Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

“Khảo sát kiến thức, thực hành của người chăm sóc khi trẻ bị sốt đang điều trị tại khoa HSCCNhi Trung tâm Y tế Nghĩa Đàn từ tháng 32021đến tháng 9 2021”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.76 KB, 33 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Sốt là một cấp cứu nhi khoa thường gặp, được đặc trưng bởi sự gia tăng nhiệt
độ cơ thể cao hơn khoảng dao động bình thường. Sốt chính là một phản ứng của cơ
thể, có tác dụng làm tăng phản ứng hóa học để bảo vệ cơ thể khi cần thiết nhưng
sốt quá cao, kéo dài lại gây ra nhiều hậu quả xấu đối với cơ thể như mất nước và
điện giải, thiếu các chất dinh dưỡng do tăng chuyển hóa, giảm hấp thu, kém ăn. Trẻ
sốt kéo dài dẫn đến nguy cơ suy dinh dưỡng, chậm phát triển thể chất. Ở trẻ dưới 6
tuổi bị sốt cao có nguy cơ bị co giật và có thể để lại di chứng nặng nề nếu khơng xử
trí kịp thời. Sốt thường xảy ra rất đột ngột, bất ngờ; người đầu tiên phát hiện và xử
trí cho trẻ thường là người mẹ. Vì vậy, nhận biết và xử trí tại nhà của các bà mẹ khi
trẻ sốt là rất quan trọng, làm hạn chế được các biến chứng do sốt gây nên trước khi
trẻ tiếp cận với dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu.
Sốt và chăm sóc trẻ khi sốt đã được nhiều tác giả trong và ngoài nước quan
tâm. Theo nghiên cứu của Awal Khan và cộng sự (2015), có 37% bà mẹ khơng biết
về ngun nhân gây sốt, 90% bà mẹ phát hiện sốt bằng phương pháp xúc giác và
57% bà mẹ không biết cách đo nhiệt độ để ghi lại nhiệt độ chính xác [6]. Tại Việt
Nam, những năm gần đây, có một số tác giả nghiên cứu về chăm sóc trẻ sốt của
người ni dưỡng trẻ. Năm 2013, tại khoa Truyền Nhiễm bệnh viện Nhi Trung
Ương, Hồ Thị Bích và Dỗn Thúy Quỳnh đã tiến hành nghiên cứu đề tài và kết quả
đã cho thấy gần ¾ bà mẹ hiểu sai khái niệm về sốt, gần 70% bà mẹ cho trẻ uống
thuốc hạ sốt không theo đơn của bác sĩ và không quan tâm nhiều đến nhiệt độ sốt
của trẻ và 80% các bà mẹ có hành vi chăm sóc sai khi trẻ sốt [3]. Theo nghiên cứu
của Vũ Thanh Hoa (2019), tỉ lệ kiến thức đúng của các bà mẹ không cao chỉ chiếm
33,3% và tỉ lệ các bà mẹ biết khoảng cách an toàn giữa hai lần dùng thuốc hạ sốt
Paracetamol chiếm 46,2% [6].
Tại Trung tâm Y tế Nghĩa Đàn, Trong thực tế tiếp xúc với người chăm sóc trẻ
có trẻ bị sốt, chúng tơi nhận thấy nhiều người chăm sóc trẻ khơng biết trẻ có bị sốt
hay khơng, khơng biết theo dõi nhiệt độ cho trẻ khi trẻ sốt như thế nào, không biết
các phương pháp hạ nhiệt cho trẻ, không biết cách cho trẻ dùng thuốc hạ sốt và thời


gian dùng thuốc lần sau Vì vậy, để kiểm sốt tốt thân nhiệt cho trẻ thì kiến thức


2

đúng về cách xử trí sốt là rất quan trọng. Từ thực tế trên chúng tôi nghiên cứu đề
tài “Khảo sát kiến thức, thực hành của người chăm sóc khi trẻ bị sốt đang điều
trị tại khoa HSCC-Nhi Trung tâm Y tế Nghĩa Đàn từ tháng 3/2021đến tháng 9 /
2021” với 2 mục tiêu:
1. Khảo sát kiến thức, thực hành của người chăm sóc khi trẻ bị sốt điều trị tại
khoa HSCC-Nhi Trung tâm Y tế Nghĩa Đàn từ tháng 3/2021 đến tháng 9/2021.
2. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến kiến thức của người chăm sóc khi trẻ
bị sốt đang điều trị tại Trung tâm Y tế Nghĩa Đàn.


3

Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Khái niệm về sốt
Sốt là một triệu chứng thường gặp của nhiều bệnh lý toàn thân gây nên rối
loạn điều hòa thân nhiệt, làm phá vỡ sự cân bằng giữa sinh nhiệt và thải nhiệt của
cơ thể. Trong nhiều bệnh lý, đặc biệt là các bệnh nhiễm khuẩn, triệu chứng sốt
thường xuất hiện rất sớm. Vì vậy, sốt còn được coi là triệu chứng nhạy bén và đáng
tin cậy. Sốt là trạng thái thân nhiệt cao hơn bình thường, một trẻ được coi là sốt khi
nhiệt độ đo ở nách ≥ 37.50C [2].
Một số tác giả cho rằng: “Sốt là hiện tượng tăng thân nhiệt của cơ thể được xác
nhận khi đo nhiệt độ ở hậu môn trên 37.8 0C (ở trẻ bú mẹ) hoặc trên 38 0C (ở trẻ lớn
hơn) trong điều kiện cơ thể nghỉ ngơi, do hậu quả của sự rối loạn trung tâm điều hoà
nhiệt ở vùng dưới đồi làm tăng ngưỡng thân nhiệt” [6].

Cơ chế điều hòa nhiệt của cơ thể người:
Ở cơ thể người cũng như ở các loài động vật máu nóng khác, thân nhiệt ln
được duy trì ở mức hằng định hoặc dao động trong một giới hạn hợp lý do có sự
cân bằng giữa hiện tượng “sinh nhiệt” và hiện tượng “thải nhiệt”.
- Hiện tượng sinh nhiệt: Nhiệt lượng được sinh ra trong cơ thể người do quá
trình “đốt cháy” carbonhydrat, acid béo và acid amin mà chủ yếu là trong quá trình
co cơ và tác động của hormon thông qua men ATP-aza (Adenosin triphosphataza).
Sinh nhiệt do cơ bắp có tầm quan trọng đặc biệt vì nó có thể thay đổi tùy theo nhu
cầu do sự chỉ huy của võ não (hữu ý) hoặc do thần kinh tự động [6].
- Hiện tượng thải nhiệt: Cơ thể thải nhiệt ra môi trường xung quanh chủ yếu
bằng các con đường đối lưu, bức xạ và bốc hơi qua bề mặt da. Chi phối các q
trình này do tuần hồn đưa máu đến bề mặt của cơ thể nhiều hay ít và bài tiết mồ
hôi dưới tác động của thần kinh giao cảm. Ngồi con đường trên, cơ thể cịn thải
nhiệt qua hô hấp, mất nhiệt qua các chất thải (phân, nước tiểu…) [6].


