Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ quan điểm dân sinh hồ chí minh với sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (421.01 KB, 98 trang )

3
MỤC LỤC

Nội dung
MỞ ĐẦU

Trang
4

Chương 1.

BẢN CHẤT QUAN ĐIỂM DÂN SINH HỒ CHÍ

10

1.1.

MINH
Cơ sở và q trình hình thành, phát triển quan điểm dân

10

1.2.

sinh Hồ Chí Minh
Quan điểm Hồ Chí Minh về thực chất và điều kiện, giải

24

Chương 2.


pháp để giải quyết vấn đề dân sinh
TÌNH HÌNH VÀ GIẢI PHÁP VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM

47

DÂN SINH HỒ CHÍ MINH TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI
2.1.

MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Tình hình vận dụng quan điểm dân sinh Hồ Chí Minh

47

2.2.

trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay
Giải pháp vận dụng quan điểm dân sinh Hồ Chí Minh

61

trong điều kiện hiện nay
KẾT LUẬN

81

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

83

PHỤ LỤC


90


4

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghiên cứu di sản tư tưởng và sự nghiệp hoạt động cách mạng của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, chúng ta hồn tồn có cơ sở để khẳng định, quan điểm dân
sinh Hồ Chí Minh là kết quả của sự kế thừa tư tưởng, quan điểm dân sinh của
nhân loại, dân tộc mà trực tiếp và chủ yếu là quan điểm dân sinh của chủ nghĩa
Mác-Lênin, trên cơ sở thực tiễn xã hội Việt Nam, bằng trí tuệ anh minh, bằng
tình thương u bao la đối với con người và thông qua thực tiễn hoạt động cách
mạng đã sớm hình thành nên quan điểm dân sinh Hồ Chí Minh. Trong đó, Người
khẳng định vai trò to lớn của nhân dân, xác định mục tiêu phấn đấu suốt đời là:
Độc lập-Tự do-Hạnh phúc cho nhân dân, ba nội dung này có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau, nó liên quan trực tiếp đến đời sống của nhân dân. Bởi, nếu nước có
độc lập, tự do mà nhân dân vẫn chết đói, khơng được ăn no, mặc đủ thì thứ độc
lập, tự do đó cũng trở nên vô nghĩa, mà người dân chỉ biết rõ giá trị của độc lập,
tự do khi họ được ăn no, mặc đủ. Chính vì thế, trong q trình lãnh đạo mách
mạng, Hồ Chí Minh ln ln quan tâm, chăm lo đến đời sống của nhân dân,
đồng thời coi việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân là trách
nhiệm cao nhất của Đảng và Nhà nước ta, là tiêu chí đánh giá tính ưu việt của
chế độ xã hội mới. Quan điểm và thực tiễn chỉ đạo việc giải quyết vấn đề dân
sinh ở Người đến nay vẫn cịn ngun giá trị, nó là cơ sở, nền tảng, là kim chỉ
nam định hướng cho Đảng và Nhà nước ta giải quyết vấn đề dân sinh trong
những năm đổi mới vừa qua cũng như những năm tiếp theo.
Kế thừa, vận dụng sáng tạo quan điểm dân sinh Hồ Chí Minh trong những
năm đổi mới vừa qua, Đảng ta luôn đứng trên quan điểm “lấy dân làm gốc”, mọi

quyết sách đều xuất phát từ nhu cầu, lợi ích chính đáng của nhân dân, dựa vào
nhân dân để mang lại sự phồn vinh, ấm no cho người dân. Đảng và Nhà nước ta
đã đề ra nhiều chương trình, chính sách để không ngừng chăm lo đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân, và coi đó là nhiệm vụ trung tâm qua các thời kỳ.
Chính vì thế, cơng cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý
nghĩa lịch sử, đưa đất nước ta vượt qua khủng hoảng kinh tế - xã hội, không
ngừng cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân. Cơng tác xóa đói giảm
nghèo được đẩy mạnh, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm xuống. Nhiều cơng trình kết cấu
hạ tầng kinh tế, văn hóa, xã hội cho các vùng nông thôn, miền núi và vùng dân


5

tộc được xây dựng... Công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân đạt nhiều
kết quả, mở rộng mạng lưới y tế, đặc biệt là y tế ở cơ sở, khống chế và đẩy lùi
một số dịch bệnh nguy hiểm; tuổi thọ trung bình của dân số nước ta tăng. Sự
nghiệp giáo dục có bước phát triển về quy mơ, cơng tác xóa mù chữ và phổ cập
giáo dục đạt được kết quả to lớn. Dân chủ xã hội được hình thành và phát huy.
Văn hóa dân tộc được khơi dựng, bảo tồn, phát triển.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, thì trên thực tế, đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân ta nói chung vẫn tồn tại nhiều hạn chế: Chất
lượng nhiều cơng trình xây dựng cơ bản cịn thấp. Quản lý, khai thác, sử dụng tài
nguyên thiên nhiên hiệu quả chưa cao, cịn lãng phí. Đời sống của một bộ phận
dân cư, nhất là ở miền núi, vùng sâu, vùng xa cịn nhiều khó khăn. Xố đói, giảm
nghèo chưa bền vững, tình trạng tái nghèo cao. Khoảng cách chênh lệch giàu
nghèo cịn khá lớn và ngày càng dỗng ra. Chất lượng cơng tác bảo vệ, chăm sóc
sức khoẻ cịn thấp, văn hoá phát triển chưa tương xứng với tăng trưởng kinh tế.
Quyền làm chủ của nhân dân ở một số nơi, trên một vài lĩnh vực còn bị vi phạm.
Việc thực hành dân chủ cịn mang tính hình thức... những hạn chế này tồn tại kéo
dài sẽ trở thành những thách thức khơng nhỏ đối với mục tiêu mà tồn Đảng, toàn

dân và toàn quân ta đang phấn đấu là xây dựng một xã hội “Dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao
dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền
văn hố tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt
Nam bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng
Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới” [14,
tr.70], trong đó mục tiêu trước mắt là “đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới, tạo
nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại; đến giữa thế kỷ XXI nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại,
theo định hướng xã hội chủ nghĩa” [14, tr.149].
Để góp phần khắc phục hạn chế, thực hiện thắng lợi những mục tiêu đặt
ra, đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải thực hiện đồng bộ, có hệ thống các giải
pháp khác nhau, trong đó việc quay trở lại nghiên cứu và vận dụng một cách


6

sáng tạo quan điểm dân sinh Hồ Chí Minh có ý nghĩa vơ cùng quan trọng, là
vấn đề có tính cấp thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn trong điều kiện hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Nghiên cứu về vấn đề dân sinh nói chung và quan điểm dân sinh Hồ Chí
Minh nói riêng, đến nay đã có nhiều cơng trình nghiên cứu, nhiều bài viết khoa
học đề cập dưới nhiều góc độ, phạm vi khác nhau, khá toàn diện và sâu sắc, tập
trung chủ yếu trên các vấn đề:
Nhóm vấn đề về cơ sở và quá trình hình thành, phát triển quan điểm
dân sinh Hồ Chí Minh. Trong các tác phẩm, bài viết như: Võ Nguyên Giáp,
Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam [18]; Chu Đức
Tính (chủ biên), Hồ Chí Minh - tiểu sử [91]; Đỗ Huy, Cách thức tiếp thu di

sản tư tưởng nhân loại ở Hồ Chí Minh [24]; Học viện Chính trị, Bảo vệ và
phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới
[94]; Nguyễn Bá Dương, Học thuyết Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và sự
vận dụng của Đảng ta trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc [7]; Đặng
Hữu Toàn, Sự kế thừa và phát triển học thuyết Mác-Lênin về chủ nghĩa xã
hội, về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh
[92]... Dưới các góc độ tiếp cận khác nhau, song các tác giả đều thừa nhận
và khẳng định, quan điểm dân sinh Hồ Chí Minh khơng phải ra đời trên
mảnh đất trống cũng như không phải ngay một lúc đã đầy đủ, hoàn thiện,
mà quan điểm ấy ra đời trên nền tảng kế thừa và vận dụng sáng tạo những
tư tưởng, quan điểm dân sinh của nhân loại và dân tộc như: quan điểm của
Nho giáo, Phật giáo, Thiên Chúa giáo, chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung
Sơn, chủ nghĩa nhân văn của phương Tây, truyền thống của dân tộc, đặc
biệt là lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề con người, giải phóng
con người, giai cấp, nhân loại trên lập trường của giai cấp công nhân.
Không chỉ kế thừa hệ thống quan điểm, tư tưởng của nhân loại, dân tộc mà
Hồ Chí Minh cịn xuất phát từ thực tiễn đất nước ta, từ tình hình đời sống
của nhân dân trước, trong và sau khi cách mạng thành công cũng như khi
bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong mỗi thời kỳ, giai đoạn cụ thể,
quan điểm dân sinh Hồ Chí Minh có những bổ sung, phát triển thêm trên
cơ sở hướng đến thực hiện mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.


