Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

TIỂU LUẬN ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC CỦA ĐẠI HỘI ĐẢNG III (91960)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (314.09 KB, 29 trang )

TIỂU LUẬN
Học phần: Đường Lối Cách Mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam

ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC
CỦA ĐẠI HỘI ĐẢNG III (9/1960)

GVHD : Trần Thị Thúy Nga
SVTH : Katơr Thị Ướt
LỚP

: CPK39

MSSV : 1514069
EMAIL :

Lâm Đồng – Năm 2019


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................1
I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN ...................................2
1. Bối cảnh đất nước ...........................................................................................2
2. Bối cảnh quốc tế. .............................................................................................4
3. Kẻ thù chính của cách mạng miền Nam là đế quốc Mỹ .................................6
II. NGHỆ THUẬT LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC (1954-1975) ..............................................................8
1. Thế trận của ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ .........................................8
2. Tận dụng tốt thời cơ, phát triển chiến lược cách mạng .................................12
3. Thực hiện chiến lược cách mạng chống đế quốc Mỹ ...................................16
4. Tính sáng tạo của cuộc kháng chiến chống Mỹ ............................................17
5. Tổ chức và chỉ đạo cách mạng của Đảng ta ..................................................20


6. Tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế với cách mạng Việt Nam ...............................21
III. Ý NGHĨA LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA CUỘC
KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC (1954- 1975).............................23
1. Ý nghĩa lịch sử ..............................................................................................23
2. Bài học kinh nghiệm .....................................................................................25
IV. KẾT LUẬN ....................................................................................................26
MỤC LỤC THAM KHẢO .....................................................................................27


LỜI MỞ ĐẦU
Cuộc chiến tranh đi qua để lại bao nhiêu đau thương và mất mát, ai cũng biết
những hậu quả của những cuộc chiến tranh để lại là rất to lớn. Cho dù đó là cuộc
chiến tranh phi nghĩa hay chính nghĩa, thì đất nước đó cũng hứng chịu những tổn
thất nặng nề. Song, không phải đất nước nào cũng có quyền chọn cho mình một nền
hịa bình, tự do. Có những lúc họ khơng muốn chiến tranh, nhưng họ phải buộc
chiến đấu cho nền độc lập của nước nhà. Và Việt Nam cũng thế, đất nước của
chúng ta rới vào tình thế đó, thì chúng cũng phải cố gắng đoàn kết, đứng lên chiến
đấu để dành lại đất nước.
Hai cuộc khách chiến chống Pháp và Mỹ đi qua, chúng ta khơng khỏi kinh
hồng trước những con số thiệt hại cả về người và của. Bây giờ chúng ta hưởng nền
hịa bình, chúng ta đang độc lập. Song, đều đó khơng có nghĩa là chúng ta qn q
khứ, bởi lẽ nếu khơng có q khứ thì chúng ta sẽ khơng có hiện tại và tương lai.
Chúng ta đả chiến đấu anh dũng trong các cuộc kháng chiến. Chúng ta có những
người lãnh đạo tài giỏi, chúng ta Đảng lãnh đạo tài tình, chúng ta có sự đồn kết
đồng lịng cùa dân tộc và chúng ta đã chiến thắng. Có rất nhiều yếu tố để tạo nên
thắng lợi vẻ vang trong các cuộc kháng chiến chống Pháp vá Mỹ.

1



I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN
1. Bối cảnh đất nước
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ở miền Nam (1954-1975)
là sự tiếp tục của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Từ khi ra đời (3-2-1930), Đảng ta đã chỉ rõ: đất nước ta vốn là một Tổ quốc và
thống nhất nhân dân ta có truyền thống đồn kết chống ngoại xâm bảo vệ bờ cõi và
cùng nhau xây dựng đất nước. Nhưng từ khi thực dân Pháp xâm lược, chúng đã
cùng bọn vua quan phong kiến đầu hàng, thống trị nhân dân ta, xã hội Việt Nam
thành một xã hội thuộc địa nữa phong kiến, với hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn
giữa toàn thể dân tộc ta với đế quốc xâm lược và mâu thuẫn giữa dân nhân ta, mà
chủ yếu là nông dân, với giai cấp địa chủ phong kiến.
Đảng ta gánh vác sứ mệnh lãnh đạo dân tộc giải quyết hai mâu thuẫn trên là
thực hiện hai nhiệm vụ của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân: chống đế
quốc xâm lược, giành độc lập thống nhất Tổ quốc, và chống phong kiến dành lại
ruộng đất cho nông dân. Tháng 7-1954, miền Bắc được giải phóng, nhưng miền
Nam vẫn cịn ách thống trị của đế quốc và bọn tay sai. Đế quốc Mỹ hất cẳng thực
dân Pháp, cùng bọn tay sai Ngơ Đình Diệm tiết tục thống trị nhân dân ta ở miền
Nam, hai mâu thuẫn cơ bản trên vẫn cỏn tồn tại và đất nước tạm thời bị chia cắt.
Nhân dân ta tiến hành kháng chiến chống đế quốc Mỹ và bọn tay sai là tiếp tục cuộc
cách mạng đã được tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng từ đầu 1930, nhằm hoàn
thành sự nghiệp dành độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc để tiến lên xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Đây là sự tiếp nối lịch sự tất yếu. Đúng như Đảng ta đã khẳng
định tại Đại hội tân thứ III ( tháng 9-1960): “ cuộc đấu tranh cách mạng của nhân
dân miền Nam là sự tiếp tục các cuộc khởi nghĩa Nam kỳ, khởi nghĩa Ba tơ, tổng
khởi nghĩa tháng Tám và cuộc kháng chiến trường kỳ của nhân dân ta trong điều
kiện mới của lịch sử”. Từ bối cảnh lịch sử chiến đấu và chiến thắng ấy, nhân dân ta
ở miền Nam bước vào cuộc khách chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược với tư thế của
người chiến thắng và đã thừa kế được nhiều kinh nghiệm quý báo của cách mạng

2



tháng Tám và kháng chiến chống quân thực dân Pháp. Đó cũng là nhân tố giúp nhân
dân ta giành thắng lợi của cách mạng miền Nam.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước diễn ra trong điều kiện đất nước bị chia
làm hai miền, phải tiến hành hai chiến lược cách mạng khác nhau dưới sự lãnh đạo
thống nhất của Đảng. Đây là đặc điểm lớn và cũng là nét độc đáo của cách mạng
nước ta từ tháng 7 năm 1954 đến tháng 5 năm 1975. Trong suốt thời gian đó việc
hoạch định đường lới chiến lược và sách lược của cách mạng phải phản ánh rõ đặc
điểm lớn này. Từ mục tiêu chung của cách mạng cả nước và mục tiêu cụ thể của
từng niềm đến những vấn đề chủ trương, sách lược và phương pháp tiến hành phải
phù hợp với đặc điểm trên và sát đúng với điều kiện lịch sử cụ thể của từng miền.
Đồng thời, phải sát định rõ vị trí cách mạng từng miền và mối quan hệ khăng khít
giữa cách mạng hai miền trong thế chiến lược chung của cả nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9-1960) xác định đường lối
cách mạng của nước ta:
- Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
- Hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay
sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành dộc lập và dân chủ cả nước.
Hai nhiệm vụ chiến lược ấy có quan hệ mật thiết với nhau và có tác dụng thúc
đẩy lẫn nhau.
Về vị trí chiến lược cách mạng của từng miền, Đảng ta xác định: miền Bắc là
căn cứ địa chung của cách mạng cả nước và sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa
ở miền Bắc có vai trị quyết định nhất đối với sử phát triền cách mạng cả nước.
Cách mạng miền Nam có tác dụng quyết định trực tiếp đối với sử nghiệp giải phóng
miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai. Thông qua thực hiện nhiệm
vụ cách mạng ở mỗi miền mà góp phần thực hiện nhiệm vụ chung của cả nước là
hoàn thành độc lập, thống nhất đất nước. Việc xác định đường đối cách mạng tiến
hành đồng thời hai chiến lược cách mạng khác nhau ở hai miền là nét độc đáo, chưa
có tiền lệ trong lịch sử, là thành cơng lớn của Đảng ta. Đó là đường lối đúng đắn,

biểu hiện tinh thần độc lập tự chủ, sách tạo của Đảng ta. Miền Bắc hoàn toàn giải