4

- Trung tâm điều hịa nhiệt: Duy trì sự cân bằng giữa sinh nhiệt và thải nhiệt
được đặt dưới sự điều hành của trung tâm điều hòa nhiệt, nằm dưới đồi thị của não.
Nếu tổn thương trung tâm điều hòa nhiệt thì cơ thể người sẽ mất khả năng duy trì
thân nhiệt ổn định và lúc đó nhiệt độ của cơ thể sẽ biến đổi theo nhiệt độ của môi
trường xung quanh gọi là hiện tượng “biến nhiệt” [6].
1.2. Cơ chế bệnh sinh của sốt.
Sốt là trạng thái tăng thân nhiệt chủ động do trung tâm điều hòa nhiệt bị rối
loạn trước tác động của chất gây sốt (chất sinh nhiệt). Chất sinh nhiệt có hai loại:
chất sinh nhiệt nội sinh và chất sinh nhiệt ngoại sinh [6].
- Chất sinh nhiệt nội sinh: đó là các cytokine do bạch cầu sinh ra thông qua
Prostaglandine E2 tác động lên thụ thể ở trung tâm điều nhiệt gây sốt.
- Chất sinh nhiệt ngoại sinh: được biết rõ nhất là các pyrogen thuộc các thành

phần, độc tố, các sản phẩm của các vi sinh vật.
Cơ chế gây sốt:
Sốt là một phản ứng của cơ thể trước nhiều tác nhân: vi khuẩn và độc tố của
chúng, nấm, ricketsia, kí sinh trùng, một số chất hóa học và một số thuốc, hormon,
các kháng nguyên của cơ thể…Những tác nhân gây sốt trên gọi là chất sinh nhiệt
ngoại sinh. Các chất sinh nhiệt ngoại sinh tác động thông qua chất trung gian gọi là
chất sinh nhiệt nội sinh. . Interleukin-1 do các tế bào đơn nhân và đại thực bào sản
xuất ra, bản chất là một peptid có vai trị đáp ứng sớm hay “đáp ứng của giai đoạn
cấp tính” và được coi là cytokin đảm nhiệm chức năng sinh nhiệt nội sinh. Hoạt
động của interleukin-1 được thực hiện khi chúng tác động lên các nơron cảm ứng
nhiệt ở vùng trước thị giác của vùng dưới đồi thị, kích thích q trình tổng hợp
prostaglandin nhóm E từ acid arachidonic. Prostaglandin E mà đặc biệt là PG-E1 sẽ
kích thích q trình tổng hợp adenyl monophosphat vịng (AMP vịng) để hoạt hóa
q trình sinh nhiệt. Thực chất của quá trình sinh nhiệt là một dãy phản ứng thần
kinh- hóa học phức tạp chưa hồn tồn sáng tỏ. Nhìn chung những nguyên nhân


5

làm tăng sản xuất chất sinh nhiệt nội sinh Interleukin-1 hoặc tăng sản xuất
Prostaglandin E đều làm tăng quá trình sinh nhiệt và ngược lại (asprin và các dẫn
xuất) có tác dụng hạ sốt thông qua cơ chế ức chế men cyclo-oxygenaza từ đó ngăn
cản tổng hợp prostaglandin E1, E2. Glucocorticoid hạ nhiệt thông qua cơ chế ức
chế sản xuất ra interleukin-1 v.v…) [6].
Cần phải nhấn mạnh rằng, sốt là một phản ứng của cơ thể đối với các chất sinh
nhiệt ngoại sinh (phần lớn là các tác nhân gây bệnh) thơng qua vai trị trung gian
của interleukin-1; là đáp ứng đặc thù của cơ thể với các nhiễm trùng và viêm nhiễm
cấp tính. Một số đáp ứng này mang tính bảo vệ. Do vậy, khơng phải tất cả mọi
trường hợp sốt đều cần dùng thuốc hạ sốt ngay mà chỉ khi sốt gây rối loạn những
chức năng của cơ quan trong cơ thể lúc đó mới cần phải hạ sốt.

1.3. Phân loại sốt.
1.3.1 Theo mức thân nhiệt.
- Sốt nhẹ: 37.50C – 380C
- Sốt vừa: 380C – 38.50C
- Sốt cao: 38.50C – 390C
- Sốt rất cao: ≥ 39.50C
Cách phân loại trên dựa vào nhiệt độ đo ở nách [1].
1.3.2. Theo thời gian sốt.
- Sốt cấp tính: thường dưới 7 ngày, gồm các bệnh nhiễm trùng do virus.
- Sốt kéo dài: là thuật ngữ dùng chỉ những người bệnh có nhiệt độ đo ở hậu
môn trên 37.80C (ở trẻ nhỏ) hoặc trên 380C (ở trẻ lớn) trong một thời gian ít nhất 2
tuần [1],[2].
- Sốt kéo dài không rõ nguyên nhân: khái niệm này dùng để chỉ những trường
hợp sốt kéo dài mà trong vịng 1 tuần với sự tích cực tìm kiếm của bác sỹ và sự
giúp đỡ của các xét nghiệm thường quy vẫn không xác định được nguyên nhân


6

- Sốt dai dẳng: Sốt nhiều ngày nhưng không liên tục, có những ngày khơng
sốt.
1.3.3. Theo kiểu sốt trên lâm sàng
1.3.3.1. Kiểu sốt
Theo quan niệm kinh điển, sốt bao gồm sốt dao động, sốt liên tục, sốt từng
cơn, sốt có chu kỳ [12], [17- 18]:
- Sốt dao động: là khi nhiệt độ trong ngày (lấy nhiệt độ hàng giờ) dao động >
10C. Sốt dao động thường gặp ở đa số các trường hợp bệnh lý kể cả nhiễm khuẩn
và không nhiễm khuẩn. Bởi vì theo quy luật sinh lý, nhiệt độ về buổi chiều và đêm
thường cao hơn buổi sáng. Đặc biệt là các nhiễm khuẩn gây ổ mủ sâu hay gặp sốt
dao động rõ, có khi chênh lệch nhiệt độ trong ngày tới 2-30C.

