Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

Bài giảng ngư loại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.33 MB, 118 trang )

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG THỦY SẢN
-----o0o-----

BÀI GIẢNG
Mơn học: Ngư loại
Ngành:

Ni trồng thủy sản

Trình độ: Cao đẳng

Năm 2016
1


BÀI MỞ ĐẦU

1. VỊ TRÍ VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA MƠN NGƯ LOẠI
Hiện nay trên trái đất có khoảng 13,5 triệu lồi sinh vật, trong đó khoảng
45000 lồi là động vật có xương sống (Cá, Chim, Thú,...) cịn lại là động vật
không xương sống (Côn trùng, giáp xác, động vật thân mềm, động thực vật thuỷ
sinh và thực vật trên cạn...). Trong số 45000 lồi động vật có xương sống, cá có
khoảng 29500 lồi cá (FishesBase, 2006). Cá là nhóm đầu tiên trong ngành động
vật có xương sống. Chúng xuất hiện sớm nhất và có lịch sử phát triển lâu đời
nhất, có thể nói cá là nhóm rất phong phú về thành phần loài và đa dạng sinh
học cao trong ngành động vật có xương sống. Đồng thời cá là nguồn thực phẩm
hàng ngày của nhân dân, là đối tượng đóng vai trị quan trọng trong nền kinh tế
quốc dân, đặc biệt có giá trị hàng hố cao trong bn bán và xuất khẩu thu ngoại
tệ ở những nước có nền kinh tế đang phát triển.


Từ buổi sơ khai, con người sống bằng nghề săn bắt hái lượm cũng đã biết
phân biệt và đặt tên cho các loài cá bằng ngôn ngữ địa phương, năm - 384-322
(Trước công nguyên) thời Aristode đánh dấu sự hình thành ngư loại học. Buổi
đầu của thời kỳ sơ khai chỉ là đặt tên, phân loại và nghiên cứu hình thái cá. Về
sau khi xã hội càng phát triển, hiểu rõ vị trí và tầm quan trọng của nhiều loài cá
đối với đời sống con người thì vấn đề nghiên cứu về cá càng ngày càng sâu rộng
hơn, nghiên cứu kỹ hơn về nhiều lĩnh vực như: hình thái giải phẫu cá, phân loại
cá, sinh lý sinh thái cá, địa lý phân bố...
Ngư loại học (Ichthyology) là môn khoa học nghiên cứu về cá, nghiên cứu
các đặc điểm về hình thái, giải phẫu, sinh thái, sinh lý, phôi sinh học, phân loại
và phân bố của cá, ...
Ngư loại học là môn khoa học cơ bản chiếm vị trí khá quan trọng khơng
những trong khoa học: lưu giữ, bảo tồn tính đa dạng sinh học... mà còn trong
thực tiễn: nghiên cứu phát triển nguồn lợi, khai thác các loài cá, giới thiệu thuần

2


hố các lồi cá trở thành những đối tượng cá ni có giá trị... góp phần phát
triển bền vững nghề cá.
Ngày nay, với sự tích luỹ và phát triển khơng ngừng của khoa học nghiên
cứu về cá, những nghiên cứu bổ sung sâu sắc hiểu biết về cá đã hình thành nhiều
lĩnh vực nghiên cứu riêng, các môn học riêng:
- Hình thái giải phẫu: Nghiên cứu hình thái ngồi và cấu tạo bên trong, cấu
trúc gen...
- Sinh lý sinh thái cá: Nghiên cứu chức năng của các cơ quan trong cơ thể cá,
mối quan hệ giữa cá với môi trường và các sinh vật khác.
- Phôi sinh học: Nghiên cứu sự phát triển phôi của cá.
- Phân loại cá: Trên cơ bản nghiên cứu hình thái cấu tạo, sinh lý sinh thái,
phôi sinh học... tiến hành định loại và sắp xếp chúng vào hệ thống phân loại.

- Địa lý phân bố cá: Nghiên cứu sự phân bố địa lý, quy luật phân bố và vùng
phân bố của chúng.
- Nghiên cứu sinh sản, dinh dưỡng của cá: Quá trình thành thục và sinh sản
của các loài cá trong tự nhiên và trong nhân tạo. Dinh dưỡng và thức ăn của các
loài cá ở các giai đoạn.
- Nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật nuôi và khai thác cá: Nuôi cá ao, nuôi
cá hồ chứa... Khai thác cá trên sông biển và hồ.
- Di truyền chọn giống cá: Nghiên cứu quy luật di truyền của cá, các đặc
điểm biến dị, đột biến..., ngun tắc và cơ sở chọn giống cá...
Ngồi ra nói đến ngư loại học là nói đến nghiên cứu cơ sở khoa học của nghề
nuôi cá, khai thác, công nghệ chế biến và kinh tế nghề cá...
Ngư loại học trong giai đoạn hiện nay được hiểu và có nhiệm vụ nghiên cứu
chính là nghiên cứu hình thái, giải phẫu, sinh lý, sinh thái cá, định loại các loài
cá, sắp xếp vào hệ thống phân loại, nghiên cứu sự phân bố, vùng phân bố của cá,
nghiên cứu tính đa dạng sinh học và nguồn lợi cá trong các thuỷ vực.
Sự phát triển của ngư loại học gắn liền với sự phát triển nghề cá, là một
trong những mắt xích quan trọng đối với sự phát triển nghề cá, là môn cơ bản rất
quan trọng trong nghề cá, hay nói cách khác ngư loại học là môn sinh học tổng
hợp về cá giúp cho học sinh, sinh viên cũng như các nhà nghiên cứu, các ngư
dân nuôi và khai thác cá hiểu được những kiến thức cơ bản nhất về cá như: hình
thái cấu tạo chung, sinh lý, sinh thái, mối quan hệ giữa cá và môi trường sống,
sự sinh trưởng và phát triển ... từ đó có các biện pháp bảo vệ nguồn lợi và
nghiên cứu quy trình kỹ thuật trong nuôi trồng và khai thác thuỷ sản nhằm tăng
hiệu quả kinh tế trong nghề cá
2. VỊ TRÍ VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA MÔN HỌC VỚI CÁC MÔN HỌC KHÁC
Ngư loại học là môn cơ bản cung cấp những kiến thức cho học sinh, sinh
viên và các nhà mới nghiên cứu những kiến thức cơ bản về cá để dễ tiếp cận với
các môn chuyên môn của ngành kỹ thuật nuôi, sinh sản nhân tạo các loài cá, kỹ
thuật di giống thuần hố cá, cơng nghệ chế biến cá, kinh tế nghề cá v.v. Mặt
khác, ngư loại là môn cung cấp những kiến thức cơ bản để phân loại các loài cá

3


trong các thuỷ vực trong công tác bảo vệ và phát triển nguồn lợi, bảo tồn tính đa
dạng sinh học cá trong công tác điều tra nguồn lợi thuỷ sản... Vì vậy, ngư loại
học có vị trí khá quan trọng trong chương trình đào tạo thuỷ sản
Với kiến thức đồ sộ của ngư loại học nên nó có quan hệ mật thiết với các
môn chuyên ngành trong ngành thuỷ sản: Kỹ thuật ương nuôi, sinh sản. Đồng
thời nhu cầu những kiến thức của các mơn chun ngành bổ sung hồn thiện và
thúc đẩy phát triển môn ngư loại, đặc biệt phần sinh sinh lý sinh thái cá.
Ngư loại còn quan hệ rất gần với các môn cơ sở: động vật có xương sống,
sinh lý, sinh thái, di truyền...Ngư loại cịn quan hệ chặt chẽ với các môn: Quản
lý chất lượng nước trong ni trồng thuỷ sản, thuỷ sinh, tốn, lý, hố... Kiến
thức các mơn này giúp cho ngư loại có phương pháp nghiên cứu tốt hơn
CHƯƠNG I. HÌNH THÁI GIẢI PHẪU CÁ
Cá là động vật có xương sống, sống ở dưới nước, hơ hấp bằng mang, tim có
2 ngăn và một vịng tuần hồn... Cần phân biệt theo cách gọi một số lồi khơng
phải là cá, sống trong nước: Cá mực, cá Sấu, cá Voi.
I. HÌNH THÁI BÊN NGỒI
1. Kích thước và hình dạng cá
Như chúng ta biết trên thế giới có khoảng 29500 lồi cá. Mỗi một lồi có cấu
tạo hình thái khác nhau thích nghi với mơi trường và tập tính sống của cá. Đó là
kết quả hình thành trong q trình thích nghi, tiến hố của lồi. Thân cá có thể
chia làm 3 trục cơ thể: trục đầu đuôi, trục lưng bụng, trục phải trái. Tuỳ thuộc
vào từng lồi mà độ dài các trục này có tỉ lệ khác nhau. Nhưng nhìn chung cá có
các hình dạng chung như sau:
1.1. Dạng hình thoi