3


phóng, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và hậu phương lớn của nước ta, đã tạo
cho cách mạng miền Nam có điều kiện thuận lợi mới khác hẳn các thời kì lịch sử
trước đây. Đó là một ngun nhân chủ yếu để cách mạng miền Nam đánh thắng đế
quốc Mỹ và tay sai. Trên thực tế, việc tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng
hai niềm Nam – Bắc chẳng những không mâu thuẫn, mà lại từng bước đưa cách
mạng hai niềm cùng phát triển, cùng đi lên trong thế tương hỗ, thúc đẩy nhau phát
triển, tạo ra sức mạnh tổng hợp đánh thắng hoàn toàn đế quốc Mỹ xâm lược và chế
độ tay sai của chúng, giải phóng miền Nam, thống nhất tổ quốc.
2. Bối cảnh quốc tế.
Hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới lúc này đang ở thời kỳ phát triển mạnh mẽ,
có tác động to lớn tới quá trình phát triển của thế giới. Hệ thống xã hội nghĩa thế
giới nối liền từ châu Á sang châu Âu, không ngừng phát triển và củng cố về mọi
mặt. Nếu miền Bắc là hậu phương trực tiếp cho cách mạng miền Nam, thì hệ thống
xã hội chủ nghĩa thế giới lúc này nối liền với miền Bắc xã hội chủ nghĩa của Việt
Nam là hậu phương đánh tin cậy, một thuận chưa bao giờ đối với cách mạng nước
ta. Cùng với sự lớn của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, phong trào giải phóng
dân tộc cuồn cuộn dâng cao ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ Lating, hệ thống thuộc
địa của chủ nghĩa đế quốc bị thu hẹp và đi vào quá trình tan rã. Cuộc đấu tranh cho
dân sinh, dân chủ và hịa bình ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển rộng khắp và
liên tục. So sánh lực lượng trên thế giới lúc đó ngày càng thay đổi có lợi cho chủ
nghĩa xã hội, cho lực lượng cách mạng. Chủ nghĩa đế quốc tiếp tục suy yếu và khó
khăn. Cách mạng thế giới lúc này đang ở thế tiến cơng. Cách mạng Việt Nam đã
hịa được vào trào lưu chung của cách mạng thế giới. Thời kỳ này cũng cần lưu ý
rằng, tuy chủ nghĩa đế quốc đã suy yếu nhưng chừng nào cịn chủ nghĩa đế quốc thì
vẫn còn miếng đất để sảy ra chiến tranh. Lực lượng xâm lược gây chiến chủ yếu

trên thế giới là đế quốc Mỹ. Chúng đang dẫn đầu các thế lực đế quốc hiều chiến
chạy đua vũ trang, củng cố khối liên minh quân sự xâ lược, xây dựng các căn cứ
quân sự, phục hồi chủ nghĩa phátxít ở tây Đức và qn phiệt ở Nhật Bản, nhóm lên
những lị lửa chiến tranh ở châu Âu và châu Á, ra sức chuẩn bị chiến tranh mới.

4


Nguy cơ chiến tranh thế giới vẫn tồn tại. Nhân dân các nước đang đứng trước sự đe
dọa hết sức nghiêm trọng của một cuộc chiến tranh hạt nhân. Mặt khác, sự tàn sát
và hủy diệt trong cuộc chiết tranh thế giới lần thứ hai và hậu quả của nó làm cho
nhiều người lo ngại vả lẫn lộn giữa chiến tranh chính nghĩa và chiến tranh phi
nghĩa. Trong điều kiện đó đã nảy sinh nhiều tư tưởng và khuynh hướng chủ nghĩa
xét lại, chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa dân tộc làm cho tinh thần thế giới phức tạp. Họ
tuyệt đối hóa đường lối chung sống hịa bình, đi vào phịng ngự bị động, gây khơng
ích khó khăn cho phong trào giải phóng dân tộc. Trong tình hình đó, nhân dân ta
tiến hành cách mạng giải phóng miền Nam, Đảng và Nhân dân ta phải giải quyết
thành công mối quan hệ hịa bình và cách mạng. Giải quyết mối quan hệ này, đòi
hỏi Đảng ta hết sức sáng suốt và có sách lượt đúng đắn. Thực tế Đảng ta đã giải
quyết tốt mối quan hệ đó, góp phần bảo vệ hịa bình, đồng thời thúc đẩy sự nghiệp
cách mạng tiến lên hoàn thành độc lập dân tộc và thống nhất tổ quốc.
Khi nhân dân ta tiến hành kháng chiến chống Mỹ cứu nước, trên thế giới tồn
tại bốn mâu thuẫn chủ yếu: mâu thuẫn giữa hệ thống xã hội chũ nghĩa thế giới với
các lực lượng tư bản chủ nghĩa thế giới, mâu thuẫn giữa các nước đế quốc với nhau,
mâu thuẫn giữa, các dân tộc đòi độc lập với các lực lượng đế quốc thực dân, mâu
thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản Đế quốc Mỹ xâm chiếm và thiết lập sự
thống trị của chúng ở miền Nam nước ta đã lám nảy sinh và sâu sắc thêm cả bốn
mâu thuẫn trên ở miền Nam. Đế quốc Mỷ thực hiện âm mưu xâm lược lâu dài miền
Nam, biến nơi đây thành căn cứ của chúng nhằm ngăn chặn làn sóng cộng sản tràn
xuống Đơng Nam Á, và chuẩn bị tiến công các nước xã hội chủ nghĩa. Mỹ tuyên bố

chiến tranh ở Việt Nam là chiến tranh hệ tư tưởng, giữa hệ tư tưởng cộng sản và hệ
tư tưởng tự do kiểu Mỹ. Đế quốc Mỹ hất cẳng thực dân Pháp, độc chiếm miền Nam,
dần đẩy các đế quốc châu Âu ra khỏi Đông Nam Á, chèn ép quyền lợi của tư bản
thực dân nhiều nước ở vùng này, càng làm cho mâu thuẫn giữa Mỹ và các đế quốc
khác thêm sâu sắc. Đế quốc Mỹ áp đặt chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam, chia
cắt nước ta, làm cho cả dân tộc ta mâu thuẫn gay gắt với chúng, nhân dân ta đã đồng
tâm đứng dậy chống Mỹ xâm lược, khiên quyết dành độc lập dân tộc, thống nhất đất

5


nước. Đế quốc Mỹ cố xây dựng ở miền Nam một giai cấp tư sản mại bản làm tay sai
cho chúng, làm mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và tư bản ở miền Nam càng trở
nên sâu sắc. Để phục vụ chiến tranh của chúng ở miển Nam, đế quốc Mỹ bốc lột
giai cấp công nhân và nhân dân lao động Mỹ, bắt họ sang miền Nam lá bia đỡ đạn,
để bọn tư bản Mỹ thu những món lơi kếch xù từ cuộc chiến tranh này. Mỹ cịn lơi
kéo các nước tay sai đổ của, đổ người vào cuộc chiến tranh của chúng ở miền Nam.
Do vậy, giai cấp công nhân, nhân dân lao động Mỹ và các nước chư hầu của Mỹ bi6
cuốn vào cuộc chiến tranh, ngày càng mâu thuẫn quyết liệt với tư bản Mỹ, với các
nhà cầm quyền Mỹ và giai cấp tư bản các nước chư hầu Mỹ, làm rung chuyển hận
phương của chúng. Đều đó nói lên rằng, cuộc khang chiến chống Mỹ cứu nước của
nhân dân ta là cuộc đụng đầu lịch sự mang tính thời đại sâu sắc.
3. Kẻ thù chính của cách mạng miền Nam là đế quốc Mỹ
Với chính sách thực dân mới. Chống đế quốc Mỹ với chính sách thực dân mới
của chúng làm diểm mới, mang tính đặt trưng của cách mạng miền Nam lúc này,
khác với các thời kỳ trước đây của cách mạng nước ta chủ yếu là chống chủ nghĩa
thực dân cũ của đế quốc Pháp. Đế quốc Mỹ phá hoại hiệp định Giơ-ne-vơ, hất cẳng
thực dân Pháp, độc chiếm miền Nam nước ta, biến nơi đây thành thuộc địa kiểu
mới, và căn cứ quân sự của chúng. Từ đây, đế quốc Mỹ trở thành kẻ thù chủ yếu và
nguy hiểm nhất của nhân dân ta.