- Sốt liên tục: là khi nhiệt độ trong ngày dao động ít (chênh lệc 1 0C, có tác giả
lấy tiêu chuẩn 0.50C). Khái niệm “sốt cao liên tục” hay cịn gọi là sốt hình cao
ngun để chỉ những trường hợp nhiệt độ tăng trên 39 0C và dao động chênh lệch
0.50C.
- Sốt thành cơn: khi trong ngày có những cơn sốt rõ rệt (kể cả cảm giác của
người bệnh và lấy nhiệt độ chứng minh) xen kẽ với những thời gian hồn tồn
khơng sốt. Trong ngày có thể có 1 hoặc nhiều cơn sốt.
- Sốt có chu kỳ: cơn sốt trong ngày xảy ra cùng một thời gian và kiểu sốt
tương tự. Chu kỳ có thể xảy ra hàng ngày hoặc cách ngày hoặc cách 2 ngày. Kiểu
sốt này hay gặp trong sốt rét tái phát. “Sốt hồi quy” cũng có thể coi là sốt có chu kỳ
nhưng từng đợt sốt kéo dài nhiều ngày xen kẽ những đợt nghỉ nhiều ngày không
sốt.
1.3.3.2. Kiểu khởi phát sốt
Trong lâm sàng, kiểu khởi phát sốt được các thầy thuốc rất chú ý bởi lẽ có thể
là định hướng cho chẩn đoán nguyên nhân. Dựa vào kiểu khởi phát sốt, nguời ta
chia sốt ra làm 3 loại: đột ngột, tương đối đột ngột và từ từ.


7

- Sốt đột ngột: là khi nhiệt độ ở bệnh nhân tăng lên rất nhanh, đạt tới đỉnh cao
trong vòng 1 ngày, đúng hơn là trong vòng 12 giờ. Sốt đột ngột gần đồng nghĩa với
sốt cấp tính.
- Sốt tương đối đột ngột: khi nhiệt độ của bệnh nhân đạt tới đỉnh cao từ 1-2
ngày.
- Sốt từ từ: khi nhiệt độ ở bệnh nhân tăng dần chậm và sau 3 ngày mới đạt
đỉnh cao.
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng tới sốt
1.4.1. Vai trị của vỏ não
Thí nghiệm: trước khi gây sốt, nếu tiêm cafein, cơn sốt cao hơn bình thường

nhưng nếu cho động vật uống bromua thì sốt nhẹ hơn. Như vậy mức độ sốt phụ
thuộc vào mức hưng phấn của vỏ não và hệ giao cảm.
1.4.2. Vai trò tuổi
Ở trẻ nhỏ, phản ứng sốt thường mạnh nên trẻ dễ xuất hiện co giật khi thân
nhiệt cao. Ngược lại, ở người già phản ứng sốt yếu không thể hiện được mức độ
bệnh. Ở đây có vai trị của cường độ chuyển hóa.
1.4.3. Vai trị của nội tiết
Vai trị của các tuyến nội tiết trong cơ chế sốt chưa có nhiều ý kiến chứng
minh.Tuy nhiên việc cắt bỏ một tuyến như hạ não, tuyến giáp thì thấy phản ứng sốt
giảm. Gần đây người ta chú ý đến vai trò của prostaglandine trong cơ chế gây sốt.
Chất gây sốt giúp cho tăng q trình tổng hợp prostaglandine từ các acid béo khơng
bão hịa. Có lẽ chất gây sốt tác dụng lên trung tâm điều hịa nhiệt độ thơng qua vai
trị của prostaglandine.
1.4.4. Đặc điểm điều hòa thân nhiệt ở trẻ em
Đặc điểm cơ bản nhất của điều hòa thân nhiệt ở trẻ em là trung tâm điều nhiệt
chưa trưởng thành, rất dễ bị tác động, dễ sốt cao ngay cả khi nhiễm trùng nhẹ hoặc
ngược lại.


8

Diện tích da của trẻ em tính theo cân nặng rộng, mạng mao mạch dưới da
cũng nhiều hơn so với người lớn nên thân nhiệt rất dễ bị ảnh hưởng bởi nhiệt độ
môi trường. Do cơ thể trẻ đang phát triển, trẻ ln hiếu động nên q trình sinh
nhiệt cũng cao hơn. Để cân bằng thân nhiệt, cơ chế thải nhiệt qua bốc hơi ở trẻ qua
nhịp thở và bài tiết mồ hơi có vai trị rất quan trọng. Ở lứa tuối dậy thì do có biến
động về nội tiết và thần kinh mạnh mẽ nên sự điều hòa nhiệt độ ở trẻ em cũng rất
dễ mất cân bằng và rối loạn. Ngồi ra ở trẻ em có thể gặp các bệnh bẩm sinh do rối
loạn các cơ quan điều nhiệt như thiểu sản hay bất sản tuyến mồ hôi, loạn sản ngoại
bì gây sốt kéo dài [6].

1.5 Nguyên nhân gây sốt
Có rất nhiều nguyên nhân gây sốt, có thể tổng hợp vào 3 nguyên nhân chủ yếu
gây nên các trạng thái bệnh lý là: các bệnh nhiễm khuẩn, các bệnh khơng phải
nhiễm khuẩn và rối loạn điều hịa thân nhiệt.
1.5.1. Các bệnh nhiễm khuẩn:
Đa số các bệnh sốt là những bệnh nhiễm khuẩn. Chính vì vậy, trước một bệnh
nhân có sốt, đầu tiên người thầy thuốc phải nghĩ tới bệnh nhiễm khuẩn. Tuy vậy, các
bệnh nhiễm khuẩn khác nhau cũng có những đặc điểm sốt khác nhau mà dựa vào đó
mà thầy thuốc lâm sàng có thể chẩn đốn được căn nguyên
- Nhiễm virus: đa số các bệnh do virus gây ra đều có sốt đột ngột hoặc tương
đối đột ngột và thời gian sốt thường chỉ kéo dài 2-7 ngày hoặc tới 10 ngày. Sốt do
virus còn gọi là sốt cấp tính hay sốt ngắn ngày (để phân biệt với sốt kéo dài). Tuy
vậy cũng có một số virus gây sốt kéo dài như: Epstein-Barr, virus Coxsackie nhóm
B, virus sốt chim, vẹt…nhưng nhìn chung đây là những bệnh ít phổ biến [18].
- Nhiễm vi khuẩn: có rất nhiều vi khuẩn gây bệnh, do vậy bệnh do vi khuẩn gây
ra cũng là bệnh thường gặp. Sốt do nhiễm các vi khuẩn rất đa dạng và khơng có một
đặc điểm chung nhất. Tuy nhiên, căn cứ vào cơ quan tổn thương và tính chất của sốt
cũng có thể chẩn đốn được căn nguyên bệnh. Ví dụ như một bệnh nhân có ho, tức


9

ngực, khạc đờm màu socola và có sốt cấp tính kèm những cơn rét run thì căn nguyên
sẽ là phế cầu khuẩn; một bệnh nhân có sốt cao tăng dần hình cao ngun và có tổn
thương đường tiêu hóa (đi ngồi phân lỏng màu nâu) thì nghĩ ngay đến căn nguyên
là do trực khuẩn thương hàn. Bệnh nhân sốt kèm theo mụn mủ lớn (viêm nang lơng)
ngồi da là do căn nguyên tụ cầu vàng v.v…Nhiễm khuẩn khu trú ở sâu gây các ổ áp
xe (trong ổ bụng, trong gan, não, lách, thận, tử cung…) sẽ có sốt kéo dài và có những
cơn rét run. Nhiễm khuẩn huyết sẽ có biểu hiện sốt cao dao động, có những cơn rét
run, kéo dài nhiều ngày và thường có biểu hiện thiếu máu rõ [2].

