Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Tài liệu tieu luan chu nghia xa hoi khoan hoc doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (255.13 KB, 16 trang )

II- ÐÁNH GIÁ KHÁI QUÁT 20 NĂM ÐỔI
MỚI
Cập nhật lúc 09:01, Thứ Sáu, 03/02/2006 (GMT+7)
,
Hai mươi năm qua, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Ðảng, toàn dân, công cuộc đổi
mới ở nước ta đã đạt những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử.
Ðến nay, mặc dù còn không ít khó khăn, hạn chế, đất nước ta đã có sự thay đổi cơ bản
và toàn diện. Kinh tế ra khỏi khủng hoảng và có sự tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa đang đẩy mạnh. Ðời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và
khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định.
Quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không
ngừng được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra
thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp.
Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Ðảng ta là đúng đắn, sáng tạo;
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ
hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản.
Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh,
công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa
trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt
Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của
Ðảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng nền văn
hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa,
thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa


của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Ðảng trong sạch, vững mạnh; bảo
đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia; chủ động và tích cực hội nhập quốc
tế.
Từ thực tiễn đổi mới, Ðảng và Nhà nước ta càng tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm lãnh
đạo và quản lý. Có thể rút ra một số bài học lớn sau đây:
Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Ðổi mới không phải
là từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội, mà là làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức
đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn để đi tới thắng lợi. Ðổi mới không
phải là xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác -
Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng của Ðảng và kim chỉ nam
cho hành động cách mạng.
Hai là, đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù
hợp. Phải đổi mới từ nhận thức, tư duy đến hoạt động thực tiễn; từ kinh tế, chính trị, đối
ngoại đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; từ hoạt động lãnh đạo của Ðảng,
quản lý của Nhà nước đến hoạt động cụ thể trong từng bộ phận của hệ thống chính trị.
Ðổi mới tất cả các mặt của đời sống xã hội nhưng không làm đồng loạt, dàn đều, mà
phải có trọng tâm, trọng điểm, có những bước đi thích hợp; bảo đảm sự gắn kết chặt
chẽ và đồng bộ giữa ba nhiệm vụ: phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Ðảng là
then chốt và phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội.
Ba là, đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ
động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới. Cách mạng
là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân. Những ý kiến, nguyện vọng và
sáng kiến của nhân dân có vai trò quan trọng trong việc hình thành đường lối đổi mới
của Ðảng. Dựa vào nhân dân, xuất phát từ thực tiễn phong phú của nhân dân, thường
xuyên tổng kết thực tiễn, phát hiện nhân tố mới, từng bước tìm ra quy luật các mặt của
cuộc sống để đi lên - đó là chìa khóa của thành công.
Bốn là, phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức khai thác ngoại lực, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới. Phát huy nội lực, xem đó là
nhân tố quyết định đối với sự phát triển; đồng thời coi trọng huy động các nguồn ngoại

lực, thông qua hội nhập và hợp tác quốc tế, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để phát
huy nội lực mạnh hơn, nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước nhanh
và bền vững. Hội nhập và hợp tác quốc tế phải dựa trên các nguyên tắc tôn trọng độc
lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau,
bình đẳng, cùng có lợi; giữ vững độc lập dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo
vệ và phát triển nền văn hóa dân tộc.
Năm là, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng, không ngừng đổi mới
hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa,
bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Xây dựng Ðảng trong sạch, vững mạnh là khâu
then chốt, là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới. Xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là yêu
cầu bức thiết của xã hội; Nhà nước phải thể chế hóa và tổ chức thực hiện có hiệu quả
quyền công dân, quyền con người. Phát huy vai trò Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân trong việc tập hợp các tầng lớp nhân dân, phát huy sức mạnh của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc để thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới.
Xác lập những mối quan hệ hợp lý giữa Ðảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc cùng các
đoàn thể nhân dân thông qua hệ thống cơ chế thích hợp, làm cho tất cả các bộ phận
cấu thành hệ thống chính trị ngày càng vững mạnh, quyền làm chủ của nhân dân được
thực hiện ngày một tốt hơn, từ đó tạo ra động lực mạnh mẽ cho công cuộc đổi mới.
Qua tổng kết lý luận - thực tiễn 20 năm đổi mới, chúng ta càng thấy rõ giá trị định
hướng và chỉ đạo to lớn của "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội" (năm 1991) đồng thời cũng thấy rõ thêm những vấn đề mới đặt ra
cần được giải đáp. Sau Ðại hội X, Ðảng ta cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và phát
triển để có một Cương lĩnh mới phù hợp với những nhiệm vụ xây dựng đất nước trong
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, đặt nền tảng chính trị, tư
tưởng cho mọi hoạt động của Ðảng, Nhà nước và nhân dân ta trong quá trình đưa
nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội.
T ổ ng quan nh ữ ng thành t ự u v ề xây d ự ng văn hoá, xã h ộ i, con ng ườ i ở Vi ệ t Nam trong 20
Tổng quan những thành tựu về xây dựng văn hoá, xã hội, con người ở Việt Nam trong 20 năm
đổi mới