Từ tháng 7 năm 1954 Nghị quyết ban chấp hành Trung Ương Đảng lần thứ 6
đã xác định đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân yêu chuộng hịa bình thế giới
và hiện đang trở thành kẻ thù chính, trực tiếp của nhân dân Đơng Dương. Chính
sách thực dân mới của Mỹ ra đời trong cơn tổng khủng hoảng và trước nguy cơ tự
sụp đổ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Đảng ta nhận biết sớm bản chất chủ nghĩa
thực dân mới của Mỹ. Nghị quyết 9 của Trung Ương đã chỉ ra: đặc điểm chủ yếu
của chính sách thực dân là đế quốc Mỹ khơng trực tiếp cai trị mà thơng qua chính
quền tay sai, dùng viện trợ kinh tế và quân sự để áp bức, bóc lột nhân dân miền
Nam. Chính sách thực dân mới là hiện tượng mới, do vậy ta chưa thể hình dung và
thấy rõ, đầy đủ ngay trong thời gian đầu của cuộc cách mạng miền Nam. Qua thực

6


tiễn đấu tranh với Mỹ, chúng ta ngày cành hiểu đầy bản chất và thủ đoạn của chính
sách thực dân mới của chúng. Vì chính trị, Mỹ khơng thiết lập bộ máy thực dân
thơng qua chính quyền tay sai với chiêu bài quốc gia. Về quân sự, Mỹ tin dùng và ra
sức xây dựng đội quân đủ mạnh làm lực lượng chiến đấu chiến lược cho chúng.
Với cả 2 mặt chính trị và quân sự như vậy, đế quốc Mỹ nhằm 1 ý đồ nham hiểm là
khơi sâu và làm đậm nét tính chất nội chiếm của chiến tranh, che đậy bản chất thực
dân xâm lược của chúng. Về kinh tế, Mỹ dùng viện trợ làm công cụ chủ yếu để giữ
chế độ tay sai ở miền Nam và đi vào con đường phát triển tư bản chủ nghĩa, đối lập
với miền Bắc, chia cắt lâu dài nước ta.
Về văn hóa-xã hội, chúng ra sức du nhập lối sống Mỹ, văn hóa Mỹ, hịng làm
mất đi tất cả những gì là tinh hoa, truyền thống dân tộc ta. Ngày càng hiểu sâu sắc
bản chất và thủ đoạn xảo quyệt của chính sách thực dân mới của Mỹ, Đảng và nhân
dân ta đã có những chủ trương, phương pháp đấu tranh đúng đắn, thích hợp, từng
bước đánh bại chúng. Phương pháp cách mạn đúng đắn nhất để đánh bại chủ nghĩa
thực dân mới là phải kết hợp chặt chẽ lực lượng chính trị với qn sự và hình thức
đấu tranh chính trị với quân sự. Đó là quy luật cơ bản của phương pháp cách mạng

bạo lực ở miền Nam. Quá trình xâm lược và thống trị của đế quốc Mỹ ở miền Nam
là quá trình nhất quán của thực hiện chủ nghiac thực dân mới. Âm mưu lược nước
ta của đế quốc Mỹ đã có từ lâu, song, đến giữa năm 1954 mới có thời cơ để Mỹ trực
tiếp thực hiện âm mưu của chúng. Ngày 20/7/1954, hiệp định Gionever về laapj lại
hịa bình ở Đơng Dương được kí kết. Đế quốc Mỹ phá hoại hội nghị Gionever.
Chúng đã không chịu kí kết vào bản tuyên bố chung của hội nghị Gionever. Ngày
20/7/1954 tổng thống Aixenhao của Mỹ đã trắng trợn tun bố: Mỹ khơng kí hiệp
định Gionever nên khơng bị ràng buộc bởi hiệp định. Đế quốc Mỹ ráo riết thực hiên
âm mưu của chúng sau hiệp định Gionever là nhanh chóng hất cẳng Pháp, độc
chiếm quyền thống trị ở miền Nam và Đông Dương, đàn áp phong trào cách mạng
và áp đặt chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ ở miền Nam nước ta, chia cắt lâu dài Việt
Nam, biến miền Nam thành thuộc địa và căn cứ quân sự của chúng ở Đông Nam Á.

7


II. NGHỆ THUẬT LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC (1954-1975)
1. Thế trận của ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ
Kiềm chế đế quốc Mỹ để thắng chúng một cách có lợi nhất Ln tìm cách
kiềm chế đế quốc Mỹ để tránh thế khó khǎn bất lợi và thắng chúng một cách có lợi
nhất là một chủ trương nhất quán của Đảng ta. Chủ trương đó dựa trên cơ sở phân
tích chính xác âm mưu, thủ đoạn và khả nǎng hành động của đế quốc Mỹ trong các
mối quan hệ quốc tế đương thời; mặt khác thấy rõ thế và lực cùng khả nǎng phát
triển của ta. Đế quốc Mỹ mang dã tâm xâm lược nước ta, vì vậy, tìm cách kiềm chế
những âm mưu và hành động của chúng là cần thiết và có thể thực hiện được. Trước
hết, tránh những
Khó khǎn, bất lợi sớm phải đụng đối với một kẻ thù lớn mạnh hơn ta nhiều
lần, mà lực lượng của ta còn hạn chế. Chúng ta có chính nghĩa và đang ở thế phát
triển, nên có khả nǎng tập hợp đơng đảo lực lượng cách mạng trong nước và tranh

thủ được các lực lượng dân chủ và hồ bình trên thế giới, có khả nǎng ngǎn chặn,
phá tan những âm mưu và hành động chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ. Mặt
khác, đế quốc Mỹ xâm lược nước ta là phi nghĩa, không thể lừa bịp được mãi nhân
dân và Quốc hội Mỹ. Nước Mỹ tuy giàu có bậc nhất thế giới, song khơng phải bọn
xâm lược Mỹ muốn huy động bao nhiêu lực lượng vào cuộc chiến tranh xâm lược
nước ta cũng được. Mỹ có chiến lược tồn cầu phản cách mạng, nhưng không phải
lực lượng của Mỹ ở đâu cũng mạnh, chúng cũng phải tự kiềm chế.
Kiềm chế Mỹ chậm đưa quân vào trực tiếp tiến hành chiến tranh xâm lược
nước ta: Đầu những nǎm 40, đế quốc Mỹ đã có âm mưu xâm chiếm Việt Nam, nhất
là từ đầu những nǎm 50 thì Mỹ triển khai ráo riết. Phân tích đúng âm mưu của Mỹ,
Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân kiên quyết đứng lên làm Cách mạng tháng Tám nǎm
1945, giành chính quyền về tay nhân dân trước khi quân Đồng minh kéo vào Đông
Dương, cũng như đánh bại thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ trong kháng
chiến 9 nǎm, nên đã kiềm chế và chặn đứng Mỹ đưa quân, kéo dài và mở rộng chiến
tranh xâm lược nước ta. Sau Hiệp định Giơnevơ (7-1954), đế quốc Mỹ lấn dần thực

8


dân Pháp, độc chiếm miền Nam nước ta, chúng thiết lập chế độ thực dân mới và
dựng nên chính quyền tay sai Ngơ Đình Diệm. Chế độ Mỹ - Diệm đàn áp dã man
phong trào đấu tranh của nhân dân ta ở miền Nam. Nhân dân ta không chịu khuất
phục đã vùng lên chống lại chúng, Đảng ta đã ra Nghị quyết 15 (1-1959) về cách
mạng miền Nam. Nghị quyết ra đời tuy có phần muộn, nhưng cũng đã kịp phát
động quần chúng đấu tranh, đi tới cao trào đồng khởi khắp miền Nam. Phong trào
đồng khởi đã đưa cách mạng miền Nam "từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến
công", là sự sáng tạo cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam, mở đâu cuộc chiến
tranh cách mạng từ thấp lên cao, vừa tầm, vừa sức của lực lượng cách mạng miền
Nam mới nổi dậy và đã kiềm chế được đế quốc Mỹ sớm đưa quân vào miền Nam,
tránh được những khó khǎn, bất lợi của cách mạng miền Nam buổi đầu.