7

Nhóm vấn đề thực chất, điều kiện và giải pháp thực hiện dân sinh ở Hồ
Chí Minh. Luận giải về vấn đề này có rất nhiều cơng trình, bài viết như: Hoàng
Trang, Phạm Ngọc Anh (chủ biên), Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
gắn liền với CNXH ở Việt Nam [83]; Phạm Văn Đức, Đặng Hữu Toàn, Nguyễn
Đình Hịa (đồng chủ biên), Vấn đề dân sinh và xã hội hài hoà [17]; Nguyễn

Trọng Chuẩn, Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh [6]...
Theo các tác giả, dân sinh chính là những vấn đề thiết yếu và trực tiếp nhất của
cuộc sống con người, gắn liền với lịch sử phát triển xã hội. Dân sinh không chỉ là
các vấn đề về ăn, mặc, ở, đi lại của con người, mà còn liên quan đến nhiều
phương diện khác nữa, như giáo dục, việc làm, phân phối thu nhập, vệ sinh y tế,
an toàn thực phẩm, trị an xã hội, đoàn kết và ổn định xã hội, đất đai, môi trường,
xây dựng và phát triển đất nước,... Nói cách khác, dân sinh đề cập đến mọi mặt
của cuộc sống con người, từ nhu cầu vật chất tối thiểu đến nhu cầu tinh thần, văn
hóa. Các tác giả cũng cho rằng, Hồ Chí Minh cũng đã đề cập trực tiếp đến dân
sinh, đó là những nhu cầu sống cơ bản của con người trong xã hội, như ăn, mặc,
ở, đi lại, học hành... điều này cho thấy nó gắn liền với mục tiêu của chủ nghĩa xã
hội mà chúng ta hướng đến xây dựng, đó là một xã hội “dân giàu, nước mạnh”,
là thay đổi cả xã hội, cả thiên nhiên, làm cho xã hội không cịn người bóc lột
người, mọi người đều được ấm no và hạnh phúc, đều có quyền được học hành,
có quyền hưởng tự do, dân chủ, cơng bằng và bình đẳng. Như vậy, mục tiêu của
chủ nghĩa xã hội là giải quyết vấn đề dân sinh.
Ngồi ra cịn có các cơng trình, bài viết của các tác giả luận giải về vấn đề
này như: Bùi Đình Phong, Hồ Chí Minh học và minh triết Hồ Chí Minh [45];
Song Thành, Hồ Chí Minh - Nhà tư tưởng lỗi lạc [50]; Ngô Văn Lương, Tư
tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế” [28]; Đặng Xuân Kỳ, Tư tưởng Hồ Chí Minh
về phát triển văn hố và con người [26]; Nguyễn Minh Hồn”Cơng bằng xã
hội trong tiến bộ xã hội [22]; Nguyễn Thế Thắng, Tư tưởng Hồ Chí Minh về
chính sách xã hội từ góc nhìn xã hội học [85]; Lê Sỹ Thắng, Tư tưởng Hồ Chí
Minh về con người và chính sách xã hội [86]. Các cơng trình, bài viết trên, dù
dưới nhiều cách tiếp cận khác nhau nhưng đều đi đến khẳng định, để thực hiện
vấn đề dân sinh cần phải giành và giữ vững độc lập dân tộc, đây là tiền đề, điều
kiện đi tới hạnh phúc, tự do và chỉ có chủ nghĩa xã hội mới là sự bảo đảm vững
chắc độc lập dân tộc, tạo bước phát triển mới về chất trong tiến trình cách mạng



8

Việt Nam; chăm lo phát triển sản xuất để làm sao cho nhân dân ta có đủ cái ăn,
mặc, ở, học hành, đi lại, chữa bệnh, giải trí,... tức là lo sao cho mỗi người dân
lao động đều được ấm no, hạnh phúc. Vì vậy, phát triển sản xuất, cải thiện đời
sống của nhân dân là mục tiêu, đồng thời cũng là thước đo tính đúng đắn, ý
nghĩa, giá trị của mỗi chính sách, biện pháp kinh tế của chúng ta; quan tâm,
chăm lo đến phát triển văn hóa, giáo dục nhằm xây dựng những tình cảm lớn
như lịng u nước, tình yêu thương con người; yêu cái chân, cái thiện, cái mỹ,
nhằm đào tạo ra những con người toàn diện, vừa “hồng” vừa “chuyên”, có tri
thức, lý tưởng, đạo đức sức khoẻ, thẩm mỹ... Không những thế, giáo dục cịn
góp phần đắc lực vào cơng cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước; thực hiện cơng
bằng và bình đẳng xã hội đây là một trong những mục tiêu căn bản nhất của sự
nghiệp đấu tranh và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, là động lực thúc
đẩy sự phát triển của đất nước; thực hiện chính sách xã hội, lấy con người làm
gốc, làm xuất phát điểm và đích hướng tới trong việc hoạch định và thực hiện.
Nhóm vấn đề về thực trạng và giải pháp giải quyết vấn đề dân sinh trong
sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay. Được phân tích, luận giải trong các cuốn
sách, bài viết như: Phạm Văn Đức, Đặng Hữu Tồn, TS. Nguyễn Đình Hịa
(đồng chủ biên), Vấn đề dân sinh và xã hội hài hoà [17]; Vũ Văn Viên, Tư tưởng
chỉ đạo, phương châm và nội dung cơ bản về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam [95]; Phạm Thị Ngọc Trầm, Xây dựng và
hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội-một công cụ quan trọng nhằm thực hiện công
bằng xã hội ở nước ta [93]; Nguyễn Tài Đông, Một số vấn đề xã hội và dân sinh
ở Việt Nam từ đổi mới đến nay” [16]... Dưới các cách tiếp cận và luận giải khác
nhau song các tác giả đều đi đến thống nhất, đối với Việt Nam, việc chăm lo và
giải quyết các vấn đề dân sinh luôn gắn liền với việc thực hiện mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Để đạt được mục tiêu này, theo
các tác giả, Việt Nam cần phải có các giải pháp hữu hiệu, như phát triển kinh tế
thị trường kết hợp với thực hiện công bằng xã hội và bảo vệ mơi trường, thúc đẩy

q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước, phát triển kinh tế
tri thức, kết hợp chặt chẽ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới về chính trị và các mặt
khác của đời sống xã hội.
Các cơng trình nghiên cứu nêu trên, dưới nhiều góc độ, khía cạnh đã tập
trung luận giải những vấn đề dân sinh. Tuy nhiên, đến nay chưa có cơng trình nào


