Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Tài liệu MỘT SỐ GIẢI PHÁP KẾT HỢP GIỮA GIA TĂNG DÂN SỐ, PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.37 KB, 9 trang )

MỘT SỐ GIẢI PHÁP KẾT HỢP GIỮA GIA TĂNG DÂN SỐ, PHÁT TRIỂN
KINH TẾ VÀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
TS. Phạm Văn Nhật
Học viện Tài chính

Mối quan hệ giữa gia tăng dân số, phát triển kinh tế với bảo vệ môi
trường
Tác phẩm “Những hiểu biết về quy luật dân số và tác động của nó đến
nâng cao đời sống xã hội” của Thomas Malthus (1766 – 1834), đã dựa trên
những nghiên cứu về tốc độ gia tăng tự nhiên của dân số và sự phát triển của
sản xuất để đưa ra kết luận với nội dung chủ yếu là: dân số thế giới tăng theo
cấp số nhân, trong khi đó, độ màu mỡ của đất đai giảm dần, của cải vật chất
chỉ tăng theo cấp số cộng. Do vậy, bình quân đầu người về lương thực, thực
phẩm và của cải của xã hội ngày càng giảm xuống; từ đó dẫn đến không thể
tránh khỏi đói nghèo, chiến tranh, dịch bệnh, sự cạn kiệt nguồn tài nguyên
thiên nhiên và sự xuống cấp của môi trường.
Sự hạn chế trong việc lý giải nguyên nhân và hậu quả của sự gia tăng
dân số của học thuyết Malthus, do ông chưa thấy được khả năng to lớn về trí
tuệ của con người, vai trò của xã hội trong việc tác động đến gia tăng dân số
và tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sống. Tới nay, khoa học đã
khẳng định gia tăng tự nhiên dân số và tăng trưởng kinh tế là do yếu tố xã hội
chi phối, chứ không phải là quy luật tự nhiên vĩnh viễn.
Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế - xã hội với mức gia tăng dân số đã
được đề cập khá sâu trong lý thuyết về quá độ dân số. Lý thuyết này cho
rằng, trong quá trình phát triển ở các nước công nghiệp đã trải qua ba giai
đoạn:
Giai doạn 1: Thời kỳ trước cách mạng công nghiệp. Trong thời kỳ này tỷ
suất sinh và tỷ suất chết của dân số đều khá cao, với mức sinh cao hơn chút
ít so với mức chết ; vì vậy, gia tăng tự nhiên dân số chậm, tương đối ổn định.
Đây cũng là đặc điểm chung của dân số thế giới trước cách mạng công
nghiệp: Từ năm đầu công nguyên dân số thế giới khoảng 200 triệu người,