(ĐCSVN)- Song song với việc phát triển và tăng trưởng kinh tế, 20 năm qua, dưới sự lãnh
đạo của Đảng; việc xây dựng nền văn hoá mới và giải quyết các vấn đề xã hội, con người
luôn luôn được quan tâm. Tăng trưởng kinh tế gắn chặt với phát triển văn hoá, xã hội và con
người. Nhiều học giả nước ngoài đã khẳng định rằng: Việt Nam là tấm gương sáng trong
việc phát triển kinh tế thị trường kết hợp và giải quyết thành công nhiều vấn đề thuộc lĩnh
vực văn hoá, xã hội và con người.
Hôm nay đây, nhìn lại chúng ta có thể khẳng định những nét tổng quan nhất về thành tựu văn
hoá, xã hội và con người ở Việt Nam sau 20 năm qua là:
1.Những thành công lớn có ý nghĩa lịch sử trong giải quyết việc làm, xoá đói, giảm nghèo.
Trước đổi mới, đời sống của mọi tầng lớp dân cư gặp muôn vàn khó khăn. Việc làm khan
hiếm, số người không có việc làm ngày càng tăng. Sự phân hóa giàu nghèo diễn ra nhanh
chóng. Đói và nghèo diễn ra ở mọi vùng đất nước và thâm nhập ở mọi tầng lớp dân cư. Lấy
phát triển kinh tế làm hàng đầu, kết hợp với sức mạnh tổng hợp trong nước và quốc tế, bằng
trí tuệ và tinh thần chủ động, đoàn kết, Đảng đã thật sự lãnh đạo thành công trong việc giải
quyết việc làm, xoá đói, giảm nghèo, tạo ra sự chuyển biến, cải thiện rõ rệt đời sống của đại
bộ phận nhân dân.
Đến năm 2005 chúng ta đã tạo được việc làm cho 7,5 triệu lao động. Công cuộc xoá đói, giảm
nghèo được đẩy mạnh và đạt kết quả đầy ấn tượng. Theo tiêu chuẩn quốc gia, tỷ lệ hộ đói
giảm từ 30% năm 1992 xuống 7% năm 2005. Còn theo tiêu chuẩn quốc tế (tính theo chuẩn 1
đôla/ngày/người), thì tỷ lệ nghèo chung đã giảm từ 58% năm 1993 xuống 28,9% năm 2002;
nếu tính theo chuẩn mới (2 đô la/ngày/người) thì hộ nghèo ở Việt Nam năm 2004 là 27,5%.
Ngay từ năm 2002, Việt Nam đã được Liên hợp quốc đánh giá là “hoàn thành sớm hơn so với
kế hoạch toàn cầu: giảm một nửa tỷ lệ nghèo vào năm 2015”.
2. Sự nghiệp giáo dục có bước phát triển mới về quy mô, đa dạng hóa về loại hình trường lớp
từ mầm non, tiểu học đến cao đẳng, đại học.
Năm 2000, cả nước đã đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học; đến
giữa năm 2004, 20 tỉnh, thành phố đã đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở. Tỷ lệ người lớn (từ
15 tuổi trở lên) biết chữ đã tăng từ 88% cuối năm 1980 lên 95% năm 2004.
Hầu hết xã, phường đã có trường mầm non, tiểu học và trung học cơ sở. Các huyện và khu
vực đã có trường phổ thông trung học. Các trường đại học được mở thêm nhiều, các trường

dạy nghề được khôi phục và ngày càng phát triển. Phong trào khuyến học, khuyến tài được
phát động rộng khắp, phong trào xã hội hoá giáo dục ngày càng toả rộng và được toàn dân tích
cực hưởng ứng. Nhờ những cố gắng đó mà nguồn nhân lực xã hội được nâng cao về chất
lượng. Tính đến giữa năm 2004, 22,5% số người lao động đã được đào tạo, trong đó số đào
tạo nghề là 13,3%.
3. Khoa học - công nghệ và tiềm lực khoa học – công nghệ có bước phát triển nhất định.
Nhiều thành tựu khoa học và công nghệ đã được đưa vào áp dụng trong thực tế, mang lại hiệu
quả kinh tế - xã hội rõ rệt đặc biệt là trong các lĩnh vực nông nghiệp, y tế, bưu chính viễn
thông Kinh phí đầu tư cho khoa học và công nghệ được tăng lên. Nước ta đã có quan hệ hợp
tác về khoa học và công nghệ với trên 70 nước, vùng lãnh thổ và tổ chức quốc tế. Đội ngũ cán
bộ khoa học và công nghệ (bao gồm Khoa học Xã hội, Khoa học Tự nhiên và Khoa học Kỹ
thuật) đã góp phần cung cấp luận cứ khoa học phục vụ hoạch định đường lối, chủ trương
chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước; tham gia xây dựng các chương trình, dự án phát
triển kinh tế-xã hội; tiếp thu, làm chủ và ứng dụng có hiệu quả các công nghệ nhập từ nước
ngoài.
4. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có nhiều tiến bộ, góp phần hạ thấp đáng kể tỷ lệ tử
vong ở trẻ sơ sinh, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi, cơ bản thanh toán một số
dịch bệnh phổ biến trước đây, khống chế thành công bệnh viêm đường hô hấp cấp (SARS).
Tuổi thọ trung bình của người dân từ 63 tuổi năm 1990 tăng lên 71,3 tuổi năm 2005. Chỉ số
phát triển con người (HDI) từ mức dưới trung bình (0,498 năm 1991) tăng lên mức trung bình
(0,688 năm 2002). Năm 2004, với chỉ số 0,691, nước ta xếp thứ 112 trên tổng số 177 nước
được điều tra. Năm 2005, Việt Nam được lên 4 bậc, xếp thứ 108 trong tổng số 177 nước
được điều tra. Điều đáng chú ý là, nếu so với thứ bậc xếp hạng GDP bình quân đầu người thì
thứ bậc xếp hạng HDI của Việt Nam luôn cao hơn. Chẳng hạn, năm 2002 vượt lên 19 bậc:
GDP bình quân đầu người xếp thứ 128 trên tổng số 173 nước được thống kê, còn HDI xếp
thứ 109/173. Điều dó chứng tỏ sự phát triển kinh tế của Việt Nam có xu hướng phục vụ sự
phát triển con người, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội tốt hơn so với một số nước đang
phát triển có GDP bình quân đầu người cao hơn nước ta.
5. Sự nghiệp văn hoá có nhiều tiến bộ.
Những giá trị và đặc sắc văn hóa của 54 dân tộc anh em được kế thừa và phát triển, góp phần

