng một cách toàn diện.
11
Thành phần hội đồng xét xử sơ thẩm gồm: một thẩm phán và hai hội thẩm
nhân dân. Trong trường hợp đặc biệt thì hội đồng xét xử có thể gồm hai thẩm
phán và ba hội thẩm.
Những người tham gia phiên toà sơ thẩm vụ án dân sự: để vụ án được giải
quyết nhanh chóng, chính xác và đồng thời bảo đảm cho việc bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của đương sự và bảo đảm cho việc xét xử trực tiếp, liên tục, bằng
lời nói thì khi toà án mở phiên toà để xét xử vụ án tất cả những người tham gia
tố tụng phải được triệu tập tham gia phiên toà. Những người tham gia tố tụng tại
phiên toà sơ thẩm dân sự gồm: nguyên đơn, bị đơn, người có nghĩa vụ quyền lợi
liên quan, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự, người làm chứng, người giám định và người phiên dịch. Ngoài ra,
viện kiểm sát phải cử kiểm sát viên tham gia phiên toà đối với những vụ án do
toà án thu thập chứng cứ mà đương sự có khiếu nại.
Thủ tục tiến hành phiên toà sơ thẩm vụ án dân sự:
Thủ tục tiến hành phiên toà sơ thẩm vụ án dân sự bao gồm: Chuẩn bị khai
mạc phiên toà sơ thẩm vụ án dân sự, thủ tục bắt đầu phiên toà sơ thẩm vụ án dân
sự, thủ tục hỏi tại phiên toà sơ thẩm vụ án dân sự, tranh luận tại phiên toà sơ
thẩm vụ án dân sự, nghị án và tuyên án.
* Chuẩn bị khai mạc phiên toà sơ thẩm vụ án dân sự:
Việc thực hiện các công việc trong bước chuẩn bị khai mạc phiên toà là
nhiệm vụ của thư ký toà án. Đây là thủ tục bắt buộc đảm bảo cho phiên toà diễn
ra có sự tham dự đầy đủ của những người tham gia tố tụng, kiểm tra lại xem có
trường hợp nào phải hoãn phiên toà không đồng thời còn nhằm xác lập trât tự
của phiên toà trước khi khai mạc. Việc chuẩn bị khai mạc phiên toà do thư ký
toà án thực hiện. Khi chuẩn bị khai mạc phiên toà, thư ký tiến hành các công
việc sau:
- ổn định trật tự trong phòng xử án;
- Kiểm tra, xác định sự có mặt, vắng mặt của những người tham gia phiên
toà theo theo giấy triệu tập, giấy báo của toà án; nếu có người vắng mặt
thì cần làm rõ lý do;
12
- Phổ biến nội quy phiên toà;
- Yêu cầu mọi người trong phòng xử án đứng dậy khi hội đồng xét xử vào
phòng xử án.
* Thủ tục bắt đầu phiên toà sơ thẩm vụ án dân sự:
- Khai mạc phiên toà:
Khai mạc phiên toà là thủ tục tố tụng bắt buộc phải thực hiện trước khi hội
đồng xét xử tiến hành xét xử. Việc khai mạc phiên toà được thực hiện như
sau:
+ Chủ toạ phiên toà khai mạc phiên toà và quyết định đưa vụ án ra xét xử
+ Thư ký phiên toà báo cáo với hội đồng xét về sự có mặt , vắng mặt của
những người tham gia phiên toà theo giấy triệu tập, giấy báo của toà án và lý
do vắng mặt
+ Chủ toạ phiên toà kiểm tra lại sự có mặt của những người tham gia phiên
toà theo giấy triệu tập, giấy báo của toà án và kiểm tra căn cước của đương
sự
+ Chủ toạ phiên toà phổ biến quyền, nghĩa vụ của các đương sự và của
những người tham gia tố tụng khác
+ Chủ toạ phiên toà giới thiệu họ,tên những người tiến hành tố tụng ( người
giám định, người phiên dịch nếu có)
+ Chủ toạ phiên toà hỏi những người có quyền yêu cầu thay đổi những người
tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch xem họ có yêu cầu thay
đổi ai không
- Giải quyết yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định và
người phiên dịch
Trong trường hợp có người yêu cầu thay đổi người tiến hành tổ tụng,
người giám định, người phiên dịch thì hội đồng xét xử phải xem xét, nghe ý
kiến của người bị thay đổi tại phiên toà trước khi quyết định chấp nhận hoặc
không chấp nhận. Trường hợp không chấp nhận thì hội đồng xét xử phải nêu
rõ lý do.