Kiềm chế đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh từng bước Bước vào những nǎm
60, lực lượng so sánh trên thế giới nghiêng hẳn về phía cách mạng và hịa bình. Khả
nǎng ngǎn chặn chiến tranh thế giới ngày càng nhiều. Chính sách "bên miệng hố
chiến tranh" của Mỹ cùng chiến lược quân sự mang tính chất phản công của chúng
như "trấn áp ồ ạt", "trả miếng hàng loạt" đã bị phá sản. Để thích ứng với tình hình,
đế quốc Mỹ cho ra đời chiến lược qn sự mới vừa có tính chất tiến cơng, vừa có
tính chất phịng ngự. Đó là chiến lược "phản ứng linh hoạt" với ba loại chiến tranh:
"chiến tranh thế giới", "chiến tranh cục bộ", và "chiến tranh đặc biệt". Ở miền Nam
nước ta từ khi có Phong trào Đồng khởi, đế quốc Mỹ đã thực hiện "chiến tranh đặc
biệt" nhằm ba mục đích:
• Đàn áp phong trào giải phóng dân tộc, thực hiện chính sách thực dân mới
• Xây dựng cǎn cứ quân sự, chuẩn bị tiến công phe xã hội ch ủ nghĩa;
• Ngǎn chặn chủ nghĩa xã hội lan xuống Đơng Nam á.
Thực hiện ba mục đích trên, đế quốc Mỹ muốn khắc phục những mâu thuẫn
đang tồn tại ở miền Nam Việt Nam: mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc
Mỹ và bè lũ tay sai, mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ phong kiến, mâu thuẫn
giữa hệ thống xã hội chủ nghĩa với lực lượng đế quốc chủ nghĩa, và mâu thuẫn giữa
đế quốc Mỹ với các đế quốc khác, nhất là đế quốc Pháp. Nhưng trên thực tế, Mỹ

9


thực hiện "chiến tranh đặc biệt" chống lại nhân dân ta lại càng làm sâu sắc những
mâu thuẫn đó. Đảng ta chỉ ra rằng, cách mạng miền Nam đ ề ra nhiệm vụ chống đế
quốc xâm lược giành độc lập dân tộc, dân chủ và hồ bình trung lập là để chủ động
kiếm chế địch trong loại "chiến tranh đặc biệt" và tìm cách hồ hỗn mâu thuẫn
giữa lực lượng đế quốc chủ nghĩa với hệ thống xã hội chủ nghĩa trên vấn đề miền
Nam Việt Nam, tranh thủ giai cấp tư sản dân tộc ở miền Nam để chống đế quốc Mỹ
và tay sai, đồng thời tranh thủ sự đồng tình của các nước dân tộc chủ nghĩa và khơi
sâu mâu thuẫn giữa đế quốc Mỹ và đế quốc Pháp. Đảng ta khẳng định: Chúng ta

cần phải và có khả nǎng kiềm chế và thắng địch trong loại "chiến tranh đặc biệt".
Bởi vì, khả nǎng này sẽ tǎng lên nhiều, nếu chúng ta kiên quyết chống đế quốc Mỹ
và tay sai, đồng thời có sách lược khơn khéo biết lợi dụng hơn nữa mâu thuẫn trong
nội bộ địch, giữa đế quốc Mỹ và các đế quốc khác, nhất là đế quốc Pháp, giữa Mỹ
và bọn tay sai ở miền Nam với bọn tư bản cầm quyền ở Đông Nam á, do đó mà làm
cho đế quốc Mỹ khó sử dụng được lực lượng của khối xâm lược Đông Nam á để
mở rộng chiến tranh ở miền Nam. Mặt khác, chúng ta phải tranh thủ mở rộng phong
trào chống đế quốc Mỹ gây chiến và xâm lược, làm cho nhân dân thế giới, nhất là
nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa, các dân tộc á, Phi và Mỹ latinh, ủng hộ cách
mạng miền Nam ngày càng sâu rộng và thiết thực hơn nữa. Kiềm chế và thắng Mỹ
trong "chiến tranh đặc biệt" là chúng ta đã đẩy Mỹ vào thế bị động leo thang chiến
tranh từng bước. Nhân dân ta đã thực hiện xuất sắc tư tưởng chỉ đạo trên của Đảng
Đó là q trình nhân dân ta tiến hành ba mặt trận đấu tranh chính trị, đấu tranh quân
sự chống địch ở miền Nam và đấu tranh ngoại giao để cơ lập địch, tranh thủ sự đồng
tình và ủng hộ đối với ta trên trường quốc tế, mà đấu tranh chính trị và quân sự ở
miền Nam là cơ bản và đấu tranh ngoại giao là rất quan trọng. Thực hiện q trình
đó, nhân dân ta đã phá tan các hành động chiến tranh của Mỹ - ngụy và làm phá sản
các chiến thuật tân kỳ của chúng làm cho "chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ bị
thất bại. Mặt khác, đế quốc Mỹ xâm lược miền Nam Việt Nam là nh ằm thực hiện
một khâu quan trọng trong chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chúng, nhằm
thiết lập ở miền Nam chế độ thực dân mới. Tất cả các âm mưu, thủ đoạn chính trị và

10


qn sự của Mỹ đêu nhằm mục đích đó. Do vậy, Mỹ thực hiện "chiến tranh đặc
biệt", hay trước thất bại nặng nề mà liều lĩnh tiến hành "chiến tranh cục bộ" ở miền
Nam và chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân cũng đều
nhằm mục đích đó. Mỹ khơng thể liều lĩnh đến mức có thể gây phương hại đến
chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chúng. Điều đó địi hỏi Mỹ phải có thời

gian để xây dựng ngụy quân, ngụy quyền làm công cụ thực hiện chủ nghĩa thực dân
mới của chúng, đánh phá lực lượng cách mạng miền Nam bằng những thủ đoạn
thâm độc, xảo quyệt hơn. Do vậy, Mỹ buộc phải thực hiện chính sách leo thang
chiến tranh từng bước. Kiềm chế chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ
trên phạm vi chiến trường miền Nam Giữa nǎm 1965, chiến lược "chiến tranh đ ặc
biệt" của Mỹ hoàn toàn phá sản, tổng thống Mỹ Giônxơn đã tuyên bố đưa quân viễn
chinh Mỹ và quân các nước chư hầu vào trực tiếp tham chiến ở miền Nam, thực
hiện "chiến tranh cục bộ" và tǎng cường đánh phá miền Bắc bằng khơng qn và
hải qn. Trước tình hình đó, Đảng ta đã nhận định: trong khi chiến lược quân sự
của địch đã có sự thay đổi và đã vượt khỏi khn khổ của "chiến tranh đặc biệt" thì
mục đích chính trị của đế quốc Mỹ. ở miền Nam vẫn là tiếp tục thực hiện chính
sách thực dân kiểu mới, tính chất cơ bản của cuộc chiến tranh c ủa Mỹ ở miền Nam
vẫn là chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới. Đế quốc Mỹ đưa quân đội viễn
chinh vào, miền Nam không những để tǎng cường hoạt động quân sự và còn để tạo
điều kiện ổn định ngụy quyền, ra sức xây dựng lực lượng tay sai của chúng về mọi
mặt, tức là chúng cố dựng cho được chế độ thực dân kiểu mới của chúng ở miền
Nam. Đảng ta phân tích các mối quan hệ giữa Mỹ và các nước, các khu vực trên thế
giới: rõ ràng là tình hình chung trên thế giới hiện nay cũng như tình hình riêng của
nước Mỹ khơng cho phép sử dụng hết sức mạnh về kinh tế và quân sự của chúng
trong cuộc chiến tranh xâm lược ở Việt Nam. Mỹ thua trong "chiến tranh đặc biệt",
buộc phải đưa quân viễn chinh và chư hầu vào miền Nam mở rộng chiến tranh,
chúng đã mắc sai lầm đánh giá quá thấp lực lượng của ta. Chúng tính, với "chiến
tranh cục bộ" sẽ thay đổi thế bị động của chúng thành thế chủ động và đẩy lực
lượng cách mạng từ thế chủ động, thế thắng thành thế bị động và bị tiêu diệt. Phân

11


tích tồn diện thế và lực cách mạng cả nước ta lúc này, Đảng ta kết luận: mặc dù đế
quốc Mỹ đưa vào miền Nam hàng chục vạn quân viễn chinh, lực lượng so sánh giữa