- Nhiễm ký sinh trùng: đa số các bệnh do ký sinh trùng gây ra đều có sốt nhẹ
và sốt vừa, ít khi có sốt cao, trừ một số đơn bào như sốt rét Plasmodium, bệnh do
Leishmania. Sốt do ký sinh trùng sốt rét Plasmodium có đặc điểm rất riêng đó là:
sốt cao đột ngột, thành cơn (rét, nóng, vã mồ hơi), có chu kỳ (hàng ngày, cách nhật,
hoặc cách 2 ngày tùy từng loại Plasmodium), thường tái phát. Leishmania gây sốt
kéo dài, kèm theo là hội chứng gan, lách to và thiếu máu. Với amip (Entamoeba
histolytica) nếu gây bệnh đường ruột (lỵ amip) chỉ gây nên sốt nhẹ, nhưng nếu gây
áp xe ở gan, não…thì có thể gây sốt cao, rét run và kéo dài. Ngoài ra, bệnh do
Toxoplasma và Trypanosoma cũng gây sốt cao kéo dài nhưng chưa tìm thấy bệnh
này ở nước ta [6].
- Nhiễm rickettsia: các rickettsia gây ra những bệnh thường có ổ bệnh thiên
nhiên và là nhóm bệnh từ động vật lây sang người. Sốt trong các bệnh do rickettsia
gây nên có đặc điểm chung là dao động, có chu kì, kéo dài và tái phát [18]. Ví dụ
về một số bệnh do rickettsia:
+ Sốt mò: bệnh do rickettsia Tsutsugamushi gây nên được truyền qua vật chủ
trung gian là ấu trùng mò. Sốt mò là những bệnh gặp ở những vùng đồi núi và trung
du nước ta, một số nơi có ổ bệnh thiên nhiên. Sốt trong bệnh sốt mị có đặc điểm là
khởi phát tương đối đột ngột, sốt nóng là chủ yếu, sốt tăng dần và kéo dài, đa số các
trường hợp bệnh có sốt theo kiểu hình cao ngun kéo dài 2-3 tuần hoặc hơn. Bệnh


10

thường tái phát sau khi đã chấm dứt số đợt đầu 5-10 ngày, kể cả khi đã được điều
trị đặc hiệu bằng chlorocid [6].
+Sốt phát ban thành dịch: còn gọi là sốt phát ban chấy rận do Rickettsia
prowazeki gây nên. Triệu chứng sốt của bệnh thường xảy ra đột ngột, sốt cao có rét
run kéo dài 2 tuần hoặc hơn. Sau khi hết sốt một thời gian dài, mặc dù đã hết chấy
rận nhưng ở một số bệnh nhân vẫn có sốt tái phát (tái phát xa).
+ Sốt Q: bệnh do Rickettsia burneti gây nên. Bệnh thường biểu hiện bằng sốt

cao đột ngột và kéo dài khoảng 2 tuần sau đó giảm dần. Có thể tái phát 2-3 lần
nhưng những lần sau ngắn hơn. Một số trường hợp kéo dài thành mãn tính (viêm
màng trong tim mãn tính, viêm não, viêm gan mãn tính) [6].
1.5.2. Các bệnh khơng nhiễm khuẩn có sốt
Có rất nhiều bệnh lý khơng phải nhiễm khuẩn có triệu chứng sốt. Có thể kể
đến những nhóm bệnh thường gặp sau:
- Các bệnh của hệ thống tạo máu: các bệnh Leucose, Hodgkin, u lympho
không phải Hodgkin, tăng tổ chức bào ác tính là những bệnh thường xun có sốt.
Đôi khi triệu chứng sốt xuất hiện sớm nhất khi chưa có biểu hiện gì khác, nhưng
thơng thường sốt xuất hiện vào giai đoạn muộn hơn khi đã có một số triệu chứng
kèm theo. Trong bệnh nhược cơ tủy, suy tủy, sốt xuất hiện muộn và là hậu quả của
giảm bạch cầu hạt dẫn đến nhiễm khuẩn. Nhìn chung, sốt trong các bệnh lý của hệ
thống tạo máu thường kéo dài và đa dạng, không mang đặc điểm riêng nên khó
chẩn đốn nếu chỉ dựa vào chúng.
- Các bệnh mơ liên kết: các bệnh luput ban đỏ hệ thống, viêm khớp dạng thấp,
viêm động mạch, viêm tắc tĩnh mạch, viêm nút quanh động mạch, viêm động mạch
tế bào khổng lồ đều có thể có sốt. Các bệnh mơ liên kết thường gây sốt cao, kéo dài
và chủ yếu là sốt nóng. Các bệnh lý u, đặc biệt là u ác tính cũng là nguyên nhân gây
sốt kéo dài. Tuy vậy, sốt trong bệnh lý u thường là muộn và đa số các trường hợp
sốt xuất hiện khi đã phát hiện ra khối u trước đó.


11

- Mắc một số bệnh lý khác: nhiều bệnh lý khác cũng có sốt như: tắc mạch phổi
rải rác, sốt do tan máu bởi các nguyên nhân khác nhau, sốt do phản ứng với
thuốc…..
1.5.3. Rối loạn điều hòa thân nhiệt
- Trúng nóng: gặp ở những người lao động gắng sức trong mơi trường nóng
mà độ ẩm lại cao. Trúng nóng cịn gọi là đột quỵ do nóng thường gặp ở những vận

động viên, người chơi thể thao và những tân binh khi phải tập luyện dưới nắng
nóng. Trúng nóng gây sốt rất cao tới 41-420C, bệnh nhân mất ý thức và huyết áp
thường hạ [6].
- Các bệnh lý gây tổn thương trung khu điều hòa nhiệt: tai biến mạch máu não,
u não, các bệnh thối hóa não…đều có thể gây ra tình trạng sốt rất cao và đặc biệt
là các thuốc hạ nhiệt đều khơng có tác dụng giảm sốt.
- Cường chức năng tuyến giáp cũng có thể gây sốt do sinh nhiệt quá mức. Tuy
vậy sốt thường ở mức nhẹ và vừa.
- Sốt do nguyên nhân tâm lý: thường gặp ở phụ nữ trẻ với biểu hiện sốt nhẹ
kéo dài hay kèm theo mất ngủ. Khám không thấy một bằng chứng nào của bệnh
thực thể.
1.6. Các dấu hiệu nhận biết khi trẻ sốt
Các dấu hiệu và triệu chứng sốt ở trẻ có thể được biểu hiện rõ ràng hoặc kín
đáo. Các triệu chứng ở trẻ càng nhỏ thì càng kín đáo và thường có các biểu hiện và
triệu chứng sau [1]:
1.6.1. Ở trẻ nhỏ
Ở trẻ nhỏ thường có các dấu hiệu sau:
-