C¸ thu chÊm (Scomberomorus guttatus)
Là dạng hình phổ biến nhất của cá, dạng hình này thích hợp với việc bơi lội

trong nước, thân có hình hơi dẹt. Trục đầu đuôi, trục lưng bụng và trục phải trái
có tỉ lệ cân đối dạng thuỷ động học. Cá có hình thoi phần trước và sau đều nhỏ
hơn phần giữa, thân hơi dẹp bên hoặc trịn. Thân hình thoi giảm nhẹ sức cản của
nước khi tiến về phía trước, triệt tiêu xốy rối nước ở phía sau giúp cá bơi lội
nhanh. Ví dụ: cá Trắm cỏ Ctennopharyngodon idella, cá Măng Elopichthys
bambusa. Cá biển như cá Thu Scomber, Ngừ Thunnus…
1.2. Dạng hình ống

4


Là những lồi cá hình ống dài, trục lưng bụng, trục phải trái ngắn nhất, trục
đầu đuôi dài nhất, đầu nhọn, đi vót, thân trịn dài bơi lội uốn khúc trong nước,
chui luồn trong hang hốc, trong bùn. Kiểu bơi lội này châm chạp nhưng tốn ít
năng lượng, di chuyển bằng cách uốn lượn thân. Chúng ta bắt gặp dạng hình này
ở cá Chình Anguilla, Lươn Monopterus, Chạch bùn Misgunus.)

Cá Chỡnh Anguilla


chạch
bùn
anguillicaudatus

(Misgurnus

1.3. Dng hỡnh dt bờn
Trc u uụi ngn li, trục lưng bụng dài ra, trục phải trái ngắn nhất. Ví dụ:
cá Vền (Megalobrama), cá chim đen (Formio niger) cá Dìa sọc (Siganus
guttatus). Những lồi cá có dạng hình trên thường phân bố tầng nước giữa hoặc

gần đáy, nơi có dũng chy yu hoc yờn tnh.

Cá chim đen (Formio niger)

Thè be (Rhodeus ocellatus)
1. 4. Dạng hình bẹt
Dạng hình này có trục lưng bụng ngắn nhất, trục đầu đuôi vừa phải, cịn trục
phải trái dài nhất (ví dụ Cá Đuối) phần lớn những lồi cá này sống tầng đáy, ít
bơi lội, di chuyển chậm chạp.

5


Cá Đuối bồng

(Dasyatis uamak)
Cá ngộ
(Psettodes erumei)
Thõn dp 2 bờn, kộo dài thành dải lụa bơi lội nhờ uốn thân sống ở vùng nước
tĩnh, nước sâu. Ví dụ: cá Hố Trichius), cá Regalecus.
Ngồi các dạng hình trên cá cịn một số dạng hình đặc biệt để thích nghi với
đời sống và tập tính đặc thù riêng của nó. Ví dụ: cá Ngựa Hyppocampus thân
hình giống như con ngựa, cá Mặt trăng Mola mola thân hình trịn như trái bóng
sống trơi nổi. Cá nóc gai, nóc hơi khi gặp kẻ thù chúng đớp khơng khí vào làm
trương trịn bụng, cá trơi trên mặt nước, các gai vẩy dựng lên để tránh hoặc do
k thự.

Cá nóc vây đỏ (Fugu

rubripes)

2. Kớch thc ca cỏ
Cỏc lồi cá khác nhau có kích thước khác nhau: Loại cá có kích thước lớn
như cá Mập dài 16-17 m, nặng 5-6 tấn. Cá Đuối Mobula manta rộng đĩa thân
6m, nặng 4 tấn. Cá Tầm Huso huso dài tới 5- 6 m. Cá Bông lau Pangasius sp dài
tới 3,3 m. Bên cạnh đó có những lồi cá có kích thước nhỏ nhất: cá Địng đong
Puntius, cá Sóc dài 20mm...
Trong cùng một lồi, cùng một lứa tuổi nhưng ni trong mơi trường rộng
hẹp cá cũng có kích thước khác nhau như các lồi được ni làm cảnh...Kích
thước của cá phụ thuộc vào mơi trường sống,
3. Các cơ quan bên ngồi
Cơ thể cá bên ngoài chia làm ba phần: Đầu, thân và đuôi. Ranh giới giữa
đầu và thân là khe mang cuối cùng, ranh giới giữa thân và đuôi là sau gốc vây
hậu mơn
3.1. Đầu cá
Đầu cá có nhiều dạng khác nhau, đa số có dạng đầu nhọn. Có thể thường gặp
một số dạng đầu sau:

6


- Dạng đầu dẹt theo mặt phẳng nằm ngang: cá quả, cá trê, chiên, nheo.
- Dạng đầu dẹt hai bên: cá chép, mè, thu chim. Trên đầu cá có miệng, râu,
mũi mắt, mang.
- Dạng dài và nhọn: cá Kìm, cá Nhái. Trên đầu cá có miệng, râu, mũi mắt,
mang.
1. Miệng trên
2. Miệng giữa
3. Miệng hơi dưới
4. Miệng dưới
5. Miệng co dãn

6. Miệng hút

3.1.1.Miệng cá:
Đặc điểm cấu tạo hình dạng kích thước vị trí của miệng phụ thuộc chủ yếu
vào tập tính bắt mồi và đặc điểm dinh dưỡng của cá. Lớp cá Miệng trịn
Cyclostomata khơng có hàm mà dạng phễu có nhiều răng sắc bám, ký sinh vào
lồi cá khác. Ở lớp cá Sụn Chondrichthyes miệng nằm mặt bụng, miệng rộng.
Đối với lớp cá Xương căn cứ vào vị trí của miệng và xương hàm có chia thành
các dạng miệng sau: Miệng hướng về phía trước hai hàm trên và hàm dưới của
chúng gần bằng nhau ví dụ như cá chép Cyprinus carpio. Miệng ở phía dưới có
hình khe ngang, mơi dưới có viền sừng sắc nhọn để gặm rêu cá Trôi Cirrhina
molitorella, cá Anh vũ Semilabeo obscurus. Miệng hướng phía trên hàm trên
ngắn hơn hàm dưới cá Thiểu Erythroculter. Những lồi cá ăn sinh vật nhỏ hay
thức ăn ít di động có miệng vừa và nhỏ.
3.1.2. Râu:

7


Râu là cơ quan cảm giác và xúc giác của cá giúp cá tìm kiếm mồi. Tuỳ vị trí
của râu mà ta gọi. Có râu mũi như cá bị (Pseudobagrus fulvidraco), cá Chiên.
Râu cằm mọc ở dưới hàm dưới về phía bụng như cá phèn hai sọc (Upeneus
sulphureus) . Râu hàm trên, hàm dưới như cá Chép. Râu miệng như cá Chạch có
5 đơi.
Có lồi có râu, có lồi khơng có râu, số lượng cũng khác nhau. Những lồi
cá sống tầng đáy sâu thường râu rất phát triển, do ở tầng đáy ít ánh sáng mắt
khơng phát huy được tác dụng. Trong phân loại cá có hay khơng có râu, vị trí số
lượng độ dài của râu là một chỉ tiêu phân loại giữa các loài, bộ, họ với nhau.
3.1.3. Mắt
Mắt cá nằm đối xứng hai bên đầu, tuy nhiên hình dạng vị trí kích thước của