nhưng đến 840 năm sau mới đặt 1 tỷ người (gấp 5 lần).
Giai đoạn 2 Thời kỳ cách mạng công nghiệp. Cùng với những tiến bộ
trong sản xuất công nghiệp, đời sông vật chất, tinh thần, chăm sóc sức khoẻ
ban đầu và phát triển y tế cộng đồng đã được nâng cao. ở các nước này có
tỷ lệ chết giảm rõ rệt, tuổi thọ trung bình tăng nhanh; trong khi đó tỷ lệ sinh lại
không được giảm tương ứng. Kết quả là dân số tăng nhanh một cách nhanh
chóng, có nhiều trường hợp giai đoạn này gọi là giai đoạn “bùng nổ dân số”.
Giai đoạn 3: Sự phát triển sâu sắc về kinh tế – xã hội đã dẫn đến làm
thay đổi các chính sách nhà nước và nhận thức xã hội về dân số và gia đình
là như chuyển từ nhu cầu về số lượng sang chất lượng. Cùng với tuổi thọ
trung bình ngày càng tăng lên thì tỷ lệ sinh cũng đòng thời giảm dần. Đến
cuối giai đoạn này, tỷ lệ chết đều thấp và cân bằng mức gia tăng tự nhiên dân
số khoảng 1%, dân số ổn định Như vậy, dân số các nước phát triển đã đi từ
trạng thái cân bằng lẵng phí (sinh nhiều, chết nhiều) sang trạng thái cân bằng
tiết kiệm (sinh ít, chết ít). Giữa hai trạng thái này ở Châu Âu là một thời kỳ kéo
dài khoảng 150 năm.
Lý thuyết về quá độ dân số ý nghĩa quan trọng trong nghiên cứu đối với
các nước đang phát triển, mặc dù trên thực tế vẫn có những khác biệt là biến
đổi tỷ lệ sinhvà tỷ lệ chết ở các nước nghèo diễn ra nhanh hơn quá độ dân số
được rút ngắn lại. Vấn đề đặt ra là các nước nghèo trên thế giới hiện nay phải
thực sự quyết tâm chuyển đổi sang giai đoạn 3 khi phải đồng thời giải quyêt
vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Điều đó có ý nghĩa là, trong khi kinh tế
xã hôi vẫn chưa phát triển ở trình độ cao thì vẫn cần phải giảm tỷ lệ sinh,
đồng thời phải giảm tỷ lệ chết ở mức độ cho phép. Có như vậy mới không tạo
áp lực đối với kinh tế, tài nguyên và môi trường chung của đất nước và thế
giới.
Để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển, con người phải không ngừng
đẩy mạnh các hoạt động sản xuất ra của cải vật chất để đáp ứng cho các nhu
cầu của xã hội; do vậy, dù vô tình ha cố ý co người đã không ngừng tác động
đến môi trường thông qua quá trình khai thác và sử dụng các nguồn tài

nguyên thiên nhiên, phát triển kinh tế và thải loại các chất thải vào môi
trường. Sự tác động của dân cư đến môi trường dã được Paul Ehrlich và
Jộhnidren đưa ra năm 1971 dưới dạng biểu thức sau:
I =P.A.T
I: Tác động môi trường của các yếu tố liên quan đến dân số.
P: Quy mô dân số
A: Mức độ sử dụng tài nguyên thiên nhiên bình quân đầu người
T: Tác động môi trường của việc sử dụng công nghệ
Qua biểu thức trên, sự tác động của dân số đến môi trường phụ thuộc
vào tổng số dân, mức độ sử dụng tài nguyên thiên nhiên bình quân đầu
người và trình độ công nghệ ảnh hưởng đối với môi trường , nghĩa là công
nghệ càng tiên tiến thì ảnh hưởng đến môi trường càng ít hay càng nhỏ.
Như vậy, Các tác động tiêu cực của sự gia tăng tự nhiên của dân số
được thể hiện chủ yếu qua quá trình khai thác quá mức các nguồn tài nguyên
thiên nhiên làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, sự thải loại ngày càng lớn các
loại chất thải vào môi trường, làm cho môi trường sống bị xuống cấp nhanh
chóng. Tình trạng và ô nhiễm môi trường nghiêm trọng đã và đang diễn ra đe
doạ sự sống của dân cư và các hệ sinh thái ở nhiều nơi trên trái đất.
Chính sự chênh lệch ngày càng lớn mức sống giữa các nước công
nghiệp phát triển với các nước đang phát triển giữa đô thị và nông thôn trong
từng quốc gia đã dẫn đến tình trang di dân phổ biến sảy ra dưới nhiều hình
thức. Nguồn cung cấp nước sạch, nhà ở, cây xanh… không đáp ứng kịp thời
cho sự gia tăng dân số đô thị từ đó ngày càng làm trầm trọng hơn sự ô nhiễm
môi trường ở các thành phố lớn đặc biệt là các thành phố lớn ở các nước
đang phát triển.
Từ giữa thế kỷ XX đến nay, dân số thế giới tăng nhanh đặc biệt ở các
nước đang phát triển. Từ khoảng 2 tỷ người năm 1920 đến nay năm 2006
dân số thế giới đã lên tới 6.6 tỷ người. Do vậy để duy trì và phát triển cuộc
sống con người đã khai thác ồ ạt các nguồn tài nguyên thiên nhiên, làm tàn
phá và gây ô nhiễm môi trường phá vỡ cân bằng sinh thái đe doạ trực tiếp