làm phong phú thêm nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa dạng. Giao lưu, hợp tác văn
hóa với nước ngoài được mở rộng. Một số nét mới trong chuẩn mực văn hóa của con người
Việt Nam từng bước hình thành. Các tài năng văn hóa - nghệ thuật được khuyến khích. Nhiều
di sản văn hóa - cả vật thể và phi vật thể - được giữ gìn, tôn tạo. Việc phân phối các sản
phẩm văn hoá đã nhanh và đều khắp hơn. Hệ thống các sản phẩm văn hoá góp phần trực tiếp
vào sự phát triển, tăng trưởng của ngành du lịch, của nền kinh tế quốc dân. Hoạt động giao
lưu, hợp tác quốc tế về văn hoá thực sự khởi sắc, góp phần làm cho vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế được nâng cao; văn hoá, con người và cuộc sống Việt Nam được bạn bè hiểu
biết rõ hơn. Dân trí được nâng lên, cùng với văn hoá phát triển đã góp phần khơi dậy tính chủ
động sáng tạo của nhân dân và nâng cao tính đồng thuận xã hội, tạo ra bầu không khí dân chủ,
niềm tin của nhân dân được nâng lên không ngừng.
6. Cơ cấu xã hội nước ta có những biến đổi theo hướng tiến bộ.
Giai cấp công nhân có những biến đổi cả về số lượng, chất lượng cũng như về cơ cấu. Đến
năm 2001, công nhân trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất, kinh
doanh là 4,53 triệu người. Đầu năm 2004, công nhân trực tiếp làm việc trong các cơ sở sản
xuất - kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế là 7,39 triệu người, chiếm 17,49% lao động xã
hội. Trình độ học vấn và kỹ năng nghề nghiệp, nhìn chung, đã được nâng lên, thể hiện rõ nhất
là ở một số ngành như bưu chính viễn thông, dầu khí, xây dựng cơ bản, cơ khí đóng tầu…
Nông dân là lực lượng đang có sự biến đổi mạnh mẽ. Nông dân thuần nông ngày càng giảm.
Đã hình thành những chủ trang trại, những hộ sản xuất cá thể, những xã viên kiểu mới của các
hợp tác xã kiểu mới có khả năng thích ứng với cơ chế kinh tế thị trường, tham gia tích cực
vào công cuộc phát triển đất nước theo đường lối đổi mới. Đã hình thành các quan hệ hộ -
hợp tác xã, hộ - doanh nghiệp tư nhân, hộ - doanh nghiệp nhà nước, hộ - trang trại.
Đội ngũ trí thức nước ta hiện nay có 1,8 triệu người với trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên,
trong đó có 16 nghìn thạc sĩ, 14 nghìn tiến sĩ và tiến sĩ khoa học. Đây là một lực lượng có vai
trò quan trọng đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Những thành tựu trên có được là do Đảng ta đã nhận thức đúng mối quan hệ khăng khít giữa
tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội. Trong quá trình phát triển luôn luôn coi
con người với tư cách vừa là động lực của phát triển kinh tế xã hội, vừa là nền tảng tinh thần
của xã hội vừa là chủ thể của sự nghiệp xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến và đậm đà

bản sắc dân tộc.
Những đóng góp của khoa học xã hội trong tiến trình phát triển của đất nước
(ĐCSVN)- Sau 20 năm đổi mới toàn diện đất nước, nước ta đã đạt được những thành tựu to
lớn, mang ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp xây dựng một nước Việt Nam Dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tiếp tục ổn định và phát triển; tạo lập được
những tiền đề cần thiết để bắt đầu từ năm 2001, đất nước chuyển sang giai đoạn đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa; năng lực nội sinh của khoa
học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực an ninh, quốc phòng được tăng cường; đời sống
vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Chỉ số phát triển con người (HDI)
được liên tục nâng cao và thành tựu phát triển con người của Việt Nam được UNDP đánh giá
là tốt nhất khu vực Đông Nam Á. Những thành tựu của 20 năm đổi mới làm tăng thêm thế và
lực mới của Việt Nam, tạo điều kiện để đẩy mạnh hơn nữa công cuộc công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước.
Để có được những thành tựu đó, khoa học xã hội đã góp phần quan trọng, trong việc cung cấp
những luận cứ khoa học cho đường lối đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, trước hết là đổi mới tư duy lý luận trên tất cả các lĩnh vực cơ bản của sự phát
triển, nhất là đổi mới tư duy kinh tế.
Nghiên cứu đó có liên quan trực tiếp tới việc hoạch định đường lối, chiến lược, chính sách
phát triển nhanh và bền vững của Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế - xã hội,
văn hoá - con người, môi trường, quốc phòng, an ninh ở mỗi giai đoạn. Những kết quả nghiên
cứu của các chương trình, đề tài nghiên cứu đã góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận,
luận giải những vấn đề thực tiễn mới nẩy sinh trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa, góp phần xây dựng và thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng khóa
VI, VII, VIII và IX. Kết quả nghiên cứu của các chương trình, đề tài được in thành sách, được
công bố trên các tạp chí khoa học đã góp phần nâng cao nhận thức của nhân dân về con đường
mà Việt Nam đã lựa chọn, về sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước, tạo sự đồng thuận
cao trong xã hội.
Có thể nói, chất lượng nghiên cứu khoa học xã hội đã được nâng cao thêm một bước. Những
tri thức khoa học hiện đại đã bước đầu được vận dụng vào công tác quản lý kinh tế - xã hội,

khắc phục lối tư duy siêu hình, duy ý chí, mở rộng tầm nhìn, góp phần giáo dục lòng yêu
nước, đạo đức, lối sống của người Việt Nam. Trong 20 năm qua, khoa học xã hội Việt Nam đã
có nhiều đóng góp trong những lĩnh vực chủ yếu sau:
Đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội: Trong 20 năm qua, khoa học xã hội đã góp phần tạo
lập được trên những nét cơ bản một hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, làm cơ sở khoa học cho đường lối của Đảng
góp phần bổ sung và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí
Minh về chủ nghĩa xã hội.
Từ thực tiễn của 20 năm đổi mới, khoa học xã hội đã góp phần cung cấp những cơ sở lý luận
để hiểu đúng đắn và sâu sắc hơn về chủ nghĩa xã hội từng bước khắc phục một số quan điểm
giản đơn, ấu trĩ như đồng nhất chủ nghĩa xã hội với chế độ phân phối bình quân; muốn có chủ
nghĩa xã hội phải nhanh chóng cải tạo quan hệ sản xuất mà không thấy đầy đủ yêu cầu phát
triển lực lượng sản xuất; cường điệu vai trò của chế độ công hữu, coi sở hữu tư nhân là đối
lập hoàn toàn với bản chất của chủ nghĩa xã hội; và cần phải loại bỏ nhanh chóng trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. đối lập chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản theo tinh thần
phủ định hoàn toàn chủ nghĩa tư bản, từ đó coi nhẹ những giá trị, những thành tựu đã đạt
được trong chủ nghĩa tư bản; đối lập kinh tế xã hội chủ nghĩa với sản xuất hàng hoá, đồng
nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản; không thừa nhận tính chất pháp quyền của nhà
nước xã hội chủ nghĩa, đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản
Khoa học xã hội đã góp phần khẳng định mục tiêu và bản chất của chủ nghĩa xã hội là dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đó là một xã hội do nhân dân làm chủ;
có nền kinh tế phát triển cao, bền vững với một hệ thống quan hệ sản xuất tiên tiến, phù hợp;
có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, được phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam đoàn kết, bình đẳng,
giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước
trên thế giới.
Về đổi mới và phát triển kinh tế: Một trong những thành tựu quan trọng của khoa học xã hội
trong lĩnh vực kinh tế là đã góp phần đáng kể vào công cuộc đổi mới tư duy kinh tế, tạo nên
bước chuyển từ tư duy hiện vật sang tư duy hàng hoá, tư duy thị trường; từ tư duy bao cấp, ỷ