13
Quyết định thay đổi người tiến hành tổ tụng, người giám định, người
phiên dịch phải được hội đồng xét thảo luận, thông qua theo đa số tại phòng
nghị án và phải lập thành văn bản.Trong trường hợp phải thay đổi người tiến
hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch mà không có người thế
ngay thì hội đồng xét xử phải ra quyết định hoãn phiên toà.
- Xem xét, quyết định hoãn phiên toà khi có người vắng mặt
Khi có người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên toà mà thuộc trường hợp
toà án buộc phải hoãn phiên toà thì hội đồng xét xử xem xét, quyết định hoãn
phiên toà.
Nếu có người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên toà mà không thuộc
trường hợp toà án buộc phải hoãn phiên toà thì chủ toạ phiên toà phải hỏi
xem có ai đề nghị hoãn phiên toà hay không, nếu có người đề nghị thì hội
đồng xét xử xem xét, quyết định và có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận,
trường hợp không chấp nhận thì phải nêu rõ lý do.
* Thủ tục hỏi tại phiên toà sơ thẩm vụ án dân sự
- Hỏi đương sự về thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu và thoả thuận giải quyết vụ
án.
Trong quá trình tố tụng, các đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi, bổ sung
các yêu cầu của mình, có quyền thoả thuận giải quyết với nhau về các vấn đề
có tranh chấp không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Vì vậy, Điều 217
BLTTDS quy định trước khi hỏi về nội dung vụ án chủ toạ phiên toà hỏi
đương sự về các vấn đề thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu
Hội đồng xét xử chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự,
nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi yêu cầu
khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu.
Trong trường hợp có đương sự rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của
mình và việc rút yêu cầu của họ là tự nguyện thì hội đồng xét xử chấp nhận
và đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu hoặc toàn bộ yêu cầu đương sự đã
rút.
14
Khi hội đồng xét xử đã xem xét chấp nhận cho các bên đương sự có quyền
được thay đổi, bổ sung, rút một phần hay toàn bộ yêu cầu thì sẽ dẫn đến việc
thay đổi địa vị tố tong của các đương sự.
Việc đương sự thoả thuận, thương lượng giải quyết tranh chấp trong mọi
giai đoạn tố tụng dân sự được nhà nước khuyến khích.Trong trường hợp các
đương sự thoả thuận được với nhau về giải quyết vụ án và thoả thuận của họ
là tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội thì hội đồng xét xử ra
quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự về việc giải quyết vụ
án. Quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự về việc giải quyết
vụ án phải được lập thành văn bản và có hiệu lực pháp luật ngay.
- Nghe đương sự trình bày về vụ án
Sau khi chủ toạ đã thực hiện các hoạt động nghiệp vụ cần thiết nhưng có
đương sự vẫn giữ nguyên yêu cầu của họ và các bên trong vụ án cũng không
tự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết tranh chấp thì hội đồng xét xử
bắt đầu xét xử vụ án bằng việc nghe các bên đương sự trình bày về các yêu
cầu và các tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ tranh chấp. Các bên được trình
bày việc kiện tại phiên toà như sau:
+ Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình bày yêu cầu
của nguyên đơn và chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và
hợp pháp. Nguyên đơn có quyền bổ sung ý kiến.
+ Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn trình bày ý kiến của bị
đơn đối với yêu cầu của nguyên đơn, yêu cầu phản tố, đề nghị của bị đơn và
chứng cứ để chứng minh cho đề nghị đố là có căn cứ và hợp pháp. Bị đơn có
quyền bổ sung ý kiến.
+ Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan trình bày ý kiến của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đối với
yêu cầu, đề nghị của nguyên đơn, bị đơn, yêu cầu độc lập, đề nghị của người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và chứng cứ để chứng minh cho đề nghị đó
là có căn cứ và hợp pháp. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền
bổ sung ý kiến.
15
Tại phiên toà, đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự cùng song hành tham gia tố tụng cả 2 người cùng có quyền bổ sung
chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu, đề nghị của đương sự (Điều 221
BLTTDS). Những quy định này cho thấy chủ trương đối mới hoạt động tư
pháp của đảng và nhà nước đã được thể chế hoá. Đó là kết quả của việc mở
rộng quyền dân chủ trong hoạt động tư pháp và vai trò của đương sự, của
những người tham gia tố tụng khác trong việc cung cấp chứng cứ cho toà án,
thực hiện nghĩa vụ chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình.
- Tiến hành hỏi tại phiên toà
Sau khi hội đồng xét xử nghe xong lời trình bày của các bên đương sự, việc
hỏi từng người về từng vấn đề của vụ án được tiến hành ngay. Các chủ thể có
quyền tham gia vào quá trình hỏi tại phiên toà gồm có: Các thành viên của hội
đồng xét xử, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đương sự,
những người tham gia tố tụng khác và kiểm soát viên nếu có. Trình tự hỏi từng
người về từng vấn đề của vụ án được tiến hành theo thứ tự chủ toạ phiên toà hỏi
trước, rồi đến hội thẩm nhân dân, kế đến là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự, tiếp theo là đương sự, rồi đến những người tham gia tố tụng
khác. Trường hợp có kiểm soát viên tham gia phiên toà thì kiểm soát viên sẽ tiến
hành hỏi sau đương sự.
+ Đối với người làm chứng, trước tiên chủ toạ phiên toà hỏi rõ về quan hệ giữa
họ với các đương sự trong vụ án, nếu người làm chứng là người chưa thành niên
thì chủ toạ phiên toà có thể yêu cầu cha, mẹ, người giám hộ hoặc thầy giáo, cô
giáo giúp đỡ để hỏi. Sau đó chủ toạ phiên toà yêu cầu người làm chứng trình bày
rõ những tình tiết của vụ án mà họ biết. Sau khi đã trình bày xong, người làm
chứng ở lại phòng xử án để có thể được hỏi thêm
Sau khi đã thực hiện đầy đủ các hoạt động nghiệp vụ trong thủ tục hỏi ở
phiên toà, hội đồng xét xử nhận thấy các tình tiết của vụ án đã được xem xét đầy
đủ thì chủ toạ phiên toà hỏi kiểm sát viên, đương sự, người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự và những người tham gia tố tụng khác xem họ có
16
yêu cầu hỏi về vấn đề gì nữa không. Trường hợp có người yêu cầu và toà án xét
thấy yêu cầu đó là có căn cứ thì chủ toạ phiên toà quyết định tiếp tục cho họ đặt
câu hỏi về những vấn đề mà họ chưa rõ liên quan đến vụ án. Nếu không có ai
nêu ra vấn đề gì nữa thì chủ toạ phiên toà tuyên bố kết thúc việc hỏi và chuyển
sang phần tranh luận tại phiên toà.
* Tranh luận tại phiên toà sơ thẩm vụ án dân sự
Tranh luận tại phiên toà là hoạt động trung tâm của phiên toà, đảm bảo cho
đương sự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước toà án. Do đó,
BLTTDS đã quy định mở rộng quyền tranh luận của đương sự, đề cao vai trò
chủ động của đương sự trong việc tranh luận ở tại phiên toà.
Trong BLTTDS đã dành hẳn một mục với bốn điều luật, từ điều 232 đến điều
235 quy định về hoạt động tranh luận tại phiên toà. Điều đó thể hiện tầm quan
trọng của hoạt động tranh luận trong việc tìm ra sự thật khách quan của vụ án và
xu hướng đổi mới hoạt động tư pháp của nước ta. Các quy định của BLTTDS về
tranh chấp tại phiên toà phù hợp với quan điểm của đảng và nhà nước ta về cải
cách tư pháp được nêu trong nghị quyết số 08 NQ/TW ngày 02/01/2002 của bộ
chính trị.
