Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

Truyền thông đại chúng một số bài tập môn truyền thông đại chúng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.42 KB, 40 trang )

Bài tập môn Truyền thông đại chúng
I. Các khái niệm
1. Khái niệm Truyền thơng: Truyền thơng (communication) là q
trình chia sẻ thông tin. Truyền thông là một kiểu tương tác xã hội trong đó ít
nhất có hai tác nhân tương tác lẫn nhau, chia sẻ các qui tắc và tín hiệu chung.
Ở dạng đơn giản, thông tin được truyền từ người gửi tới người nhận. Ở dạng
phức tạp hơn, các thông tin trao đổi liên kết người gửi và người nhận. Phát
triển truyền thơng là phát triển các q trình tạo khả năng để một người hiểu
những giừ người khác nói (ra hiệu, hay viết), nắm bắt ý nghĩa của các thanh
âm và biểu tượng, và học được cú pháp của ngôn ngữ.
Khái niệm Truyền thông Đại chúng: Truyền thông đại chúng là
những phương pháp truyền thông chuyển tải thông điệp đến những nhóm
đơng người nhằm thay đổi nhận thức dẫn tới điều chỉnh hành vi cho hợp
lý. Có nhiều phương tiện truyền thông đại chúng khác nhau như sách, điện
ảnh, pa nơ, áp phích và phổ biến nhất là báo chí với các loại hình như báo
viết, Phát thanh, truyền hình và báo mạng điện tử.
Theo đó, truyền thơng đại chúng là một quá trình lịch sử, chịu tác
động của bối cảnh lịch sử như các cuộc vận động chính trị - xã hội, các cuộc
cách mạng khoa học, kỹ thuật và công nghệ, kinh tế, sự giao lưu tồn cầu và
sự bành trướng về quy mơ của các tiến trình kinh tế, chính trị, xã hội, mơi
trường…
Khi phân tích mối quan hệ giữa các hệ thống truyền thơng với các hệ
thống xã hội, nhà xã hội học Mỹ Daniel Lerner, trong một bài đăng trên Tạp
chí Bchavioral Science ra tháng 10/1957, cho rằng một trong những điều
kiện và đặc điểm của quá trình chuyển đổi từ các xã hội cổ truyền sang các


xã hội hiện đại chính là sự chuyển tiếp từ các hệ thống truyền thông truyền
miệng sang các hệ thống truyền thông đại chúng.
Các hệ thống truyền thông đại chúng (như báo chí, xuất bản, phát
thanh, truyền hình...) mang một số đặc điểm như sau: do những tổ chức


chuyên nghiệp đảm trách, đưa thông tin ra công thúng một cách rộng rãi mà
không phân biệt ai với ai, và nội dung thơng điệp thủ yếu mang tính chất
tường thuật chứ khơng phải là ra lệnh. Trong khi đó, đặc điểm của các hệ
thống truyền thông truyền miệng là truyền đạt thơng tin bằng cách nói trực
tiếp (mặt đối mặt), và nội dung các thơng điệp chủ yếu mang tính chất mệnh
lệnh (thí dụ: thời xưa, cửa quan thường ra thơng báo về sưu thuế, phu dịch,
tuyển mộ binh lính...), và thường được phát ra theo hệ thống tôn ti trật tự
trong xã hội.
Sự thay đổi trong ứng xử truyền thông này (chuyển từ truyền thông
truyền miệng sang truyền thông đại chúng) có liên quan chặt chẽ với những
thay đổi khác về ứng xử trong hệ thống xã hội. Lerner kết luận rằng "một hệ
thống truyền thơng chính là một dấu chỉ và cũng đồng thời là một tác nhân
của sự thay đổi trong toàn bộ một hệ thống xã hội". Nói khác đi, hệ thống
truyền thơng đại chúng đã trở thành một trong những động lực của sự phát
triển của xã hội.
Theo Lerner, khi con người biết đọc biết viết, tức là khi thốt ra khỏi
tình trạng mù chữ, thì bát đầu có được một khả năng cịn quan trọng hơn cả
việc biết đọc biết viết. Đó là khả năng bước vào "thế giới của những kinh
nghiệm gián tiếp", tức là bước vào một thế giới mà trong đó các kinh
nghiệm của người khác đã được tường thuật và ghi chép lại trên chữ viết qua
sách vở, báo chí... Mặt khác, cũng chính nhờ đó mà người ta tăng cường
được khả năng thấu cảm (empathy), tức là khả năng tự đặt mình vào vị trí
của người khác để hiểu được người khác. Và chính nhờ có khả năng này mà


con người mới có thể sống được với nhau một cách hài hòa trong xã hội.
Khả năng biết đọc biết viết cịn giúp cho con người hình thành được khả
năng linh hoạt về trí tuệ (psychic mobihty) vốn là một thuộc tính đặc trưng
của con người trong xã hội hiện đại. Chính các phương tiện truyền thơng đại
chúng là nhân tố góp phần mạnh nhất vào việc rèn luyện khả năng thấu cảm

cũng như khả năng linh hoạt trí tuệ, khi chúng giúp cho con người tiếp xúc
được với nhiều tư tưởng khác nhau và biết được những vấn đề công cộng
của xã hội.
Nhà xã hội học Đức Ulrich Beck (1986) và nhà xã hội học Anh
Anthony Giddens (1996) cho rằng sự phát triển của các công nghệ thông tin
và vi điện tử là một trong những điều kiện vật chất quan trọng làm thay đổi
diện mạo các quan hệ xã hội, nhất là trong bối cảnh mà những lằn ranh của
các định chế chính trị truyền thống dần dần bị xóa nhịa, nhường chỗ cho sự
tham gia ngày một tích cực hơn của các cá nhân trong các "xã hội phản tỉnh"
(renexive society), phá vỡ sự độc quyền phát ngôn của các chuyên gia trong
các lĩnh vực khoa học cũng như chính trị. Trong các xã hội hiện đại, việc
thảo luận và việc ra quyết định trong nhiều trường hợp đã vượt ra khỏi
những vũ đài chính trị truyền thống như quốc hội hay Chính phủ, cũng như
vượt ra khỏi khn khổ của hình thức dân chủ đại diện.
Những tầng lớp dân chúng bình thường hay những nhóm thiểu số vốn
trước đây khơng có quyền phát ngơn, nay có nhiều cơ hội hơn để lên tiếng.
Hiện tượng blog trong những năm gần đây là một bằng chứng sinh động.
Các cá nhân giờ đây ngày càng có điều kiện tiếp cận trực tiếp những thông
tin vốn trước đây phải thông qua sự chọn lọc của các nhà báo.
Nhưng nói như thế phải chăng có nghĩa là Internet có thể đi đến chỗ
"phi trung giới hóa" lĩnh vực thơng tin trong xã hội hiện đại? Phải chăng kể
từ nay, nhờ có Internet, mọi người đều có thể tự mình trực tiếp biết mọi


chuyện và hiểu mọi chuyện mà khơng cần có các định chế trung giới như
báo chí hay sách vở, xã hội sẽ khơng cịn cần đến vai trị của những người
"trung gian" (như nhà báo, nhà chính trị, giới trí thức...)? Phải chăng "mass
média" (các phương tiện truyền thông đại chúng) nay đang tan rã để trở
thành "média des masses" (các phương tiện truyền thông của đại chúng, hay
là do đại chúng thực hiện)?