lại sang tư duy chủ động, sáng tạo; từ tư duy kế hoạch hoá tập trung sang tư duy kinh tế thị
trường; từ tư duy kinh tế khép kín sang tư duy mở cửa, chủ động hội nhập quốc tế, từ tư duy
đơn sở hữu sang tư duy đa sở hữu, đa thành phần; từ không thừa nhận đến thừa nhận sự đa
dạng hoá các hình thức phân phối, kể cả phân phối theo vốn, tài sản; từ tư duy Nhà nước làm
tất cả, độc quyền sang tư duy đa dạng hoá các chủ thể làm kinh tế, giảm độc quyền nhà nước,
xoá bỏ độc quyền doanh nghiệp, v.v
Bên cạnh đóng góp vào việc đổi mới tư duy kinh tế, khoa học xã hội đã góp phần khẳng định
xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình tổng quát của thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, là vấn đề mang tầm chiến lược và có ý nghĩa quyết
định để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Mục đích của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật
chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa có hai chế độ sở hữu cơ bản là công hữu
và tư hữu, có nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế đan xen, hỗn hợp. Các
thành phần kinh tế phải được đối xử công bằng và bình đẳng.
Cùng với công cuộc đổi mới, các nghiên cứu về khoa học xã hội xác định ngày càng rõ hơn vai
trò của kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài với tư cách là động lực của nền
kinh tế.
ông cuộc đổi mới đất nước sau gần 20 năm đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, chúng ta cũng đứng trước không ít khó khăn, thách thức. Chẳng hạn, nhịp độ
tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với khả năng; chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh của nền kinh
tế còn thấp. Tổ chức và hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân còn một
số mặt chưa đổi mới. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng còn nhiều hạn chế.
Để đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém
phát triển, cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, đòi hỏi chúng ta
phải nỗ lực nắm bắt thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, vượt qua thách thức, phát huy cao độ nội lực, tranh thủ tối
đa ngoại lực. Đồng thời đòi hỏi chúng ta phải đổi mới hơn nữa tổ chức và hoạt động của Nhà nước, để
xây dựng được một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thật sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân. Đó là đổi mới mô hình và tổ chức hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng nhân dân và Ủy
ban nhân dân các cấp theo hướng gọn nhẹ, thiết thực, hiệu lực, hiệu quả; và của các cơ quan tư pháp

theo hướng tập trung, thống nhất, thu gọn đầu mối. Nhà nước cần sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật và
các thiết chế thi hành pháp luật, nhằm bảo đảm sự vận hành thông suốt của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, sự lành mạnh, trong sạch của các cơ quan công quyền; phát huy quyền làm chủ
của nhân dân và bảo đảm trật tự, kỷ cương của xã hội; tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính nhà nước
một cách triệt để, toàn diện. Phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Đồng thời, không
ngừng đổi mới tổ chức và phương thức lãnh đạo của Đảng để Đảng ta thật sự là đạo đức, trí tuệ, văn
minh và Nhà nước ta thật sự trở thành nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Chúng ta tin tưởng chắc chắn rằng, với những thành quả đã đạt được, với sự lãnh đạo, quản lý, điều
hành sáng suốt, tài tình, luôn luôn linh hoạt và đổi mới của Đảng, Nhà nước ta; với tài năng, trí thông
minh, đức cần cù của nhân dân ta, nhất định công cuộc đổi mới sẽ tiếp tục giành được những thắng lợi
to lớn hơn nữa.
Phát huy truyền thống vẻ vang của Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9, toàn Đảng, toàn dân và
toàn quân ta nguyện đoàn kết phấn đấu hoàn thành những nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm 2001 - 2006,
thiết thực chào mừng Đại hội X của Đảng; đẩy mạnh toàn diện sự nghiệp đổi mới, sớm đưa nước ta ra
khỏi tình trạng kém phát triển, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

sau 20 năm đổi mới kể từ Đại hội Đảng VI năm 1986, Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh
tế, đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh, tăng cường cơ sở vật chất và
tạo tiền đề cho giai đoạn phát triển mới công nghiệp hóa  hiện đại hóa đất nước, sớm
đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đó là hai trong số năm thành tựu mà Việt Nam
đạt được qua 20 năm đổi mới (1986 - 2006).
Chiều 19/4, tại Trung tâm Báo chí Đại hội X của Đảng, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Trần Đức Khiển đã chủ trì cuộc họp báo về thành tựu phát triển kinh tế - xã hội qua 20 năm
đổi mới và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010.
Đất nước ra khỏi khủng hoảng, kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng nhanh
Thực hiện đường lối đổi mới, với mô hình kinh tế tổng quát là xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đến năm 1995, lần đầu tiên, hầu hết các chỉ tiêu chủ
yếu của kế hoạch Nhà nước 5 năm 1991-1995 được hoàn thành và hoàn thành vượt mức.
Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo được những tiền đề cần thiết để chuyển