mắt phụ thuộc vào vị trí mơi trường sống, tập tính sống. Cá sống ở nước sâu đục
mắt tiêu giảm, cá sống ở đáy mắt ở lưng. Cá Nác Priophthalmus sống ở ven bờ
mắt nổi hẳn lên. Đặc biệt có lồi cá có 4 mắt Nabaps mắt lồi lên đỉnh đầu, mỗi
mắt chia làm hai phần, phần trên có thể nhìn trong khơng khí, phần dưới nhìn
được trong nước.
3.1.4. Mũi
Mũi cá có nhiệm vụ cảm nhận được mùi vị của thức ăn, mùi vị môi trường
nước. Mũi cá thường nằm phần trên đầu, sau môi, ở trước mắt. Mũi cá thường
không thông với xoang miệng như các động vật bậc cao khác. Trừ Lớp cá miệng
trịn, cá phổi lỗ mũi thơng với xoang miệng. Ở cá Sụn có rãnh mũi miệng, nước
từ mũi qua rãnh mũi miệng rồi vào xoang miệng (dạng cấu tạo ngun thuỷ).Cá
Xương mỗi bên có hai lỗ mũi thơng với nhau qua một màng ngăn. Khoảng cách
hai lỗ mũi tuỳ thuộc từng loài.
3.1.5. Mang và khe mang
Mang và khe mang là cơ quan hô hấp của cá. Số lượng cung mang và khe
mang tuỳ thuộc từng lớp cá khác nhau. Cá Miệng Trịn có 7 đơi khe mang; cá
Myxin có 1- 14 đơi khe mang; cá Sụn có 5- 7 đôi (cá Nhám khe mang nằm hai
bên đầu; cá Đuối khe mang nằm ở mặt bụng) khơng có nắp mang. Cá xương có
một đơi khe mang nằm hai bên đầu, có nắp mang che phủ. Riêng Lươn khe
mang hai bên ở mặt bụng của đầu.
3.1.6. Lỗ phun nước:
Cá Sụn và một vài lồi cá xương có một đơi lỗ phun nước nằm hai bên sau
mắt do khe mang đầu tiên thoái hoá. Cá Sụn lỗ phun nước được coi là cơ quan
hô hấp.
3.2. Thân và đuôi cá
Thân cá là phần chính chứa nội tạng. Bên ngồi có vây ngực, vây bụng và
vây lưng.
Đi gồm bắp đi tính từ hậu mơn đến gốc đuôi và vây đuôi.
4. Da và các sản phẩm của da
4.1. Da cá


8


Da cá có tác dụng bảo vệ cơ thể chống sự xâm nhập của vi trùng, tránh sự cọ
sát của bên ngoài, bài tiết chất bẩn ra ngoài, điều hoà áp suất thẩm thấu. Ngồi
ra có khả năng hấp thụ một số chất và có chức năng là cơ quan cảm giác. Cũng
giống như động vật có xương sống bậc cao cấu tạo da cá gồm hai lớp
Lớp biểu bì (Epidermes) có nguồn gốc ngoại bì. Trong các tế bào biểu bì có
xen lẫn tế bào tuyến đơn bào hoặc đa bào tiết chất nhầy. Tuyến tiết dịch quánh
(Mucous) hình cốc đổ ra ngồi. Tuyến tiết dịch nhầy (Scrous) hình chuỳ, hình
cầu đổ vào khe các tế bào biểu bì. Các chất này có tác dụng làm trơn da và
chống vi khuẩn xâm nhập, hoặc đến mùa sinh sản ở con đực tăng tiết tạo nốt sần
ở da, xương nắp mang, vây ngực (họ cá chép cyprinidae). Một số loài cá có
tuyến độc nằm ở gốc tia vây lưng, gai vây ngực, gai nắp mang.
Lớp bì (Dermis): có nguồn gốc trung bì. Nằm dưới lớp biểu bì phân biệt
thành hai tầng: Tầng liên kết xốp mỏng có các tế bào sắc tố, các tế bào dạng sợi
ngang dọc sắp xếp có trật tự nhiều mạch máu làm nhiệm vụ ni da, tham gia
vào q trình hơ hấp như cá Chình Anguilla cá Nác Periopthalmus. Tầng liên
kết đặc chỉ có tế bào dạng sợi chạy ngang dọc và xếp chặt hơn tầng trên.
Một số lồi cá dưới tầng bì cịn có tấng dưới da, tầng này xốp có chứa tế bào
sắc tố. Trong công nghiệp thuộc da, da cá dùng làm các đồ dùng.
4.2. Các sản phẩm của da
4.2.1. Vảy (Scale)
Là sản phẩm chủ yếu của bì, cá khơng có vảy chỉ là dạng thứ sinh. Kích
thước và hình dạng tuỳ thuộc vào vị trí, tuổi cá, giống lồi. Vảy nhỏ và cứng ở
cá Sụn, to và mềm như cá Trắm cỏ, Chép. Theo nghiên cứu của một số nhà Ngư
loại học vảy cá xuất hiện ở giai đoạn cá Hương, thường trong kích thước 17 –
20mm. Có bốn loại vảy:
Vảy tấm: gồm chất xương (dentin) có nguồn gốc tầng bì, lớp men (email)

phủ ngồi có gốc tầng biểu bì, gặp ở cá Sụn Chondrichthyes. Vẩy này có phần lộ
ra ngồi da gọi là gai vảy; phần vùi trong da gọi là tấm nền trong đó chứa mạch
máu va đầu mút dây thần kinh.
Vảy cosmin: gồm chất xương có nhiều khe rỗng chứa chất cosmin, tiếp đến
lớp isopedin có cấu tạo xương ngoài cùng là lớp men.Vẩy cosmin được coi là
nhiều vảy tấm gắn liền với nhau. Gặp ở cá phổi Dipnoi cá vây tay
Crossopterygii
Vảy láng: thường có dạng hình thoi. Bên trong chủ yếu là lớp isopedin,
ngoài phủ lớp đặc biệt bằng chất ganoin có gốc bì. Gặp ở cá Tầm Asipenser cá
nhiều vây.
Vẩy xương: Là tấm xương mỏng gồm nhiều lớp isopedin, ngoài cùng là lớp
ganoin mỏng. Vảy xương có dạng hình trịn hoặc lục giác. Các vảy sắp xếp theo
kiểu lợp mái ngói làm cho vảy hoạt động dễ dàng. Vẩy phát triển theo hai lớp:
Lớp trên là lớp Ganoin rất mỏng, giịn, do chất xương hình thành làm cho
vảy cứng.

9


Lớp dưới là lớp Isoperdin, gồm có nhiều lớp do sợi mơ liên kết hình thành,
mềm mại làm cho vẩy dễ cử động.
Vảy xương được chia ra 4 phần :
Phần trước (Phần gốc) là phần vảy hướng về phía đầu nằm trong túi vảy.
Phần này khơng có tế bào sắc tố
Phần sau (ngọn vảy) là phần vảy lồi ra ngoài túi vảy hướng về phía đi cá.
Phần vảy hai bên trái phải của vảy gọi là mặt bên.
Từ tâm vẩy có các đường thẳng chạy ra xung quanh gọi là tia phóng xạ giúp
cho vẩy thêm mềm mại. Trên vảy có những vịng tuổi làm thành những vân
sáng, tối trơng rất rõ tạo các vòng sinh trưởng (Sklerid), trong Ngư loại học có
thể làm cơ sở tính tuổi của cá. Có hai loại vảy trịn và vảy lược. Vảy trịn

(Csyclod scale) là vảy có phần sau lộ ra ngồi trơn tru như bộ cá Chép
Cypriniformes bộ cá Trích Clupeiformes. Vảy lược là phần vảy lộ ra ngồi có
dạng răng lược như bộ cá Vược Perciformes
Thành phần hoá học của vảy
cá qua nghiên cứu cho thấy chất
hữu cơ (dạng keo đản mạch)
Chiếm 41- 55%; 38- 46 % là
Ca3(PO4)2. Ngồi ra cịn có
CaCO3,
Mg3(PO4)2,
Na2CO3…Men phơtphattase có
tác dụng kết tủa chất can xi.
Đối với vảy đường bên, mỗi
lồi cá có số lượng nhất định,
trong Ngư loại căn cứ vào số
lượng vảy đó làm tiêu chuẩn hình
thái phân loại và được kí hiệu như
sau:
6
LL= 41 42; LL: lateral line
4
41 – 42: số lượng vảy đường
bên dao động.
6: số hàng vảy trên đường bên
4: Số hàng vẩy dưới đường
bên
Vảy cá được dùng làm keo dán
gỗ, vỏ bút máy, làm phim ảnh,
làm hoa, phân bón rất tốt.
4.2.2. Màu sắc của cá

Màu sắc của cá bao giờ cũng
phù hợp với môi trường xung
quanh, là kết quả của một q trình thích nghi được hình thành trong q trình
lịch sử. Nhưng có một số lồi cá có màu sắc là kết quả của chọn lọc và lai tạo
10