Đặc điểm của truyền thông đại chúng:
- Là sự cung cấp thông tin cho số đông (mass);
- Do thông tin được truyền đến số đông, nhiều người biết và đó là đối
tượng khơng xác định cho nên đặc điểm của truyền thông đại chúng là công
khai;
- Thông tin trên truyền thông đại chúng rất phong phú và đa dạng vì
nó phải đáp ứng và thỏa mãn của đa dạng đối tượng công chúng và đa dạng
về nhu cầu.
- Khác với các dạng truyền thông khác (như pano, apphich, sách, tài
liệu) truyền thơng đại chúng có tính chất định kỳ (tuy nhiên, đặc điểm này
đang bị báo mạng điện tử phá vỡ bởi khả năng đẩy tin liên tục và bất cứ lúc
nào của nó).
- Truyền thơng đại chúng có đặc trưng bởi yếu tố tương tác gián tiếp
(mặc dù các dạng thức như truyền hình trực tiếp, tường thuật trực tiếp có vẻ
như khơng phải là gián tiếp). Có thể khẳng định là khơng có tương tác thì
khơng có quan hệ xã hội.
Các loại truyền thơng:
- Truyền thơng nội cá nhân (ghi lịng tạc dạ, sống để bụng chết mang
theo, phụ nữ mà nặng tình với ai thì im lắm, khơng khoe khoang khắp nơi
như đàn ơng).
- Truyền thơng qua lời nói, miệng.


- Truyển thơng qua các ký hiệu, mã hóa.
- Truyền thơng qua ngơn ngữ hình thể.
Nói đến truyền thơng phải nói đến cơ chế truyền và nhận. Các
phương tiện thơng tin đại chúng khác nhau chính là khác ở cơ chế và
phương thức truyền tin, ví dụ:
- Báo in: tác động đến công cụ qua kênh đọc.
- Phát thanh: tác động qua kênh nghe.

- Báo hình: tác động qua kênh xem, đọc, nghe…
- Báo mạng điện tử: gồm tất cả các kỹ năng tiếp nhận của các em.
II. Phân tích những tác động của bối cảnh lịch sử hiện nay đến hệ thống
các phương tiện truyền thông đại chúng (các cuộc vận động chính trịxã hội và sự vân động của bản đồ địa chính trị thế giới; Cuộc cách mạng
khoa học, kỹ thuật và công nghệ; kinh tế; sự giao lưu tồn cầu và sự
bành trướng về qui mơ của các tiến trình kinh tế, chính trị, xã hội, môi
trường...) và sự tác động trở lại của các phương tiện truyền thơng đại
chúng đối với các yếu tố đó.
1. Phát triển thơng tin đại chúng qua những chặng đường
Tồn cầu hóa thơng tin được coi là q trình chuyển tải liên tục, nhiều
chiều ở khắp mọi nơi. Đó cũng là khái niệm miêu tả những thay đổi kinh tếxã hội tạo ra bởi mối liên kết chặt chẽ giữa các tổ chức và các cá nhân. Nhờ
khả năng kết nối Internet tốc độ ngày càng cao, tiện ích thân thiện, xu hướng
của người tiêu dùng đã nhanh chóng thay đổi cùng với lượng thông tin tràn
ngập trên nhiều phương tiện có thể biến đổi từng phút, từng giờ.
Tồn cầu hóa thơng tin liên quan đến truyền bá mơ hình có sự tham gia
của cơng chúng với nội dung văn hóa cốt lõi, là bộ phận cấu thành để
chuyển đến người thụ hưởng. Một mơ hình văn hóa có thể được chấp nhận


theo nhiều phương thức, nó phụ thuộc vào bản chất nền văn hóa cũng như
khả năng tiếp cận và biến đổi thơng tin. Theo đó, tồn cầu hóa khơng đồng
hóa hoặc làm cho từng nền văn hóa nghèo đi mà ngược lại, có thể tiếp nhận
theo những cách riêng thơng qua tiến trình lai tạo. Nhiều nhà phân tích cho
rằng, chìa khóa tồn cầu hóa văn hóa là sự tồn tại của hệ thống truyền thông
đại chúng để tạo cảm giác đồng thời với khả năng xuất hiện ở rất nhiều nơi
(Phan Quang 2005).
Vào thế kỷ thứ XIX, nhân loại từng chứng kiến hiện tượng tồn cầu hóa
thơng tin với sự ra đời của hàng loạt báo viết ở các quốc gia. Nhờ báo chí
truyền tải các mơn khoa học, các sự kiện,... hình thành xu hướng, tinh thần
của thời đại bao gồm đời sống chính trị, kinh tế, văn học, hội họa, âm nhạc,

thời trang, du lịch... đã quay theo nhịp của các phương tiện truyền thông,
phát triển tư duy và phong cách mới.
Trước sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ truyền thông, báo in luôn
được coi là công cụ phản ánh thông tin xã hội, giữ vai trị trung tâm đưa tin.
Thế kỷ thứ VII sau cơng nguyên, người Trung Quốc đã dùng chữ khắc gỗ in
trên giấy và công nghệ in gốm đã ra đời vào thế kỷ thứ IX. Nửa đầu thế kỷ
XV (năm 1448), con chữ kim loại ra đời, nhân loại đã vượt qua được hạn
chế của công nghệ in khắc gỗ.
Theo đà phát triển, năm 1911, Boris Rosing chế tạo thành công hệ thống
truyền hình sử dụng gương phát hướng tới ống cathode ở đầu nhận hình. Từ
nửa sau thế kỷ XX, ti vi dần chiếm ưu thế trong chuyển tải thông tin đã đẩy
báo in phải cạnh tranh vất vả với phát thanh và truyền hình (thời gian từ
1940 đến hết thập niên 1990, lượng báo in phát hành ở nhiều nước phát triển
đã giảm từ 2 đến 3 lần). Mặc dù chương trình phát thanh và truyền hình ngày
càng phong phú, song nhiều phân tích cũng đã chỉ ra, những phương tiện
truyền thông này chưa thể thay thế được hẳn báo in; Hiệp hội báo chí tồn


cầu (WAN) cho biết, trên thế giới còn trên 1 tỉ người vẫn đọc báo in hàng
ngày.
Từ sự phát triển máy tính cá nhân, những thập niên cuối thế kỷ XX loài
người cũng chứng kiến sự phát triển vượt bậc của truyền thơng qua Internet.
Theo đó, báo mạng (điện tử) đã hội tụ đầy đủ lợi thế của báo viết, báo nói và
báo hình. Nhờ khả năng kết nối với tốc độ lan tỏa rất cao, khơng ít dự báo
cho rằng sẽ đến lúc khơng cịn người thu thập thơng tin bằng đọc tài liệu trên
những trang giấy viết.
2. Báo mạng xu thế và động thái phát triển
Sau tờ Internet đầu tiên của Đại học Florida (Hoa Kỳ) công bố tháng 10
năm 1993; trong năm 1994, nhiều phiên bản online của tạp chí Hotwired và
hàng loạt báo khác đã ồ ạt đưa ra website, mở ra thời đại thông tin trực