sang thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
1986-1990: GDP tăng 4,4%/năm. Việc thực hiện tốt ba chương trình mục tiêu phát triển về
lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu được đánh giá là thành công
bước đầu cụ thể hóa nội dung của CNH XHCN trong chặng đường đầu tiên. Đây là giai đoạn
chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lý cũ sang cơ chế quản lý mới, thực hiện một bước quá trình
đổi mới đời sống KTXH và giải phóng sức sản xuất.
1991-1995: Nền kinh tế khắc phục được tình trạng trình trệ, suy thoái, đạt được tốc độ tăng
trưởng tương đối cao liên tục và toàn diện.GDP bình quân năm tăng 8,2%. Đất nước ra khỏi
thời kỳ khủng hoảng kinh tế, bắt đầu đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước.
Từ năm 1996-2000, là bước phát triển quan trọng của thời kỳ mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất
nước. Chịu tác động của khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực cùng thiên tai nghiêm
trọng xảy ra liên tiếp đặt nền kinh tế nước ta trước những thử thách. Tuy nhiên, giai đoạn
này, Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước 7%/năm.
Năm 2000-2005, nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng cao, liên tục, GDP bình quân mỗi
năm đạt 7,5%. Năm 2005, tốc độ tăng trưởng đạt 8,4%, GDP theo giá hiện hành, đạt 838
nghìn tỷ đồng, bình quân đầu người đạt trên 10 triệu đồng, tương đương với 640 USD.
Từ một nước thiếu ăn, mỗi năm phải nhập khẩu 50 vạn - 1 triệu tấn lương thực, Việt Nam
đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Năm 2005, nước ta đứng thứ 2 trên thế
giới về xuất khẩu gạo, thứ 2 về cà phê, thứ 4 về cao su, thứ 2 về hạt điều, thứ nhất về hạt
tiêu.
Công nghiệp và xây dựng liên tục tăng trưởng cao, có bước chuyển biến tích cực về cơ cấu
sản
Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, gắn
sản xuất với thị trường.
Về cơ cấu ngành, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm dần, năm 1988 là 46,3%, năm 2005
còn 20,9%. Trong nội bộ ngành nông nghiệp cơ cấu trồng trọt và chăn nuôi đã chuyển dịch
theo hướng tiến bộ, tăng tỷ trọng các sản phẩm có năng suất và hiệu quả kinh tế cao, các
sản phẩm có giá trị xuất khẩu.
Giá trị tạo ra trên một đơn vị diện tích ngày một tăng lên. Trong kế hoạch 5 năm 2001 -
2005, giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng 5,5%/năm, giá trị tăng thêm bằng

khoảng 3,89%/năm.
Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng nhanh và liên tục. Năm 1988 là 21,6%, năm 2005
lên 41%. Từ chỗ chưa khai thác dầu mỏ, đến nay, mỗi năm đã khai thác được khoảng gần
20 triệu tấn quy ra dầu. Ngành công nghiệp chế tác chiếm 80% giá trị sản lượng công
nghiệp. Công nghiệp xây dựng phát triển mạnh với thiết bị công nghệ ngày càng hiện đại.
Sản phẩm công nghiệp xuất khẩu ngày càng tăng, có chỗ đứng trong những thị trường lớn.
Trong kế hoạch 5 năm 2001 - 2005, giá trị sản xuất công nghiệp và xây dựng tăng
15,9%/năm, giá trị tăng thêm đạt 10,2%/năm.
Tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GDP đã tăng từ 33,1% năm 1988 lên 38,1% năm 2005. Các
ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của sản xuất
và đời sống. Ngành du lịch, bưu chính viễn thông phát triển với tốc độ nhanh. Các ngành
dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý có bước phát triển theo hướng tiến bộ, hiệu
quả.
Cơ cấu lao động có sự chuyển đổi tích cực gắn liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
giảm tỷ lệ lao động trong sản xuất thuần nông, tăng tỷ lệ lao động trong công nghiệp, xây
dựng và dịch vụ. Năm 1990, lao động nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 73,02% trong tổng số
lao động xã hội, năm 2000 còn 56,8%.
Trong khi đó, tỷ trọng lao động của ngành công nghiệp và xây dựng tăng từ 12,1% năm
2000 lên 17,9% năm 2005; lao động trong các ngành dịch vụ tăng tương ứng từ 19,7% lên
25,3%; lao động đã qua đào tạo tăng từ 20% năm 2000 lên 25% năm 2005.
Thực hiện có kết quả chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, phát huy
ngày càng tốt hơn tiềm năng của các thành phần kinh tế
Kinh tế Nhà nước được sắp xếp, đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả, tập trung hơn
vào những ngành then chốt và những lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế. Cơ chế quản lý
doanh nghiệp nhà nước được đổi mới một bước quan trọng theo hướng xoá bao cấp, thực
hiện chế độ công ty, phát huy quyền tự chủ và trách nhiệm của doanh nghiệp trong kinh
doanh.
Số doanh nghiệp Nhà nước qua sắp xếp đổi mới, cổ phần hoá đã giảm từ 12.084 doanh
nghiệp năm 1990 xuống còn 2.980 doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước và 670 công ty cổ
phần do Nhà nước chi phối trên 51% vốn điều lệ năm 2005. Qua đổi mới, doanh nghiệp Nhà