9

nghiên cứu một cách cơ bản, hệ thống dưới góc độ triết học về quan điểm dân sinh
Hồ Chí Minh. Vì thế, tác giả lựa chọn vấn đề Quan điểm dân sinh Hồ Chí Minh
với sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay làm đề tài nghiên cứu.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi của luận văn
Mục đích: Nghiên cứu một cách cơ bản, hệ thống quan điểm dân sinh
Hồ Chí Minh và sự vận dụng của Đảng trong công cuộc đổi mới ở nước ta,
trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao đời sống của nhân dân.
Nhiệm vụ của luận văn:
- Phân tích cơ sở, q trình hình thành và phát triển quan điểm dân
sinh Hồ Chí Minh.
- Phân tích thực chất và các nội dung cơ bản để giải quyết vấn đề dân
sinh ở Hồ Chí Minh.
- Đánh giá thực trạng giải quyết vấn đề dân sinh trong những năm đổi
mới, trên cơ sở đó kiến nghị một số giải pháp để hiện thực hóa quan điểm này
ở nước ta trong thời gian tới.
Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề triết học về đời sống trong quan
điểm dân sinh Hồ Chí Minh.
Phạm vi nghiên cứu: Những vấn đề có liên quan đến quan điểm dân
sinh Hồ Chí Minh. Khảo sát sự nhận thức, vận dụng quan điểm dân sinh Hồ
Chí Minh của Đảng ta từ đổi mới đến nay.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu

Cơ sở lý luận: Hệ thống quan điểm, tư tưởng về vấn đề dân sinh ở Việt
Nam và thế giới, trong đó, trực tiếp và chủ yếu nhất là lý luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta về vấn đề con
người, giải phóng con người, giai cấp và nhân loại.
Cơ sở thực tiễn: Thực tiễn đời sống của nhân dân trước, trong và sau khi
cách mạng thành công cũng như trong những năm đổi mới vừa qua.
Phương pháp nghiên cứu: Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với phương
pháp nghiên cứu như: phân tích, tổng hợp, lơgíc và lịch sử, điều tra xã hội học.
5. Ý nghĩa của luận văn


10

Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần khẳng định tính đúng đắn
quan điểm dân sinh Hồ Chí Minh và sự vận dụng sáng tạo của Đảng ta trong
quá trình lãnh đạo cách mạng, đặc biệt là trong cơng cuộc đổi mới.
Làm rõ một số giải pháp để góp phần nâng cao chất lượng dân sinh
trong điều kiện hiện nay ở nước ta.
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm có: Mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo, phụ lục và các công trình nghiên cứu của tác giả đã được cơng bố.


11

Chương 1
BẢN CHẤT QUAN ĐIỂM DÂN SINH HỒ CHÍ MINH
1.1. Cơ sở và quá trình hình thành, phát triển quan điểm dân sinh Hồ Chí Minh
1.1.1. Cơ sở tư tưởng, lý luận và thực tiễn của quan điểm dân sinh Hồ Chí Minh

* Cơ sở tư tưởng, lý luận của quan điểm dân sinh Hồ Chí Minh
Quan điểm dân sinh trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Một trong những
quy luật cơ bản của dựng nước và giữ nước là phải dựa vào nhân dân, phải xây
dựng được khối đại đoàn kết toàn dân, tổ chức nhân dân thành một lực lượng
vật chất để dựng nước và giữ nước. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn
đề “trở thuyền, lật thuyền cũng là dân”, cho nên trong các triều đại phong kiến
ở Việt Nam thì việc quan tâm đến đời sống của nhân dân là một lĩnh vực luôn
được chú trọng, với chủ trương “Khoan thư sức dân, làm kế sâu rễ bền gốc là
thượng sách giữ nước” [96, tr.89]. Họ tập trung vào việc ổn định tình hình
ruộng đất, sản xuất nông nghiệp và đời sống của nhân dân, tạo nên một nguồn
thu nhập vững chắc và ổn định cho triều đình. Quan tâm đến việc cải cách,
nâng cao tính hiệu quả và thực tiễn của giáo dục, thi cử. Mở rộng hệ thống giáo
dục ở địa phương, đặt các học quan, cấp học điền. Cùng với đó là việc đấu tranh
chống lại giặc ngoại xâm, giành độc lập dân tộc, bảo vệ chủ quyền quốc gia.
Chú trọng phát triển cả thiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp, mở mang
buôn bán trong nước và giao thương với nước ngoài, đề xuất cải cách phong
tục, chủ trương coi trọng dân, sửa đổi chế độ thi cử mở mang việc học hành,
thay đổi nội dung giáo dục, lấy quốc âm thay thế chữ Hán, lập trại tế bần...
chẳng hạn, bước sang cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Phan Chu Trinh đã xác
định vụ cấp bách là phải: Thứ nhất, khai dân trí: bỏ lối học tầm chương trích
cú, mở trường dạy chữ Quốc ngữ, kiến thức khoa học thực dụng, bài trừ hủ tục
xa hoa. Thứ hai, chấn dân khí: thức tỉnh tinh thần tự lực tự cường, mọi người
giác ngộ được quyền lợi của mình, giải thốt được nọc độc chuyên chế. Thứ
ba, hậu dân sinh: phát triển kinh tế, cho dân khai hoang làm vườn, lập hội
buôn, sản xuất hàng nội hóa...
Trong quan niệm truyền thống, mặc dù vai trò của nhân dân đã được đề
cao, vấn đề quan tâm đến đời sống nhân dân đã được các vương triều, cá nhân


12


nhận thức và phát huy có hiệu quả trong quá trình dựng nước và giữ nước, xây
dựng được mối quan hệ giữa triều đình với nhân dân (tức là, nó đã điều hoà
được những mâu thuẫn giai cấp vốn tồn tại găy gắt ngay trong lòng xã hội
phong kiến), xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc và huy động được sức
mạnh của toàn dân, nhưng những quan niệm này về cơ bản vẫn chưa vượt ra
khỏi ý thức hệ phong kiến trong việc bảo vệ quyền lợi, địa vị thống trị của
mình. Suy cho cùng, vua vẫn là người chủ. Vua không chỉ sở hữu giang sơn, xã
tắc, mà còn là chủ sở hữu dân, đứng trên nhân dân. Vì vậy, dân chỉ là “thần
dân”, “thảo dân” và mục đích cuối cùng là để “an dân”, để xã hội mà vua là chủ
duy nhất thái bình thịnh trị, để nghiệp đế “ngàn năm bền vững” mà thôi.
Quan điểm dân sinh trong lịch sử tư tưởng phương Đông
Quan điểm dân sinh của Nho giáo. Sinh ra và lớn lên trong gia đình nhà
Nho yêu nước, sớm được tiếp cận những giá trị của Nho giáo, Hồ Chí Minh đã
tiếp thu tất cả những cái hay cái đẹp ấy, phát triển cho thích hợp với yêu cầu
mới của cách mạng, đó là triết lý hành động, tư tưởng nhập thế, hành đạo, giúp
đời; lý tưởng về một xã hội bình trị; triết lý nhân sinh: tu thân dưỡng tính góp
phần đề cao văn hóa, lễ giáo, đề cao tinh thần hiếu học, lấy dân làm gốc...
Người khẳng định: “Khổng Tử vĩ đại (551 trước C.N) khởi xướng thuyết đại
đồng và truyền bá sự bình đẳng về tài sản. Ơng từng nói: thiên hạ sẽ thái bình
khi thế giới đại đồng. Người ta khơng sợ thiếu, chỉ sợ có khơng đều. Bình đẳng
sẽ xố bỏ nghèo nàn, v.v.. Học trị của Khổng Tử là Mạnh Tử, tiếp tục tư tưởng
của thầy và vạch ra một kế hoạch chi tiết để tổ chức sự sản xuất và tiêu thụ. Sự
bảo vệ và phát triển lành mạnh của trẻ em, sự giáo dục và lao động cưỡng bức
đối với người lớn, sự lên án nghiêm khắc thói ăn bám, sự nghỉ ngơi của người
già, khơng có điều gì đề án của ơng khơng đề cập đến. Việc thủ tiêu bất bình
đẳng về hưởng thụ, hạnh phúc không phải cho một số đông mà cho tất cả mọi
người, đấy là đường lối kinh tế của vị hiền triết. Trả lời một câu hỏi của vua,
ơng đã nói thẳng thắn: dân vi q, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” [32, tr.35]. Bản
chất học thuyết của Khổng Tử là nặng về Đẳng cấp, đề cao tầng lớp thống trị. Ở