đến chính sự sống còn của con người.
Nghèo đói trước hết được thể hiện ở sự thiếu các nhu cầu cơ bản của
con người như: ăn ở, mặc, học hành. Hay nói cách khác nghèo đói gắn liền
với mức sống thấp kém về cả vật chất lẫn tinh thần. Hiện nay, trên thế giới
vẫn còn hàng tỷ người sống trong cảnh nghèo đói, đặc biệt là tình trạng
nghèo đói diễn ra khá phổ biến ở các nước đang phát triển. Có rất nhiều
nguyên nhân khác nhau dẫn tới sự nghèo đói: chiến tranh, dịch bệnh, phân
phối thiếu công bằng… song nguyên nhân chính là do sự kém phát triển kinh
tế.
Phải đối mặt với việc đảm bảo sự sinh tồn, những người nghèo vừa là
nguyên nhân gây ra các vấn đề tài nguyên môi trường, vừa là nạn nhân của
chính sự tàn phá môi trường sống. Nghèo đói không chỉ làm hạn chế sự phát
triển thể lực, trí lực của con người; hạn chế tính sáng tạo trong hoạt động của
con người mà còn là một trong các nguyên nhân dẫn tới sự tàn phá môi
trường một cách thiếu ý thức (khai thác tài nguyên khoáng sản, rừng bừa bãi,
đốt phá rừng làm nương rãy….)
Do trình độ dân trí thấp, thiếu vốn và phương tiện sản xuất người nghèo
đã và đang khai thác bừa bãi, lãng phí các nguồn tài nguyên thiên nhiên, gây
ra sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên gây ô nhiễm và suy thoái môi trường, từ
đó làm suy yếu khả năng nuôi duỡng của các hệ sinh thái tự nhiên, kéo
theaiswj suy giảm về nhiều mặt: năng suất, sản lượng sản xuất kinh doanh,
chất lượng môi trường.
Dân số, môi trường và phát triển ngày càng được nhìn nhận như một hệ
thống quan hệ hữu cơ chiến lược của các quốc gia cũng như toàn cầu. Mục
tiêu có được một cuộc sống tốt hơn, với mức sống trình độ dân trí cao, điều
kiện chăm sóc sức khoẻ và cơ hội được phát triển không chỉ đặt ra cho thế
hệ hiện tại mà cho các thế hệ mai sau. Mục tiêu cần thực hiện là thông qua
sự kết hợp các chính sách do nhà nước đề ra.
Hiện nay, trên thế giới đang có tình trạng gia tăng dân số theo hai xu
hướng trái ngược nhau: Dân số tăng nhanh ở các nước đang phát triển, bên