tuyến. Do đáp ứng nhu cầu thông tin ở bất cứ thời điểm nào, hệ thống báo
mạng đã làm thay đổi nhanh chóng thói quen tiếp nhận thơng tin của đơng
đảo cơng chúng.
Từ ưu thế hội tụ, báo mạng có sức chứa rộng lớn cả về không gian và
thời gian, đồng nghĩa với dung lượng thông tin gần như không hạn chế. Nhờ
báo mạng, người đọc không chỉ cập nhật thơng tin dưới dạng chữ viết mà
cịn có thể nghe phát thanh và xem truyền hình ngay trên trang web. Nhờ
khả năng tương tác nhiều chiều, ban biên tập có thể tiến hành những giao
lưu trực tuyến vấn đề được nhiều độc giả quan tâm; đây cũng là ưu thế mà
phát thanh, truyền hình bị hạn chế và càng khó khăn gấp bội đối với báo in.
Với lợi thế chuyển tải nhanh, sức chưa thông tin khổng lồ và khả năng
tương tác nhiều chiều; mạng Internet đã giảm nhẹ rào cản của những phương
tiện truyền thông truyền thống và làm cho bản tin trên mạng trở nên đa dạng
hơn. Cùng lúc nghe bình luận, người dùng internet cịn có thể tham khảo
được nguồn tin thu thập, hình ảnh ghi lại từ hiện trường hoặc kết nối thêm


những tư liệu có liên quan trên những đường link. Một lợi thế khá quan
trọng khác của báo điện tử là có thể giảm được đến 75% chi phí sản xuất và
phát hành.
Trước đòi hỏi xử lý và phát triển thơng tin đại chúng mang tính tồn cầu,
báo mạng được coi là giải pháp thích hợp để tìm lại dấu ấn hồng kim của
báo chí song cũng gặp khơng ít khó khăn. So với lịch sử hàng thế kỷ của
ngành báo chí, với trên 10 năm hoạt động báo mạng tuy mới phát triển
nhưng đã thu hút ngày càng đông đảo bạn đọc. Khảo sát ở các nước phát
triển cho thấy, trên 70% người Mỹ nhận xét, báo chí truyền thống chưa phản
ánh đầy đủ thông tin; ở nhiều quốc gia đã có trên 50% dân cư dùng internet
để cập nhật thơng tin. Theo nhiều nhà phân tích, ngày nay, mạng thông tin
điện tử đã trở thành công cụ không thể thiếu trong hình thành cách làm việc
của con người và tiến bộ công nghệ đã giúp để những nguồn thơng tin hiện

đại ngày càng trở nên hữu ích hơn (NCEIF 2010).
Trên nguyên tắc coi trọng sự thật và mức độ chính xác của các nguồn tin,
mục tiêu của báo mạng là đem đến độc giả cơng cụ để có thể tham gia hiệu
quả vào những giao tiếp cộng đồng. Cơng chúng thực sự chào đón những gì
thuộc về tập hợp tin tức, sản xuất và xuất bản thông tin đã tạo động lực để
mở ra thời kỳ phát triển đầy năng động của báo chí. Phần lớn tên tuổi lớn
trong cơng nghệ thơng tin tồn cầu đều kinh doanh bằng cách cung cấp
thơng tin miễn phí cho người sử dụng internet và bán quảng cáo cho khách
hàng là những nhà cung cấp sản phẩm, quảng bá hàng hóa hoặc thương hiệu.
Tuy nhiên, doanh số quảng cáo trên internet hiện còn khiêm tốn (vào năm
2007, tại Mỹ, nguồn thu này mới chiếm chừng 7,5% doanh số quảng cáo).
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, phải qua nhiều năm nữa mức tăng trưởng
quảng cáo trên báo mạng mới vượt qua được báo in.


Phân tích khó khăn trong thu phí internet, chun gia của Paid Content
từng chỉ ra, thông tin là lĩnh vực phát triển nhanh và mạnh mẽ nhất, lượng
cung đang lớn hơn cầu dẫn đến khơng ai có thể bán thứ đang quá dư thừa
(NCEIF 2010). Mặt khác, khó đảo ngược được thói quen khơng phải trả phí
truy cập và trở ngại khác đó là, muốn thu được phí truy cập địi hỏi ngành
cơng nghệ truyền thơng tồn cầu phải cùng đồng loạt tiến hành; về phía các
nhà quảng cáo, họ khơng tán đồng thu phí bởi sẽ bị mất đi đáng kể lượng
người đọc quảng cáo
Từ những lý do trên đây, giới phân tích cho rằng, các nhà xuất bản cịn
phải tiếp tục cung cấp thơng tin miễn phí và thu lợi nhuận qua quảng cáo;
việc cần làm là có chính sách mềm dẻo để điều tiết và thu được lợi nhuận
kinh doanh. Giải pháp được đề cập đã tập trung vào tăng tính năng mới và
xây dựng mơ hình thanh toán hữu hiệu (NCEIF 2010). Độc giả đăng ký tài
khoản trên website là một cách làm để thu phí nhưng khơng dễ được chấp
nhận; do vậy, cần có hệ thống giao diện giản đơn cho phép trao đổi thông tin

dễ dàng với người sử dụng và quan trọng là đảm bảo cung cấp những bài
viết có chất lượng cao.
3.Vấn đề đối với Việt Nam
So với nhiều nước,Việt Nam phát triển công nghệ thông tin và nhất là
mạng internet với nhịp độ khá nhanh. Đến nay, người Việt đã tiếp cận và sử
dụng internet trên diện rộng (ước gần 30 triệu người sử dụng); báo mạng
trong đời sống xã hội có tác động rất đáng kể và đang chuyển dần từ máy
tính để lan sang điện thoại di động. Nhiều dự báo cho rằng, dịch vụ tổng hợp
tin tức sẽ ngày càng đa dạng và hướng đến nhiều nhóm đối tượng khác nhau
(NCEIF 2010).
Trong xu thế phát triển hiện đại, một bài viết hay trên báo in sẽ nhanh
chóng được hiển thị trên trang tin tổng hợp và từ đây, nội dung bài viết sẽ


được chia sẻ đến nhiều độc giả của từng trang mạng. Xu thế này sẽ phát triển
nhanh vì nó tiết kiệm công sức, thời gian và tiền bạc của những nhóm người
liên quan. Tuy nhiên, vấn đề nan giải lại là quyền tác giả và lợi ích của
những tổ chức làm dịch vụ cung cấp thơng tin. Báo chí nước ngồi có thể
buộc người đọc phải trả tiền, nhưng báo điện tử ở Việt Nam lại rất khó làm;
một bài được đăng tải ở đâu đó có thể nhanh chóng bị hàng chục trang khác
tải về, cắt dán rồi biến thành ấn phẩm của riêng mình, khơng để tên tác giả
nguồn gốc. Mặt khác, các trang cá nhân, diễn đàn phát triển như nấm sau
mưa, chèo kéo bạn đọc, làm môi trường thông tin “nhiễu, rác”, phân tán
người đọc.
Thực tế từng diễn ra là, một trang web tổng hợp, bỏ tiền đọc, lọc tuyển
thơng tin, sau đó xử lý thành sản phẩm của mình tiềm ẩn nguy cơ làm đổ vỡ
mơ hình tính tiền qua mạng của một tờ báo khác. Rõ ràng là không bảo vệ
nổi bản quyền tin bài trên mạng đã dẫn đến rất khó tiến hành được giải pháp
thế giới đã làm trong quá trình thử nghiệm. Cho đến nay, khảo sát thói quen
đọc của người Việt cũng đã rút ra, số đông chuộng báo in; song do mức độ

phổ cập của báo mạng, một bộ phận đáng kể đã thay đổi cách ứng xử (giới
trẻ, cán bộ văn phịng, người dùng điện thoại). Thay vì phải mua nhiều tờ
báo in, họ lựa chọn một tờ nhất định đọc kỹ, sau đó tìm cách bổ sung thơng
tin truy cập được từ những tờ báo mạng. Nhìn chung, người Việt cần tin vẫn
muốn đọc báo, xã hội vẫn cần những nhà báo tác nghiệp, săn lùng để kịp
thời cập nhật thông tin và phương tiện internet vẫn là cơng cụ tìm kiếm
nhanh nhất những gì diễn ra trong đời sống xã hội
3. Thay cho lời kết
Trong kỷ ngun tồn cầu hóa thơng tin, đã báo hiệu một cuộc cách
mạng về phong cách làm báo và chuyển tải cả về nội dung và hình thức trình
bày.