- Những người tham gia tranh luận gồm có: Đương sự, người đại diện của
đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, cơ quan, tổ
chức khởi kiện.
- Nội dung tranh luận
Tranh luận tại phiên toà, thể hiện tính chất dân chủ, công khai, minh bạch của
hoạt động xét xử. Các quy định của BLTTDS về tranh luận là tạo điều kiện tối
đa để các bên đương sự sử dụng các phương pháp chứng minh để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình. Đổi mới hoạt động tư pháp, trong đó có việc mở
rộng tranh tụng, tăng cường khả năng tranh luận dân chủ giữa các đương sự và
những người thay mặt họ là đòi hỏi khách quan hiện nay. Nhưng để tránh phiên
toà đi chệch hướng, sa đà vào những tình tiết không cơ bản của vụ án, các bên
khi tham gia tranh luận cần tập trung vào hai nội dung quan trọng như sau:
17
+ Phân tích, đánh giá chứng cứ tranh luận bảo vệ lý lẽ của mình, trong đó có
quyền đưa ra các chứng cứ để bác bỏ lý lẽ của phía bên kia và chỉ rõ việc áp
dụng quy phạm pháp luật nội dung nào để giải quyết vụ án.
+ Trong khi phát biểu tranh luận đánh giá về vụ án, các bên tham gia tố tụng đề
xuất quan điểm của mình về hướng giải quyết vụ án trên cơ sở các tài liệu,
chứng cứ đã thu thập được và đã được các bên thảo luận, xem xét, xác minh và
thừa nhận tại phiên toà.
- Căn cứ tranh luận
Pháp luật tố tụng dân sự quy định thủ tục tranh luận tại phiên toà là nhằm tạo
điều kiện tối đa về thời cơ để các bên đương sự tự chứng minh cho các yêu cầu
của họ bằng các lý lẽ mà họ phân tích, đánh giá công khai ngay tại phiên toà. Vì
vậy, căn cứ phát biểu khi tranh luận và đối đáp là:
+ Khi phát biểu về đánh giá chứng cứ, đề xuất quan điểm của mình về việc giảI
quyết vụ án, người tham gia tranh luận phải căn cứ vào tài liệu, căn cứ đã thu
thập được và đã được xem xét, kiểm tra tại phiên toà cũng như kết quả việc hỏi
tại phiên toà.
+ Khi tham gia tranh luận, các bên đương sự và những người tham gia tố tụng
khác không được dựa vào suy đoán cảm tính để tranh luận mà phải theo nguyên
lý “nói có sách, mách có chứng”.
- Trình tự tranh luận
Mục đích của tranh luận là để làm rõ thêm các tình tiết, sự kiện của vụ án.
Trong phần tranh luận hội đồng xét xử lắng nghe những người tham gia tố tụng
tranh luận về các chứng cứ, tài liệu của vụ án đồng thời dựa vào pháp luật đề
xuất với hội đồng xét xử hướng giải quyết vụ án để bảo vệ cho yêu cầu và quyền
lợi của họ.Trình tự phát biểu khi tranh luận như sau:
+ Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn phát biểu trước.
Nguyên đơn bổ sung ý kiến. Người có quyền và lợi ích hợp pháp được bảo vệ có
quyền bổ sung ý kiến.
18
+ Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn phát biểu. Bị đơn có
quyền bổ sung ý kiến.
+ Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan phát biểu. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền bổ sung ý kiến.
Thời gian tranh luận tại phiên toà dài hay ngắn là do tính chất phức tạp của
từng vụ án. Nhưng để cho đương sự và người đại diện của họ có thể thực hiện
được việc tranh luận bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Điều 233
BLTTDS quy định như sau:
+ Thời gian tranh luận cũng như số lần phát biểu ý kiến về một vấn đề không bị
hạn chế, chủ toạ phiên toà phải tạo điều kiện cho những người tham gia tranh
luận trình bày hết ý kiến. Chủ toạ phiên toà chỉ có quyền cắt những ý kiến không
có liên quan đến vụ án.