Cáu gắt hơn bình thường

-

Trẻ làm nũng cha mẹ

-

Trẻ n lặng

-


Trẻ hơn mê hoặc li bì (đây là những dấu hiệu rất nguy hiểm)


12

-

Trẻ bú và ăn kém

-

Trẻ khóc hoặc thét lên

-

Trẻ thở nhanh hơn bình thường

-

Có những thay đổi bất thường trong giấc ngủ hoặc ăn uống

- Cha mẹ thấy trẻ ấm, nóng hơn
1.6.2. Ở trẻ lớn
- Trẻ nóng hoặc lạnh hơn những người xung quanh ở cùng môi trường sống
- Trẻ kêu đau nhức cơ thể
- Trẻ nói trẻ đau đầu
- Trẻ khó ngủ hoặc ngủ nhiều
- Trẻ chán ăn
1.7. Cách đo thân nhiệt

1.7.1. Dụng cụ đo thân nhiệt
Có nhiều cách để phát hiện trẻ sốt, như sờ bằng tay qua cảm nhận của bà mẹ,
bằng nhiệt kế. Nhưng phát hiện trẻ sốt bằng nhiệt kế cho một kết quả chính xác
nhất [6].
Cần đo nhiệt độ để xác định mức độ sốt của trẻ. Dụng cụ có thể sử dụng là
nhiệt kế thủy ngân và nhiệt kế điện tử để đo ở nách, đo tai, đo trán/thái dương. Tuy
nhiên, hiện nay ít sử dụng nhiệt kế thủy ngân vì khơng an toàn. Thủy ngân độc,
nếu nhiệt kế bị vỡ sẽ gây nhiều nguy hiểm đến sức khỏe, đặc biệt là trong trường
hợp trẻ nuốt phải. Ngồi ra, cũng khơng nên sử dụng loại nhiệt kế điện tử dán trán
vì khơng chính xác. Nhiệt kế điện tử đo tai cũng thường không chính xác cho trẻ
dưới 3 tháng tuổi [6].
1.7.2. Cách đo nhiệt độ
Có thể đo nhiệt độ của trẻ tại nách (đa số), miệng, hậu môn, tai, trán/thái
dương (điện tử dùng tia hồng ngoại)
-

Với trẻ sơ sinh, nên sử dụng nhiệt kế điện tử để kẹp vào nách.


13

-

Với trẻ 3 tháng đến 5 tuổi, có thể lấy nhiệt độ tại nách hoặc tai.

-

Trẻ lớn hơn thì có thể lấy ở nách là chủ yếu.

Thông thường, nếu trẻ có nhiệt độ hậu mơn là 36.5- 37.5 0C là bình thường.

Nếu nhiệt độ hậu mơn từ 380C trở lên tức là trẻ sốt. Trong đó, nhiệt độ hậu mơn
bằng nhiệt độ nách +0.5 và bằng nhiệt độ tai +0.3.
1.7.2.1. Đo nhiệt độ ở nách
- Lau khô vùng nách
- Vảy mạnh nhiệt kế sao cho mức thủy ngân ở dưới 350C.
- Đặt bầu thủy ngân vào giữa vùng hõm nách. Đọc kết quả sau 5 phút.
1.7.2.2. Đo nhiệt độ ở miệng
- Khơng ăn uống ít nhất 10 phút trước khi cặp nhiệt độ.
- Kiểm tra mức thủy ngân dưới vạch 350C.
- Đặt bầu thủy ngân ở dưới lưỡi – với trẻ nhỏ ở góc má, ngậm miệng lại nhẹ
nhàng (tránh cắn phải nhiệt kế). Với trẻ lớn, khi trẻ có răng hạn chế cặp theo phương
pháp này vì trẻ dễ cắn vỡ nhiệt kế. Đọc kết quả sau 5 phút.
1.7.2.3. Đo nhiệt độ tại hậu môn
- Cặp nhiệt độ được đặt vào ống trực tràng (thường có loại nhiệt kế riêng).
Đây là nhiệt độ phản ánh trung thực nhiệt độ cơ thể nhất. Nên thực hiện cần cẩn
thận vì nếu thơ bạo có thể làm tổn thương hậu mơn ở trẻ nhỏ.
- Đọc kết quả sau 5 phút. Nhiệt độ đo được bằng hoặc trên 38 0C được xem là
sốt.
1.8. Cách xử trí khi trẻ bị sốt.
Khi nghi ngờ trẻ bị sốt, chúng ta cần cặp nhiệt độ cho trẻ rồi 10 phút sau lại kiểm
tra lại xem nhiệt độ đó có thay đổi khơng, nếu trẻ sốt cần hạ nhiệt độ ngay.
Có rất nhiều biện pháp hạ sốt đã được áp dụng rộng rãi tùy theo từng người
bệnh và loại bệnh.
1.8.1. Với trẻ sốt cao:


14

Khi trẻ sốt cao cần được nằm ở buồng bệnh thoáng mát. Cần nới rộng quần áo
để thoát nhiệt và sử dụng các biện pháp hạ nhiệt sau:

- Biện pháp hạ nhiệt vật lý: dùng khăn tẩm nước ấm để đắp lên trán, da. Lau
người hoặc tắm nước ấm (nhiệt độ của nước thấp hơn nhiệt độ cơ thể từ 2-3 0C). Sau
5 phút một lần lại cặp lại nhiệt độ và thôi lau người cho đến khi thân nhiệt hạ xuống
cịn 380C. Khơng được dùng nước lạnh, nước đá để lau mình vì làm như vậy làm cho
mạch máu co lại, ngăn cản hiện tượng tỏa nhiệt và sẽ khiến thân nhiệt gia tăng.
Ngồi ra, cần chú ý khơng được pha rượu (gây ngộ độc) hay thoa chanh (gây tổn
thương da) khi lau mát cho trẻ [6].
- Biện pháp dùng thuốc: các thuốc aspirin, ibuprofen và acetaminophen cùng
hàng chục dẫn xuất của chúng thường được sử dụng để hạ thân nhiệt. Các thuốc an
thần cũng được sử dụng, đặc biệt là với trẻ em, ngoài tác dụng hạ sốt cịn đề phịng
co giật. Glucocorticoid cũng có tác dụng hạ nhiệt nhưng ít được sử dụng vì có
nhiều tác dụng phụ.
Xử trí bằng thuốc hạ sốt trong các trường hợp:
- Khi trẻ sốt từ 38.50C trở lên kèm theo khó chịu, quấy khóc, biếng ăn, khó ngủ.
- Sốt từ 380C trở lên có tiền sử bệnh lý tim/phổi, tiền sử co giật…
Khi sử dụng thuốc hạ sốt cần lưu ý, có thể dùng paracetamol hoặc
acetaminophen: 10-15mg/kg cân nặng, uống khi cần mỗi 4-6 giờ. Khơng cho trẻ
uống Aspirin khi có triệu chứng thủy đậu hay cúm, vì có thể gây ra hội chứng
Reye.
Tiến hành lau mát ngay khi sốt kèm theo co giật, sốt trên 40 0C, không đáp ứng
với thuốc hạ nhiệt. Phương pháp này không dùng thường quy vì trẻ dễ run, dễ
khiến trẻ khó chịu, mất nhiệt.
Ni dưỡng khi trẻ sốt
- Cần chú ý chế độ dinh dưỡng hợp lý, ăn bình thường theo nhu cầu của trẻ,
khi trẻ sốt hay cho trẻ ăn từng bữa nhỏ, cho trẻ ăn làm nhiều lần. Hãy cho trẻ ăn