(cá cảnh). Màu sắc giúp cá trốn tránh kẻ thù, ẩn nấp nguỵ trang để bắt mồi, tác
dụng kích thích sinh dục. Cá có những màu sắc cơ bản sau:
Màu sắc nổi: lưng có màu tím nhạt, xám đen, hoặc xanh lá cây. Bụng và
lườn trắng óng ánh bạc, màu sắc này đặc trưng cho cá sống ở tầng nước trên (cá
Trích, cá Trỏng, cá Thu…)
Màu sắc cá sống san hơ, rong rêu có mầu sắc rất đẹp sặc sỡ, màu nâu nhạt,
vàng nhạt ở lưng thường có vết sẫm ngang dọc hông.
Màu sắc cá sống ở đáy: Lưng hông màu đen sẫm, hoặc có chấm hoa ở lưng
sọc đen ở hông, bụng màu trắng (cá Trê hoa)
Màu sắc đàn: giúp cá xác định vị trí lẫn nhau nhất là khi di cư đẻ trứng hay
tìm mồi. Cá Thè be gai Acanthorhodeus asmussi Dyb giai đoạn cá hương có
màu sặc sỡ ở lưng, đến giai đoạn trưởng thành thì hết. Cá hồi cái đến mùa sinh
sản có sọc đen dọc thân để cá đực điều chỉnh thụ tinh dễ dàng.
Màu sắc cá khơng cố định trong q trình phát triển cá thể. Màu sắc có thể
thay đổi theo tuổi, theo giới tính , theo bệnh lý.
Màu sắc của cá do các tế bào sắc tố phân bố ở tầng liên kết xốp của bì, một
số tế bào sắc tố phân bố ở màng bụng và xoang bao tim. Tế bào sắc tố có ba loại
chính: Tế bào sắc tố đen (melanophore) là sản phẩm phân giải của Protein, có cả
ở trong nội tạng. Sắc tố đỏ (erythrophore) là những hạt màu đỏ da cam do thức
ăn mang vào. Sắc tố vàng (Xanthrophore) có thể tan trong axit béo. Ngồi ra cịn
có chất Guanin khơng màu sắc, có khả năng phản xạ ánh sáng từ trên bề mặt của
nó và cho ta màu trắng bạc. Guanin sinh ra do sự phân giải nucleoprotein.
Màu sắc cá thay đổi do tế bào sắc tố tập trung hay phân tán dưới sự điều tiết

của hệ thần kinh hoặc kích thích tố. Sự điều tiết thần kinh : do trung khu hoá
sáng của tuỷ sống nằm khoảng 1/3 cơ thể; trung khu hoá tối nằm ở não trung
gian. Do kích thích tố của não thuỳ thể tiết vào máu
Một số yếu tố khác cũng ảnh hưởng đến màu sắc: trời lạnh, thiếu sinh tố A,
thiếu oxy cá bạc màu…Màu sắc cá thay đổi theo môi trường ngoài là do mắt
cảm thụ được truyền về não bộ, não bộ điều tiết sắc tố bằng đường thần kinh
hoặc kích thích tố.
5. Cấu tạo và chức năng của vây cá
Chức năng của vây là cơ quan vận động và giữ thăng bằng của cá. Vây cá
thường có 2 dạng: Vây lẻ và vây chẵn. Về mặt tiến hoá và phát triển phơi, vây lẻ
có trước vây chẵn. Vây chẵn ở cá tương đương với chi trước và chi sau của động
vật máu nóng. Vây cá có cấu tạo gồm: phần xương nâng đỡ với cơ điều khiển ở
phía trong phần vây lộ ra ngoài. Phần vây lộ ra ngoài cấu tạo gồm: các tia vây và
màng vây. Màng vây có tác dụng liên kết các tia vây thành khối linh động khi
vận động trong nước, thường gặp ở lớp cá xương (lớp cá vây tia). Hoặc phần lộ
ra ngoài cấu tạo dạng vây thịt (Vây tay) như lớp cá phổi (lớp cá vây tay).
Ngồi ra cịn gặp vây có cấu tạo phần thịt, mỡ gọi là vây mỡ thường nằm ở
lưng như các loài cá Lăng, Chiên... trong bộ cá Nheo (bộ da trơn)

11


Tia vây có 2 loại: Tia đơn và phân nhánh. Tia phân nhánh thường rất mềm
mảnh, dễ uốn lượn. Cấu tạo từ một gốc vây và chia nhiều nhánh ở ngọn.
Tia vây đơn (tia khơng phân nhánh) thường ở phía trước của vây. Tia đơn có
2 loại: Tia vây đơn mềm (tia đơn mềm) và tia vây đơn hoá gai cứng gọi tia đơn
cứng). Tia vây cứng có hai loại: là tia vây cứng giả có sự phân đốt thường gặp ở
một số loài trong họ cá Chép, tia vây cứng thật khơng phân đốt hình thành một
khối như các loài trong ở bộ cá Vược.
Người ta dùng chữ số la mã để ký hiệu cho tia vây cứng, còn số lượng tia

vây mềm ký hiệu bằng chữ số la tinh, số lượng tia vây là chỉ tiêu dùng trong
phân loại. Ví dụ ở cá Chẽm Lates calcarifer có cơng thức các vây như sau: D
VII, I – 11; A III, 8; P 15; V I,5
Vây lưng

Vây đuôi

Vây ngực

Vây hậu môn
Vây hậu môn

Vây bụng

5.1. Vây lẻ
+ Vây lưng (D- dorsal fin) cá Sụn vây lưng bình thường, cá đuối vây lưng
tiêu giảm. cá xương thấp vây lưng gồm các tia phân đốt. Ngồi ra một số cá có
vây mỡ (cá Ngạnh). Số lượng vây lưng có một (cá Chép), hai cái (cá Bống, cá
Đối) hoặc ba cái (cá Tuyết Gadus). Một số vây lưng phát triển như cánh buồm
gặp ở cá Kiếm Histiophorus cao 1,5 m dài 6m. Nhiệm vụ của vây lưng là giữ
thăng bằng.
+ Vây hậu môn (A- anal fin) Nhiệm vụ giữ thăng bằng. một số loài cá thuộc
bộ cá sóc Cyprinodontiformes tia vây hậu mơn biến thành gai giao cấu.
+ Vây đi (C- caudal fin) có nhiệm vụ đẩy và định hướng khi bơi có tác
dụng như bánh lái, ở cá ngựa khơng có vây đi. Căn cứ vào phần cuối của
xương sống và dạng tia vây đi để phân biệt.
- Vây đi đồng hình: bên ngoài hai thuỳ bằng nhau, bên trong cột sống
lệch vào một thuỳ như cá chép, cá mè, trôi, cháy, thu..
- Vây đi dị hình: hai thuỳ đi lớn nhỏ khác nhau, cột sống chạy lệch hẳn
vào thuỳ lớn gặp ở cá sụn cá xương thấp.

- Vây đi lưỡng hình: hai thuỳ đối xứng qua cột sống như vây nguyên vỹ.
5.2.Vây chẵn:
+ Vây ngực (P- pectoral fin): cá Miệng trịn khơng có vây ngực. Cá sụn có
vây ngực khá lớn nằm ở vị trí nằm ngang. Cá đuối có vây ngực mở rộng. Cá
12


xương có vây nhỏ. Đặc biệt cá Chuồn Exocoetus vây ngực phát triển lớn đạt
80% có khả năng bay lượn trên mặt nước100-150 m. Cá Nác Periopthalmus 2
vây ngực rất phát triển và có cơ quan hơ hấp phụ giúp leo treo trên cây. Nhiệm
vụ của vây ngực là giữ thăng bằng và giúp cá tiến về phía trước hoặc lùi về phía
sau.
+ Vây bụng (V- Ventral fin): Cá mập, cá tầm, cá trích, hồi, cá chép vây bụng
thường nằm ở giữa bụng dưới vây lưng. Cá Vược vây bụng ở ngực dưới vây
ngực. Cá Tuyết vây ngực ở hầu trước vây ngực. Bọn cá Bống Gobio biến thành
giác bám. Vây ngực của cá Nhám, cá Đuối đực biến thành cơ quan giao cấu. Cá
Chình Anguilla, bộ cá Sóc Cyprinodontiformes vây bụng thối hố.
Cá di động nhẹ nhàng, nhanh chóng ở trong nước nhờ sự phối hợp hoạt động
giữa các bộ phận: vây, bắp đi, bong bóng và sự phối hợp cử động của tồn
thân. Ngồi ra cịn có do sự phun nước qua khe mang ra phía sau.
Tốc độ di chuyển các lồi cá rất khác nhau: cá Chình 12km/h, cá Hồi
40km/h, cá Vền 15 km/h, cá Mập 70km/h.
II . HỆ XƯƠNG

Bộ xương là khung nâng đỡ cơ thể bảo vệ các cơ quan bên trong. Nó liên kết
với hệ cơ giúp cá vận động. Căn cứ vào vị trí phân bố người ta chia bộ xương cá
thành: xương trục chính (Skeleti axiale) bao gồm có xương đầu, xương cột sống
và xương sườn. Xương nhánh phụ (Skeleti appendicalare) bao gồm xương đai
vai, đai lưng và xương tia vây.
1. Sự phát triển của bộ xương