đây nêu lại thuyết đại đồng của Khổng Tử là Nguyễn Ái Quốc muốn gắn với
cuộc đấu tranh vì sự cơng bằng và bình đẳng trong xã hội thuộc địa. Trong khi


13

khai thác những nhân tố hợp lý, Hồ Chí Minh đã phê phán, loại bỏ những yếu tố
thủ cựu của học thuyết này như: tư tưởng đẳng cấp, coi khinh phụ nữ, khinh lao
động chân tay, nói chung là khinh thực nghiệp, danh lợi, khoa-kỹ... Những luận
điểm này “hoàn toàn xa lạ với tư tưởng Hồ Chí Minh: đấu tranh cho một xã hội
bình đẳng, dân chủ; tơn trọng lao động-cả lao động trí óc và lao động chân tay;
tơn trọng phụ nữ, chủ trương nam nữ bình quyền...” [19, tr.677].
Quan điểm dân sinh của Phật giáo. Phật giáo là một trong những tôn
giáo du nhập vào Việt Nam khá sớm. Những mặt tích cực của Phật giáo đã để
lại những dấu ấn sâu sắc trong tư duy, hành động, cách ứng xử của con người
Việt Nam. Phật giáo có tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ, cứu nạn, thương
người như thể thương thân; xây dựng nếp sống có đạo đức, trong sạch, giản dị,
chăm lo làm điều thiện; đề cao tinh thần bình đẳng, tinh thần dân chủ chất
phác chống lại mọi phân biệt đẳng cấp. Phật giáo Thiền tông coi trọng lao
động, chống lười biếng. Phật giáo vào Việt Nam, gặp chủ nghĩa yêu nước, ý
chí độc lập, tự chủ đã hình thành nên Thiền phái trúc lâm Việt Nam, chủ
trương không xa đời mà sống gắn bó với nhân dân, với đất nước, tham gia
vào cộng đồng, vào cuộc đấu tranh của nhân dân chống kẻ thù dân tộc. Phật
giáo Việt Nam đã đi vào đời sống tinh thần dân tộc và nhân dân lao động, để
lại dấu ấn sâu sắc trong quan điểm dân sinh Hồ Chí Minh. Bởi theo Người,
Mục đích cao cả của Phật Thích Ca là muốn mọi người có cơm ăn, áo mặc,
bình đẳng, tự do và thế giới đại đồng. Giáo sư Trần Văn Giàu, khi nghiên cứu
tình thương yêu bao la của Hồ Chí Minh, đã viết rằng: “Chủ nghĩa nhân văn
Hồ Chí Minh là chủ nghĩa nhân văn giải thoát của những lớp người hèn yếu,
lao khổ, của các dân tộc bị chà đạp, giải thoát chính bằng ý thức, lực lượng

của mình” [20, tr.92].
Quan điểm dân sinh của Tôn Trung Sơn. Chủ nghĩa Dân sinh một bộ
phận quan trọng cấu thành Chủ nghĩa Tam dân (Chủ nghĩa dân tộc, Chủ nghĩa
dân quyền, Chủ nghĩa dân sinh), nó góp phần giải quyết những vấn đề về “đời
sống của nhân dân, sinh tồn của xã hội, sinh kế của quốc dân, sinh mệnh của
quần chúng” [82, tr.313], có giải quyết được vấn đề dân sinh thì mới có điều
kiện thuận lợi để giải quyết các vấn đề dân tộc, dân quyền. Ông hy vọng rằng,


14

bằng những lý luận đề ra trong Chủ nghĩa Dân sinh có thể kêu gọi quần chúng
nhân dân đấu tranh xố bỏ sự bất bình đẳng về kinh tế, đem lại sự ấm no cho
tất cả mọi người, làm cho đất nước trở nên hùng mạnh. Để thực hiện được vấn
đề này, theo Tơn Trung Sơn, thì cần tập trung thực hiện tốt việc: Bình quân địa
quyền và khẩu hiệu người cày có ruộng; tiết chế tư bản tư nhân, phát triển tư
bản nhà nước; vấn đề ăn, mặc, ở, đi lại, xây dựng xã hội đại đồng.
Chính những tư tưởng trong Chủ nghĩa Tam dân nói chung và trong tư
tưởng dân sinh của Tơn Trung Sơn nói riêng đã có ảnh hưởng lớn đến các nhà
yêu nước của Việt Nam, trong đó tiêu biểu là Nguyễn Ái Quốc và “Nội dung
được Nguyễn Ái Quốc hết sức quan tâm là ba nguyên tắc của bác sĩ Tôn Dật
Tiên: Dân tộc độc lập; Dân quyền tự do; Dân sinh hạnh phúc” [87, tr.59]. Hồ
Chí Minh đã thấy chủ nghĩa ấy thích hợp với điều kiện nước ta. Nhất là trong
việc hướng tới một xã hội mà các nhu cầu ăn, ở, mặc, đi lại... của nhân dân
được đáp ứng. Song, Chủ nghĩa Tam dân, về cơ bản, vẫn là tư tưởng dân chủ
tư sản, nằm trong hệ tư tưởng tư sản và còn nhiều hạn chế cần phải được khắc
phục để kết hợp với tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái của cách mạng tư sản
Pháp thành lý tưởng độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc mang tính giai cấp, tính
nhân dân, tính dân tộc và tính cách mạng triệt để của cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân dưới sự lãnh đạo của chính đảng cách mạng của giai cấp công

nhân.
Quan điểm dân sinh trong lịch sử tư tưởng phương Tây. Trong hình
trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã đi qua năm châu, bốn biển, được
tiếp cận với nhiều nền văn hóa khác nhau, trong đó văn hóa phương Tây nói
chung và quan điểm dân sinh của phương Tây nói riêng, đã có ảnh hưởng to lớn
đến việc hình thành quan điểm dân sinh Hồ Chí Minh, đó là các vấn đề về tự
do, dân chủ, tiến bộ, điều này được thể hiện rõ khi Người trịnh trọng tuyên bố
khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và đưa vào các nội dung tinh
túy trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ, trong Tuyên ngôn Nhân
quyền và Dân quyền của Cách mạng Dân chủ tư sản Pháp 1789 - 1794 để khẳng
định: “tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có
quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”; rằng “Người ta sinh ra tự do


15

và bình đẳng về quyền lợi; và phải ln ln được tự do và bình đẳng về quyền
lợi. Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được” [43, tr.1]. Và nhấn mạnh
“quyền được sống, quyền được tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” với tư cách
“những quyền không ai có thể xâm phạm được” của mỗi người và của mọi
người... điều đó đã thể hiện rõ quan điểm dân sinh, triết lý nhân sinh Hồ Chí
Minh. Nhận thức rõ những giá trị đích thực trong tư tưởng nhân văn phương
Tây, Hồ Chí Minh cũng sớm nhận ra những hạn chế ở nền tự do, dân chủ của
nó, thấy rõ mặt trái của quyền con người trong chế độ tư bản chủ nghĩa. Với
nhận thức đó, Người cho rằng, con đường đến với tự do, dân chủ thực sự, đến
với sự thực hiện an ninh cho cuộc sống của mỗi con người, an sinh cho đời
sống của cả cộng đồng xã hội chỉ có thể là con đường cách mạng vơ sản, cách
mạng giải phóng - giải phóng con người, giải phóng xã hội. Bởi lẽ, chỉ khi con
người và xã hội thực sự được giải phóng thì an ninh cho cuộc sống của mỗi con
người mới được đảm bảo, an sinh cho đời sống của cả cộng đồng xã hội mới