15

những món mà trẻ thích. Hãy cho trẻ uống thêm nước hoa quả tươi như lê, táo,

cam, dưa hấu [4].
- Hãy khuyến khích trẻ uống nước càng nhiều càng tốt (không dùng nước ngọt),
bằng cách cho uống những lượng nước nhỏ, theo khoảng cách đều đặn [4].
- Tái khám sau 2 ngày nếu còn sốt, tái khám ngay khi trẻ có dấu hiệu nặng
(cần đi bệnh viện).
1.8.2. Khi trẻ sốt nhẹ
Khi trẻ sốt nhẹ, 37.5- 38.50 C thì chưa cần dùng thuốc hạ sốt mà chỉ cần cởi bớt
quần áo, cho trẻ uống nhiều nước, nếu trẻ đang bú mẹ cho bú nhiều hơn. Khi trẻ sốt
trên 38.50C cần cởi bớt quần áo, cho trẻ mặc quần áo lót mỏng, mềm, thoáng, rộng,
cho uống thuốc hạ nhiệt hoặc đặt thuốc ở hậu mơn [2].
Ngồi ra cần dùng khăn thấm nước ấm lau 2 hõm nách, 2 bẹn của trẻ hoặc lau
người cũng góp phần làm hạ nhiệt độ của trẻ, chú ý không dùng nước đá hoặc
chườm đá cho trẻ sẽ gây cho trẻ phản ứng không tốt.
1.9. Tác hại của thuốc hạ sốt [4]
Tác hại của nhóm thuốc hạ sốt hay sử dụng như aspirin, ibuprofen,
paracetamol thuộc nhóm hạ sốt, chống viêm, giảm đau không steroid. Tác hại của
thuốc chủ yếu là do ức chế tổng hợp PG. Thuốc có các tác hại chính sau:
- Tác hại lên hệ tiêu hóa: do đặc điểm cơ chế tác dụng của nhóm thuốc hạ sốt,
giảm đau, chống viêm khơng steroid làm mất đi khả năng bảo vệ niêm mạc dạ dày
của PG, đặc biệt là PG E2 có tác dụng làm tăng chất nhầy và có thể kích thích phân
bào để thường xuyên thay thế các tế bào niêm mạc bị phá hủy, tạo điều kiện cho
HCl của dịch vị gây tổn thương cho niêm mạc dạ dày, cụ thể gây lt dạ dày- ruột.
Vì vậy, khơng được dùng thuốc cho những người có tiền sử loét dạ dày và phải
uống thuốc sau bữa ăn.


16

- Gây xuất huyết: Làm kéo dài thời gian chảy máu do ức chế ngưng kết tiểu
cầu. Đặc biệt nguy hiểm trong trường hợp người bệnh bị sốt xuất huyết, sử dụng

Aspirin hạ sốt có nguy cơ xuất huyết tiêu hóa, nội tạng…
- Gây hại cho gan, thận: Với thận, PG có vai trị quan trọng trong tuần hồn
thận. Ức chế tổng hợp PG gây hoại tử gan và sau là viêm thận kẽ mãn tính, giảm
chức phận cầu thận. Thuốc hạ sốt nhóm khơng steroid chuyển hóa qua gan và thải
trừ qua thận, nên nếu sử dụng kéo dài và trên những người giảm chức năng gan,
thận sẽ gây hại cho gan, thận.
Ngồi các tác dụng khơng mong muốn chính nêu trên cịn có thể gặp các tác
dụng khơng mong muốn khác như:
Mọi thuốc chống viêm không steroid đều có khả năng gây cơn hen giả.
Với aspirin, nếu dùng lâu có thể gây “hội chứng salicyle”: buồn nơn, ù tai, điếc,
nhức đầu, lú lẫn. Gây các phản ứng dị ứng như nổi mề đay, phù, hen, phù Quicke.
Ở trẻ nhỏ, nếu ngộ độc aspirin có thể gây nhiễm kiềm hơ hấp ( làm thở nhanh và
sâu), từ đó dẫn đến hậu quả nhiễm toan chuyển hóa.
Trong 3 loại thuốc hạ sốt hay được sử dụng hiện nay bao gồm aspirin,
ibuprofen và paracetamol thì paracetamol là loại thuốc hay được sử dụng nhiều
nhất vì thuốc ít gây tác dụng phụ. Tuy nhiên chúng ta nên chú trọng sử dụng các
biện pháp hạ sốt vật lý trước khi sử dụng các loại thuốc hạ sốt cho trẻ. Khi sử dụng
thuốc hạ sốt cho trẻ cần tuân thủ tuyệt đối thời điểm dùng thuốc, thời gian giữa 2
lần dùng thuốc và liều lượng thuốc phù hợp với cân nặng của trẻ.
1.10. Biến chứng của sốt
Khi trẻ sốt, có thể gặp các biến chứng sau[2].
-