Cũng như người làm báo, độc giả ngày nay không chỉ là người tiếp nhận
thụ động mà còn tham gia vào q trình phân tích và bình luận thơng tin.
Chính vì điều này, người làm báo khơng thể áp đặt quan điểm chủ quan
trong những bài viết, cũng không thuần túy sao chép thông tin chưa được
kiểm chứng, hoặc chạy theo thông tin câu khách, mà cần tạo ra được đối
thoại bình đẳng, định hướng dư luận, cùng bạn đọc và gây dựng cho họ niềm
tin khách quan về sự phát triển. Muốn vậy, nhà báo cần thâm nhập được vào
trung tâm của những trao đổi, đối thoại để có cách nhìn, suy nghĩ thấu đáo
và sự sáng tạo về phương thức phát triển những dịch vụ hấp dẫn công chúng
chứ không cứng nhắc theo như cách làm truyền thống lâu nay./.
III. Phân tích các khuynh hướng vận động của hệ thống thông tin đại
chúng thế giới và ảnh hưởng của các khuynh hướng đó đối với hệ thống
truyền thơng đại chúng Việt Nam và những vấn đề đặt ra.
- Khuynh hướng vận động của hệ thống thông tin đại chúng thế giới
được đánh giá là khuynh hướng toàn cầu hóa hệ thống truyền thơng đại
chúng.
Thực chất của tồn cầu hóa truyền thơng đại chúng là q trình phát

triển mạnh mẽ, mở rộng quy mô hoạt động, phạm vi ảnh hưởng ra tồn cầu
của các phương tiện truyền thơng đại chúng. Có thể thấy nội dung của tồn
cầu hóa truyền thơng đại chúng được phản ánh ở những tiến trình thực tiễn
sau:
1. Sự phát triển nhanh chóng về sức mạnh của các loại hình phương
tiện và các chủ thể chi phối truyền thông đại chúng là nội dung đầu tiên của
tồn cầu hóa truyền thơng đại chúng. Sự ra đời của báo chí in hiện đại vào
cuối thế kỷ XVI - đầu thế kỷ XVII đã đánh dấu bước khởi đầu của kỷ
ngun truyền thơng đại chúng trong tiến trình phát triển của nhân loại. Tuy


nhiên, trong suốt 3 thế kỷ tồn tại và phát triển của mình (từ thế kỷ XVII đến
hết thế kỷ XIX), báo in đã vận hành một cách chậm chạp với “những bước
chân của người đi bộ”. Nó chỉ dần trở nên phổ biến ở Tây Âu – cái nôi ra đời
của báo in cùng Bắc Mỹ và một số quốc gia, khu vực có liên hệ mật thiết với
các quốc gia phương Tây. Ngay cả ở khu vực này thì báo chí cũng chỉ mới là
thứ sản phẩm của văn hóa thành thị, cái thứ mà người dân nơng thơn vẫn cịn
xa lạ. Thậm chí, đến tận cuối thế kỷ XIX, ở một số quốc gia, lãnh thổ trên
thế giới, người ta vẫn chưa thấy sự hiện diện của báo in, chưa hình dung ra
báo in là gì.
Tuy nhiên, khi nhân loại bước sang thế kỷ XX, tình hình đã khác hẳn.
Sự ra đời của phát thanh (radio), truyền hình (television) ở nửa đầu thế kỷ,
đặc biệt là sự xuất hiện của máy tính điện tử cá nhân (person computer) và
tiếp theo là mạng máy tính tồn cầu (Internet) đã tạo ra bước nhảy vọt có
tính chất bùng nổ trong lĩnh vực truyền thông đại chúng. Vào thời điểm hiện
nay, các phương tiện truyền thông đại chúng, như báo in, phát thanh, truyền
hình, quảng cáo, các loại băng, đĩa âm thanh, hình ảnh, v.v. đã hiện diện
trong đời sống thường nhật, trở thành một nhu cầu sinh hoạt văn hóa khơng
thể thiếu đối với tuyệt đại bộ phận người dân trên toàn hành tinh. Hàng tỷ
người ở các quốc gia, lãnh thổ trên thế giới đang hàng ngày, hàng giờ làm

việc, giải trí thơng qua và bằng Internet.
Cùng với sự ra đời và phát triển nhanh chóng của các loại hình
phương tiện truyền thơng đại chúng, các chủ thể truyền thông đại chúng
cũng phát triển mạnh mẽ về quy mơ, sức mạnh ảnh hưởng. Có thể mơ tả lộ
trình phát triển quy mô của các chủ thể truyền thông đại chúng trên thế giới
như sau:
Ở thời điểm cuối thế kỷ XIX, thế giới chủ yếu chỉ biết đến những tờ
báo độc lập, hoạt động trong phạm vị địa phương, thành phố cụ thể và ở một


số ít quốc gia phát triển phương Tây mới có những tờ báo có phạm vi ảnh
hưởng trên phạm vi tồn quốc.
- Đầu thế kỷ XX, bắt đầu hình thành những nền tảng đầu tiên của
những tập đồn truyền
thơng ảnh hưởng trong phạm vi quốc gia.
- Giữa thế kỷ XX, các tập đồn truyền thơng bắt đầu q trình mở
rộng tầm hoạt động, quy mô ảnh hưởng ra phạm vi toàn cầu.
- Cuối thế kỷ XX, các tập đoàn truyền thơng khổng lồ đẩy nhanh q
trình tồn cầu hóa; bắt đầu sự hội tụ, tích hợp các loại hình truyền thơng và
các loại hình dịch vụ sống trên mạng Internet.
- Đầu thế kỷ XXI, truyền thơng đa loại hình bắt đầu chi phối hoạt
động sống của con người trên phạm vi tồn cầu. Các tập đồn truyền thơng
Mỹ dẫn đầu thế giới về quy mô và sức mạnh tiền bạc cũng như phạm vi ảnh
hưởng. Nhờ sự phát triển mạnh mẽ của truyền thông đại chúng, thông tin về
mọi sự kiện đang diễn ra ở bất cứ đâu trên hành tinh đều có thể được ngay
lập tức tung lên các phương tiện truyền thông đại chúng để đưa đến người
nhận ở mọi quốc gia, khu vực. Trên thực tế, thế giới ngày nay đã trở nên nhỏ
bé như một “ngôi làng truyền thông”, nếu xét theo khoảng cách không gian
và thời gian vận hành dịng thơng tin.
2. Sự quy chuẩn hóa cơng nghệ truyền thơng diễn ra trên phạm vi toàn