được thực hiện và thực hiện một cách bền vững.
Ngồi ra, Hồ Chí Minh cũng đã biết đến những ước mơ, khát vọng
vươn tới một xã hội cao đẹp, con người được hoàn thiện với cuộc sống ấm no,
hạnh phúc ở đạo Thiên chúa, biết đến chủ trương cứu vớt chúng sinh của Chúa
Giêsu. Song, với Người, khát vọng đó, chủ trương đó trước hết phải vì những
người bị áp bức, vì những dân tộc bị đè nén, vì hịa bình và cơng lý, phải nhằm
mục đích cứu lồi người khỏi ách nơ lệ, đưa nhân loại đến hạnh phúc, tự do.
Chính vì thế, trong q trình lãnh đạo cách mạng, Người luôn luôn giáo dục
cán bộ, đảng viên về lòng thương người, thương dân, thương các chiến sỹ
ngồi mặt trận - đó là những tư tưởng thấm đậm những giá trị cao cả mang
tính nhân loại mà Thiên chúa giáo đã khởi xướng và răn dạy.
Quan điểm dân sinh của chủ nghĩa Mác-Lênin. Kế thừa các giá trị trong
quan điểm dân sinh Việt Nam, cũng như của Đơng-Tây một cách có phê phán,
chọn lọc, khơng bao giờ sao chép máy móc, khơng khi nào phủ định một cách
giản đơn, mà ln có sự phân tích sâu sắc để tìm ra những yếu tố tích cực, làm
giầu thêm vốn kiến thức của mình, Hồ Chí Minh đã đến với quan điểm dân sinh
của chủ nghĩa Mác-Lênin bằng hành trang tư tưởng đó. Và Người đã tìm thấy ở


16

đây vị trí, vai trị của quần chúng nhân dân, tìm được con đường giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp và xây dựng chế độ xã hội mới, Người khẳng định: “Chỉ
có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp
bức và giai cấp cơng nhân tồn thế giới” [76, tr.474]. Điều đó cho thấy, chỉ có
giải phóng giai cấp vơ sản thì mọi tầng lớp nhân dân lao động mới được giải
phóng và con đường giải phóng dân tộc mới được mở ra, mới đi đến thắng lợi.
Xã hội mà con đường đó sẽ đưa đến là xã hội cộng sản, mà giai đoạn đầu của nó
là xã hội xã hội chủ nghĩa, một chế độ xã hội mới mà ở đó, các cá nhân khơng
cịn lệ thuộc vào thứ lao động khiến họ bị tha hố, khơng có được tự do thật sự,

thứ lao động đã khiến họ trở nên “phiến diện, méo mó và bị hạn chế”, bởi khi đó,
“xã hội điều tiết tồn bộ nền sản xuất” và con người có thể tự hồn thiện mình
trong bất cứ lĩnh vực nào mà mình thích” [29, tr.47]; nghĩa là, lao động trở thành
hoạt động tự giác của con người và như vậy, con người được giải phóng những
năng lực, sức mạnh tiềm ẩn của mình. Trong xã hội đó, cá nhân được phát triển
một cách tồn diện, nhưng theo các ơng, cá nhân khơng thể có được tự do riêng
lẻ của mình, bởi “trong điều kiện có cộng đồng thực sự, các cá nhân có được tự
do khi họ liên hợp lại và nhờ sự liên hợp ấy” [29, tr.108]. Quan điểm dân sinh
của chủ nghĩa Mác-Lênin, khơng chỉ là cái góp phần làm nên “cẩm nang” thần
kỳ, là kim chỉ nam cho hành động, mà còn là mặt trời soi sáng con đường cách
mạng Việt Nam đi đến thắng lợi cuối cùng. Sau này, khi tổng kết kinh nghiệm
thắng lợi của cách mạng Việt Nam, Người đã khẳng định rằng, thắng lợi đó là do
nhiều nhân tố, nhưng thắng lợi đó trước hết là “Đảng ta luôn luôn đứng vững
trên lập trường giai cấp vô sản, tuyệt đối trung thành với lợi ích của giai cấp và
của nhân dân, biết vận dụng lý luận Mác - Lênin vào tình hình thực tế của nước
ta và đề ra đường lối, chính sách đúng đắn” [67, tr.17].
Như vậy, ngồi truyền thống của dân tộc, Hồ Chí Minh cịn tiếp thu
quan điểm dân sinh của nhân loại, “biết kế thừa các học thuyết đó một cách có
phê phán, chọn lọc, khơng bao giờ sao chép máy móc, cũng khơng bao giờ
phủ định một cách giản đơn, mà có sự phân tích sâu sắc để tìm ra những yếu
tố tích cực, làm giàu thêm vốn kiến thức và hành trang tư tưởng của mình”
[19, tr.675]. Người đánh giá cao tình thương yêu con người, tính nhân đạo


17

trong đạo Phật, đạo Giáo, đạo Khổng. Song Người cho rằng các học thuyết đó
đều khơng cách mạng, bởi vì nó khơng vạch ra cho con người con đường tự
giải phóng mà chỉ khuyên con người cam tâm chịu đựng, trói buộc họ trong
trật tự đương thời, ru ngủ tinh thần đấu tranh của họ, thậm chí cịn phát ngơn

bênh vực kẻ bóc lột, chống lại những người bị áp bức... Trong cuộc trả lời
phóng viên báo chí nước ngồi ngay sau lễ công bố bản Tuyên ngôn độc lập
sáng 2-9-1945, Người nói: “Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng
đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giêsu có ưu điểm là lịng bác ái. Chủ nghĩa Mác có
ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tơn Dật Tiên có ưu
điểm là chính sách của nó phù hợp với điều kiện nước chúng tơi. Khổng Tử,
Giêsu, Các Mác, Tơn Dật Tiên chẳng có những điểm chung đó sao? Họ đều
muốn mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu cầu phúc lợi cho xã hội. Nếu
họ còn sống trên đời này và họp lại một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định chung
sống với nhau rất hồn mỹ như những người bạn thân thiết. Tơi cố gắng làm
người học trò nhỏ của các vị ấy” [18, tr.43]. Trong đó, “Tư tưởng dân sinh
khoa học chân chính là quan niệm dân sinh của chủ nghĩa Mác. Tư tưởng của
chủ nghĩa Mác về vấn đề dân sinh lấy quan niệm duy vật lịch sử làm cơ sở lý
luận, lấy học thuyết về bản chất con người, về nhu cầu và phát triển con người
làm căn cứ trực tiếp” [17, tr.172].
* Cơ sở thực tiễn của quan điểm dân sinh Hồ Chí Minh.
Quan điểm dân sinh Hồ Chí Minh ra đời, được nuôi dưỡng và phát triển
không phải chỉ đứng trên tiền đề tư tưởng, lý luận mà nó còn được ươm mầm,
nảy nở trên nền tảng truyền thống của gia đình, quê hương, đặc biệt là thực tiễn
của xã hội Việt Nam và yếu tố thời đại.
Sinh ra trên trên mảnh đất giàu truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm.
Nơi đây đã nuôi dưỡng nhiều anh hùng nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam, đặc biệt
ngay từ nhỏ, Hồ Chí Minh đã đau xót chứng kiến cuộc sống nghèo khổ, bị đàn
áp, bị bóc lột cùng cực của đồng bào mình ngay trên mảnh đất quê hương.
Những tội ác của bọn thực dân và thái độ ươn hèn, bạc nhược của bọn quan lại
Nam triều đã thôi thúc Người ra đi tìm một con đường cách mạng mới để cứu
dân, cứu nước. Không chỉ yếu tố quê hương ảnh hưởng đến nhân cách, quyết tâm