Sốt cao gây co giật

-

Gây mất nước, điện giải

-


Gây rối loạn hô hấp, giai đoạn đầu gây thở nhanh


17

- Gây gầy sút cân do tăng chuyển hóa, giảm hấp thu, kém ăn và rối loạn tiêu
hóa. Nguy cơ chậm phát triển thể chất nếu trẻ sốt kéo dài .
Tóm lại: Sốt là một triệu chứng mang tính khách quan của nhiều bệnh lý và
chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố ở trong cơ thể và ngồi mơi trường. Cơ chế của
sốt rất phức tạp trong đó giữ vị trí quan trọng là thần kinh- thể dịch. Sốt cũng là
phản ứng bảo vệ. Dựa vào những đặc điểm của sốt có thể hướng tới chẩn đốn
bệnh (căn ngun). Nhưng sốt cao sẽ gây nhiều rối loạn và biến chứng phức tạp, do
đó trong điều trị cần phải hạ sốt kịp thời khi cần thiết.
1.11. Các nghiên cứu về sốt và chăm sóc trẻ khi sốt
Sốt ở trẻ là vấn đề được nhiều tác giả trong và ngoài nước quan tâm. Trên thế
giới đã có một số tác giả tiến hành nghiên cứu về kiến thức, thái độ, thực hành của
bà mẹ về chăm sóc trẻ sốt nhằm hạn chế biến chứng của sốt ở trẻ và bổ sung kiến
thức, cách xử trí sốt cho các bà mẹ: Năm 1998, tác giả người Italy – Nannini S [6]
đã tiến hành nghiên cứu với đề tài “ Kiến thức, thái độ và cách xử trí sốt của bà mẹ
có con dưới độ tuổi đi học”, đề tài này cũng đã được tác giả Elena Chiappini [6]
tiến hành nghiên cứu vào năm 2011.Tác giả Vefik Arica [6] tiến hành nghiên cứu
kiến thức, thái độ và cách xử trí của bà mẹ về sốt ở trẻ tại Thổ Nhĩ Kỳ năm 2011…
Theo nghiên cứu của các tác giả, hầu hết các bà mẹ có kiến thức và cách xử trí
đúng cho trẻ khi sốt. Trong nghiên cứu của tác giả Vefik Arica tại Thổ Nhĩ Kỳ cho
thấy 99.2% bà mẹ có thái độ quan tâm đến vấn đề sốt ở trẻ, cho rằng sốt ở trẻ là vấn
đề nguy hiểm đến tính mạng của trẻ. Tuy nhiên, vẫn có một tỷ lệ khơng nhỏ các bà
mẹ sử dụng thuốc hạ sốt cho trẻ không theo chỉ định của bác sỹ, chưa thực hiện các
biện pháp hạ nhiệt vật lý cho trẻ.
Ở Việt Nam, những năm gần đây có một số tác giả tiến hành nghiên cứu về chăm

sóc trẻ sốt của người ni dưỡng trẻ. Năm 2008, Phạm Thị Tuyết, Đinh Thị Thu
Hường [8] đã tiến hành nghiên cứu “Kiến thức, thái độ, thực hành về chăm sóc trẻ sốt
ở bà mẹ có con dưới 6 tuổi” tại Hải Phòng. Kết quả của tác giả cho thấy kiến thức của


18

các bà mẹ về chăm sóc trẻ khi sốt cịn thấp. Hơn 60% bà mẹ không biết về biến chứng
của sốt ở trẻ. Hầu hết các bà mẹ có thái độ quan tâm đến vấn đề sốt của trẻ. Tỷ lệ các
bà mẹ sử dụng nhiệt kế để phát hiện trẻ sốt còn rất thấp là 12.1% và các bà mẹ chủ yếu
chườm mát cho trẻ, một tỷ lệ nhỏ các bà mẹ cởi bớt quần áo cho trẻ khi sốt. Năm
2010, Đặng Thị Hà và Đoàn Thị Vân [4] tiến hành nghiên cứu về kiến thức, thái độ và
kĩ năng của bà mẹ có trẻ bị sốt cao đến khám và điều trị tại bệnh viện Phúc Yên. Theo
kết quả nghiên cứu của tác giả, tỷ lệ các bà mẹ có kiến thức đúng về sốt rất thấp chiếm
36.8%. Các bà mẹ có cách xử trí sốt đúng cho trẻ chiếm tỷ lệ thấp 34.9%. Đặc biệt tác
giả chỉ ra rằng chỉ có 35.8% các bà mẹ có thái độ đúng về chăm sóc và xử trí sốt cho
trẻ.
Năm 2013, tại khoa Truyền nhiễm bệnh viện Nhi Trung Ương, Hồ Thị Bích, Dỗn
Thúy Quỳnh cũng đã thực hiện một đề tài tương tự. Kết quả nghiên cứu của tác giả Hồ
Thị Bích, Dỗn Thúy Quỳnh cho thấy gần ¾ bà mẹ hiểu sai khái niệm về sốt, gần 70%
bà mẹ cho trẻ uống thuốc hạ sốt không theo đơn bác sỹ và không quan tâm đến nhiệt
độ sốt ở trẻ. Vẫn có bà mẹ chườm đá để hạ sốt cho trẻ. Qua nghiên cứu, tác giả chỉ ra
gần 80% các bà mẹ có hành vi chăm sóc khi trẻ sốt sai…[3].
Nhìn chung vấn đề sốt ở trẻ đặc biệt là cách xử trí và chăm sóc trẻ sốt của
người nuôi dưỡng trẻ được các tác giả quan tâm và tiến hành nghiên cứu. Qua đó
có những biện pháp can thiệp kịp thời để hạn chế biến chứng sốt ở trẻ và nâng cao
chất lượng chăm sóc trẻ khi sốt tốt hơn.


19


Chương 2
ĐỐI TƯỢNG- PHƯỚNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu.
- Tất cả những người chăm sóc trẻ nhập viện bị sốt được điều trị tại khoa
HSCC- Nhi TTYT Nghĩa Đàn từ tháng 3 đến tháng 9 năm 2021.
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn vào nhóm nghiên cứu.
- Tất cả những người chăm sóc trẻ bị sốt nhập viện điều trị tại khoa HSCCNhi TTYT Nghĩa Đàn
- Người chăm sóc trẻ đồng ý tham gia vào nhóm nghiên cứu.
2.1.2. Tiêu chí loại trừ.
- Người chăm sóc trẻ khơng đồng ý tham gia vào nhóm nghiên cứu.
- Người chăm sóc trẻ bị sốt không được điều trị tại khoa Hồi sức cấp cứu- Nhi
Trung tâm Y tế Nghĩa Đàn.
- Người chăm sóc trẻ khơng trả lời hồn chỉnh bộ câu hỏi soạn sẵn.
- Người chăm sóc trẻ trong tình trạng bệnh nặng cần can thiệp cấp cứu.
2.2. Thời gian, địa điểm nghiên cứu.
- Thời gian: Từ tháng 3 năm 2021 đến 30 tháng 9 năm 2021
- Địa điểm: Đề tài thực hiện tại khoa Hồi sức cấp cứu- Nhi Trung tâm Y tế
Nghĩa Đàn.
2.3. Phương pháp nghiên cứu.


20

2.3.1 Thiết kế nghiên cứu.
- Nghiên cứu theo phương pháp: tiến cứu.
2.3.2 Phương pháp chọn mẫu- cỡ mẫu.
- Chọn tất cả người chăm sóc trẻ có trẻ bị sốt điều trị tại khoa Hồi sức cấp
cứu- Nhi TTYT Nghĩa Đàn đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn chọn lựa.
2.4. Nội dung và biến số nghiên cứu.

2.4.1 Đặc điểm về người chăm sóc trẻ

.