+ Trong qua trình tranh luận, người tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến
của người khác khi có những điểm khác nhau.
- Phát biểu của kiểm sát viên
Trong phiên toà xét xử vụ án dân sự, đương sự và người bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của họ có toàn quyền trong việc quyết định bảo vệ quyền, lợi ích
chính đáng của mình. Vì vậy, theo quy định của BLTTDS đại diện viện kiểm sát
không nhất thiết phải tham gia tất cả các phiên toà dân sự. Đối với những vụ án
dân sự BLTTDS quy định phải có sự tham gia của kiểm sát viên thì trình tự
phát biểu của kiểm sát viên tại phiên toà như sau:
+ Sau khi những người tham gia tố tụng phát biểu tranh luận và đối đáp xong,
chủ toạ phiên toà đề nghị kiểm sát viên phát biểu ý kiến của viện kiểm sát về
việc giải quyết vụ án.
+ Sau khi kiểm sát viên phát biểu xong, chủ toạ phiên toà tuyên bố kết thúc phần
tranh luận, hội đồng xét xử tiến hành nghị án ( Điều 234 BLTTDS).
- Trở lại việc hỏi
19
Toà án chỉ có thể quyết định giải quyết được vụ án dân sự khi các tình
tiết, sự kiện của vụ án đã được làm sáng tỏ.Vì vậy, Điều 235 BLTTDS quy định
qua tranh luận nếu xét thấy có tình tiết của vụ án chưa được xem xét, việc xem
xét chưa được đầy đủ hoặc cần xem xét thêm chứng cứ thì hội đồng xét xử quyết
định trở lại việc hỏi, sau khi hỏi xong phảI tiếp tục tranh luận
* Nghị án và tuyên án
- Nghị án
Nghị án là việc hội đồng xét xử xem xét quyết định giải quyết vụ án. Trên cơ
sở kết quả của việc hỏi và tranh luận tại phiên toà, hội đồng xét xử vào phòng
nghị án để thảo luận quyết định giải quyết các vấn đề của vụ án. Việc nghị án
được thực hiện theo tinh thần đổi mới hoạt động tư pháp đã được đề ra trong
Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị là “ Việc phán
quyết của toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên
cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ ý kiến của nguyên đơn, bị đơn và
người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật,
có sức thuyết phục trong thời hạn pháp luật quy định”.
Theo điều 236 BLTTDS việc nghị án được tiến hành như sau:
+ Hội đồng xét xử nghị án tại phòng riêng. Chỉ có các thành viên của hội đồng
xét xử mới có quyền nghị án.
+ Khi nghị án, chủ toạ phiên toà nêu từng vấn đề để hội đồng xét xử thảo luận
và quyết định. Hội đồng xét xử phải quyết định tất cả các vấn đề của vụ án bằng
cách biểu quyết theo đa số của từng vấn đề. Hội đồng nhân dân biểu quyết trước,
thẩm phán biểu quyết sau cùng.
+ Hội đồng xét xử chỉ được căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra ,xem
xét tại phiên toà, kết quả việc hỏi tại phiên toà và phải xem xét đầy đủ ý kiến của
những người tham gia tố tụng, kiểm sát viên để quyết định giải quyết vụ án.
20
+ Phải có biên bản nghị án ghi lại ý kiến đã thảo luận và quyết đinh của hội
đồng xét xử. Biên bản nghị án phải được các thành viên hội đồng xét xử ký tên
tại phòng nghị án trước khi tuyên án.
+ Trong trường hơp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, việc nghị án đòi hỏi phải
có thời gian dài thì hội đồng xét xử có thể quyết định thời gian nghị án nhưng
không quá 5 ngày làm việc, kể từ khi kết thúc tranh luận tại phiên toà.