cạnh đó dân số lại tăng rất chậm, ở các nước phát triển. Trong những thập kỷ
cuối của thế kỷ XX, trong khi tỷ lệ gia tăng dân số ở các nước Châu Âu chỉ
đạt trung bình 0 - 0.2%, Bắc Mỹ 0,2 - 0.5%; ngược lại, tỷ lệ gia tăng dân số
trung bình ở các nước châu phi là 2.4%, Trung Mỹ 2.4%, Nam Mỹ 1.5%, và
phần lớn các nước Châu á đạt trên 1,8%.
Tại các nước có tỷ lệ gia tăng tự nhiên dân số cao ở Châu Phi, Châu Mỹ
La tinh và Châu á có các điều kiện sống và phát triển kinh tế xã hội ở trình độ
thấp kém về mọi mặt, nguy cơ tàn phá tài nguyên môi trường và tài nguyên
thiên nhiên rất cao; còn tại các nước dân số tăng tỷ lệ thấp ở Châu Âu, Bắc
Mỹ lại đang gặp phải đối mặt với tình trạng thiếu lao động ngày càng trầm
trọng.
Cho tới nay nhiều nước trên thế giới đã không ngừng diễn ra quá trình
dịch chuyển kinh tế, phát triển mạnh mẽ ở các khu công nghiệp, các vùng
kinh tế mới để khai thác các nguồn lợi tự nhiên. Từ đó đã kéo quá trình di dân
dưới nhiều hình thức khác nhau để đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống
cho người dân. Đồng thời góp phần vào công cuộc phát triển chung của đất
nước.
Vấn đề tài nguyên, dân số, kinh tế và môi trường; xét cho cùng chính là
vấn đề lợi ích lâu dài của con người; nếu tách riêng từng lĩnh vực để giải
quyết thì thường không mang lại kết quả như mong muốn bởi chúng có mối
quan hệ gắn bó mật thiết và tác động tương hỗ lẫn nhau.
Một số giải pháp kết hợp giữa gia tăng dân số, phát triển kinh tế và
bảo vệ môi trường.
Việt Nam là một trong các nước đang phát triển, trong những năm thực
hiện công cuộc đổi mới, tuy tốc độ tăng trưởng kinh tế đã và đang đạt mức
khá cao, song tốc độ gia tăng tự nhiên của dân số vẫn còn cao, chất lượng
môi trường sống vẫn đang ngày càng bị suy giảm. Để giải quyết tốt mối quan
hệ giữa gia tăng dân số, phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường, đòi hỏi
chúng ta phải sử dụng kết hợp đồng thời nhiều giải pháp khác nhau: Giáo
dục, pháp luật, hành chính, kinh tế….Vấn đề đựơc đặt ra là phải lựa chọn giải

pháp ưu tiên nào. Thực tế cho thấy, giải pháp hữu hiệu cần phải được ưu
tiên lự chọn để giải quyết tốt nhất mối quan hệ giữa gia tăng dân số, phát
triển kinh tế và bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiạn nay, là các giải pháp tài
chính; bởi vì, sử dụng các giải pháp tài chính cho phép chúng ta có thể giải
quyết đực tận gốc mối quan hệ giữa gia tăng dân số, phát triển kinh tế với
bảo vệ môi trường.
* Thuế ô nhiễm môi trường
Đây là một trong các khoản thu rất quan trọng của ngân sách nhà
nước nhằm vào các hoạt động sản xuất kinh doanh có liên quan tới lĩnh vực
bảo vệ môi trường; đặc biệt là nhằm điều tiết một phần thu nhập cảu các
doanh nghiệp, bù đắp cho những chi phí do xã hội phải bỏ ra để thực hhiện
các biện pháp khác phục các hậu quả do ô nhiễm môi trường gây ra. Thuế
môi trường dựa trên việc tính toán mức ô nhiễm do hoạt động sản xuất kinh
doanh gây ra.
Việc sử dụng thuế ô nhiễm môi trường môi trường không chỉ hạn chế
được tối đa những tác động tiêu cực gây hại tới môi trường trong hoạt động
sản xuất kinh doanh mà còn khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư đổi mới
công nghệ, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất và từng bước nâng cao hiệu
quả sản xuất. Đây là giải pháp tích cực nhằm điều hoà trực tiếp các quan hệ
lợi ích giữa xã hội và doanh nghiệp, từ đó làm lành mạnh các quan hệ xã hội,
khuyến khích ý thức tiết kiệm, giảm bớt sự lãng phí trong quá trình khai thác,
sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên và tăng cường các biện pháp bảo
vệ môi trường.
Trong thực tế có rất nhiều loại thuế liên quan đến môi trường, và có
thể phân thành một số loại chủ yếu như: Thuế gián tiếp nhằm vào môi
trường, là loại thuế có thể giải quyết hoặc cải thiện các vấn đề môi trường
thông qua thay đổi giá cả tương đối của các hoạt động từ đó hạn chế các
hoạt động tạo ra sự xâm hại môi trường; thuế không có mục tiêu môi trường
nhưng trong thực tế lại có tác động đến môi trường; thuế ô nhiễm môi trường
với ý nghĩa toàn bộ nguồn thu thừ sắc thuế này được dành riêng để chi tiêu