18


mà chính truyền thống của một gia đình nhà nho u nước, gần gũi với nhân dân
có ảnh hưởng vơ cùng to lớn đến Người. Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân
phụ của Người là một nhà nho giàu lòng yêu nước, thương dân sâu sắc, lao động
cần cù, có ý chí kiên cường vượt qua gian khổ, khó khăn để đạt được mục tiêu,
chí hướng. Chủ trương lấy dân làm hậu thuẫn cho mọi cải cách chính trị - xã hội
của cụ Phó bảng đã có ảnh hưởng sâu sắc đối với sự hình thành tư tưởng chính trị
và nhân cách của Hồ Chí Minh.
Trong trào lưu xâm lược thuộc địa của chủ nghĩa tư bản phương Tây, từ
năm 1858 thực dân Pháp bắt đầu tiến công quân sự để chiếm Việt Nam. Sau
khi đánh chiếm được nước ta, thực dân Pháp thiết lập bộ máy thống trị thực
dân và tiến hành những cuộc khai thác nhằm cướp đoạt tài ngun, bóc lột
nhân cơng rẻ mạt và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa. Do sự du nhập của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, tình hình kinh tế Việt Nam có sự biến
đổi: quan hệ kinh tế nơng thơn bị phá vỡ, hình thành nên những đô thị mới,
những trung tâm kinh tế và tụ điểm cư dân mới. Nhưng thực dân Pháp không
du nhập một cách hoàn chỉnh phương thức tư bản chủ nghĩa vào nước ta, mà
vẫn duy trì quan hệ kinh tế phong kiến. Chúng kết hợp hai phương thức bóc
lột tư bản và phong kiến để thu lợi nhuận siêu ngạch. Chính vì thế, nước Việt
Nam khơng thể phát triển lên chủ nghĩa tư bản một cách bình thường được,
nền kinh tế Việt Nam bị kìm hãm trong vịng lạc hậu và phụ thuộc nặng nề vào
kinh tế Pháp.
Về chính trị, chúng tiếp tục thi hành chính sách chuyên chế với bộ máy
đàn áp nặng nề. Mọi quyền hành đều thâu tóm trong tay các viên quan cai trị
người Pháp, biến vua quan Nam triều thành bù nhìn, tay sai. Chúng bóp nghẹt
tự do, dân chủ, thẳng tay đàn áp, khủng bố, dìm các cuộc đấu tranh của dân ta
trong biển máu. Chúng tiếp tục thi hành chính sách chia để trị rất thâm độc, chia
nước ta làm ba kỳ, mỗi kỳ đặt một chế độ cai trị riêng và nhập ba kỳ đó với
nước Lào và nước Cămpuchia để lập ra liên bang Đơng Dương thuộc Pháp, xóa
tên nước ta trên bản đồ thế giới. Chúng gây chia rẽ và thù hận giữa Bắc, Trung,

Nam, giữa các tôn giáo, các dân tộc, các địa phương, thậm chí là giữa các dịng
họ; giữa dân tộc Việt Nam với các dân tộc trên bán đảo Đông Dương. Về văn


19

hóa, chúng thi hành triệt để chính sách văn hóa nơ dịch, gây tâm lý tự ti, vong
bản, khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan, đồi phong bại tục. Mọi hoạt
động yêu nước của nhân dân ta đều bị cấm đốn. Chúng tìm mọi cách bưng bít
và ngăn chặn ảnh hưởng của nền văn hóa tiến bộ trên thế giới vào Việt Nam và
thi hành chính sách ngu dân để dễ bề thống trị. Các cuộc khai thác thuộc địa của
thực dân Pháp ảnh hưởng mạnh mẽ đến tình hình xã hội Việt Nam. Sự phân hố
giai cấp diễn ra ngày càng sâu sắc hơn.
Một xã hội mà như theo lời thú nhận của tồn quyền Đơng Dương thì
“đời sống của thợ mỏ q khổ cực và cơng việc của họ quá nặng nề nên trong
số 15.907 thợ mỏ thống kê được vào năm 1906, không ai sống đến 60 tuổi. Và
bọn tư bản thuộc địa cũng lại viện cớ đó để từ chối khơng tổ chức quỹ hưu bổng
cho thợ thuyền bản xứ! Đời sống nông dân cũng chẳng hơn gì. Đất thì xấu,
phương pháp canh tác thì lạc hậu, do đó năng suất rất thấp kém. Sản lượng một
hécta ở châu Âu là 4.670 kilơ thóc, ở Nhật Bản 3.320 kilơ, ở Nam Dương 2.150
kilơ, cịn ở Đơng Dương sản lượng chỉ có 1.210 kilơ” [38, tr.229] và “trong
1.000 làng đã có 1.500 đại lý rượu và thuốc phiện, mà trường học thì vẻn vẹn có
10 cái; mỗi năm, người ta đầu độc dân bản xứ, cả đàn bà lẫn trẻ con, bằng 23 tới
24 triệu lít rượu và hơn 100.000 kilơgam thuốc phiện! Bán những thứ thuốc độc
ấy mỗi năm lời gần 130 triệu phrăng. Cũng trong thời kỳ ấy, người ta chỉ tiêu
cho ngành y tế khơng đầy 400.000 phrăng và chỉ có 1 triệu phrăng cho ngành
giáo dục” [36, tr.385]. Không chỉ vậy, khi người dân gặp thiên tai lũ lụt, Nhà
nước thực dân đã hồn tồn khơng thực hiện nghĩa vụ phúc lợi của mình, ngược
lại cịn lợi dụng để kiếm lời. Nguyễn Ái Quốc viết: “Sau những trận lụt, người
An Nam ở Trung kỳ và Nam kỳ đã tổ chức quyên góp để cứu giúp các đồng bào

bất hạnh của mình. Nhà chức trách Pháp đã xoáy mất phần lớn số tiền đó bỏ vào
quỹ để nâng giá đồng phrăng lên! Mặc dù những hiện vật quyên góp rất nhiều,
nhưng nhà chức trách chỉ phân phát cho những người bị nạn mỗi người một
tháng được có 2 kilơ rưỡi gạo thơi!” [39, tr.253-254]. Cùng với đó là tình trạng
khơng có trường học cho trẻ em, với hàng nghìn đứa trẻ “bị đày vào cảnh ngu
dốt, chỉ vì khơng có đủ trường sở cho chúng đi học. Người ta sẽ nói rằng, vì ngân
sách khơng đủ cho chính phủ xây thêm trường mới. Không hẳn thế đâu. Trong số


20

12 triệu đồng của ngân sách Nam kỳ, thì 10 triệu đồng đã tìm được cách lọt vào
túi các cơng chức” [33, tr.154].
Tóm lại, chính sách thống trị của thực dân Pháp đối với Việt Nam và cả
Đơng Dương nói chung là một chính sách thống trị chuyên chế về chính trị,
bóc lột nặng nề về kinh tế nhằm đem lại lợi nhuận tối đa về kinh tế, kìm hãm
và nơ dịch về văn hóa, giáo dục, chứ khơng phải đem đến cho nhân dân một
sự “khai hoá văn minh” - một sự khai hoá và cải tạo thực sự theo kiểu
phương Tây. Bản chất của “sứ mạng khai hoá” đó chính là sự khai thác thuộc
địa diễn ra dưới lưỡi lê, họng súng, máy chém,... Và nếu dân bản xứ khơng
chịu nhục được, phải vùng lên, thì các nhà khai hoá “điều quân đội, súng liên
thanh, súng cối và tàu chiến đến, người ta ra lệnh giới nghiêm. Người ta bắt
bớ và bỏ tù hàng loạt. Đấy! Công cuộc khai hoá nhân từ là như thế đấy!” [37,
tr.115]. Nước Việt Nam đã có những biến chuyển sâu sắc về chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội. Việt Nam từ một xã hội phong kiến thuần tuý đã biến
thành một xã hội thuộc địa. Cùng với đó, các phong trào yêu nước đã diễn ra
mạnh mẽ, nhưng cuối cùng đều đi đến thất bại và chìm trong bể máu, một
trong ngun nhân chính đó là thiếu một hệ tư tưởng khoa học và cách mạng,
thiếu một đảng chân chính dân đường, chưa tập hợp, phát huy được quần
chúng nhân dân.