- Tuyên án
Sauk hi bản án đã được thông qua, hội đồng xét xử trở lại phòng xét xử để
tuyên án. Thủ tục tuyên án được thực hiện như sau:
+ Khi tuyên án, mọi người trong phòng xét xử phải đứng dậy, trừ trường hợp
đặc biệt được phép của chủ toạ phiên toà;
+ Chủ toạ phiên toà hoặc một thành viên khác của hội đồng xét xử đứng đọc
nguyên văn bản án và sau khi đọc xong có thể giải thích thêm về việc thi hành
bản án và quyền khánh cáo. Đối với những vụ xử kín, toà án vẫn phải tuyên án
công khai;
+ Trong trường hợp có đương sự không biết tiếng việt thì sau khi tuyên án,
người phiên dịch phải dịch lại cho họ nghe toàn bộ bản án sang ngôn ngữ mà họ
biết.
3.3. Việc thực hiện Bộ luật tố tụng dân sự trong tiến hành phiên toà sơ thẩm
vụ án dân sự
Với tư cách là phiên xét xử vụ án dân sự lần đầu tiên của toà án, phiên toà
sơ thẩm tập trung các hoạt động tố tụng của những người tiến hành tố tụng và
những người tham gia tố tụng, tại đó, sự thật khách quan của những tình tiết, sự
kiện được Hội đồng xét xử trực tiếp kiểm tra, xem xét, đánh giá một cách công
khai thông qua thủ tục tố tụng để đưa ra những phán quyết cuối cùng dựa trên cơ
sở của việc nghe lời trình bày, đối thoại, đối chất và tranh luận của nguyên đơn,
bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp
pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự cũng như những
21
người tham gia tố tụng khác. Đánh giá đúng được vai trò quan trọng đó của
phiên toá sơ thẩm dân sự, tại toà án nhân dân thành phố Thanh hoá, những
người tiến hành tố tụng đã rất chú trọng tới việc thực hiện BLTTDS trong tiến
hành phiên toà sơ thẩm vụ án dân sự. Việc thực hiện đúng và chính xác các quy
của BLTTDS góp phần quan trọng trong việc giải quyết vụ án, đảm bảo quyền
và lợi ích hợp pháp của các đương sự.
BLTTDS được quốc hội khoá XI thông qua ngày 15/6/04 có hiệu lực từ
ngày 01/01/05, Bộ luật tố tụng đã dành hẳn một chương riêng quy định về phiên
toà sơ thẩm với 46 điều (từ Đ196->Đ241). đây là cơ sở quan trọng để đương sự
thực hiện quyền tự định đoạt của mình, đồng thời tạo hành lang pháp lý cho
việc đảm bảo các phiên toà dân sự thực sự có tranh tụng. Sau hơn 2 năm BLTT
DS 2005 có hiệu lực và được đưa vào thi hành trên thực tế các quy định của bộ
luật tố tụng dân sự nói chung và quy định về phiên toà dân sự sơ thẩm nói riêng
mang vào trong thực tiễn xét xử, các cơ quan tiến hành tố tụng không ngừng
nghiên cứu và ban hành kịp thời các văn bản hướng dẫn để tạo sự thống nhất
trong việc áp dụng pháp luật góp phần nâng cao hiệu quả giải quyết các vụ việc
dân sự nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các đương sự. Ngày
12/05/06 hội đồng thẩm phán toà án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số
02/2006/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành các quy định trong phần thứ 2 “ Thủ tục
giải quyết vụ án tại toà án cấp sơ thẩm” của BLTTDS để thống nhất áp dụng
pháp luật tại các toà án địa phương. Tại toà án nhân dân thành phố Thanh hoá,
Nghị quyết 02 đã có vai trò quan trọng trong việc áp dụng pháp luật tại phiên toá
sơ thẩm vụ án dân sự. Cụ thể Nghị quyết 02 đã có những hướng dẫn làm rõ hơn
các quy định của BLTTDS , đặc biệt là về thủ tục và điều kiện ra các quy định
tại phiên toà sơ thẩm, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ trong việc giải quyết vụ
án dân sự. Từ những hướng dẫn này, quyền tự định đoạt của các đương sự được
tôn trọng và phát huy, đồng thời nâng cao trách nhiệm của những người tiến
hành tố tụng. Tuy nhiên do BLTTDS là một bộ luật khá đồ sộ với hơn 400 điều
luật, phạm vi điều chỉnh rộng nên hiện tại số lượng văn bản hướng dẫn vẫn còn
thiếu không tránh khỏi sự lúng túng nhất định trong qua trình thực thi bộ luật
22
này. Mặt khác, BLTTDS vẫn không tránh khỏi những thiếu sót thường gặp, đó
là nội dung của những quy phạm quá chung, quá nhiều sự dẫn chiếu đến các
điều luật dẫn đến việc khó hình dung và thiếu thống nhất cả trong hoạt động
nghiên cứu và áp dụng pháp luật tố tụng dân sự. Đây là những khó khăn, vướng
mắc chung tại các toà án địa phương.