nước năm 2005 đóng góp 38,5% GDP và khoảng 50% tổng ngân sách Nhà nước.
Kinh tế dân doanh phát triển khá nhanh, hoạt động có hiệu quả trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt
là tạo việc làm và góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội. Năm 2005 chiếm 46% GDP.
Trong đó, kinh tế hợp tác phát triển ngày càng đa dạng, hoạt động ngày càng có hiệu quả,
năm 2005, kinh tế hợp tác đóng góp khoảng 7% GDP.
Kinh tế tư nhân phát triển mạnh, huy động ngày càng tốt hơn các nguồn lực và tiềm năng
trong nhân dân, là một động lực rất quan trọng thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Năm 2005, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp khoảng 38% GDP của cả nước.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, trở thành một bộ
phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân; là cầu nối quan trọng với thế giới về
chuyển giao công nghệ, giao thông quốc tế.
Năm 2005, khu vực này đóng góp 15,5% GDP, trên 7,5% tổng thu ngân sách, trên 17,1%
tổng vốn đầu tư xã hội, trên 23% kim ngạch xuất khẩu (không kể dầu khí); đạt trên 35%
giá trị sản xuất công nghiệp; thu hút hơn nửa triệu lao động trực tiếp và hàng triệu lao động
gián tiếp.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần dần được hình thành,
kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định
Qua 20 năm đổi mới, hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế vận hành của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng tương đối đồng bộ. Hoạt động của các
loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế nhiều thành phần và bộ máy quản lý của Nhà nước
được đổi mới một bước quan trọng.
Nhà nước đã từng bước tách chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế với chức năng kinh
doanh của các doanh nghiệp; chuyển từ can thiệp trực tiếp vào nền kinh tế sang can thiệp
gián tiếp thông qua hệ thống pháp luật, kế hoạch, cơ chế, chính sách và các công cụ điều
tiết vĩ mô khác.
Từng bước phát triển đồng bộ và quản lý sự vận hành các loại thị trường cơ bản, theo cơ
chế mới. Thị trường hàng hoá phát triển với quy mô lớn, tốc độ nhanh. Các thị trường dịch
vụ, lao động, khoa học và công nghệ, bất động sản đang được hình thành.
Các cân đối vĩ mô của nền kinh tế cơ bản được giữ ổn định, tạo môi trường và điều kiện cần
thiết cho sự phát triển kinh tế. Tiềm lực tài chính ngày càng được tăng cường, thu ngân

sách tăng trên 18%/năm; chi cho đầu tư phát triển bình quân chiếm khoảng 30% tổng chi
ngân sách.
Quan hệ tiền - hàng cơ bản hợp lý, bảo đảm hàng hoá thiết yếu cho sản xuất và đời sống;
giá tiêu dùng bình quân hàng năm tăng thấp hơn mức tăng GDP.
Hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, kinh tế đối ngoại có bước tiến lớn, đạt được những kết
quả rất quan trọng
Với chủ trương tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, quan hệ kinh tế của Việt Nam
với các nước, các tổ chức quốc tế ngày càng được mở rộng. Việt Nam đã tham gia Hiệp hội
các quốc gia Đông Nam Á, thực hiện các cam kết về Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA),
Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, đang tích cực đàm phán gia nhập tổ chức thương
mại thế giới (WTO)
Đến năm 2005, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với 221 nước và vùng lãnh thổ, ký 90
hiệp định thương mại song phương với các nước, tạo ra một bước phát triển mới rất quan
trọng về kinh tế đối ngoại.
Xuất khẩu, nhập khẩu tăng rất nhanh cả về quy mô và tốc độ. Tổng kim ngạch xuất khẩu
hàng hoá trước thời kỳ đổi mới chỉ đạt khoảng 1 tỷ USD/năm, đến nay tổng kim ngạch xuất
khẩu đã vượt hơn 50% GDP, tức là trên 25 tỷ USD/năm.
Một số sản phẩm của Việt Nam đã có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới với những
thương hiệu có uy tín. Đáng chú ý là xuất khẩu dịch vụ tăng rất nhanh, tăng 15,7%/năm,
bằng 19% tổng kim ngạch xuất khẩu. Thị trường xuất khẩu được mở rộng sang những nền
kinh tế lớn.
Tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá từ năm 2000 đến 2005 tăng khoảng 19%/năm, nhập
siêu khoảng 4 tỷ USD/năm, bằng 17,5% tổng kim ngạch xuất khẩu. Nhập siêu tuy còn cao
nhưng vẫn trong tầm kiểm soát và có xu hướng giảm dần.
Cơ cấu xuất nhập khẩu chuyển biến theo hướng tích cực. Tỷ trọng hàng công nghiệp nặng
và khoáng sản giảm từ 37,2% năm 2000 xuống còn 36% năm 2005, hàng nông, lâm thuỷ
sản giảm từ 29% xuống 24%; hàng công nghiệp nh và tiểu thủ công nghiệp tăng từ
38,8% lên 39,8%.
Thực hiện gắn kết phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, đời sống của
đại bộ phận dân cư được nâng lên rõ rệt.

Một thành công lớn đầy ấn tượng của nước ta qua 20 năm đổi mới là đã giải quyết có hiệu
quả mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội, các cơ hội phát triển được mở rộng cho mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp
dân cư, tính tích cực, chủ động, sáng tạo của nhân dân được nâng cao.
Trước hết, công tác giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo đạt kết quả tốt, vượt mục tiêu
phát triển thiên niên kỷ của Liên hợp quốc. Từ năm 2000 đến năm 2005, tạo việc làm cho
7,5 triệu lao động. Năm 2005, thất nghiệp ở thành thị giảm xuống còn 5,3%; thời gian sử
dụng lao động ở nông thôn đạt 80%.
Thu nhập bình quân đầu người tăng mạnh từ 200 USD năm 1990 lên khoảng 640 USD năm
2005. Theo chuẩn quốc gia, tỷ lệ hộ đói nghèo đã giảm từ 30% năm 1992 xuống dưới 7%
năm 2005. Theo chuẩn quốc tế (1 USD/người/ngày) thì tỷ lệ đói nghèo của Việt Nam đã
giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 28,9% năm 2002.
Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân được chú trọng và có nhiều tiến bộ. Chỉ số phát triển
con người được nâng lên, từ mức dưới trung bình (0,498) năm 1990, tăng lên mức trên
trung bình (0,688) năm 2002; năm 2005 Việt Nam xếp thứ 112 trên 177 nước được điều
tra.
Mạng lưới y tế được củng cố và phát triển, y tế chuyên ngành được nâng cấp, ứng dụng
công nghệ tiên tiến; việc phòng chống các bệnh xã hội được đẩy mạnh; tuổi thọ trung bình
từ 68 tuổi năm 1999 nâng lên 71,3 tuổi vào năm 2005.
Kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm 2006 F 2010
Câu 5 : Tính tất yếu , đặc điểm cơ bản của thờI kì quá độ lên CNXH.Các kiểu quá độ lên CNXH
Trả lờI :
*Tính tất yếu :
-Là một tất yếu lịch sử :
+ CNXH là giai đoạn đầu của hình thái kinh tế _xã hộI cộng sản CN không thể tự phát ra đờI trong lòng
xã hộI cũ .
+ Xây dựng XHCN phảI thông qua quá trình đấu tranh gian khổ của giai sử dụng bộ◊ giành chính quyền
nhà nước ◊cấp CN và nhân dân lao động xây dựng xã hộI mớI từ hạ tầng cơ sở◊ cảI tạo xã hộI cũ
◊máy nhà nước đến kiến trúc thượng tầng .
V.I.Lenin viết: " Cần phảI có một thờI kì quá độ khá lâu dài từ CNTB lên CNXH vì cảI tổ sản xuất là việc