ta và địch vẫn không thay đổi lớn. Tuy cuộc chiến tranh ngày càng trở nên gay go,
ác liệt, nhưng nhân dân ta đã có cơ sở chắc chắn để giữ vững và tiếp tục giành thế
chủ động trên chiến trường, có lực lượng và điều kiện đánh bại âm mưu trước mất
và lâu dài của địch. Tuy vậy, Đảng ta cũng chỉ ra là cần phải đề phòng đế quốc Mỹ
liều lĩnh mở rộng "chiến tranh cục bộ" ra cả miền Bắc, phải xây dựng và bố trí lực
lượng sẵn sàng đánh bại chúng ngay từ trận đầu nếu xảy ra. Có đường lối đúng đắn
lại được chỉ đạo thường xuyên và kịp thời của Trung ương và các cấp đảng bộ, nhân
dân ta ở cả hai miền Nam - Bắc đã phối hợp nhịp nhàng trong chiến đấu và xây
dựng lực lượng, đã làm thất bại tất cả các kế hoạch quân sự của Mỹ - nguỵ, bẻ gẫy
tất cả các cuộc phản cơng của địch, dồn địch vào thế tiến thối lưỡng nan, trên cơ sở
đó ta mở cuộc tiến cơng chiến lược Xuân 1968, làm phá sản kế hoạch "chiến tranh
cục bộ" của đế quốc Mỹ. Với thắng lợi này, nhân dân ta đã giữ vững được thế
thắng, kiềm chế và thắng địch trong "chiến tranh cục bộ" của chúng trên chiến
trường miền Nam.
2. Tận dụng tốt thời cơ, phát triển chiến lược cách mạng
Biết giành thắng lợi từng bước. Chuyển cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn
lực lượng sang thế tiến công, đánh thắng "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ - ngụy
Tháng 11-1959, xứ uỷ Nam Bộ quán triệt Nghị quyết 15 của Trung ương. Nghị
quyết 15 đi vào cơ sở giữa lúc quần chúng đang sôi sục cǎm thù Mỹ - Diệm, đã
bùng lên thành phong trào đông khởi khắp miền Nam. Phong trào đông khởi đã
giáng một đòn bất ngờ vào chiến lược Aixenhao, làm thất bại một hình thức thống
trị điển hình của chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ. Đây là một mốc rất quan
trọng chuyển cách mạng miền Nam sang thế tiến công, làm thất bại kế hoạch "chiến
tranh đặc biệt" của Mỹ. Sau Đồng khởi, một vấn đề đặt ra là làm thế nào để giữ
được thế làm chủ của nhân dân. Tháng 1-1961, Bộ Chính trị họp và ra nghị quyết
chỉ rõ hướng phát triển của cách mạng miền Nam sau Đồng khởi là chuyển từ khởi
nghĩa từng phần sang chiến tranh cách mạng, kết hợp khởi nghĩa quần chúng với

12



chiến tranh cách mạng để đưa cách mạng tiến lên. Bộ Chính trị cũng chỉ rõ phương
châm chiến lược của cách mạng miền Nam sau Đồng khởi là: Đẩy mạnh hơn nữa
đấu tranh chính trị, đồng thời đẩy mạnh đấu tranh vũ trang lên song song với đấu
tranh chính trị, tấn công địch bằng cả hai mặt quân sự và chính trị. Bộ Chính trị
khẳng định: Cần phải ra sức xây dựng lực lượng vũ trang đủ mạnh để tiêu diệt nhiều
sinh lực địch. Dưới ánh sáng chỉ đạo của Nghị quyết Bộ Chính trị, cách mạng miền
Nam đã phát triển và trưởng thành nhanh chóng. Một lực lượng lớn được đưa từ
miền Bắc vào cùng lực lượng tại chỗ tạo cho cách mạng miền Nam vững vàng cả về
thế và lực. Với thế và lực đó, với phương hướng tiến lên bằng cả lực lượng chính trị
và quân sự, bằng sự kết hợp cả hai hình thức đấu tranh chính trị và quân sự, nhân
dân ta ở miền Nam đã liên tục tiến công địch, làm phá sản kế hoạch Xtalây Taylơ
nhằm bình định miền Nam trong vịng 18 tháng (1961- 1962) và kế hoạch Giônxơn
- Mắcnamara cùng mục đích trên thực hiện trong hai nǎm (1964- 1965). Đây là quá
trình nhân dân miền Nam đánh bại "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ - nguy. Những
chiến thắng vang dội và có ý nghĩa bước ngoặt như chiến thắng ấp Bắc (2-1- 1963),
chiến thắng Bình Giã (12-1964), chứng tỏ sự trưởng thành toàn diện của lực lượng
cách mạng, khẳng định thế tất thắng của nhân dân ta, mở ra phong trào thi đua diệt
nguy, diệt Mỹ khắp miền Nam. Đến giữa nǎm 1965, quân nguỵ bị đánh tan vỡ từng
mảng, ngụy quyền khủng hoảng triển miên, quốc sách "ấp chiến lược" bị phá sản,
"chiến tranh đặc biệt" của Mỹ - ngụy bị thất bại. Giữ vững thế thắng, thế tiến còng,
quyết chiến quyết thắng đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh. "Chiến tranh đặc biệt"
của đế quốc Mỹ bị đánh bại. Với bản chất hiếu chiến và ngoan cố theo đuổi chiến
lược toàn cầu phản cách mạng, đế quốc Mỹ đã leo thang chiến tranh, tiến hành
"chiến tranh cục bộ" ở miền Nam và đánh phá miền Bắc bằng không quân và hải
quân ác lệt hơn. Đây là một thử thách quyết liệt có tính chất quyết định thắng bại
với cả hai bên tham chiến Tháng 5-1965, Giônxơn tuyên bố đưa quân Mỹ vào trực
tiếp tham chiến ở miền Nam. Tháng 9-1965, Bộ Chính trị họp và tháng 12-1965,
Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 12 bàn về cách mạng miền Nam đã nhận
định: Cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ ở miền Nam đã từ "chiến tranh


13


đặc biệt" chuyển thành "chiến tranh cục bộ", song về tính chất và mục đích vẫn là
nhằm thực hiện chủ nghĩa thực dân mới. Hội nghị đã phân tích rõ chỗ mạnh, chỗ
yếu của địch, đề ra phương châm chiến lược của chiến tranh giải phóng miền Nam
và những hình thức, biện pháp cụ thể để đánh thắng cả lực lượng Mỹ và nguỵ. Một
lần nữa, Đảng ta hạ quyết tâm: quyết chiến và quyết thắng đế quốc Mỹ leo thang
chiến tranh. Phải đánh phủ đầu quân Mỹ ngay khi chúng vừa vào miền Nam. Tháng
5-1965, khi quân Mỹ gồm đủ các quân binh chủng hùng hổ kéo vào miền Nam thì
tại cǎn cứ Núi Thành, một đại đội thuộc bộ đội tỉnh Quảng Nam đã tập kích tiêu diệt
gọn một đại đội lính thủy đánh bộ Mỹ, 180 tên chết và bị thương. Đây là trận đầu
tiên lực lượng vũ trang cách mạng giáp chiến tiêu diệt gọn một đại đội lính Mỹ ở
miền Nam. Qua trận Núi Thành, ta hiểu rõ mặt mạnh, mặt yếu của quân Mỹ trên
thực tế, và khẳng định ta đánh được Mỹ. Tiếp trận Núi Thành là chiến thắng Vạn
Tường, Plâyme... là những trận phủ đầu nặng nề đối với quân Mỹ. Phong trào thi
đua diệt Mỹ nở rộ khắp miền Nam. Ngay nǎm 1965, nǎm đầu quân Mỹ tham chiến
ở miền Nam, ta đã tiêu diệt 20 vạn quân Mỹ - ngụy. Khí thế chiến thắng này đã tạo
đà cho quân dân ta ở miền Nam đánh bại hai cuộc phản công chiến lược của Mỹ
vào hai mùa khô 1965- 1966 và 1966-1967. Với cuộc phản cơng chiến lược mùa
khơ 1966-1967 thì sự cố gắng cùng sự thất bại của Mỹ đã đến độ cao, bộ mặt xâm
lược tàn bạo của chúng đã lộ rõ trước dư luận thế giới, xã hội Mỹ khủng hoảng sâu
sắc, chính giới Mỹ phân hố và mâu thuẫn gay gắt. ở miền Nam, đế quốc Mỹ lâm
vào thế thua, thế bị động và khó khǎn; ngược lại, ta đang ở thế thắng, thế chủ động
và thuận lợi. Tình hình đó cho phép ta chuyển cuộc chiến tranh cách mạng sang một
thời kỳ mới. Quân và dân ta ở miền Nam đã thực hiện bước chuyển đó bằng cuộc
tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt khắp nông thôn và thành thị miền Nam vào đầu
Xuân 1968. Đây là đòn quyết định đánh bại "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ,
buộc chúng phải từng bước xuống thang chiến tranh và đi vào chiều hướng kết thúc

cuộc chiến. Tuy vậy, trong bản anh hùng ca Xuân 1968, Đảng ta mắc sai lầm chủ
quan, nóng vội, muốn kết thúc chiến tranh khi điều kiện chưa đủ. Bởi vậy, đợt tổng
tiến công nổi dậy đầu tiên ta giành thắng lợi vang dội nhưng các đợt sau ta bị tổn