cho các hoạt động môi trường.
Do những khó khăn trong việc áp dụng thuế ô nhiễm môi trường môi
trường trực tiếp trong thực tiễn, có một số loại thuế khác có khả năng áp
dụng đạt được mục tiêu môi trường đã được đề xuất áp dụng. Các loại thuế
này được gọi là thuế ô nhiễm môi trường gián tiếp vì chúng được thu vào việc
sử dụng các sản phẩm đầu vào hoặc tiêu thụ các hàng hoá đầu ra với lý do
việc sử dụng các loại sản phẩm, hàng hoá này liên quan tới việc gây ô nhiễm
hoặc xâm hại môi trường, thuế ô nhiễm môi trường gián tiếp làm thay đổi giá
cả tương đối của sản phẩm, không thu trực tiếp vào việc gây ô nhiễm hoặc
xâm hại môi trường.
Để thu thuế ô nhiễm môi trường gián tiếp đối với sản phẩm hàng hoá
có thể căn cứ vào việc xác định các chi phí đầu vào của hoạt động sản xuất
hoặc dịch vụ chắc chắn tạo ra ô nhiễm với một tỷ lệ nhất định. Các trường
hợp này xảy ra khi không có một “công nghệ cuối đường ống” cho phép điều
chỉnh việc sử dụng các đầu vào có khả năng ảnh hưởng tới môi trường. Tuy
nhiên, ngay trong trường hợp này, việc thu thuế đầu vào như vậy cũng có thể
sẽ mất đi sự ưu tiên cho kế hoạch phát triển “công nghệ cuối đường ống” mà
công nghệ này mới thực sự giảm thiểu những tác nhân gây hại cho môi
trường.
Có một số sắc thuế có tác động môi trường thông qua việc thực hiện
một số mục tiêu kinh tế nhất định, chẳng hạn như thuế tiêu thụ đặc biệt đối
với sản phẩm nhiên liệu, loại thuế này có lợi cho môi trường trên cơ sở làm
giảm bớt các nguyên nhân gây ô nhiễm. Một số sắc thuế được đặt tên là
thuế ô nhiễm môi trường nhưng thực chất chỉ tạo ra các nguồn thu để dành
riêng cho các mục tiêu môi trường mà không làm thay đổi giá cả tương đối
của việc sử dụng nguồn lực môi trường.
- Phí và lệ phí ô nhiễm môi trường
Phí và lệ phí ô nhiễm môi trường môi trường là khoản thu của Nhà
nước đối với các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nhằm bù đắp một phần chi
phí thường xuyên và không thường xuyên về bảo vệ tài nguyên thiên nhiên,