khó khăn , vì cần phỉa có thờI gian mớI thực hiện được những thay đổI căn bản trong mọI lĩnh vực của
cuộc sống , & phảI trảI qua một cuộc đấu tranh quyết liệt , lâu dài mớí có thể thắng được sức mạnh to
lớn của những thói quen quản lí theo kiểu tiểu tư sản & tư sản .BởI vậy , Cmac có nói đến cả một thờI
kì chuyên chính vô sản , thờI kì quá độ từ CNTB lên CNXH.
* Đặc điểm cơ bản :
Đặc điểm nổi bật của thờI kì quá độ lên CNXH là những nhân tố của xã hộI mớI & tàn tích của xã hộI
cũ tồn tạI đan xen lẫn nhau , đấu tranh vớI nhau trên mọI lĩnh vực của đờI sống chính trị , văn hoá , xã
hộI tư tưởng , tập quán trong xã hội.
Đặc điểm bản chất nhất của thờI kì quá độ là sự quá độ về chính trị, ở đó nhà nước chuyên chính
vô sản được thiết lập , củng cố & ngày càng thêm hoàn thiện .
nền kinh tế nhiều thành phần ngòài các thành phần◊ Xét về kinh tế kinh tế XHCN còn có những
thành phần kinh tế khác trong đó có cả thành phần kinh tế tư bản.
1 cơ cấu xã hộI _giai cấp phức tạp◊ Nền kinh tế nhiều thành phần - trong đó có cả những giai cấp
mà lợI ích cơ bản của họ đốI lập nhau
Có sự khác biệt cơ bản giữa thành thị và nông◊ Xét về mặt xã hộI thôn , giữa các miền đất nước ,
giữa lao động trí tuệ & lao động giản đơn .
Về văn hoá , tư tưởng : bên cạnh nền văn hóa & tư tưởng mớI , còn tồn tạI những tàn tích của xã
hộI cũ , hệ tư tưởng cũ lạc hậu , lốI sống cũ.
Những đặc điểm trên nói lên tính phức tạp◊ & khó khăn của thờI kì quá độ lên CNXH
• Các kiểu quá độ lên CNXH :
+ Quá độ trực tiếp từ CNTB
+ Quá độ từ những xã hộI tiền TBCN
Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc trong toàn bộ các lĩnh vực của
đời sống xã hội, tạo ra những tiền đề vật chất và tinh thần cần thiết để hình thành xã hội mà trong đó,
những nguyên tắc căn bản của xã hội xã hội chủ nghĩa được thực hiện.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười (Nga) năm 1917 mở
ra với nội dung căn bản là xóa bỏ giai cấp tư sản và chế độ tư bản chủ nghĩa, thiết lập những cơ sở cho xã
hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Thời kỳ quá độ này có thể phân thành bốn giai đoạn phát
triển là

1) Giai đoạn từ năm 1917-1945- giai đoạn thắng lợi của giai cấp vô sản Nga, mở đầu thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội
2) Giai đoạn từ năm 1945-1970- giai đoạn hình thành, tồn tại và phát triển của hệ thống xã hội chủ nghĩa
3) Giai đoạn từ năm 1970-1990- giai đoạn hệ thống xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng, dẫn đến sự
sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực mô hình xôviết ở các nước đông Âu và Liênxô
4) Giai đoạn hiện nay là giai đoạn thoái trào của chủ nghĩa xã hội hiện thực.
Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Để chuyển từ xã hội lên xã hội xã hội chủ nghĩa, cần
trải qua thời kỳ quá độ. Tính tất yếu của thời kỳ này được cắt nghĩa bởi những lý do
1) Chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội khác nhau về chất; thể hiện ở hình thức sở hữu tư liệu sản xuất.
Muốn có xã hội công hữu tư liệu sản xuất cần có thời gian
2) Chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên nền sản xuất đại công nghiệp có trình độ cao; chủ nghĩa tư bản đã
chuẩn bị những tiền đề vật chất cần thiết cho chủ nghĩa xã hội, nhưng cần có thời gian để tổ chức, sắp xếp
lại
3) Cần có thời gian để xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
4) Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là công việc mới mẻ, khó khăn và phức tạp; giai cấp công nhân
có thời gian để hoàn thành.
Đặc điểm và thực chất của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Đặc điểm nổi bật của
thời kỳ này là tồn tại những yếu tố của xã hội tư bản với những yếu tố mới của xã hội xã hội chủ nghĩa;
chúng tồn tại và đấu tranh với nhau trọng mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đối với những nước tư bản có
trình độ kinh tế phát triển cao, thời kỳ quá độ có thể tương đối ngắn; đối với những nước có trình độ kinh
tế phát triển trung bình hoặc thấp, thời kỳ quá độ có thể dài hơn.
Trong lĩnh vực kinh tế, là sự duy trì và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, bên cạnh các
thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa còn có các thành phần kinh tế khác như kinh tế gia trưởng, kinh tế
hàng hóa nhỏ, kinh tế tư bản nhà nước. Chúng đan xen, bổ sung hỗ trợ và đấu tranh với nhau. Nền kinh tế
nhiều thành phần này làm nảy sinh cơ cấu xã hội-giai cấp đa dạng, phức tạp thậm chí đối lập, luôn đấu
tranh với nhau.
Trong lĩnh vực chính trị. Nhà nước chuyên chính vô sản mới ra đời và ngày càng hoàn thiện là công cụ để
giai cấp công nhân và nhân dân lao động chống lại những âm mưu chống phá của các thế lực thù địch
trong và ngoài nước; bảo vệ thành quả cách mạng, đảng cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Trong lĩnh vực xã hội còn có sự khác biệt khá lớn giữa lao động trí óc với lao động chân tay, giữa thành