3.4. Những thuận lợi, vướng mắc trong việc tiến hành phiên toà sơ thẩm vụ
án dân sự, cách toà án đã tháo gỡ giải quyết
* Thuận lợi:
Việc giải quyết vụ án dân sự tại phiên toà sơ thẩm của toà án nhân dân
thành phố Thanh hoá trong những năm qua đã đạt được những kết quả khá cao.
Thủ tục tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án được tuân thủ khá triệt để từ
khâu bắt đầu phiên toà cho đến khi tuyên án, các phiên xét xử sơ thẩm vụ án dân
sự đã tuân thủ đúng thủ tục tố tụng. Bằng chứng là số vụ án bị huỷ do vi phạm
thủ tục tố tụng đã giảm đáng kể. Đạt được kết quả như vậy là do có những thuận
lợi sau:
- Về đội ngũ cán bộ toà án: Toà án nhân dân thành phố Thanh hoá với 15 thẩm
phán, 10 thư ký toà án, đây lá lực lượng nòng cốt giải quyết các vụ, việc tại toà
án. Với tuổi đời còn khá trẻ, năng lực chuyên môn được đào tạo chính quy, đây
là một thuận lợi lớn của toà án nhân dân thành phố Thanh hoá nói chung và
trong việc tiến hành phiên toà sơ thẩm vụ án dân sự nói riêng. Cán bộ toà án
thường xuyên được tập huấn, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn.
- Về cơ sở vật chất: Cùng với sự phát triển kinh tế của toàn tỉnh, cơ sở vật chất
của toà án nhân dân thành phố Thanh hoá ngày càng được hoàn thiện, tạo điều
kiện thuận lợi cho việc chuẩn bị cũng như việc xét xử phiên toà sơ thẩm được
diễn ra một cách trôi chảy.
* Vướng mắc:
Mặc dù đã đạt được những kết quả cao trong công tác xét xử phiên toà sơ
thẩm vụ án dân sự, bên cạnh đó vân còn tồn tại những vướng mắc như:
- Trong công tác chuyên môn, một số vụ án dân sự thẩm phán còn chưa lường
hết tính phức tạp của vụ án như có đương sự chống đối, cản trở, gây khó khăn
23
hoặc tránh né không chấp hành giấy triệu tập của toà án, nên chưa dự kiến được
các biện pháp xử lý để bàn bạc với các cơ quan hữu quan thống nhất làm việc,
chưa có sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan hữu quan, với chính quyền địa
phương, do vậy một số vụ án còn tình trạng để kéo dài hoặc phải hoãn nhiều lần,
ảnh hưởng đến kế hoạch và tiến độ chung của đơn vị.
- một số vụ án còn tình trạng đánh giá, phân tích chứng cứ chưa chính xác; áp
dụng chưa đầy đủ các điều khoản theo quy định của pháp luật. Cán bộ, thẩm
phán còn chưa thường xuyên nghiên cứu, tham khảo cập nhập những văn bản,
những hướng dẫn mới về áp dụng pháp luật của cơ quan có thẩm quyền; còn có
vụ án Thẩm phán còn thiếu chủ động trong điều khiển phiên toà, thực hiện
nguyên tắc tranh tụng tại phiên toà còn chưa đạt hiệu quả cao; Một số bản án
phần nhận xét chưa có tính thuyết phục cao.