1.1. Nguồn gốc và sự phát triển của bộ xương
Xương có nguồn gốc trung bì. Bộ xương của động vật nói chung được
hình thành qua ba giai đoạn: giai đoạn mô liên kết, giai đoạn sụn và giai đoạn
xương. Căn cứ vào sự phát triển của xương chia ra hai loại xương: Xương gốc
sụn là xương được hình thành trải qua giai đoạn sụn. Xương gốc mơ liên kết là
xương hình thành từ mơ liên kết khơng qua giai đoạn sụn.
1. 2. Sự hình thành bộ xương ở cá con:
Cá mới nở cơ thể phát triển chưa hồn chỉnh, do đó bộ xương của nó cũng
chưa đầy đủ. Cá con mới nở toàn thân chỉ mới có một dây sống, sọ chưa rõ ràng.
Dần dần xương sống cứng lại, xương sườn, xương sọ đầy đủ dần, các vây hình
thành, tia vây, vảy xuất hiện từ đó cá mới bơi lội mạnh mẽ.
2. Bộ xương cá
2.1. Xương trục chính (Skeleti axiale)
2.1.1. Xương đầu
Cá sụn xương đầu tồn bằng sụn. Lớp cá Xương cấu tạo xương đầu đã hố
xương, tuy nhiên vẫn cịn một số xương bằng sụn. Xương đầu cá xương rất phức
tạp gồm sọ não và sọ tạng phát triển hoàn chỉnh.
+ Sọ não gồm các xương gốc sụn đã hố xương và có thêm các xương gốc
bì bao phủ nóc sọ và dưới đáy sọ, số xương sọ ở cá xương rất nhiều.
Xương ở vùng mũi có 1 xương sàng giữa, 2 xương sàng bên.
13


Hệ thống xương mắt gồm 5 xương quanh mắt: xương lệ phía trước, xương
dưới mắt hai chiếc, xương trên mắt, xương vịng sau mắt.
Xương vùng tai có xương cánh tai, xương bướm tai, xương trên tai và xương
sau tai.
Vùng chẩm có xương gốc chẩm, 2 xương bên chẩm và 1 xương chẩm.
Nóc sọ có có các xương gốc bì là xương mũi, xương trán và xương đỉnh.


14


15


Đáy sọ có xương lá mía nhỏ phía trước và một xương bên bướm lớn phía sau,
hai xương này làm thành trục nền sọ.

Xương
Cánh
bướm

Xương
Bên
bướm

+ Sọ tạng phân hoá thành các phần sau:
Cung hàm: Ở hàm trên, sụn khẩu cái vuông phân thành hàm sơ cấp gồm 2
xương khẩu cái, 2 xương vuông nối với nhau bởi 3 xương cánh; hàm thứ cấp
gồm 2 xương trước hàm và 2 xương hàm trên. Các xương này có nguồn gốc
xương bì.
Cung móng: gồm 2 sụn móng hàm và 2 sụn móng hố xương.
Cung mang: đối với cá xương thường có 5 đơi, đơi thứ 5 tiêu giảm. Bên
ngồi mang có xương nắp mang, nắp mang khớp trực tiếp với xương móng
hàm. Bên ngồi có xương nắp mang, xương sau nắp mang, xương nắp mang
giữa, xương trước nắp. Các cung mang nối với nhau bằng một mảnh sụn lẻ chạy
dọc chính giữa phía dưới gọi là sụn tiếp hợp. Riêng họ cá Chép xương cung
mang có sự biến đổi đặc biệt đơi cung mang thứ 5 biến thành 2 cung xương hầu
dưới mang trên đó 3 dãy răng hầu rất phát triển nằm đối diện với cối chẩm,

phần do xương gốc chẩm phát triển mạnh lồi ra. Đây là đặc điểm phân loại
trong họ cá Chép.
2.1. 2. Cột sống
Là phần trụ của thân, thường có một số đốt sống nhất định từng lồi cá ví dụ
cá Chép thường 36 đốt. Các đốt sống nối tiếp nhau có đai chun liên hệ với nhau.
Mỗi đốt sống gồm các phần chính sau đây:
Thân đốt: Phần chính giữa lớn nhất, thường lõm cả hai mặt ở giữa có một lỗ
nhỏ.
Gai lưng: Phần nhọn hướng về phía lưng, là chõm trên cùng của đốt sống.
Cung tuỷ chứa tuỷ nằm dưới gai lưng.
Mấu huyết: Nằm phía dưới thân đốt sống, động mạch lưng đi qua chỗ này.
Cung mang xương sườn ở phần đốt sống bụng và làm thành ống huyết ở đốt
sống phần đuôi.
16


Các đốt sống chia thành ba loại tuỳ theo vị trí mà cấu tạo có phần đổi khác:
Đốt sống phần đầu, đốt sống phần thân, đốt sống phần đi. Ví dụ cá Chép có
36 đốt chia ra: Đốt sống phần đầu từ đốt 1- đốt thứ 4, có cấu tạo khác các đốt
sau rất nhiều, đốt thứ nhất phần trên gắn liền với xương chẩm. Đốt sống phần
thân nằm ngang với xoang bụng, từ đốt thứ 5 đến đốt thứ 21- 22, các xương
sườn đốt thứ 5-> 15 rất phát triển, từ đốt 15- 20 xương sườn nhỏ và mảnh dần
cho đến mất hẳn vì hai xương sườn nhỏ chập lại tạo thành gai bụng. Đốt sống
phần đuôi gồm 15 -16 đốt hình dạng giống con thoi, phần dưới khơng có xương
sườn mà chỉ có gai bụng (ống huyết).
2.1.3. Xương sườn và xương giữa cơ
Xương sườn có nguồn gốc từ sụn. Sườn lưng được hình thành riêng biệt,
sau mới gắn vào cột sống. Sườn bụng tiếp xúc với mấu ngang cột sống nên gọi
là sườn dưới. Cá viên khẩu chưa có sườn. Cá sụn có sườn bằng sụn. Cá phổi
sườn bụng đã hoá xương. Cá xương bậc thấp như họ cá chép chỉ có sườn bụng.

Cá xương bậc cao như bộ cá Vược Perciformes, ... có đủ cả xương sườn lưng và
sườn bụng.
Xương giữa cơ (xương dăm) có nguồn gốc từ mô liên kết. Xương giữa cơ chỉ
gặp ở cá xương bậc thấp.
2.2. Xương chi vây
2.2.1. Xương vây ngực

Xương vây ngực gồm hai phần cơ bản là phần xương bả vai, xương quạ đã
hoá xương khớp với đai vai thứ sinh gồm 3 xương bì (xương địn, xương trên
địn, xương sau địn) hình thành nên đai vai. Xương đai vai không khớp với cột
sống nhưng khớp trực tiếp với hộp sọ qua xương trên địn, vì vậy vây ngực cá
xương vận động linh hoạt.
17


2. 2.2. Xương vây bụng

Xương vây bụng tương ứng với xương hơng gồm hai xương gốc vây đính
liền nhau (nhưng vây bụng khơng dính liền nhau). Góc dưới, phía trong của 2
xương gốc vây có 2 xương nhỏ là di tích của tấm tia thối hóa.
2.2.3 Xương vây lưng và vây hậu mơn
Gồm một hàng tấm tia phân đốt hố xương, nằm trong cơ và nhiều tia vây có
nguồn gốc từ bì nằm bên ngồi được phủ bởi màng da mỏng. Cá xương bậc thấp
tấm tia có 3 đốt, cá xương bậc cao còn 2 hoặc 1 đốt.
2.2.4. Xương vây đi:
Vây đi có vai trị chính trong sự vận chuyển của cá, có tác dụng như chiếc
bánh lái. Căn cứ vào tính chất đối xứng bên ngồi và bên trong chia thành ba
kiểu chính: đồng hình, lưỡng hình, dị hình. Đều được bắt nguồn từ vây nguyên
vỹ.
Đuôi nguyên vỹ (Protoxec) là vây có hai thuỳ trên dưới bằng nhau đối xứng