14


thất nặng nề, làm chậm lại sự phát triển theo chiều hướng trên của cuộc chiến mà
thắng lợi thuộc về ta đã rõ. Kết hợp đấu tranh quân sự, chính trị và ngoại giao giành
thắng lợi quyết định Phải xuống thang chiến tranh, nhưng đế quốc Mỹ lại thực hiện
cái gọi là học thuyết Níchxơn bằng chiến lược "Việt Nam hố chiến tranh" hịng
kéo dài chiến tranh, duy trì chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam. Chúng đổ tiền của
vào cố xây dựng cho được ngụy quyền và ngụy quân làm xương sống cho "Việt
Nam hoá chiến tranh". Mỹ thực hiện ở miền Nam một lúc ba loại chiến tranh: giành
dân, bóp nghẹt và huỷ diệt tàn khốc hơn bất kỳ thời kỳ nào trước đó, đồng thời thực
hiện ngoại giao xảo quyệt để cản phá ta giành thắng lợi hồn tồn. Mũi tiến cơng
qn sự đã giành thắng lợi rực rỡ, thực sự làm đòn xeo cho mũi tiến cơng chính trị
và ngoại giao. Nǎm 1969-1971, ta phối hợp với quân dân Lào và Campuchia giành
thắng lợi lớn ở XǎmThông - Loong Chẹng, Cánh Đồng Chum trên chiến trường Lào
và giải phóng phần lớn đất đai cùng 4,5 triệu dân ở Campuchia, chiến thắng đường
số 9 -Nam Lào đã mở ra khả nǎng thực tế làm thất bại chiến lược "Việt Nam hố
chiến tranh" của Níchxơn. Ngày 30-3-1972, ta mở cuộc tiến công chiến lược ở miền
Nam với quy mô lớn, cường độ mạnh, với đủ các binh chủng tác chiến hợp đồng và
kéo dài suốt nǎm 1972. Bị thất bại nặng, Mỹ đã "Mỹ hoá" trở lại cuộc chiến tranh,
thả mìn các cửa sơng, cửa biển và ném bom trở lại miền Bắc, đồng thời thực hiện
chính sách ngoại giao xảo quyệt hòng ngǎn cản thắng lợi của ta. Mỹ lật lọng tại Hội
nghị Pari và tháng 12-1972, chúng mở cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B.52
vào Hà Nội, Hải Phòng suốt 12 ngày đêm. Nhưng cũng như ở miền Nam, cuộc tập
kích này của Mỹ đã thất bại nặng nề. Đúng như Đại hội IV của Đảng ta (12-1976)
đã nhận định: "Thắng lợi to lớn của cuộc tiến công chiến lược nǎm 1972 và chiến

công xuất sắc của quân và dân ta đập tan cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B.
52 vào Hà Nội, Hải Phòng, cuối cùng đã buộc đ ế quốc Mỹ phải ký kết Hiệp định
Pari về Việt Nam, rút hết quân Mỹ và quân chư hầu ra khỏi nước ta". Ta đã giành
thắng lợi quyết định với đế quốc Mỹ.

15


3. Thực hiện chiến lược cách mạng chống đế quốc Mỹ
Từ thắng lợi quyết định tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn . Phải ký Hiệp định
Pari, rút quân về nước nhưng đế quốc Mỹ vẫn ngoan cố tiếp tục dùng ngụy quyền
Sài Gịn làm cơng cụ thực hiện chủ nghĩa thực dân mới của chúng ở miền Nam,
biến miền Nam thành một "quốc gia" than Mỹ, xố bỏ chính quyền cách mạng. Sau
Hiệp định Pari, ở miền Nam chưa có ngừng bắn hồn tồn, chưa có hồ bình thật
sự, Mỹ - ngụy vẫn tiến hành bình định và lấn chiếm khắp miền Nam. Tháng 7-1973,
Trung ương Đảng đã kịp thời họp Hội nghị lần thứ 21, phân tích rõ tình hình trên,
âm mưu và hành động phá hoại Hiệp định Pari của Mỹ - nguỵ. Hội nghị cũng chỉ ra
điểm mạnh, điểm yếu của địch. Hội nghị nhận định thế và lực của cách mạng miền
Nam hiện mạnh hơn bất cứ thời kỳ nào kể từ nǎm 1954 đến đó. Nhưng ta cũng cịn
nhiều mặt cần nhanh chóng khắc phục, nhất là đấu tranh quân sự, chính trị, binh vận
và xây dựng lực lượng phát triển chưa đều từ sau Hiệp định Pari. Hội nghị khẳng
định nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam lúc này là: tiếp tục thực hiện chiến
lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đánh đổ ngụy quyền, làm thất bại hoàn
toàn chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ. Phương pháp cách mạng bạo lực là nhất quán
cả quá trình cách mạng miền Nam đi tới giành thắng lợi hoàn toàn. Nghị quyết 21
của Trung ương giúp các đảng bộ miền Nam kịp thời nhận thức và khắc phục những
thiếu sót, lệch lạc từ sau Hiệp định Pari. Nhờ vậy, tình hình chiến trường miền Nam
có những chuyển biến tích cực và nhanh chóng. Đầu nǎm 1974, về cơ bản ta đã thu
hồi được các vùng giải phóng và vùng tranh chấp bị địch lấn chiếm từ sau Hiệp định
Pari và giải phóng thêm được gần nửa triệu dân. Từ giữa nǎm 1974, những điều

kiện cho việc giải phóng hồn tồn miền Nam đang chín muồi. Tháng 10 - 1974, Bộ
Chính trị họp đề ra kế hoạch giải phóng miền Nam trong 2 nǎm (1975-1976). Sau
đó Bộ Chính trị làm việc với các đồng chí lãnh đạo và chỉ huy các chiến trường
miền Nam. Tháng 1-1975, Bộ Chính trị nhận định: "Chưa bao giờ ta có điều kiện
đầy đủ về quân sự, chính trị như hiện nay, có thời cơ chiến lược to lớn, thuận lợi
như hiện nay để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến
tới hồ bình thống nhất Tổ quốc". Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương quyết định

16


lấy chiến trường Tây Nguyên và Buôn Ma Thuột làm chiến trường và điểm mở đầu
cho kế hoạch giải phóng hồn tồn miền Nam. Bộ Chính trị theo dõi chặt chẽ và chỉ
đạo kịp thời các bước tiến quân giành thắng lợi ở các chiến trường miền Nam.
Chiến dịch giải phóng Tây Nguyên (từ ngày 10 đ ến 20-3-1975) đã điểm trúng
huyệt vào Buôn Ma Thuột, làm rung chuyển hệ thống bố trí chiến lược của qn
ngụy Sài Gịn, ngụy quyền hốt hoảng cho rút quân chiến lược khỏi Tây Ngun,
làm rối loạn qn ngụy. Ta giải phóng hồn tồn Tây Nguyên. Chiến dịch giải
phóng Huế - Đà Nẵng (từ ngày 21 đ ến 29-3-1975) đã phá tan âm mưu co cụm về
giữ đồng bằng ven biển miền Trung của địch, đẩy địch lún sâu hơn nữa vào thế suy
sụp, tan vỡ không sao cứu vãn nổi, làm xuất hiện thời cơ tổng tiến công và nổi dậy
vào sào huyệt cuối cùng của địch: Chiến dịch giải phóng Sài Gịn và Nam Bộ Chiến dịch Hồ Chí Minh (từ ngày 26 đến 30-4-1975). 17 giờ ngày 26-4-1975, nǎm
quân đoàn của ta mở cuộc tổng tiến cơng vào Sài Gịn - Gia Định, 11 giờ ngày 30-41975, quân ta chiếm dinh tổng thống ngụy, buộc ngụy quyền Sài Gòn đầu hàng vơ
điều kiện. Sự nghiệp giải phóng hồn tồn miền Nam của nhân dân ta tồn thắng.
4. Tính sáng tạo của cuộc kháng chiến chống Mỹ
Sáng tạo nhiều cách đánh, cách thắng đế quốc Mỹ Đánh thắng đế quốc Mỹ
bằng phương pháp cách mạng bạo lực của quần chúng. Đây là phương pháp nhất
quán của Đảng ta suốt quá trình cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Nó khơng
ngừng được bổ sung và hồn thiện trong q trình cách mạng. Nghị quyết 15 của
Trung ương đã chỉ rõ: "Ngoài con đường cách mạng, nhân dân miền Nam khơng có

con đường nào khác để tự giải phóng khỏi xiềng xích nơ lệ", "con đường đó là lấy
sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu,
kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong
kiến, dựng nên chính quyền cách mạng của nhân dân". Vào bước cuối cùng của
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Hội nghị trung ương lần thứ 21 lại khẳng
định: tư tưởng cách mạng bạo lực là thống nhất của cả quá trình cách mạng miền
Nam. Chiến thắng 30-4-1975 chứng minh tính đúng đắn, sáng tạo của phương pháp
cách mạng bạo lực của Đảng ta. Bạo lực cách mạng trong cách mạng Việt Nam có