- Đơn vị còn chưa tổ chức được thường xuyên những cuộc họp về chuyên môn
để rút kinh nghiệm những thiếu xót trong nghiệp vụ, để đề ra biện pháp khắc
phục những khuyết điểm, hạn chế trong chuyên môn, do vậy vẫn còn có án bị
cấp phúc thẩm xử huỷ, cải sửa.
- Nhận thức về pháp luật của nhân dân nói chung còn hạn chế, tình trạng không
tuân thủ các quy định của pháp luật còn khá phổ biến đã gây khó khăn cho toà
án trong việc giải quyết các vụ án dân sự, án Hôn nhân gia đình.
* Cách toà án đã tháo gỡ giải quyết:
Để tháo gở giải quyết những vướng mắc nêu trên đơn vị đang từng bước
tháo gỡ bằng cách:
- Trong công tác chuyên môn đơn vị tạo điều kiện tối đa cho thẩm phán được
tham gia các buổi bồi dưỡng nâng cao kiến thức chuyên môn, tạo điều kiện để
cán bộ toà án, thẩm phán có thời gian nghiên cứu, tham khảo cập nhật những
văn bản, những hướng dẫn mới về áp dụng pháp luật.
- Thường xuyên tổ chức các cuộc họp về chuyên môn để rút kinh nghiệm những
thiếu sót trong nghiệp vụ, đề ra biện pháp khác phục những khuyết điểm.
- Phối hợp với các cơ quan chức năng thường xuyên tổ chức tuyên truyền phổ
biến pháp luật nhằm nâng cao nhận thức của người dân về pháp luật.
24
IV. MỘT SỐ Ý KIẾN
4.1. Nhận xét
Qua thực tiễn nghiên cứu tình hình tại toà án nhân dân thành phố Thanh
hoá, cho thấy công tác xét xử nói chung và phiên toà sơ thẩm vụ án dân sự nói
riêng đã đạt được những kết quả khá cao. Toà án thành phố Thanh hoá là đơn vị
có số lượng án phải giải quyết hàng năm lớn nhất tỉnh, nhưng đơn vị vẫn đảm
bảo được chất lương giải quyết vụ án cả về mặt chất lượng lẫn số lượng. Cùng
với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, đời sống kinh tế của nhân dân ngày
càng được nâng cao, nhu cầu của người dân ngày càng tăng, cùng với nó là sự
phát sinh các tranh chấp, mâu thuẫn cũng ngày càng tăng theo, các vụ án dân sự
ngày càng tăng về số lượng và tính chất phức tạp ngày càng đa dạng. Đặc biệt là
tình trạng ly hôn ngày càng cao, nguyên nhân dẫn tới việc ly hôn ngày càng đa
dạng. Mặc dù vậy nhưng với sự nỗ lực cao của đội ngũ thẩm phán, cán bộ toà án
chất lượng giải quyết tại các phiên toà sơ thẩm vụ án dân sự vẫn được đảm bảo,
số lượng các vụ án được giải quyết ngày càng tăng cao. Kết quả đạt được như
trên đã góp phần quan trọng trong việc đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa, đảm
bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, nâng cao hiệu quả xét xử của
Toà án.
4.2. Một số kiến nghị
- Nâng cao năng lực chuyên môn của cán bộ toà án:
+ Toà án nhân dân thành phố Thanh hoá cần có nhiều biện pháp nâng cao trình
độ và năng lực hơn nữa cho đội ngũ thẩm phán, thư ký. Chẳng hạn bằng việc
tăng cường các đợt tập huấn về chuyên môn cho cán bộ toà án; Tạo điều kiện
cho họ được học thêm, tìm hiểu thêm về những kiến thức chuyên ngành; Triển
khai và thực hiện kịp thời các văn bản pháp luật mới được ban hành. Phối hợp
với các cơ quan chuyên ngành tạo điều kiện cho cán bộ toà án tham gia các lớp
học nâng cao về nghiệp vụ và kỷ năng xét xử .
+ Trong công tác tuyển chọn đội ngũ cán bộ cũng cần được chú trọng và thực
hiện theo một quy định chặt chẽ, nhất là quy trình bổ nhiệm thẩm phán. Đây là
25