thị và nông thôn, giữa miền núi và miền xuôi. Nhiều vấn đề xã hội khác chưa giải quyết triệt để như vấn
đề môi trường bị huỷ hoại nghiêm trọng, vấn đề giải quyết công ăn, việc làm, vấn đề chăm sóc sức khoẻ
cộng đồng v.v đang diễn biến phức tạp mà chưa có cách quản lý hiệu quả.
Trong lĩnh vực tư tưởng văn hoá, có sự tồn tại đan xen và đấu tranh lẫn nhau giữa tư tưởng của giai cấp
công nhân với tư tưởng cũ rất phức tạp phá hoại đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân
Thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ đấu tranh giữa giai cấp công nhân liên minh
với các tầng lớp lao động khác đã giành được chính quyền nhà nước đang thực hiện nhiệm vụ đưa đất
nước đi lên chủ nghĩa xã hội, với một bên là các giai cấp bóc lột đã bị đánh đổ, nhưng chưa bị tiêu diệt
hoàn toàn. Cuộc đấu tranh giai cấp với những điều kiện, nội dung mới trong các lĩnh vực của đời sống xã
hội bằng tuyên truyền, vận động và cả bằng hành chính, pháp luật diễn ra lâu dài, gian khổ.
Nội dung kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
1) Trong lĩnh vực kinh tế, sắp xếp lại lực lượng sản xuất của chủ nghĩa tư bản để lại nhằm tạo ra cơ sở vật
chất, kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
2) Trong lĩnh vực chính trị, xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa vững mạnh để thực hiện vai trò chuyên
chính và xây dựng xã hội mới
3) Trong lĩnh vực xã hội, khắc phục những tệ nạn do xã hội cũ để lại, ngăn ngừa và đề phòng những tệ
nạn xã hội mới phát sinh; khắc phục chênh lệch giàu-nghèo, giữa nông thôn với thành thị, giữa miền núi
với đồng bằng; thực hiện an sinh xã hội để từng bước thực hiện bình đẳng xã hội
4) Trong lĩnh vực tư tưởng văn hoá, tuyên truyền và phổ biến rộng rãi chủ nghĩa Mác-Lênin; kế thừa biện
chứng văn hóa cũ, xây dựng nền văn hóa vô sản tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Các hình thức quá độ lên chủ nghĩa xã hội là quá độ trực tiếp và quá độ gián tiếp, “thời kỳ quá độ khá lâu
dài từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội”[3].
Hình thức quá độ trực tiếp là hình thức quá độ từ các nước tư bản phát triển lên chủ nghĩa xã hội. Hình
thức quá độ gián tiếp là hình thức quá độ từ các nước tư bản trung bình và các nước chưa trải qua chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Hình thức quá độ trực tiếp có nhiều thuận lợi hơn, bởi các nước từ chủ
nghĩa tư bản phát triển đã trải qua nền dân chủ tư sản, có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại của chủ nghĩa tư
bản để lại, các nước này cần cải cách chế độ chính trị, khắc phục các nhược điểm của nền kinh tế tư bản
chủ nghĩa v.v để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Quá độ từ các nước tư bản trung bình và các nước chưa trải
qua hay các nước nông nghiệp lên chủ nghĩa xã hội là quá độ đặc biệt. Các nước thực hiện hình thức quá

độ bỏ qua chủ nghĩa tư bản, cần có đảng cộng sản lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa giành chính
quyền; có đường lối cách mạng theo định hướng xã hội chủ nghĩa; biết kế thừa, chọn lọc những thành quả
của chủ nghĩa tư bản và của toàn nhân loại để thực hiện thắng lợi quá độ lên chủ nghĩa xã hội. V.I.Lênin
khẳng định, ở những nước này cần chú trọng khắc phục những biểu hiện của tính tiểu tư sản, tiểu nông
trong đảng cộng sản, trong quần chúng; để từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải trải qua và sử
dụng nhiều những bước quá độ nhỏ, những hình thức trung gian quá độ[4].
THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI:
là thời kì cải tạo cách mạng xã hội tư bản chủ nghĩa thành xã hội xã hội chủ nghĩa, bắt đầu từ khi giai
cấp công nhân giành được chính quyền và kết thúc khi xây dựng xong các cơ sở của chủ nghĩa xã hội.
Đặc trưng kinh tế của TKQĐLCNXH là cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Nhiệm vụ cơ bản của nhà nước
trong thời kì quá độ, một mặt là phát huy đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân lao động, chuyên chính
với mọi hoạt động chống chủ nghĩa xã hội, mặt khác từng bước cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Nhiệm vụ này bao gồm:
1) Cải tạo những thành phần kinh tế không xã hội chủ nghĩa theo hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từng bước phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
2) Tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực văn hoá và tư tưởng, làm cho hệ tư tưởng
xã hội chủ nghĩa chiếm địa vị chủ đạo trong xã hội, xây dựng con người xã hội chủ nghĩa.
3) Đối với những nước kém phát triển, còn phải phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất
nước, xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật mà thiếu nó thì không thể có chủ nghĩa xã hội. Thời kì quá độ
dài hay ngắn tuỳ thuộc vào tình hình lịch sử cụ thể của mỗi nước, nhất là vào trình độ xuất phát ban
đầu. Trong thời kì đó, việc tiến hành cải tạo xã hội ở từng nước có thể sử dụng những hình thức và
phương pháp cụ thể riêng biệt phù hợp với những điều kiện lịch sử, dân tộc, kinh tế, chính trị và văn
hoá của mỗi nước. Ở Việt Nam, sau 1975, cả nước bước vào TKQĐLCNXH. Đại hội VII Đảng Cộng sản
Việt Nam (6.1991) đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ. Cương lĩnh đã
khẳng định tính tất yếu của thời kì quá độ, đề ra những phương hướng cơ bản và những định hướng
lớn về chính sách kinh tế, xã hội, quốc phòng - an ninh, đối ngoại trong thời kì đó.
Cương lĩnh cũng chỉ rõ, TKQĐLCNXH ở Việt Nam là quá trình lâu dài, trải qua nhiều chặng đường. Mục
tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc thời kì quá độ là xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế
của chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn hoá… phù hợp làm cho
Việt Nam trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh.

×