qua cột sống nằm trên trục dọc giữa.
Vây đuôi đồng hình (Homoxec): bên ngồi có hai thuỳ bằng nhau nhưng bên
trong cột sống chạy lệch hẳn vào một thuỳ (mất đối xứng trong) gặp ở đa số cá
xương.
Vây đuôi dị hình (heteroxec): hai thuỳ đi lớn nhỏ khác nhau, cột sống
chạy lệch hẳn vào thuỳ lớn (mất đối xứng cả ngoài và trong), gặp ở cá sụn và
một số loài cá xương bậc thấp.
Vây đi lưỡng hình (diphixec): gồm 2 thuỳ đối xứng qua cột sống như vây
nguyên vỹ, khác là đối xứng thứ sinh, thường hình thành từ vây dị hình như vây
đi cá vây tay, cá phổi.
2.3. Thành phần hố học và cơng dụng của xương cá.
Các lồi cá sụn bộ xương hoàn toàn bằng sụn. Thành phần xương sụn bao
gồm đa số là chất đản mạch nhờn, chất đản mạch keo và đản mạch rắn. Thành
18


phần chính cấu tạo nên các chất đản mạch này là các axitamin arginin, histidin,
lizin và một ít triptophan và thyroxin. Chất vô cơ chứa nhiều hợp chất canxi và
các chất Na, K, Mg, Fe, Cl, P, S.
Các loài cá xương bộ xương đã hoá xương cứng, thành phần chất vô cơ và
chất hữu cơ bằng nhau. Chất hữu cơ chủ yếu là lipit chiếm 5 – 20 %, ngoài ra
cịn có protein. Chất hữu cơ gồm chủ yếu là CaC03 và Ca3(P04)2.
Xương cá xương có thể dùng làm phân bón rất tốt, làm thức ăn cho gia súc
và gia cầm, làm keo dán, than hoạt tính.
III. HỆ CƠ (Mucular system)
Trong mọi hoạt động sống của cá như bắt mồi, sinh sản, trốn tránh kẻ thù
đều do sự co rút của cơ. Do vậy mà cơ của cá khá phát triển, cơ của cá chứa
nhiều protein và nhiều vitamin mà các động vật khác khơng có được. Do đó thịt
cá có giá trị kinh tế rất lớn trong đời sống hàng ngày.
1. Cấu tạo và chức năng của các loại tế bào cơ

- Dựa vào cấu tạo, nguồn gốc, chức năng và sự phân bố của các cơ trong cơ
thể cá chia ra làm ba loại cơ.
1.1. Cơ trơn:
- Dạng hình thoi, giữa tế bào có nhân hình bầu dục, kích thước khoảng 20 –
50μ.
- Cơ trơn có nguồn gốc từ lá phôi giữa, do thần kinh giao cảm và phó giao
cảm chi phối hoạt động, hoạt động của cơ trơn chậm chạp.
- Cơ trơn phân bố chủ yếu ở các thành ống dẫn như ống tiêu hoá, thành mạch
mấu.
1.2. Cơ vân:
- Được gọi là cơ xương vì có mối quan hệ mật thiết với xương giúp cơ thể
hoạt động.
- Cơ vân do lá phơi giữa hình thành, tế bào cơ vân hình thoi là loại tế bào đa
nhân.
- Cơ vân do thần kinh trung ương chi phối nên hoạt động của cơ vân nhanh.
- Cơ vân phân bố ở các chi, thực quản, hầu, mắt, thân. Nhiều sợi cơ vân tập
hợp thành bó cơ, nhiều bó cơ hợp lại thành khối cơ.
1.3. Cơ tim:
- Là hỗn hợp giữa cơ vân và cơ trơn, tế bào cơ tim rộng nhưng ngắn, nó phân
nhánh với nhau thành khối, cơ tim thể hiện vân ngang.
- Cơ tim do thần kinh thực vật chi phối.
Trong ba loại cơ trên thì cơ vân chiếm tỉ lệ nhiều nhất, do đó chúng ta chỉ đi
sâu vào vai trò của cơ vân trong hệ cơ của cá.
2. Đặc điểm của hệ cơ của cá
2.1.Cơ phần đầu
- Có hai nhóm cơ lớn, đó là cơ mắt và cơ nắp mang.
- Cơ mắt có sáu cái cơ giúp mắt chuyển động được: cơ xiên dưới, cơ
xiên trên, cơ thẳng trên, cơ thẳng dưới, cơ thẳng ngoài, cơ thẳng trong.
19



- Cơ mang gồm có ba đơi: cơ co, cơ nâng, cơ mở. Ba đôi cơ này làm
nhiệm vụ vận động cung hàm, lưỡi, mang.
2.2.Cơ phần thân
- Cơ phần thân của cá tạo thành dạng W doãng, mỗi đốt cơ ứng với một đốt
xương sống. Các đốt cơ ngăn cách với nhau bằng một màng mơ liên kết có mầu
trắng.
2.3. Cơ đi
- Cơ đi có cấu tạo phức tập nhất vì hoạt động của cơ đi phức tạp giúp
cho cá bơi lội, chuyển hướng chủ yếu trong nước gồm các sau: cơ uốn lưng dưới
vây đuôi, cơ uốn lưng trên vây đuôi, cơ co bụng vây đuôi, cơ uốn bụng giữa vây
đuôi, cơ uốn bụng dưới vây đuôi.
2.4. Cơ vây lưng và vây hậu môn gồm các đôi cơ sau:
- Hai cơ nghiêng, một cơ dựng, một cơ hạ. Các cơ này co rút làm cho vây
lưng và vây hậu môn nghiêng bên trái, nghiêng bên phải, dựng vây hay hạ vây
xuống.
2.5. Cơ vây ngực và vây bụng
- Gồm có cơ co, cơ mở, cơ duỗi. Các cơ này tuỳ theo sự co rút làm cho vây
ngực và vây bụng chụm vào nhau, duỗi xa nhau hay xuôi theo thân cá nhằm giữ
thăng bằng hay bơi lội.
- Ở cá miệng trịn có hệ cơ vân khá phát triển nhưng cơ thân xếp theo đốt cơ
thể theo vách ngang. Cơ vây chỉ có vây lẻ chứ khơng có vây chẵn.
- Cá sụn: có đầy đủ các nhóm cơ thân, vây, đốt mang có cấu tạo khá điển
hình. Cơ vây cịn khá nguyên thuỷ, đặc biệt cá đực vây bung phát triển biến
thành cơ quan giao cấu chuyên hoá.
- Cá xương: hệ cơ khá phức tạp, số lượng cơ khá nhiều, những loài cá bơi lội
giỏi như cá Ngừ giữa cơ trục trên và cơ dưới trục có các sợi cơ dọc màu đỏ sẫm.
IV. HỆ THẦN KINH

- Nguồn gốc của hệ thần kinh từ lá phơi ngồi, lúc đầu hình thành tấm thần

kinh hai bên là nếp thần kinh, giữa là rãnh thần kinh, sau cuộn lại thành ống thần
kinh. Dần dần hai đầu trước và sau khép kín, sau đó phần đầu phát triển to ra
thành não bộ, phần sau phát triển thành tuỷ sống. Hai bên lưng và bụng mở rộng
tạo thành các mấu thần kinh và trở thành các đốt thần kinh.
- Hệ thần kinh của cá gồm: thần kinh trung ương, hệ thần kinh ngoại biên và
hệ thần kinh thực vật. Đơn vị cấu tạo nên hệ thần kinh là tế bào thần kinh
(neuron).
1. Hệ thần kinh trung ương (central nervous system)
Não bộ (encephalon) của cá: Giữa cá xương và cá sụn về cơ bản là giống
nhau, chỉ khác là cá xương phát triển yếu hơn. Được chia ra làm 5 phần
Não trước (prosencephalon): Gồm hai bán cầu não cịn nhỏ, đáy có thể vân
dày gồm nhiều tế bào thần kinh tập trung thành, nóc chỉ là biểu mơ mỏng. Phía
trước có hai thuỳ khứu giác. Não trước điều khiển sự hoạt động của khướu giác,

20


cắt bỏ não trước cá mất khả năng tìm mồi, tụ tập thành đàn, phải sau 10-14 ngày
mới hồi phục được.