cầu – một yếu tố quan trọng tạo nên quá trình tồn cầu hóa truyền thơng đại
chúng. Q trình quy chuẩn hóa cơng nghệ truyền thơng diễn ra dưới tác
động chủ yếu của hai yếu tố: sự phát triển của khoa học, kỹ thuật và sức ép
của việc mở rộng quy mô hoạt động, phạm vi ảnh hưởng của truyền thông
đại chúng mà về thực chất, là nhu cầu mở rộng thị trường của các chủ thể
truyền thông đại chúng. Chính những tiến bộ khoa học của thế kỷ XX đã cho
phép phá bỏ rào cản của các hệ kỹ thuật truyền hình khác nhau, dẫn đến việc


các máy thu của cả thế giới, dù do bất cứ quốc gia, cơng ty nào sản xuất, đều
có thể thu nhận được các chương trình phát đi của mọi đài phát sóng truyền
hình và ngược lại. Mặt khác, các chủ thể truyền thơng muốn mở rộng thị
trường của mình buộc phải tìm ra các giải pháp kỹ thuật cơng nghệ chuẩn
phổ biến.
Có thể nhận thấy q trình quy chuẩn hóa cơng nghệ truyền thơng
diễn ra trong lĩnh vực truyền hình. Vào những năm 70 của thế kỷ XX, trên
thế giới đã tồn tại các hệ kỹ thuật truyền hình khác nhau, như PAL, SECAM,
NTSC, OIRT mà đặc điểm phân biệt giữa chúng là mật độ đường phân
ngang hình ảnh. Các sản phẩm máy thu hình đều sản xuất theo tiêu chuẩn
đơn hệ và đương nhiên, chỉ thu được chương trình phát sóng của một hệ kỹ
thuật tương ứng. Để giải quyết sự bất tiện này, người ta đã tìm giải pháp sản
xuất các máy thu đa hệ. Chỉ trong thời gian khoảng một thập kỷ, hầu như
máy thu hình đa hệ đã thay thế toàn bộ các máy thu hình đơn hệ. Khi truyền
hình chuyển sang kỹ thuật số (digital), sự khác biệt về hệ kỹ thuật khơng cịn
là trở ngại cho việc phổ biến các sản phẩm máy thu hình. Ngày nay, về cơ
bản, máy thu hình sản xuất ở bất cứ đâu đều có thể dùng cho mọi quốc gia,
khu vực.
3. Môi trường truyền thông - điều kiện, đồng thời là kết quả của q
trình tồn cầu hóa
truyền thơng đại chúng. Mơi trường tồn cầu của truyền thông đại chúng bao

gồm sự mở rộng phạm vi của cơ sở hạ tầng kỹ thuật, mở rộng công chúng,
mở rộng không gian nguồn tin của truyền thông đại chúng ra toàn cầu.
Trước hết là việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật mở rộng công chúng, mở rộng
không gian nguồn tin của truyền thơng đại chúng ra tồn cầu. Trước hết là
việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật đã cho phép người ta mở rộng và hình
thành một môi trường truyền thông đại chúng đồng nhất trên phạm vi toàn


cầu mà hầu như khơng có hàng rào kỹ thuật, địa lý hay hàng rào quốc gia
nào có thể ngăn cản. Ngày nay, hệ thống vệ tinh nhân tạo bao quanh không
gian trái đất đã mang thông tin đồng thời đến mọi nơi, vào mọi lúc trên toàn
địa cầu. Internet, truyền hình, phát thanh truyền qua hệ thống vệ tinh đến với
mọi cư dân trái đất nếu có nhu cầu và phương tiện tiếp nhận, bất chấp biên
giới quốc gia và hàng rào “lửa”. Với truyền thơng đại chúng tồn cầu hóa,
thì trên thực tế, đã khơng cịn khái niệm biên giới cứng của các quốc gia.
Cùng với tiến bộ khoa học - kỹ thuật, sự tăng lên nhanh chóng của các
quan hệ quốc tế về chính trị, kinh tế và văn hóa đã dần hình thành cơng
chúng tồn cầu của truyền thông đại chúng. Rào cản ngôn ngữ được khắc
phục từng bước qua việc trình độ văn hóa cư dân nâng cao, ngày càng nhiều
người biết và có thể sử dụng ngoại ngữ trong giao tiếp và làm việc. Thậm
chí, có những thứ ký hiệu mà cư dân cả thế giới đều có thể hiểu được mà
khơng cần biết tiếng nước ngồi. Dễ nhận thấy nhất là hình ảnh. Cơng chúng
trẻ em vẫn thích thú xem phim hoạt hình mà đâu cần phiên dịch.
IV. Phân tích, đánh giá những tác động của q trình tồn cầu hóa các
phương tiện truyền thông đại chúng đối với Việt Nam trên các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hóa- xã hội, giáo dục, tơn giáo...(có thể đi sâu vào
một lĩnh vực để nghiên cứu).
Khẳng định tồn cầu hóa truyền thơng đại chúng đã trở thành hiện
thực từ giữa thế kỷ XX, trong bài viết này, tác giả không chỉ tập trung làm rõ
thực chất của tồn cầu hóa truyền thơng đại chúng được thể hiện ở sự phát

triển nhanh chóng về sức mạnh của các loại hình phương tiện và các chủ
thể chi phối, ở sự quy chuẩn hóa cơng nghệ truyền thơng diễn ra trên phạm
vi tồn cầu và ở mơi trường truyền thơng, mà cịn chỉ ra và phân tích các


yếu tố điều kiện của nó, những hệ quả của nó, cả những hệ quả tích cực lẫn
hệ quả tiêu cực.
Từ những năm đầu thế kỷ XX, nhiều nhà khoa học đã dự báo về khả
năng phát triển mạnh mẽ có tính chất bùng nổ và mở rộng quy mơ ảnh
hưởng tồn thế giới của các phương tiện truyền thơng đại chúng, dẫn tới việc
thu nhỏ không gian và thời gian thơng tin - truyền thơng trên phạm vi tồn
thế giới, hình thành “làng thơng tin tồn cầu”. Những dự báo đó đã dần trở
thành hiện thực từ những năm giữa thế kỷ XX khi nhân loại bước vào cuộc
cách mạng khoa học – công nghệ lần thứ ba - cuộc cách mạng tin học, với sự
ra đời của mạng máy tính Internet, hệ thống cáp quang và hệ thống vệ tinh
địa tĩnh.
1.

Thực chất của tồn cầu hóa truyền thơng đại chúng

Thực chất của tồn cầu hóa truyền thơng đại chúng là quá trình phát
triển mạnh mẽ, mở rộng quy mơ hoạt động, phạm vi ảnh hưởng ra tồn cầu
của các phương tiện truyền thơng đại chúng.
Có thể thấy nội dung của tồn cầu hóa truyền thơng đại chúng được
phản ánh ở những tiến trình thực tiễn sau:
1.1. Sự phát triển nhanh chóng về sức mạnh của các loại hình phương
tiện và các chủ thể chi phối truyền thông đại chúng là nội dung đầu tiên của
tồn cầu hóa truyền thơng đại chúng.(*)
Sự ra đời của báo chí in hiện đại vào cuối thế kỷ XVI - đầu thế kỷ
XVII đã đánh dấu bước khởi đầu của kỷ nguyên truyền thơng đại chúng

trong tiến trình phát triển của nhân loại. Tuy nhiên, trong suốt 3 thế kỷ tồn
tại và phát triển của mình (từ thế kỷ XVII đến hết thế kỷ XIX), báo in đã vận
hành một cách chậm chạp với “những bước chân của người đi bộ”. Nó chỉ
dần trở nên phổ biến ở Tây Âu – cái nôi ra đời của báo in cùng Bắc Mỹ và
một số quốc gia, khu vực có liên hệ mật thiết với các quốc gia phương Tây.