17


lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, với hai hình thức đấu tranh chính trị và
đấu tranh qn sự và sự kết hợp đấu tranh chính trị với quân sự. Quá trình thực hiện
bạo lực cách mạng, nhân dân ta thể hiện sinh động sự kết hợp chặt chẽ giữa ý chí
giành độc lập dân tộc với phương pháp cách mạng đúng đắn. Ý chí giành cho được
độc lập tự do, thống nhất Tổ quốc là truyền thống thiêng liêng của cả dân tộc ta, là
mục tiêu hàng đầu của sự nghiệp cách mạng do Đảng ta lãnh đạo. ý chí đó đã được
Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu khẳng định khi cả dân tộc đứng lên làm Cách mạng
tháng Tám 1945: Dù phải đốt cháy dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được độc
lập, tự do. 21 nǎm sau, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ ở thời điểm quyết liệt nhất,
Người lại nói: Khơng có gì quý hơn độc lập tự do.Để giữ vững và thực hiện được ý
chí dó, suốt 21 nǎm lãnh đ ạo kháng chiến chống Mỹ, Đảng ta đã vận dụng những
giải pháp hết sức mềm dẻo và khơn khéo về chính trị, quân sự, ngoại giao. Do đó,
trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đảng ta đã giữ vững được tính độc lập sáng
tạo về đường lối cách mạng, đã lãnh đạo tiến hành chiến tranh cách mạng thắng lợi,
đồng thời góp phần cùng nhân dân các nước bảo vệ hồ bình thế giới. Một nước
nhỏ, dân số khơng đơng, kinh tế còn kém phát triển đã liên tục đánh bại các chiến
lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, làm thất bại hoàn toàn chủ nghĩa thực dân mới
của Mỹ ở Việt Nam. Từ khởi nghĩa quần chúng chuyển sang tiến hành chiến tranh

cách mạng và kết hợp khởi nghĩa quần chúng với chiến tranh cách mạng. Đây là
phương pháp nổi bật trong kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta ở miền Nam
được Đảng ta tổng kết và chỉ ra là hướng đi lên của cách mạng miền Nam sau
Phong trào Đồng khởi (1960). Bằng cách thức đó, lực lượng cách mạng miền Nam
đã đánh bại "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ - ngụy, và đã phát triển cao ở các thời kỳ
tiếp theo, thể hiện hết sức phong phú, sinh động trong đấu tranh chính trị, quân sự
và kết hợp giữa hai hình thức đấu tranh chính trị và quân sự. Về sau lại được kết
hợp với hình thức đấu tranh ngoại giao. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước sáng
ngời chính nghĩa, đó là ưu thế chính trị rất lớn của ta, cũng là điểm yếu cǎn bản của
Mỹ - ngụy. Đảng và nhân dân ta đã biết phát huy ưu thế này mà liên tục tiến công
địch trên mặt trận chính trị, những "đội qn tóc dài", học sinh, sinh viên, giáo

18


phái... đã tiến công chủ nghĩa thực dân mới bằng chính những luận điệu mị dân của
chúng. Đấu tranh chính trị kết hợp chặt chẽ với đấu tranh ngoại giao đã tố cáo tội ác
của đế quốc Mỹ trước nhân dân tồn thế giới, hình thành ba tầng mặt trận: trong
nước, Đông Dương và thế giới, cùng tiến công đế quốc Mỹ và bọn tay sai. Từ thực
hiện chiến tranh cách mạng chống lại chiến tranh thực dân mới, đồng thời cũng là
làm chiến tranh giải phóng, tất yếu phải xây dựng được lực lượng quân sự và đấu
tranh quân sự mạnh. Thực tiễn kháng chiến chống Mỹ cho ta thấy khơng có lực
lượng qn sự và đấu tranh qn sự mạnh thì khó lịng đẩy mạnh các mặt đấu tranh
chính trị và ngoại giao và khơng thể có thắng lợi triệt để như mùa Xuân 1975. Mặt
trận ngoại giao của ta đã phát huy tính chủ động liên tục tiến công địch, đồng thời
phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng với mặt trận chính trị và quân sự tạo thành sức mạnh
tổng hợp đánh bại kẻ thù. Đây là một nét đặc sắc trong lãnh đạo kháng chiến chống
Mỹ cứu nước của Đảng ta. Đánh thắng quân viễn chinh Mỹ bằng thế trận chiến
tranh nhân dân rộng khắp. Phát động chiến tranh nhân dân chống lại các thế lực
xâm lược là truyền thống của dân tộc ta và cũng là đường lối nhất quán suốt 30 nǎm

lãnh đạo chiến tranh của Đảng ta chống lại hai đế quốc to là Pháp và Mỹ. Trong
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chiến tranh nhân dân của ta phát triển tới đỉnh
cao. Tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, Đảng ta đã chỉ đạo xây dựng lực lượng
vũ trang nhân dân gồm ba thứ quân. Nhờ vậy, tuy quân số ta không đông, nhưng lực
lượng vũ trang của ta được huy động và bố trí chiến lược đồng đều và rộng khắp,
địch ở đâu cũng có thể bị tiến cơng. Nét đặc trưng của chiến tranh nhân dân Việt
Nam là cách đánh địch không chỉ ở ba thứ quân trong lực lượng vũ trang, mà bất cứ
ai từ già đến trẻ đều có thể góp sức mình tiến cơng giặc, góp phần giải phóng quê
hương. Cách đánh sở trường, rộng khắp là đánh du kích. Bằng cách đánh này, mà
vũ khí thơ sơ của ta đã nhiều lần làm cho kẻ thù có vũ khí hiện đại phải chấp nhận
thất bại. Kết hợp đánh du kích và đánh chính quy, đã phát huy sức mạnh tổng hợp
của tất cả các lực lượng vũ trang và sức mạnh của tồn dân đánh giặc. Hình thức tác
chiến trong chiến tranh nhân dân của ta vô cùng phong phú, đánh nhỏ, đánh vừa,
đánh lớn và sự kết hợp các quy mơ tác chiến đó trong từng chiến dịch một cách linh

19


hoạt và sáng tạo, làm cho kẻ địch không thể lường hết được các mũi tiến công của
ta. Chiến tranh nhân dân của ta tiến công địch cả bằng quân sự, chính trị và binh
vận, và sự phối hợp nhịp nhàng giữa các hình thức này, nâng cao hiệu quả chiến đấu
của ta lên rất cao. Cả ba vùng miền núi, đồng bằng và đơ thị đều có những hình thức
tiến công địch phù hợp là nét đặc sắc trong chiến tranh nhân dân của ta. Miền núi
lấy tiến công quân sự là chủ yếu; vùng nông thôn đồng bằng tiến cơng cả qn sự và
chính trị, và kết hợp hai hình thức đó; ở các đơ thị ta tiến cơng địch bằng chính trị là
chủ yếu, đồng thời kết hợp tiến công quân sự với những lực lượng nhỏ, tinh nhuệ
vào các sào huyệt của địch đạt hiệu quả chiến đấu cao.
5. Tổ chức và chỉ đạo cách mạng của Đảng ta
Phối hợp chặt chẽ cách mạng hai miền Đất nước Việt Nam vốn thống nhất, từ
kinh tế - xã hội, tiếng nói, tình cảm và truyền thống, cố kết nhau trong một cộng

đồng bền vững từ lâu đời mà tồn tại và phát triển. Từ khi Đảng ta lãnh đạo cách
mạng, khối đoàn kết thống nhất của dân tộc được kế thừa và phát triển , trở thành
truyền thống cách mạng. Vào thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tuy mỗi
miền có nhiệm vụ cụ thể khác nhau, nhưng đều có chung một mục tiêu là hồn
thành độc lập và thống nhất Tổ quốc. Nhiệm vụ cách mạng hai miền có mối quan hệ
chặt chẽ và thúc đẩy lẫn nhau. Trên cơ sở đó, Đảng ta đã tổ chức, chỉ đạo sự kết hợp
chặt chẽ cách mạng hai miền Nam - Bắc trên nhiều mặt từ chiến lược, sách lược và
những nội dung cụ thể. Kết hợp về chiến lược, Đại hội III của Đảng ta đã xác định:
"Nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc rõ ràng là nhiệm vụ quyết định
nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng nước ta, đối với sự nghiệp thống
nhất nước nhà của nhân dân ta". "Cách mạng miền Nam có một vị trí rất quan trọng.
Nó có tác dụng quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi
ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hồ bình thống nhất nước
nhà, hồn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước". Và
cách mạng hai miền "cùng có một mục tiêu chung là thực hiện thống nhất nước nhà,
cho nên quan hệ mật thiết với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, thúc đẩy nhau cùng phát
triển". Miền Bắc là hậu phương của tiền tuyến miền Nam, là nhân tố thường xuyên