phòng chống ô nhiễm. Khác với thuế ô nhiễm môi trường, phần lớn kinh phí
thu phí sẽ được sử dụng, điều phối cho công tác quản lý, bảo vệ môi trường
và giải quyết một phần các vấn đề môi trường do những người đóng phí gây
ra.
Đây là những khoản tiền đánh vào việc thải chất ô nhiễm vào không
khí, nước hoặc đất hoặc việc gâẩc ô nhiễm tiếng ồn. Phí và lệ phí phát thải
liên quan tới số lượng và tính chất của chất gây ô nhiễm và chi phí tác hại
gây cho môi trường. Theo đó nếu lượng phát thải lớn, chất ô nhiễm có tính
độc hại cao sẽ phải đóng phí hoặc lệ phí cao.
Về lý thuyết, các loại phí và lệ phí phát thải có một số ưu điểm : Chúng
khuyến khích các cơ sở sản xuất giảm ô nhiễm với chi phí thấp hơn so với
chi phí cần cho phương cách “Mệnh lệnh- Kiểm soát”. Chúng kích thích các
cơ sở sản xuất đầu tư vào công nghệ kiểm soát ô nhiễm mới. Chúng tạo ra
thu nhập để tài trợ và nâng cao các hoạt động cần thiết. Cuối cùng, các phí
phát thải có thể bù đắp, ít nhất là một phần cho những chi phí không được
thanh toán của các hoạt động bảo vệ môi trường công nghiệp nói chung.
Chúng bao gồm các chi phí của chính phủ liên quan đến việc xây dựng và
cưỡng chế thi hành các quy định về môi trường cũng như những chi phí nảy
sinh từ những xả thải được phép nhưng vẫn còn gây ra tổn thất cho các tài
nguyên thiên nhiên.
Tuy nhiên, việc định ra các mức phí và lệ phí lại phức tạp hơn vì địa
điểm của các nguồn ô nhiễm lại riêng lẻ sẽ quyết định mức độ tổn thất đối với
chất lượng môi trường xung quanh, do vậy đòi hỏi phải có những mức phí
riêng cho từng cơ sở sản xuất . Điều này dẫn đến sự cạnh tranh giữa các chủ
thể để phát triển kinh tế, họ tìm đủ mọi cách để lảng tránh các khoản phí và lệ
phí mà đáng ra họ phải nộp; chính vì vậy mà họ đã làm tổn hại tới lợi ích
chung của xã hội, làm tổn hại trực tiếp tới chất lượng môi trường khu vực.
Do sự phức tạp của các nguồn ô nhiễm, việc đặt ra và quản lý các phí
đối với nhiều chất ô nhiễm từ những nguồn đơn và đa điểm, có thể sẽ không
thực hiện được, trong việc giám sát và buộc thực thi, tại các nước đang phát

triển và thậm chí là các nước phát triển. Hơn nữa chính quyền địa phương,
trong phần lớn các khu vực không đủ mạnh để sử lý việc quy hoạch, phân
tích, giám sát, cưỡng chế thi hành, tranh chấp, thương lượng liên vùng phức
tạp mà hệ thống xả thải yêu cầu. Ngoài ra việc xác định các ranh giới khu vực
để áp dụng phí có nhiều khó khăn hơn. Ví dụ trong trường hợp nước thì xác
định đường phân thuỷ là tương đối dễ, song khu vực thuộc thẩm quyền quản
lý của cơ quan hữu trách trong toàn lưu vực lại thường không rõ ràng. Vấn đề
lại càng phức tạp hơn trong trường hợp đối với các vùng phân không, với tính
biến đối của sự phát tán ô nhiễm.
Trợ cấp môi trường.
Các khoản trợ cấp bao gồm các khoản tiền trợ cấp, các khoản vay với
lãi suất thấp, khuyến khích về thuế,… để khuyến khích những người gây ô
nhiễm thay đổi hành vi, hoặc giảm bớt chi phí trong việc giảm ô nhiễm. Ví dụ:
chính phủ trợ cấp cho các hoạt động chế biến rác thải công nghiệp, rác thải
sính hoạt. Tài trợ cho việc mua sắm các thiết bị làm giảm ô nhiễm, hoặc để
trợ cấp cho việc đào tạo bồi dưỡng cán bộ hoạt động trong lĩnh vực bảo vệ
môi trường. ở một số nước phát triển, Nhà nước thường trợ cấp cho chính
quyền địa phương tiến hành các chương trình nghiên cứu và triển khai công
nghệ, hoặc để trợ giúp cho việc áp dụng những kỹ thuật mới mà luật pháp và
các quy định yêu cầu. Trợ cấp cũng được áp dụng để kiểm soát ô nhiễm, tái
chế, tái sử dụng các chất thải gây ô nhiễm môi trường môi trường .
Quỹ môi trường
Quỹ môi trường là một thể chế hoặc một cơ chế được thiết kế để nhận
tài trợ vốn từ các nguồn khác nhau, và từ đó phân phối các nguồn này để hỗ
trợ quá trình thực hiện các dự án hoặc các hoạt động cải thiện chất lượng
môi trường. Nguồn thu cho quỹ môi trường được hình thành từ nhiều nguồn
khác nhau như: phí và lệ phí môi trường, đóng góp tự nguyện của các cá
nhân và DN, đóng góp của các tổ chức, các nhà tài trợ quốc tế, tiền lãi và các
khoản lợi khác thu được từ hoạt động của quỹ, tiền xử phạt hành chính do vi
phạm quy định về bảo vệ môi trường,…