Ngay cả ở khu vực này thì báo chí cũng chỉ mới là thứ sản phẩm của văn hóa
thành thị, cái thứ mà người dân nơng thơn vẫn cịn xa lạ. Thậm chí, đến tận
cuối thế kỷ XIX, ở một số quốc gia, lãnh thổ trên thế giới, người ta vẫn chưa
thấy sự hiện diện của báo in, chưa hình dung ra báo in là gì.
Tuy nhiên, khi nhân loại bước sang thế kỷ XX, tình hình đã khác hẳn.
Sự ra đời của phát thanh (radio), truyền hình (television) ở nửa đầu thế kỷ,
đặc biệt là sự xuất hiện của máy tính điện tử cá nhân (person computer) và
tiếp theo là mạng máy tính tồn cầu (Internet) đã tạo ra bước nhảy vọt có
tính chất bùng nổ trong lĩnh vực truyền thông đại chúng. Vào thời điểm hiện
nay, các phương tiện truyền thông đại chúng, như báo in, phát thanh, truyền
hình, quảng cáo, các loại băng, đĩa âm thanh, hình ảnh, v.v. đã hiện diện
trong đời sống thường nhật, trở thành một nhu cầu sinh hoạt văn hóa khơng
thể thiếu đối với tuyệt đại bộ phận người dân trên toàn hành tinh. Hàng tỷ
người ở các quốc gia, lãnh thổ trên thế giới đang hàng ngày, hàng giờ làm
việc, giải trí thơng qua và bằng Internet.
Cùng với sự ra đời và phát triển nhanh chóng của các loại hình
phương tiện truyền thông đại chúng, các chủ thể truyền thông đại chúng
cũng phát triển mạnh mẽ về quy mô, sức mạnh ảnh hưởng. Có thể mơ tả lộ
trình phát triển quy mô của các chủ thể truyền thông đại chúng trên thế giới
như sau:
- Ở thời điểm cuối thế kỷ XIX, thế giới chủ yếu chỉ biết đến những tờ
báo độc lập, hoạt động trong phạm vị địa phương, thành phố cụ thể và ở một
số ít quốc gia phát triển phương Tây mới có những tờ báo có phạm vi ảnh

hưởng trên phạm vi toàn quốc.
- Đầu thế kỷ XX, bắt đầu hình thành những nền tảng đầu tiên của
những tập đồn truyền thơng ảnh hưởng trong phạm vi quốc gia.


- Giữa thế kỷ XX, các tập đồn truyền thơng bắt đầu q trình mở
rộng tầm hoạt động, quy mơ ảnh hưởng ra phạm vi toàn cầu.
- Cuối thế kỷ XX, các tập đồn truyền thơng khổng lồ đẩy nhanh q
trình tồn cầu hóa; bắt đầu sự hội tụ, tích hợp các loại hình truyền thơng và
các loại hình dịch vụ sống trên mạng Internet.
- Đầu thế kỷ XXI, truyền thơng đa loại hình bắt đầu chi phối hoạt
động sống của con người trên phạm vi toàn cầu.
Các tập đoàn truyền thông Mỹ dẫn đầu thế giới về quy mô và sức
mạnh tiền bạc cũng như phạm vi ảnh hưởng. Theo số liệu thống kê năm
2008, Tập đoàn Walt Disney có 150.000 nhân viên với doanh thu 37,843 tỷ
USD. Số liệu tương tự của 4 tập đồn truyền thơng hàng đầu khác của Mỹ
như sau: News Corp: 64.000 nhân viên, 32,996 tỷ USD; Time Warner:
86.400 nhân viên, 17,2 tỷ USD; Viacom: 11.500 nhân viên, 14,625 tỷ USD;
Gannet Inc: 41.500 nhân viên, 6,767 tỷ USD. Chỉ riêng tập đoàn mẹ Time
Warner đã kiểm sốt 6 cơng ty con với quy mơ như những tập đoàn trực thuộc
(AOL, Time Broadcasting, Warner Bros, HBO, Ubu, Time Inc), trong đó có
những tên tuổi hiện diện hàng ngày trên toàn thế giới, như các kênh truyền
hình CNN, TNT, Cartoon Network, TBS... thuộc Time Broadcasting, các kênh
truyền hình giải trí Cinemax, HBO thuộc HBO.
Nhờ sự phát triển mạnh mẽ của truyền thông đại chúng, thông tin về
mọi sự kiện đang diễn ra ở bất cứ đâu trên hành tinh đều có thể được ngay
lập tức tung lên các phương tiện truyền thông đại chúng để đưa đến người
nhận ở mọi quốc gia, khu vực. Trên thực tế, thế giới ngày nay đã trở nên nhỏ
bé như một “ngôi làng truyền thông”, nếu xét theo khoảng cách khơng gian
và thời gian vận hành dịng thơng tin.



1.2. Sự quy chuẩn hóa cơng nghệ truyền thơng diễn ra trên phạm vi
toàn cầu – một yếu tố quan trọng tạo nên q trình tồn cầu hóa truyền thơng
đại chúng.
Q trình quy chuẩn hóa cơng nghệ truyền thơng diễn ra dưới tác
động chủ yếu của hai yếu tố: sự phát triển của khoa học, kỹ thuật và sức ép
của việc mở rộng quy mô hoạt động, phạm vi ảnh hưởng của truyền thông
đại chúng mà về thực chất, là nhu cầu mở rộng thị trường của các chủ thể
truyền thơng đại chúng. Chính những tiến bộ khoa học của thế kỷ XX đã cho
phép phá bỏ rào cản của các hệ kỹ thuật truyền hình khác nhau, dẫn đến việc
các máy thu của cả thế giới, dù do bất cứ quốc gia, cơng ty nào sản xuất, đều
có thể thu nhận được các chương trình phát đi của mọi đài phát sóng truyền
hình và ngược lại. Mặt khác, các chủ thể truyền thơng muốn mở rộng thị
trường của mình buộc phải tìm ra các giải pháp kỹ thuật cơng nghệ chuẩn
phổ biến.
Có thể nhận thấy q trình quy chuẩn hóa cơng nghệ truyền thơng
diễn ra trong lĩnh vực truyền hình. Vào những năm 70 của thế kỷ XX, trên
thế giới đã tồn tại các hệ kỹ thuật truyền hình khác nhau, như PAL, SECAM,
NTSC, OIRT mà đặc điểm phân biệt giữa chúng là mật độ đường phân
ngang hình ảnh. Các sản phẩm máy thu hình đều sản xuất theo tiêu chuẩn
đơn hệ và đương nhiên, chỉ thu được chương trình phát sóng của một hệ kỹ
thuật tương ứng. Để giải quyết sự bất tiện này, người ta đã tìm giải pháp sản
xuất các máy thu đa hệ. Chỉ trong thời gian khoảng một thập kỷ, hầu như
máy thu hình đa hệ đã thay thế toàn bộ các máy thu hình đơn hệ. Khi truyền
hình chuyển sang kỹ thuật số (digital), sự khác biệt về hệ kỹ thuật khơng cịn
là trở ngại cho việc phổ biến các sản phẩm máy thu hình. Ngày nay, về cơ
bản, máy thu hình sản xuất ở bất cứ đâu đều có thể dùng cho mọi quốc gia,
khu vực.