Như vậy, trên cơ cở kế thừa những quan điểm, tư tưởng về dân sinh của
dân tộc và nhân loại, mà trực tiếp và chủ yếu nhất là quan điểm dân sinh của
chủ nghĩa Mác-Lênin, nhận thức rõ vai trò to lớn của quần chúng nhân dân,
tìm thấy con đường cứu nước và giải phóng dân tộc-con đường cách mạng vơ
sản, với mục tiêu là giải phóng giai cấp, dân tộc và nhân loại khỏi mọi khổ
đau, áp bức, để hướng đến xây dựng xã hội lý tưởng, đó là xã hội cộng sản chủ
nghĩa mà giai đoạn đầu của nó là xã hội xã hội chủ nghĩa, đồng thời xuất phát
từ thực tiễn xã hội nước ta, mà cụ thể chính là vấn đề đời sống của nhân dân
dưới hai tầng áp bức, bóc lột: thực dân và phong kiến, bằng trí tuệ anh minh
cũng như tình u thương bao la đối với con người,... đã góp phần hình thành
nên quan điểm dân sinh Hồ Chí Minh. Đó là hệ thống các quan điểm về vị trí,


21

vai trò, về quyền và nghĩa vụ mà người dân được hưởng trong chế độ do nhân
dân làm chủ.
1.1.2. Quá trình hình thành và phát triển quan điểm dân sinh Hồ Chí
Minh
Quan điểm dân sinh Hồ Chí Minh khơng hình thành ngay một lúc mà đã
trải qua một quá trình tìm tịi, xác lập, phát triển và hồn thiện, gắn liền với
quá trình hoạt động cách mạng phong phú của người. Thực vậy, trước yêu cầu
cấp bách phải tìm một con đường cứu nước mới, bằng thiên tài trí tuệ và nhãn
quan chính trị sắc bén, tháng 6-1911, Nguyễn Ái Quốc đã lên đường sang các
nước phương Tây, nơi có khoa học - kỹ thuật phát triển và những tư tưởng dân
chủ tự do, xem họ làm như thế nào, để rồi trở về nước giúp đồng bào cởi ách
xiềng xích nơ lệ. Q trình đó được phân chia ra làm các thời kỳ cơ bản sau:
* Thời kỳ trước cách mạng Tháng Tám năm 1945
Đây là giai đoạn mà Hồ Chí Minh tập trung tìm kiếm và khẳng định con
đường giải phóng dân tộc. Trong khi làm điều này, Người ln tìm đủ loại

nguồn tài liệu để làm sáng tỏ hoàn cảnh sống nghèo khổ và bị áp bức của nhân
dân qua đó vạch trần bộ mặt tàn ác của bọn thực dân cùng bè lũ tay sai, đồng
thời từng bước đấu tranh đòi các quyền dân sinh cơ bản cho nhân dân. Đồng
thời, cũng dành nhiều tâm sức để suy nghĩ về vấn đề dân sinh sau khi giành
được độc lập.
Dựa vào những tài liệu và sự việc cụ thể, trong thời kỳ này, Người đã
viết nhiều bài báo và tác phẩm vạch trần những tội ác của chế độ thực dân đối
với đời sống của người dân xứ thuộc địa. Nổi bật là việc nhà nước cai trị đã
hầu như khơng có chi tiêu cho phúc lợi cơng cộng, duy trì điều kiện làm việc
tồi tệ trong các khu mỏ, đồn điền, làm đường; không đủ trường học cho trẻ
em; đầu độc dân chúng bằng rượu và thuốc phiện, bỏ mặc người dân khi gặp
thiên tai... Chính vì thế, ngay trong thời kỳ đầu hoạt động cách mạng, Hồ Chí
Minh đã đề xuất những ý tưởng xây dựng hệ thống phúc lợi xã hội quốc gia
sau này.
Đầu năm 1930, Người sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam và trong
“Chánh cương vắn tắt” đã xác định cách mạng Việt Nam là: “chủ trương làm


22

tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”
[40, tr.1]. Trong đó tập trung vào việc dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ
bình quyền, phổ thơng giáo dục theo cơng nơng hố, đánh đổ đế quốc chủ
nghĩa Pháp và bọn phong kiến giành độc lập thành lập chính phủ công nông
binh, tổ chức ra quân đội công nông, thủ tiêu hết các thứ quốc trái, thâu hết
sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng,...) của tư bản đế quốc
chủ nghĩa Pháp để giao cho chính phủ cơng nông binh quản lý. Thâu hết ruộng
đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo. Bỏ sưu thuế
cho dân cày nghèo. Mở mang công nghiệp và nông nghiệp. Thi hành luật ngày
làm 8 giờ.

Đến “Chương trình Viện Minh” do Người soạn thảo, đây là một văn
kiện đặc biệt quan trọng, với nội dung rất cụ thể như: Thi hành Luật lao động,
bao gồm cả lao động trẻ em. Nam nữ bình quyền, hủy bỏ nền giáo dục nô lệ,
gây dựng nền quốc dân giáo dục, cưỡng bức giáo dục từ bậc sơ học... khuyến
khích nền giáo dục quốc dân, lập thêm nhà thương, nhà đỡ đẻ, nhà dưỡng lão.
Nhà nước chăm nom người già và tàn tật, giúp đỡ gia đình đơng con, lập các
nhà chiếu bóng, diễn kịch, câu lạc bộ, thư viện để nâng cao trình độ trí dục cho
nhân dân. Chính mơ hình này đã góp phần động viên sức mạnh và sự tham gia
của tồn thể nhân dân vào cơng cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc. Mơ hình
mà Chương trình đưa ra một mặt liên quan đến những nguyên tắc phúc lợi cơ
bản và mặt khác trình bày những nội dung chủ yếu của phúc lợi theo các
nhóm xã hội.
* Thời kỳ từ cách mạng Tháng Tám đến kháng chiến chống Pháp thắng
lợi (1945-1954)
Đây là một thời kỳ có những sự kiện vô cùng trọng đại, mở đầu là cách
mạng tháng Tám với sự ra đời của Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở châu
Á. Cách mạng đã phải tiếp quản một đất nước bị tàn phá nặng nề sau hàng thập
niên dưới ách thực dân Pháp, phát xít Nhật. Đồng thời, cách mạng đã phải bắt
tay ngay vào việc chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trở lại
xâm lược. Trong bối cảnh đó, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ
phải tiến hành giải quyết ngay hàng loạt yêu cầu dân sinh cơ bản và trước mắt,


23

đồng thời từng bước xây dựng nền tảng cho việc giải quyết vấn đề dân sinh
trong xã hội mới.
Tư tưởng, quan điểm bao trùm của Hồ Chí Minh trong thời kỳ này là ý
chí đấu tranh ngoan cường cho độc lập, thống nhất của Tổ quốc và tự do, hạnh
phúc của nhân dân Việt Nam. Độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc không tách

rời với tự do, hạnh phúc của nhân dân. Trong “Bài phát biểu tại cuộc họp đầu
tiên của ủy ban nghiên cứu kế hoạch kiến quốc”, Người nhấn mạnh thêm:
“Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do,
độc lập cũng khơng làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi
mà dân được ăn no, mặc đủ” [46, tr.152]. Cho nên, chính sách của Chính phủ
là phải đồn kết tồn dân thực hiện cho được các vấn đề thuộc lĩnh vực dân
sinh như sau: “Đạo nghĩa là chính sách của chính phủ đối với dân chúng chính sách này phải hợp với nguyện vọng và quyền lợi của dân chúng. Đối với
dân, Chính phủ phải thi hành một nền chính trị liêm khiết như cải thiện đời
sống của nhân dân, cứu tế thất nghiệp, sửa đổi chế độ xã hội, phát triển kinh
tế, văn hóa, v.v... Có như thế, dân chúng mới đồn kết chung quanh Chính
phủ,...” [45, tr.227].
Xuất phát từ quan điểm cơ bản trên, trong bối cảnh nhiều nhà cách mạng
còn đang say sưa với nền độc lập dân tộc mới giành lại được, Hồ Chí Minh đã
đề ra mục tiêu cấp bách của Chính phủ là: “Chúng ta phải thực hiện ngay: 1.
Làm cho dân có ăn. 2. Làm cho dân có mặc. 3. Làm cho dân có chỗ ở. 4. Làm
cho dân có học hành. Cái mục đích chúng ta đi đến là 4 điều đó...” [35, tr.152].
Bốn điều trên thể hiện những nội dung cơ bản của vấn đề dân sinh. Sau ngày
độc lập, trong điều kiện đất nước ta đang gặp rất nhiều khó khăn nhất là nền
kinh tế đang rơi vào tình trạng kiệt quệ, tiêu điều, đời sống của nhân dân gặp
nhiều khó khăn, nổi bật nhất là trên 90% nhân dân mù chữ... Chính vì thế, ngày
3-9-1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời nước, Hồ Chí Minh
đã nêu sáu vấn đề cấp bách để cứu nguy dân tộc: Một là, giải quyết nạn đói; Hai
là, thanh tốn nạn dốt; Ba là, tổ chức sớm cuộc Tổng tuyển cử; Bốn là, xoá bỏ
hủ tục, xây dựng đời sống văn hoá mới, đạo đức mới, đạo đức cách mạng; Năm


24

là, xố bỏ ngay những thứ thuế bóc lột vơ nhân đạo; Sáu là, thực hiện tín
ngưỡng tự do và lương giáo đồn kết.