Não trung gian (diencephalon): nhỏ không phát triển, là phần lõm vào ở
phía sau não trước, bị não giữa che phủ. Nhìn mặt dưới có hai thuỳ dưới lớn, có
đơi dây thị giác bắt chéo, phễu não, mấu não dưới và túi mạch phát triển có vai
trị quan trọng trong định hướng khi bơi. Mặt bụng não trung gian có cấu tạo đặc
biệt gọi là não thuỳ thể (tuyến yên) tiết ra hoocmon kích thích q trình sinh
trưởng và sinh sản của cá. Mặt trên có mấu não trên dài và mảnh (tuyến quạ).
Não giữa: còn gọi là mấu não sinh đôi (Mesencephalon) là phần phát triển
nhất của não bộ gồm hai phần: phần đáy ở dưới, ở phía trên có rãnh ở giữa tạo
thành hai bán cầu. Não giữa liên hệ chặt chẽ với tiểu não và hành tuỷ có ý nghĩa
lớn trong sự di động của cá. Não giữa điều khiển hoạt động của thị giác. Nếu

kích thích não giữa mắt sẽ chuyển động, cắt não giữa mắt sẽ bị mù. Từ não giữa
xuất phát dây thần kinh II, III, IV.
Tiểu não (Cerebellum) đã phát triển thành thuỳ, phủ lên hố trám của hành
tuỷ. Sự phát triển của tiểu não ứng với sự vận động linh hoạt và phức tạp của cá,
là cơ quan điều tiết cảm giác, thị giác, thính giác và hoạt động của các cơ nếu cắt
mất tiểu não cá sẽ mất thăng bằng. Đặc biệt ở cá chép tiểu não lớn hơn cả não
giữa phát triển mạnh lên phía trước tạo thành nhiều van tiểu não đẩy lùi não giữa
lệch sang hai bên, phía sau phủ gần kín thuỳ mặt của hành tuỷ. Lồi cá hoạt
động mạnh tiểu não phát triển: cá Chép Cyprinus carpio, cá Măng Luciobrama,
cá Trắm Ctenopharyngodon idellus; cá Vược Lates calcarifer. Lồi cá hoạt
động ít tiểu não nhỏ: cá miệng tròn Cyclostomata
Hành tuỷ (Medulla ablougata): là phần cuối của não bộ nối tiếp với tuỷ
sống, về cuối có hai bó sừng lớn. Trong hành tuỷ có nhiều trung khu liên hệ với
21


nhiều đơi dây thần kinh. Ngồi chức năng điều khiển các phản xạ khơng điều
kiện, hành tuỷ cịn là trung khu vị giác của cá. Từ hành tuỷ phát ra 6 đôi dây
thần kinh (từ số 5- 10) điều khiển sự hoạt động của hơ hấp, tuần hồn, tiêu hố.
Cá chép hành tuỷ phát triển thành ba thuỳ lớn thuỳ mặt ở giữa thuỳ mê tẩu ở hai
bên.
Cấu tạo não bộ thích nghi với đời sống:
- Cấu tạo có sự liên quan chặt chẽ đến sự hoạt động của cá. Sự sống của cá
đòi hỏi giác quan nào phát triển thì phần não phụ trách giác quan đó phát triển
mạnh.
Nhóm thứ nhất: Hành tuỷ phát triển, loài này thuộc những loài cá chủ yếu ăn
sinh vật đáy và các sinh vật ít hoạt động khác.
Nhóm có não giữa phát triển: gồn những lồi chủ yếu dùng thị giác tìm mồi.
Nhóm cá có tiểu não phát triển, là lồi cá ăn thịt và bơi lội xa.
Nhóm cá có não trước phát triển dùng khứu giác để tìm mồi như các sinh vật

đáy, hoặc tìm mồi ban đêm.
Hoặc cách phân chia khác của Paplopski:
Cá ăn tầng nổi biển khơi: Loài cá đuổi bắt mồi cần di động mạnh, cần thị
giác phát triển nên thuỳ thị giác và tiểu não phát triển mạnh.
Loài cá sống bám chui rúc trong bùn tiểu não nhỏ, khứu giác hoạt động
mạnh nên não trước phát triển, râu phát triển.
Q trình phát triển của não bộ có sự thay đổi để phù hợp với từng thời kỳ
sống của cá. Ví dụ cá Chép nhỏ ăn phù du bơi lội chậm nên hành tuỷ và tiểu não
bé, sau lớn ăn sinh vật đáy nên hành tuỷ của cá phát triển mạnh. Nhìn chung ở
cá xương não trước khơng phát triển bằng cá sụn, nhưng các phần não giữa, tiễu
não, hành tuỷ thì phát triển hơn ứng với sinh hoạt vận động phức tạp của cá. Cả
cá sụn và cá xương vai trò chỉ huy mọi hoạt động vẫn tập trung ở các phần não
giữa, não sau (tiểu não, hành tuỷ), phá hủy phần này cá sẽ chết.
Tuỷ sống (Medula spinalis):
Là phần nối liền với não bộ chạy dọc theo thân, nằm trong mấu thần kinh
của đốt sống cho đến đốt xương sống cuối cùng thường có màu trắng hoặc trắng
xám. Có dạng hình bầu dục, mặt lưng có rãnh lưng, mặt bụng có rãnh bụng. Bên
trong các tế bào thần kinh tập trung thành chất xám, bên ngoài sợi trục tế bào
bao thành chất trắng. Chất xám có sừng lưng tiếp xúc với rễ lưng, sừng bụng
tiếp xúc với rễ bụng của dây thần kinh. Chính giữa chất xám là ống trung tâm
chứa đầy dịch não tuỷ.
2.Thần kinh ngoại biên (Peripheral nervous system):
- Gồm các dây thần kinh tuỷ sống và thần kinh não bộ.
- Thần kinh tuỷ sống: gồm nhiều đôi dây thần kinh, số lượng đôi dây thần
kinh tuỷ tương ứng với số tiết cơ của cá. Dây thần kinh vận động ly tâm đi qua
rễ bụng, dây thần kinh cảm giác hướng tâm đi qua rễ lưng. Tóm lại nhiệm vụ
chủ yếu của tuỷ sống là dẫn truyền kích thích.
- Thần kinh não bộ:
22



Gồm 10 đôi dây thần kinh. Các dây thần kinh cảm giác đơn thuần gồm dây
số I, II, VIII) điều khiển hoạt động khứu giác, thị giác và thính giác. Các dây
thần kinh vận động đơn thuần gồm các dây thần kinh số III, IV, VI điều khiển
hoạt động của mắt. Một số dây thần kinh khác là dây thần kinh pha.
Dây thần kinh khứu giác I (n. Olractorius) là đôi dây thần kinh não thứ nhất,
xuất phát từ não trước. Ở cá sụn và một số loài cá dây thần kinh này rất ngắn và
thô. Gần cuối dây thần kinh phình to ra thành cầu khứu giác và được nối với
màng nhầy của mũi.
Dây thần kinh số II (n. Opticus) xuất phát từ đáy não trung gian đến hốc mắt
thì bắt chéo, do đó dây bên trái thì phân đến mắt phải còn dây bên phải phân đến
mắt trái.
Dây thần kinh vận nhỡn III (n. Ocalomotorius) xuất phát từ mặt bụng của
não, chạy tới cơ thẳng trên, cơ thẳng trong và cơ xiên dưới làm nhiệm vụ điều
khiển vận động mắt.
Dây thần kinh ròng rọc IV (n. Trochlearis) xuất phát từ trung gian não giữa
và hành não đi đến cơ xiên trên của mắt. Riêng cá Myxin do đời sống ký sinh
nên mắt khơng hoạt động, do đó các đôi dây thân kinh mắt không phát triển.
Dây thần kinh V (n.Trigemineus) xuất phát từ mặt bên hành tuỷ. Đôi dây
thần kinh này quá to khi đi qua phía trước của não thì phồng to lên gọi là hạch
thần kinh bán nguyệt. Sau khi qua hạch bán nguyệt, dây này phân ra làm 4
nhánh đến mắt sâu, mắt nông, hàm trên và hàm dưới. Đôi dây thần kinh này làm
nhiệm vụ hỗn hợp vừa vận động vừa cảm giác.
Dây thần kinh VI (n. Abduceus) xuất phát từ mặt bụng của hành não tới cơ
thẳng ngoài làm nhiệm vụ vận động.
Dây thần kinh mặt VII (n. Facialis) xuất phát từ mặt bên ở phía trước hành
não tới cơ đầu và đường bên. Là dây thần kinh pha.
Dây thần kinh thính giác VIII (n. Auditorius) xuất phát từ mặt bên của não
sau nằm sát ngay gốc các dây thần kinh thứ IV, VII và chạy thẳng vào các bộ
phận của tai: túi trịn, túi bầu dục, có hạch tiền đình làm nhiệm vụ cảm giác.