1.3. Môi trường truyền thông - điều kiện, đồng thời là kết quả của q
trình tồn cầu hóa truyền thơng đại chúng.
Mơi trường tồn cầu của truyền thơng đại chúng bao gồm sự mở rộng
phạm vi của cơ sở hạ tầng kỹ thuật, mở rộng công chúng, mở rộng không
gian nguồn tin của truyền thơng đại chúng ra tồn cầu.
Trước hết là việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật đã cho phép người ta
mở rộng và hình thành một môi trường truyền thông đại chúng đồng nhất
trên phạm vi tồn cầu mà hầu như khơng có hàng rào kỹ thuật, địa lý hay
hàng rào quốc gia nào có thể ngăn cản. Ngày nay, hệ thống vệ tinh nhân tạo
bao quanh không gian trái đất đã mang thông tin đồng thời đến mọi nơi, vào
mọi lúc trên toàn địa cầu. Internet, truyền hình, phát thanh truyền qua hệ
thống vệ tinh đến với mọi cư dân trái đất nếu có nhu cầu và phương tiện tiếp
nhận, bất chấp biên giới quốc gia và hàng rào “lửa”. Với truyền thơng đại
chúng tồn cầu hóa, thì trên thực tế, đã khơng cịn khái niệm biên giới cứng
của các quốc gia.
Cùng với tiến bộ khoa học - kỹ thuật, sự tăng lên nhanh chóng của các
quan hệ quốc tế về chính trị, kinh tế và văn hóa đã dần hình thành cơng
chúng tồn cầu của truyền thông đại chúng. Rào cản ngôn ngữ được khắc
phục từng bước qua việc trình độ văn hóa cư dân nâng cao, ngày càng nhiều
người biết và có thể sử dụng ngoại ngữ trong giao tiếp và làm việc. Thậm
chí, có những thứ ký hiệu mà cư dân cả thế giới đều có thể hiểu được mà
khơng cần biết tiếng nước ngồi. Dễ nhận thấy nhất là hình ảnh. Cơng chúng
trẻ em vẫn thích thú xem phim hoạt hình mà đâu cần phiên dịch.
2. Các yếu tố điều kiện của tồn cầu hóa truyền thơng đại chúng
Trên cơ sở nghiên cứu nội dung và tính chất của tiến trình tồn cầu hóa
truyền thơng đại chúng, có thể chỉ ra những yếu tố quan trọng nhất chi phối và
thúc đẩy tiến trình này là: Những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học, kỹ



thuật và cơng nghệ lần thứ ba; q trình tồn cầu hóa kinh tế thế giới; tiến trình
hội nhập quốc tế; yêu cầu giải quyết các vấn đề toàn cầu.
2.1. Những thành tựu, tiến bộ to lớn của cuộc cách khoa học, kỹ
thuật và công nghệ lần thứ ba (cuộc cách mạng tin học) - là một trong số
những yếu tố có vai trị quyết định đối với tiến trình tồn cầu hóa truyền
thơng đại chúng.
Trước tiên, phải nói đến sự ra đời và phát triển của máy tính điện tử và
những thành tựu to lớn trong lĩnh vực tin học. Vào thập niên cuối của nửa
đầu thế kỷ XX, sự ra đời của máy tính đã báo hiệu sự bắt đầu của một cuộc
cách mạng khoa học, kỹ thuật và công nghệ dẫn đến những đảo lộn trong đời
sống nhân loại nói chung và thay đổi căn bản hình dung về truyền thơng đại
chúng nói riêng. Máy tính điện tử đã mở ra những khả năng mới trong công
nghệ in ấn với việc chế bản điện tử. Nó đã bỏ lại đằng sau tồn bộ cơng nghệ
in cũ với những keo, lơ, chì, chữ, trên nền lao động thủ cơng để tạo sự đột
phá có tính cách mạng về tốc độ, năng suất in ấn và chất lượng của các sản
phẩm in, trong đó có sách, báo và tạp chí.
Năm 1968, phát minh mới về kết nối mạng máy tính đã được đăng ký
tại Mỹ. 13 năm sau, mạng máy tính thế giới - Internet ra đời đã mở ra khả
năng kết nối tồn cầu các máy tính cá nhân, cũng có nghĩa là tạo ra theo cấp
số nhân về tích lũy, khai thác thơng tin trong các máy tính. Hơn thế nữa, nó
cịn đưa tới việc thực hiện trên thực tế việc kết nối cư dân toàn thế giới trở
thành một “làng truyền thơng tồn cầu”. Theo thống kê của Asia Digital
marketing Yearbook, tính đến năm 2007, cả thế giới đã có đến 1,1 tỷ người
sử dụng Internet, trong đó 20 quốc gia và vùng lãnh thổ dẫn đầu chiếm gần
80% số người sử dụng Internet toàn cầu. Mỹ là nước đứng đầu danh sách
với 211 triệu người, chiếm gần 70% dân số sử dụng Internet. Việt Nam tuy


mới chính thức phổ biến Internet nhưng đã trở thành quốc gia đứng thứ 17
thế giới với 17,5%, tức là trên 14 triệu người.

Sự phát triển của công nghệ thông tin và cùng với nó là những tiến bộ
to lớn trong kỹ thuật truyền thông, những giải pháp công nghệ tiên tiến, như
mạng cáp quang, hệ thống vệ tinh nhân tạo, kỹ thuật số (digital), truyền hình
độ nét cao (HD), công nghệ 3G, công nghệ in hiện đại, v.v. đã thúc đẩy sự
đổi mới và không ngừng nâng cao chất lượng, dung lượng, năng lực, sự hấp
dẫn, sự thuận tiện trong sử dụng của truyền thơng đại chúng.
2.2. Tồn cầu hóa truyền thơng đại chúng vừa là hệ quả, vừa là động
lực thúc đẩy tiến trình tồn cầu hóa kinh tế thế giới.
Nền kinh tế thế giới trong thế kỷ XX đã có những bước phát triển
nhanh chóng về năng suất, tốc độ. Thời kỳ sau Chiến tranh thế giới lần thứ
hai đến những năm đầu thế kỷ XXI, mức tăng trưởng GDP ở một số nước
tăng lên cả chục lần. Việc ứng dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật, các giải
pháp công nghệ tiên tiến cho phép tăng nhanh năng suất lao động, chất
lượng và sự đa dạng hóa các sản phẩm hàng hóa. Những rào cản trên thị
trường khu vực và quốc tế dần bị dỡ bỏ. Hệ thống tài chính và thị trường
vốn liên kết tồn cầu, sự hình thành thị trường lưu thơng hàng hóa tồn thế
giới càng thúc đẩy nhanh vịng quay đồng vốn, mang lại nhiều lợi nhuận hơn
cho các nhà sản xuất. Trong điều kiện đó, các cơng ty, tập đồn kinh tế
nhanh chóng bành trướng sức mạnh, quy mơ, nhiều tập đoàn trở thành cơ
cấu đa quốc gia, cơ cấu kinh tế toàn cầu.
Sự phát triển của kinh tế, một mặt, tạo tiền đề vật chất, nguồn lực cho
việc đầu tư phát triển và tiêu thụ sản phẩm truyền thông đại chúng. Mặt
khác, sự phát triển kinh tế cũng dẫn đến việc mở rộng, tăng nhanh nhu cầu
truyền thông đại chúng, phục vụ cho thơng tin quảng bá hàng hóa, dịch vụ,
mở rộng thị trường, tạo điều kiện cho việc mở rộng đầu tư sản xuất. Như


vậy, q trình tồn cầu hóa kinh tế và q trình tồn cầu hóa truyền thơng
đại chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau, vừa là điều kiện, tiền đề, vừa là hệ
quả phát triển của nhau.