- Tuổi
- Nghề nghiệp
- Trình độ học vấn (TĐHV)
- Dân tộc
2.4.2. Kiến thức của người chăm sóc trẻ về vấn đề sốt:
- Khái niệm về sốt: Đúng khi người chăm sóc trẻ trả lời nhiệt độ đo ở nách của
trẻ ≥ 37.50C
- Dấu hiệu nhận biết trẻ sốt: Đúng khi thấy:
+ Trẻ nóng
+ Trẻ khát nước
+ Trẻ quấy khóc
+ Các dấu hiệu khác
- Biến chứng của sốt: + Sốt cao gây co giật
+ Sốt gây mất nước, rối loạn điện giải
+ Sốt gây rối loạn hô hấp (gây thở nhanh)
+ Sốt kéo dài có thể dẫn đến sụt cân, suy kiệt
- Cách dùng thuốc hạ sốt:
+ Dùng thuốc khi nào: Đúng khi nhiệt độ trẻ ≥ 38.50C
+ Đường dùng thuốc hạ sốt: Đường uống, đường hậu môn.
+ Liều lượng thuốc hạ sốt: Đúng khi:


21

+ Theo thông tin trên hộp thuốc
+ Theo hướng dẫn của bác sỹ

+ Theo hướng dẫn của dược sỹ bán thuốc
+ Tác hại của thuốc hạ sốt: + Gây hại cho hệ tiêu hóa
+ Gây hại cho gan
+ Gây hại cho thận
+ Tác hại khác
+ Thời gian giữa hai lần dùng thuốc hạ sốt: từ 4-6 giờ
+ Loại thuốc hạ sốt hay dùng cho trẻ:
2.4.3. Thực hành của người chăm sóc trẻ khi trẻ sốt.
- Cách phát hiện trẻ sốt : + Bằng nhiệt kế
+ Bằng tay
+ Áp má
- Vị trí cặp nhiệt độ: Trán, nách, miệng, tai, hậu mơn.
- Các biện pháp hạ sốt ban đầu cho trẻ: chườm khăn mát, dán miếng Aikido,
dùng bài thuốc dân gian…
- Nuôi dưỡng khi trẻ sốt.
2.5. Phương pháp thu thập số liệu.
- Phương pháp thu thập:
+ Thiết lập bộ câu hỏi phỏng vấn có cấu trúc theo mẫu chuyên biệt phù hợp
với mục tiêu nghiên cứu.
+ Nguồn thu thập số liệu: Phỏng vấn trực tiếp từ người chăm sóc có trẻ bị sốt
đang điều trị tại khoa Hồi sức cấp cứu- Nhi Trung tâm Y tế Nghĩa Đàn.
- Các bước thực hiện:
+ Xây dựng bảng kiểm


22

+ Phỏng vấn đối tượng nghiên cứu thông qua bộ câu hỏi: theo mẫu phiếu điều
tra
+ Quan sát đối tượng thực hành chăm sóc trẻ khi trẻ bị sốt: Quan sát mỗi đối

tượng thực hiện chăm sóc trẻ sốt một lần bao gồm cách phát hiện trẻ sốt, cách thực
hành các biện pháp hạ sốt, cách nuôi dưỡng trẻ khi trẻ sốt. Người quan sát không
tác động đến người thực hiện, người thực hiện không biết lần phân loại nào được
quan sát
* Tiêu chí đánh giá:
- Đánh giá kiến thức của người chăm sóc trẻ về vấn đề sốt: Quy định thang
điểm: 1 điểm cho 1 tiêu chí được xác định đúng. Tất cả có 10 tiêu chí tương ứng
với tổng số điểm tối đa là 10, (tương ứng từ câu hỏi 1 đến câu 10 trong Phụ lục 1).
Đánh giá:
Đạt 9-10 điểm: được đánh giá là có kiến thức tốt
Đạt 7- 8 điểm: được đánh giá là có kiến thức khá
Đạt 5-6 điểm: được đánh giá là có kiến thức trung bình
Đạt < 5 điểm: được đánh giá là kiến thức không đạt.
- Đánh giá thực hành tốt khi:
+ Cách phát hiện trẻ sốt bằng cách dùng nhiệt kế để đo thân nhiệt.
+ Vị trí cặp nhiệt độ: tuỳ vào loại nhiệt kế mà có vị trí đo thích hợp vào các vị
trí: Trán, nách, miệng, tai, hậu mơn.
+ Các biện pháp hạ sốt ban đầu cho trẻ: chườm khăn mát, dán miếng Aikido,
dùng bài thuốc dân gian…
+ Nuôi dưỡng khi trẻ sốt: + Cho trẻ ăn làm nhiều bữa, đủ chất dinh dưỡng
+ Cho trẻ uống Oresol


23

+ Cho trẻ uống thêm nước quả
2.6. Phương pháp xử lí số liệu.
Số liệu được nhập vào phần mềm excel 2010 và được xử lý theo phương pháp
thống kê toán học thông thường.
2.7. Đạo đức trong nghiên cứu.

- Được sự đồng ý của, hợp tác của lãnh đạo TTYT, các nhân viên y tế tham gia
vào nghiên cứu.
- Người tham gia nghiên cứu được giải thích, cung cấp đầy đủ các thông tin về
nghiên cứu.
- Mọi thông tin cá nhân liên quan chỉ được sử dụng vào mục đích nghiên cứu
và được bảo mật.
- Người nghiên cứu có tính trung thực, tính khách quan, tính chính xác và giá
trị thực tiễn của nghiên cứu thử nghiệm.


24

Chương 3
DỰ KIẾN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1 Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu
Bảng 3.1. Phân bố đối tượng theo giới tính.
Giới tính
Nam
Nữ
Tổng cộng

Số lượng (n=)

Tỷ lệ (%)

Nhận xét: ........................................................................................................
Bảng 3.2 Phân bố đối tượng theo tuổi.
Tuổi
≤ 22
23 – 35

≥ 36
Tổng

Số lượng (n=)

Tỷ lệ (%)

Nhận xét: ........................................................................................................
Bảng 3.3. Phân bố đối tượng theo dân tộc.


25

Dân tộc
Kinh
Dân tộc khác
Tổng

Số lượng (n=)

Tỷ lệ (%)

Nhận xét: ........................................................................................................
Bảng 3.4 Phân bố đối tượng theo nghề nghiệp.
Nghề nghiệp
Nông nghiệp
Công nhân
Buôn bán
CNVC
Nội trợ

Nghề khác
Tổng

Số lượng (n=)

Tỷ lệ (%)

Nhận xét: ......................................................................................................
3.2 Kiến thức, thực hành của người chăm sóc trẻ về vấn đề sốt.
3.2.1 Kiến thức của người chăm sóc trẻ về vấn đề sốt.
Bảng 3.5. Kiến thức của người chăm sóc trẻ về khái niệm sốt
Khái niệm về sốt

Số lượng (n = )

Tỉ lệ (%)

Đúng
Sai
Tổng
Nhận xét: ..........................................................................................................
Bảng 3.6. Kiến thức của người chăm sóc trẻ về dấu hiệu sốt ở trẻ
Dấu hiệu khi trẻ sốt
Số lượng (n = )
Tỉ lệ (%)
Sờ thấy trẻ nóng
Trẻ khát nước
Trẻ quấy khóc
Khác: Mặt đỏ, môi khô, đau đầu…
Tổng

Nhận xét: .........................................................................................................
Bảng 3.7. Kiến thức của người chăm sóc trẻ về sử dụng thuốc hạ sốt.


×