20


quyết định thắng lợi. Vì vậy, bất kể trong tình huống nào, hồ bình hay khơng có
hồ bình, hoặc vừa có hồ bình vừa có chiến tranh, thì nhân dân ta vẫn quyết tâm
xây dựng miền Bắc vững mạnh về mọi mặt. Cách mạng miền Nam cịn có vai trị
tích cực bảo vệ miền Bắc. Đồng bào miền Nam nói: Mỹ đánh miền Bắc một, chúng
ta đánh Mỹ gấp mười ở miền Nam. Điều đó có ý nghĩa rất lớn trong sự kết hợp giữa
hậu phương và tiền tuyến, mỗi địn tấn cơng mạnh của qn dân ta ở miền Nam có
tác dụng trực tiếp đánh bại cuộc chiến tranh thực mới của Mỹ.
Xây dựng lực lượng và tổ chức chiến đấu là lĩnh vực kết hợp phong phú nhất
của cách mạng hai miền. Miền Bắc bảo đảm cung cấp đầy đủ, kịp thời với chất

lượng tốt nhất về lực lượng vũ trang, vũ khí, trang bị và mọi nhu cầu thiết yếu cho
tiền tuyến miền Nam. Cách mạng miền Nam bên cạnh nhiệm vụ xây dựng lực
lượng tại chỗ, đồng thời phải tổ chức, chuẩn bị địa bàn tiếp nhận lực lượng từ miền
Bắc chi viện và bảo đảm sự chi viện đó phát huy hiệu quả cao nhất. Trong chiến
đấu, cách mạng miền Nam có nhiệm vụ kiềm chế và thắng Mỹ ngay tại chiến
trường miền Nam. Thực hiện tốt nhiệm vụ đó, đồng bào ta ở miền Nam đã góp phần
tích cực bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Đồng bào ta ở miền Bắc vì miền Nam
ruột thịt, mỗi người làm việc bằng hai, vừa sản xuất giỏi vừa chiến đấu giỏi.
6. Tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế với cách mạng Việt Nam
Đoàn kết và tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế cao nhất Đoàn kết quốc tế là
tư tưởng chiến lược nhất quán và sách lược khôn khéo của Đảng ta. Ngay từ khi ra
đời, Đảng ta đã xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế
giới. Tại Hội nghị thành lập Đảng, trong Sách lược vắn tắt của Đảng đã khẳng định:
"Trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, lại phải đồng tuyên
truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới" . Tư
tưởng này là cơ sở cho sự phát triển chính sách đồn kết quốc tế của Đảng ta. Chính
sách đó ln được bổ sung, hồn thiện và là một nguồn tǎng thêm sức mạnh lớn hơn
sức mạnh vốn có của ta, là một nhân tố thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Nhân
dân ta bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước khi tìnhhình thế giới đã có
nhiều thay đổi sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Cách mạng thế giới ở thế tiến công.

21


Chủ nghĩa đế quốc lâm vào tổng khủng hoảng. Các đế quốc bị kiệt quệ sau chiến
tranh. Riêng đế quốc Mỹ trở thành giàu nhất và mạnh nhất về kinh tế, tài chính,
quân sự và trở thành kẻ thù chung của các dân tộc trên thế giới.Trong phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế, đặc biệt ở một số nước xã hội chủ nghĩa xuất hiện tư
tưởng hồ bình chủ nghĩa và chủ nghĩa cơ hội mang màu sắc dân tộc. Trong tình
hình đó, chính sách đồn kết quốc tế của Đảng ta nhằm đưa cuộc kháng chiến chống

Mỹ cứu nước của nhân dân ta vào thế tiến công chung của các lực lượng cách mạng
và tiến bộ trên thế giới chống chủ nghĩa đế quốc. Chúng ta tiến hành cuộc chiến
tranh cách mạng, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đồng thời cùng nhân
dân thế giới đấu tranh giữ vững hồ bình. Chính sách đồn kết quốc tế của Đảng ta
lúc này là: tiếp tục tǎng cường sự đồn kết nhất trí giữa nước ta và các nước xã hội
chủ nghĩa khác, củng cố tình hữu nghị khơng gì lay chuyển nổi giữa nước ta với các
nước anh em, đồng thời góp phần tǎng cường sự thống nhất của phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế. Kiên quyết cùng các nước anh em và nhân dân u
chuộng hồ bình và tiến bộ trên thế giới đấu tranh bảo vệ hồ bình, chống lại chính
sách xâm lược và chiến tranh của đế quốc Mỹ. Ra sức ủng hộ phong trào đấu tranh
chống chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc của nhân dân các nước châu á,
châu Phi và châu Mỹ latinh. Với các nước, chúng ta xây dựng và phát triển mối
quan hệ hợp tác hữu nghị trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau, không
can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Đi đôi với việc xây dựng và tǎng cường
quan hệ giữa các chính phủ, cần mở rộng quan hệ hữu nghị giữa nhân dân ta và
nhân dân các nước. Nhờ có chính sách đồn kết quốc tế đúng đắn lại có sách lược
khơn khéo nên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ta đã giành được sự
đồng tình ủng hộ mạnh mẽ cả về tinh thần và vật chất của các nước xã hội chủ
nghĩa, các nước u chuộng hồ bình, các tổ chức quốc tế và nhiều cá nhân có tên
tuổi ở nhiều nước trên khắp thế giới. Đây là một yếu tố cực kỳ quan trọng góp phần
đưa sự nghiệp vĩ đại của dân tộc ta đến thắng lợi. Trong chính sách đồn kết quốc tế
của mình. Đảng ta đặc biệt chú ý xây dựng và củng cố khối đoàn kết chiến đấu keo
sơn giữa ba dân tộc trên bán đảo Đông Dương. Trên thực tế, ba nước Việt Nam, Lào

22


và Campuchia đã hình thành mặt trận chung chống đế quốc Mỹ xâm lược, phối hợp
chặt chẽ trong chiến đấu. Đông Dương thành một chiến trường, cùng chiến đấu và
cùng chiến thắng đế quốc Mỹ. Đế quốc Mỹ thực hiện chiến lược tồn cầu phản cách

mạng nên có mâu thuẫn với cả thế giới, là kẻ thù chung của nhân dân thế giới. Đó là
một cơ sở để nhân dân ta thực hiện trên thực tế mặt trận nhân dân toàn thế giới đoàn
kết, ủng hộ Việt Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược. Chưa bao giờ nhân dân thế giới
đến với nhân dân ta nhiều và mạnh mẽ như thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu
nước. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nhân dân ta đã hình thành trên
thực tế ba tầng mặt trận đông đảo, rộng khắp, sôi nổi ở trong nước, trên bán đảo
Đông Dương và trên toàn thế giới, tập trung mũi nhọn đấu tranh vào đế quốc Mỹ,
kẻ thù chủ yếu, trực tiếp của nhân dân ta và cũng là kẻ thù chung của nhân dân thế
giới. Sự giúp đỡ về vật chất của bạn bè trên thế giới là cực kỳ to lớn. Nhân dân ta đã
sử dụng vũ khí, trang bị và các phương tiện chiến tranh của các nước anh em và bạn
bè giúp đỡ với hiệu quả cao. Đảng ta xác định: "Cuộc chiến tranh cách mạng của
nhân dân miền Nam là chiến đấu lâu dài, dựa vào sức mình là chính", "nhưng đồng
thời chúng ta hết sức tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và viện trợ quốc tế", "kể cả
nhân dân Mỹ". Thực tiễn đường lối đoàn kết quốc tế của Đảng ta trong kháng chiến
chống Mỹ xâm lược đã làm sáng tỏ phương châm đó.
III. Ý NGHĨA LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA CUỘC KHÁNG
CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC (1954- 1975)
1. Ý nghĩa lịch sử
Ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 1975). Thắng
lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là thành quả vĩ đại
nhất của sự nghiệp giải phóng dân tộc do Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo.
Trải qua 21 năm chiến đấu nhân dân ta đã đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược
kiểu mới của đế quốc Mỹ, giải phóng hồn tồn miền Nam. Thắng lợi đó đã kết
thúc vẻ vang 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ tổ quốc, chấm dứt vĩnh
viễn ách thống trị kéo dài hơn một thế kỷ c ủa chủ nghĩa thực dân trên đất nước ta,
hoàn thành về cơ bản cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên cả nước, bảo

23



×