2.3. Về chính trị, tiến trình hội nhập quốc tế cũng là một điều kiện
quan trọng của q trình tồn cầu hóa truyền thơng đại chúng.
Năm 1945, sự ra đời của Liên hợp quốc đã được coi như một giải
pháp lý trí mà nhân loại buộc phải lựa chọn sau bài học xương máu của hai
cuộc chiến tranh thế giới. Đã đến lúc các quốc gia trên thế giới phải ngồi lại
với nhau, cùng hợp tác giải quyết các vấn đề chính trị một cách hịa bình,
tránh đổ máu. Đến lượt mình, chính Liên hợp quốc đã trở thành một cơ chế
để thúc đẩy tiến trình tồn cầu hóa các vấn đề chung của nhân loại, cũng như
các vấn đề của từng khu vực, từng quốc gia. Cùng với sự ra đời Liên hợp
quốc, nhiều hình thức, cơ chế liên kết, hợp tác ở các khu vực, liên khu vực
hay nhóm nước có cùng hồn cảnh, gần gũi nhau về thể chế hay có cùng một
mục tiêu chính trị, kinh tế, xã hội nào đó đã xuất hiện. Đó là: Tổ chức các
nước khơng liên kết (NAM), Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), Tổ
chức Thống nhất châu Phi (OAU), Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu
(OSCE), Tổ chức Hiệp ước quân sự Bắc Đại Tây Dương (NATO), Tổ chức
các nước châu Mỹ, Tổ chức các nước Nam Á, Khối Liên hiệp Anh, Tổ chức
các nước nói tiếng Pháp, Tổ chức các nước Hồi giáo, Diễn đàn kinh tế thế
giới Đavốt, G8, G20, v.v.. Ngồi các tổ chức có thiết chế hoạt động thường
xun, cịn xuất hiện nhiều hình thức giao tiếp, liên kết, hợp tác song
phương, đa phương, các cơ chế làm việc đột xuất giữa các quốc gia một cách
sinh động, đa dạng
Các hình thức, thiết chế hội nhập, hợp tác quốc tế ngày càng phong
phú đã tác động, ảnh hưởng đến tiến trình vận động, tính chất hay cách thức


giải quyết của các vấn đề, sự kiện. Hình thức phổ biến nhất là nó tạo ra sự
quan tâm, chú ý của dư luận quốc tế hay khu vực, tùy theo quy mơ, tính chất
của vấn đề, sự kiện. Đó cũng chính là động lực, là yếu tố tác động mạnh mẽ
vào việc hình thành các điều kiện của mơi trường truyền thơng đại chúng,
kích thích để dẫn tới việc mở rộng các nhu cầu về thông tin truyền thông.

2.4. Yêu cầu giải quyết các vấn đề toàn cầu cũng là một điều kiện cho
sự phát triển truyền thông đại chúng với quy mơ tồn thế giới.
Sự phát triển của các lĩnh vực đời sống hiện đại, đặc biệt là cơng
nghiệp cùng tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đã dẫn đến hệ quả là sự hình
thành những vấn đề tồn cầu, những vấn đề có phạm vi hoạt động toàn thế
giới, ảnh hưởng đến mọi quốc gia, dân tộc và chỉ có thể giải quyết được trên
quy mơ tồn cầu. Đó là các vấn đề trải ra trên rất nhiều lĩnh vực của cuộc
sống, từ dịch bệnh, ô nhiễm môi trường, nguồn nước, cạn kiệt nguồn năng
lượng, hiệu ứng nhà kính – trái đất nóng lên và nước biển dâng, đến những
vấn đề về vũ khí hạt nhân, tội phạm ma túy, nghèo đói và thiếu lương thực,
xung đột vũ trang và nạn khủng bố, v.v..
Việc giải quyết các vấn đề toàn cầu đang đặt ra trước nhân loại những
yêu cầu bức xúc. Tuy nhiên, việc tìm ra và đi đến thống nhất về phương
thức, nguồn lực, cơ chế để giải quyết một cách hiệu quả những vấn đề tồn
cầu lại là khơng dễ dàng. Đặc biệt khó khăn là việc tìm ra tiếng nói chung
giữa tất cả các quốc gia với những thể chế chính trị đa dạng, những lợi ích
khác biệt nhau nhiều khi đến mức đối kháng. Trong điều kiện đó, truyền
thơng đại chúng có vai trị quan trọng, trở thành cơng cụ chuyển tải thông
tin, thúc đẩy nhận thức thống nhất, trách nhiệm và giải pháp giải quyết các
vấn đề tồn cầu. Có thể nói, đây là kênh thơng tin có sức mạnh to lớn nhất,
có điều kiện thuận lợi nhất để liên kết các dân tộc, các quốc gia đi tới tiếng


nói, hành động chung. Đến lượt mình, truyền thơng đại chúng có cơ hội mở
rộng quy mơ, tăng cường sức mạnh ảnh hưởng trên phạm vi tồn cầu.
V. Phân tích, đánh giá và đưa ra các dự báo, cảnh báo, các giải pháp
hạn chế sự tác động tiêu cực của q trình tồn cầu hóa các phương tiện
truyền thơng đại chúng đối với hệ thống các phương tiện truyền thông
đại chúng Việt Nam (có thể đi sâu vào một loại hình để nghiên cứu).
Hệ quả của q trình tồn cầu hóa truyền thơng đại chúng

1. Những hệ quả tích cực.
Tồn cầu hóa truyền thơng đại chúng là một q trình khách quan, là
lơgíc tất yếu của tiến trình phát triển của nhân loại và những hệ quả của nó
cơ bản, chủ yếu mang tính tích cực. Có thể thấy những hệ quả tích cực chính
sau đây:
- Tồn cầu hóa truyền thông đại chúng mở ra môi trường thông tin
rộng lớn, thuận tiện nhất, giúp cho các dân tộc, các quốc gia và cư dân toàn
thế giới tăng cường khả năng giao lưu, tăng cường hiểu biết, xích lại gần
nhau. Điều này cũng có nghĩa là, nó giúp cho nhân loại nhân lên sức mạnh
của mình trong việc thống nhất nhận thức, hành động, tạo ra áp lực mạnh mẽ
cho việc giải quyết các vấn đề mà cuộc sống đặt ra, từ mối quan hệ giữa con
người với thiên nhiên đến các vấn đề trong quan hệ giữa con người với con
người ở những quy mơ, phạm vi khác nhau.
- Tồn cầu hóa truyền thơng đại chúng tạo ra một mơi trường học tập
toàn cầu, mở ra nhiều cơ hội thuận lợi cho mọi cư dân trái đất có thể tiếp thu
tri thức nhân loại, nâng cao trình độ hiểu biết cho mình. Chưa bao giờ nhân
loại có mơi trường học tập thuận lợi như ngày nay, khi mà qua phát thanh,
truyền hình, sách báo, tạp chí, mạng Internet, mọi người trên trái đất đều có
được cơ hội khai thác tồn bộ kho tàng tri thức của nhân loại. Đó là một


×