Hỗ trợ do quỹ môi trường cung cấp thường dưới hình thức hỗ trợ tài
chính với các điều khoản ưu đãi, chẳng hạn như các khoản trợ cấp không
hoàn lại, các khoản vay vốn dài hạn với lãi suất thấp hơn lãi suất trên thị
trường để khuyến khích các dự án đầu tư bảo vệ môi trường, hỗ trợ các dự
án nghiên cứu triển khai, đào tào và truyền thông môi trường, các dự án kiểm
soát và xử lý ô nhiễm môi trường. Quỹ môi trường có một số đặc trưng là:
Hình thành và tăng cường mối quan hệ đa ngành; Tạo điều kiện tăng cường
vai trò giám sát của các cấp chính quyền và các DN đối với nguồn vốn dành
cho các hoạt động môi trường; Tạo dựng tính ổn định lâu dài cho việc thực
hiện các hoạt động môi trường.
Tóm tắt
Qua thực tế về gia tăng tự nhiên của dân số, phát triển kinh tế và bảo vệ
môi trường của các quốc gia trên thế giới, chúng ta thấy rằng; đây là ba lĩnh
vực có mối quan hệ mật thiết với nhau. Để giả quyết tốt mối quan hệ giữa ba
lĩnh vực cần phải sử dụng tổng hợp các giải pháp khác nhau; trong đó phải
đặc biệt coi trọng tới các gải pháp tài chính, bởi vì các giải pháp tài chính cho
phép giải quyết tận gốc các mối quan hệ giữa gia tăng tự nhiên của dân số,
phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường theo hướng tích cực.







Tài liệu tham khảo


1. Bộ Khoa học Công nghệ và môi trường (2004), “Tài nguyên và môi
trường”, Nxb Khoa học - kỹ thuật, Hà Nội.

2.
TS. Hoàng Hải (2004), “Đầu t phát triển các khu công nghiệp ở Việt Nam trong
giai đoạn chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”. NXB Chính trị quốc gia.

3.
GS.TS Hoàng Ngọc Hoà (2005). “Khu công nghiệp, khu chế xuất đối với sự phát
triển bền vững ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp”. Học viện Chính trị quốc
gia HCM Tạp chí Kinh tế và phát triển

4. Hội bảo vệ thiên nhiên Việt Nam Việt Nam, tạp chí bảo vệ môi trường
số 3- 8 năm 2005
5. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia (2006), Luật bảo vệ môi trường (2005)
và nghị định hướng dẫn thi hành, Hà Nội.
6. Phạm Văn Nhật (2003), Quá trình đô thị hoá và sự ảnh hưởng của nó tới
môi trường nước và không khí ở thành phố Việt Trì, Luận án tiến sĩ, Hà Nội.
7. Lê Thông - Nguyễn Hữu Dũng (2004), Dân số - tài nguyên và môi
trường, Nxb giáo dục, Hà Nội.
8.
GS.TS Lê Thông - TS Nguyễn Văn Phú-PGS.TS Nguyễn Minh Huệ (2001), “Địa
lý kinh tế-xã hội Việt Nam”. NXB Giáo dục, Hà Nội

9. Tổng luận khoa học công nghệ và kinh tế “Sản xuất sạch”(2005), Trung
tâm thông tin tư liệu khoa học và công nghệ Quốc gia, Hà Nội
10.
Uỷ ban Khoa học Nhà nước Việt Nam (2004), Kế hoạch quốc gia về môi
trường và phát triển bền vững 2006 - 2010, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

11. Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (2006) - NXB Chính trị quốc gia.
12. .
Một số trang web







×