Dây thần kinh lưỡi hầu IX (n. Glossopharyngeus) xuất phát từ rìa và ở phía
sau hành não, phân bố đến khe mang thứ nhất, đến xương khẩu cái và hầu làm
nhiệm vụ hỗn hợp.
Dây thần kinh mê tẩu X (n. Vagus) xuất phát từ mặt bên của hành tuỷ là dây
to nhất trong các dây thần kinh não, có rất nhiều nhánh, mỗi nhánh có một hạch
thần kinh. Có ba nhánh lớn: nhánh đường bên, nhánh nội tạng chạy tới tim, thực
quản, ruột, gan, bóng hơi, nhánh này có quan hệ mật thiết với hệ thần kinh thực
vật, nhánh thứ ba là nhánh mang tới khe mang thứ 2,3,4 làm nhiệm vụ hỗn hợp.
3. Hệ thần kinh thực vật
- Thần kinh thực vật chuyên chi phối hoạt động của cơ trơn, nội tạng, tim,
tuyến nội tiết, sự co rút, giãn nở của hệ mạch máu, có quan hệ mật thiết với trao
đổi chất, hoạt động sinh lý của nội tạng.

23


- Hệ thần kinh thực vật gồm hai nhóm: thần kinh giao cảm và thần kinh phó
giao cảm.
- Thần kinh giao cảm chủ yếu là dây thần kinh ly tâm, đi từ tuỷ sống làm
nhiệm vụ vận động, thần kinh giao cảm làm nhiệm vụ hưng phấn.
- Dây thần kinh phó giao cảm xuất phát từ não bộ là dây hướng tâm, thần
kinh phó giao cảm làm nhiệm vụ ức chế.
- Thực tế thì thần kinh thực vật mới chỉ nghiên cứu kỹ ở động vật bậc cao,
còn ở cá thì chưa được nghiên cứu nhiều lắm.
V. CƠ QUAN CẢM GIÁC

1. Cơ quan xúc giác
Trên da cá có nhiều cơ quan cảm giác về xúc giác, dòng nước, nhiệt độ, vị
trí...cơ quan cảm giác đơn giản nhất là mầm cảm giác (Sensory bud), cơ quan
hình hố (pit organ) và đường bên (Linea lateralis)

- Các tế bào cảm giác đơn giản (chồi cảm giác, hố cảm giác) tập trung thành
từng đám hoặc rải rác trên bề mặt da, râu, môi, xoang miệng, trong các niêm
mạc giúp cá cảm nhận được các vật thể xung quanh nhờ áp lực của nước. Các tế
bào cảm giác có sự liên hệ với các dây thần kinh VII, IX, X. Hố cảm giác giống
như mầm cảm giác nhưng ở đáy có dạng hố.
- Đường bên (Line lateralis) là cơ quan xúc giác chun hố có ở cá và
lưỡng cư. Đường bên phân bố ở hai bên thân và ở đầu. Đa số đường bên vùi
dưới da và có nhánh thơng ra ngồi. Cá Miệng trịn là những hố riêng biệt,
không nối thành hệ thống như cá Sụn, cá Xương.
- Cấu tạo: phần chính của đường bên gồm hai ống dài chạy dọc theo thân
nằm sâu dưới da chừng 2-3 mm bắt đầu từ cạnh lỗ tai đến tận cùng là vây đuôi
chứa đầy dịch nhờn. Từ hai ống lớn ở hai bên thân lại phân thành nhiều ống
nhánh thơng ra ngồi, ở lồi cá có vảy lỗ này xuyên qua một hoặc hai hàng vảy
gọi là vảy đường bên. Vảy đường bên là chỉ tiêu định loại đối với cá. Đáy ống ở
phần nhánh thông ra ngồi có các lơng cảm giác mảnh liên hệ với dây X (dây
thần kinh mê tẩu). Khi dao động của môi trường nước truyền vào thân cá, vào
trong dịch nhờn, làm dịch nhờn trong ống đường bên dao động, kích thích lên
lơng cảm giác, kích thích này truyền đến não bộ và sinh ra cảm giác.
- Đường bên đặc biệt nhạy cảm với các kích thích của chướng ngại vật trong
nước, với áp lực, chấn động, lưu tốc, nồng độ muối, nhiệt độ của dòng nước mà
những chấn động này thính giác khơng tiếp nhận được. Cá bơi nhanh thường có
đường bên phát triển.
2. Cơ quan vị giác (Gustatory organ)
Là các tế bào vị giác tập hợp thành các nụ nếm (dạng hình bầu dục, tầng
ngồi có tế bào nâng đỡ, bên trong có nhiều tế bào cảm giác dài, đầu trên có
nhiều lơng cảm giác, phần gốc có nhiều dây thần kinh nhỏ bao bọc) ở nhiều nơi
như xoang miệng, hầu, thực quản, lưỡi giúp cá có thể nhận biết được mùi vị của
thức ăn, độ mặn của muối. Nụ nếm chịu sự chi phối của thần kinh thứ 5, 7,9,10.
Trung khu chỉ huy vị giác là hành tuỷ.
24



3. Cơ quan khứu giác (Olfactory organ)
- Cơ quan khứu giác của cá là túi mũi, mũi cá được hình thành từ lớp phơi
ngồi.
- Về cấu tạo tế bào thượng bì của khứu giác phân hố thành hai loại: tế bào
nâng đỡ và tế bào cảm giác.
- Tế bào nâng đỡ thơ và mập, tế bào cảm giác mảnh có dạng hình que, có
nhân lớn, một đầu có tiêm mao, gốc nối với mút của dây thần kinh, nhiều dây
thần kinh hợp lại thành thần kinh khứu giác.
- Ở cá xương có 2 xoang mũi nằm trên đầu phía trước hai mắt. Mỗi xoang
mũi có 2 lỗ: lỗ trước gọi là lỗ hút nước, lỗ sau là lỗ thoát nước thông nhau bằng
một riềm da ngăn cách. Cá phổi lỗ mũi thơng với xoang miệng. Cá sụn có lỗ mũi
sau có xoang rãnh thơng với xoang miệng gọi là rãnh mũi miệng. Khứu giác
giúp cá kiếm mồi, tránh kẻ thù, phân biệt chất nước và trong mùa sinh dục giúp
cá đực cá cái tìm nhau. Hoạt động này nhờ sự hỗ trợ của mắt, xúc giác và vị
giác.
4. Cơ quan thính giác (Auditory organ)
- Cá mới chỉ có tai trong, chưa có tai ngồi, tai chưa có lỗ thủng nên âm
thanh truyền qua mô, qua thành hộp sọ.
- Tai trong đó là mê lộ chủ yếu làm cơ quan thăng bằng, còn tác dụng nghe
rất kém. Tai trong do dây thần kinh số VIII phân bố đến. Tai trong của cá có liên
quan mật thiết với cơ quan đường bên.
- Khi phơi thai phát triển, tầng phơi ngồi ở bên rìa đầu của phơi thai dày lên
và thành mấu lồi, trong mấu lồi lõm thành hình cái cốc, miệng cốc dần khép kín
hình thành bao thính giác. Bao thính giác phân hoá thành hai phần: Ngăn trên là
túi bầu dục (Utriculus), ngăn dưới là túi tròn (Sacculus). Từ túi bầu dục sinh ra
ba ống bán khuyên thẳng góc với nhau, từ túi tròn sinh ra cơ quan lagena (ốc
sên). Mỗi đầu ống bán khuyên do đầu ống phình ra thành am – pu – la hình cầu,
trong có tế bào thượng bì cảm giác hình thành ống nghe (Crit acustica) và chấm

nghe (Maculas acustica), trên đó có các lơng cảm giác. Trong màng mê lộ chứa
đầy dịch nhờn, nhiều cá có nhĩ thạch lớn như cá Đù Sciaenidae.
- Cá có thể nhận được âm thanh có tần số 2000 – 3000 lần/giây. Riêng bộ cá
Chép có thể nhận biết âm thanh có tần số cao, do cá Chép có cơ quan Weber.
5. Cơ quan thị giác
- Mắt cá về cấu tạo nói chung giống các động vật có xương sống khác,
nhưng thích nghi với lối nhìn trong nước.
- Cấu tạo có thuỷ tinh thể hình trịn trong suốt, khơng có mí mắt và tuyến lệ
do đó mắt cá lúc nào cũng ở vị trí mở ra, khơng có khả năng nhìn xa, cá nhìn rõ
hình dạng và kích thước ở 2-3 m, khơng nhìn được q 11,5 m kể cả khi nước
trong. Bọn cá Nhám có màng mắt, bọn cá Đối có mí mắt mỡ che gần kín đồng
tử. Cấu tạo mắt gồm các phần sau:
- Củng mạc là lớp ngoài cùng, cá Sụn và cá Tầm, lớp này là lớp sụn. Cá
xương lớp này là chất sợi. Lớp củng mác có nhiệm vụ bảo vệ mắt. Phía trước
25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×