Để giải quyết nạn đói, Người đề nghị với Chính phủ phát động ngay
một chiến dịch tăng gia sản xuất đồng thời mở cuộc lạc quyên trên tinh thần
tương thân tương ái “lá lành đùm lá rách”, với các hình thức phong phú “Hũ
gạo cứu đói”, “Ngày đồng tâm nhịn ăn”,... Chỉ sau một tuần quyên góp, cả
nước đã có hàng vạn tấn gạo cứu đói. Cùng với giặc đói, giặc dốt cũng là
một trong những thứ giặc nguy hiểm, Hồ Chí Minh đề nghị mở một chiến
dịch chống nạn mù chữ, với phương châm: người biết chữ dạy người chưa
biết chữ, những người chưa biết chữ hãy gắng sức mà học cho biết, vợ chưa
biết thì chồng bảo, em chưa biết thì anh bảo, cha mẹ chưa biết thì con bảo.
Nổi bật trong đó là vấn đề phụ nữ như: việc cần phải học để theo kịp nam
giới, để xứng đáng mình là một phần tử trong nước, có quyền bầu cử và ứng
cử.
Nhằm mang lại những quyền lợi thiết thực cho nhân dân, Hồ Chí Minh
và Chính phủ đã ký một loạt sắc lệnh bãi bỏ chế độ thuế khố bất cơng của
thực dân Pháp, như: thuế thân, thuế chợ, thuế đò, đồng thời ban hành Luật Lao
động, bảo vệ quyền lợi cho công nhân; quy định giảm tô 25% cho nông dân;
chia ruộng của bọn thực dân và ruộng công cho nông dân, ban bố sắc lệnh tự
do tín ngưỡng. Tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khoá I (từ ngày 1 đến ngày 4-121953), đã thông qua Luật Cải cách ruộng đất. Ngày 19-12-1953, Chủ tịch Hồ
Chí Minh ký Sắc lệnh số 197/SL cơng bố thi hành Luật Cải cách ruộng đất.
Từ đó, hàng triệu nơng dân có ruộng; khối liên minh cơng-nơng được tăng
cường; chính quyền và mặt trận được kiện tồn; sự lãnh đạo của Đảng được đề
cao. Hậu phương được củng cố và phát triển vững mạnh, nhờ đó sức chiến đấu
của quân đội được nâng cao, kháng chiến có thêm sức mạnh mới để bước sang
giai đoạn phản công thắng lợi.
* Thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội (1954-1969)
Sau hịa bình lập lại năm 1954, nhưng đất nước vẫn bị chia cắt thành
hai miền Nam-Bắc, cho nên nhiệm vụ của cách mạng nước ta là phải đồng
thời tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược: tiếp tục hoàn thành cách mạng dân



25

tộc dân chủ ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Trong
thời gian này, quan điểm dân sinh Hồ Chí Minh được thể hiện trong hoàn
cảnh đặc biệt của miền Bắc Việt Nam vừa chuẩn bị góp phần giải phóng
miền Nam, thống nhất đất nước, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội. Một trong
những quan tâm của Người trong giai đoạn này là làm sao cho kinh tế phát
triển, cải thiện đời sống nhân dân. Với việc gắn chặt giữa chủ nghĩa xã hội
với dân sinh, xem đây là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, khẳng định vai trò
lãnh đạo của Đảng đối với vấn đề dân sinh, xem đây là trách nhiệm của mọi
cán bộ. Hồ Chí Minh cịn nhấn mạnh việc giải quyết vấn đề dân sinh là sự
nghiệp của chính nhân dân.
Khi bước sang giai đoạn mới, Hồ Chí Minh xác định chăm lo đời sống
của nhân dân là một mục tiêu hàng đầu của Nhà nước, để nâng cao dần mức
sống của nhân dân, trước hết là của công nhân, bộ đội và công chức, đồng thời
giảm nhẹ dần sự đóng góp của nơng dân. Nói cách khác, tất cả những việc
Đảng và Chính phủ đề ra đều nhằm cải thiện đời sống cho nhân dân. Mục tiêu
này gắn với chủ nghĩa xã hội, khi ta thấy trong mọi định nghĩa về chủ nghĩa xã
hội, bao giờ cũng thấy Hồ Chí Minh nêu vấn đề đời sống của các tầng lớp nhân
dân: Chủ nghĩa xã hội “trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn
bần cùng, làm cho mọi người có cơng ăn việc làm, được ấm no và sống một đời
hạnh phúc” [67, tr.17], “Chủ nghĩa xã hội là mọi người dân được áo ấm cơm no,
nhà ở tử tế, được học hành”.
Trong công tác lãnh đạo nói chung của Đảng, Hồ Chí Minh cho rằng,
cần đặc biệt quan tâm đến dân sinh, xem đây là một nội dung cơng tác chính
trong mọi giai đoạn của cách mạng, nhất là trong giai đoạn đồng thời tiến hành
hai nhiệm vụ chiến lược. Cùng với việc phê phán xu hướng một số cán bộ
thiếu quan tâm đến việc phát triển đời sống công nhân. Người nhấn mạnh đến
công tác làm nhà ở, nhà giữ trẻ, câu lạc bộ, vệ sinh, an toàn lao động, cải thiện
điều kiện làm việc... và coi việc chăm nom đến đời sống của nhân dân là trách

nhiệm của Đảng và Chính phủ. Mặc dù nhấn mạnh đến trách nhiệm lãnh đạo
và chăm lo của Đảng đến phúc lợi, song, giải quyết vấn đề dân sinh là sự
nghiệp của chính người dân. Nói chuyện tại Hội nghị cán bộ cải cách miền


26

biển (10-4-1956), Người chỉ rõ: “Cứ chờ Đảng và chờ Chính phủ giúp đỡ thì
khơng đúng đâu. Đảng và Chính phủ đề ra chính sách, phái cán bộ về hướng
dẫn, thế là giúp đỡ. Nhưng đó là phụ. Lực lượng nhân dân tổ chức nhau lại là
chính. Khơng nên ỷ lại, mà phải tự lực cánh sinh”, “Đảng và Chính phủ cũng
sẽ giúp thêm, như thu mua lâm sản, và thổ sản cho nông dân, giúp thêm cán
bộ, cho vay vốn… Nhưng các cơ, các chú chớ có ỷ lại, phải cố gắng tự lực
cánh sinh là chính, việc giúp đỡ là phụ”.
Đặc biệt, trong bản Di chúc - một phác thảo toàn diện cho vấn đề dân
sinh sau chiến tranh, Người nhấn mạnh sau khi thắng lợi, Đảng cần phải có kế
hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm khơng ngừng nâng cao
đời sống của nhân dân; phát triển công tác vệ sinh, y tế; sửa đổi chế độ giáo
dục cho hợp với hoàn cảnh mới của nhân dân,... đồng thời, phải làm tốt công
tác ưu đãi xã hội cho những người đã có cống hiến trong chiến tranh. Ngồi
ra, Hồ Chí Minh cịn chú ý đến cả những người lầm lỗi cần sự giúp đỡ xã hội:
“Đối với những nạn nhân của chế độ xã hội cũ, như trộm cắp, gái điếm, cờ
bạc, buôn lậu,v.v..., thì nhà nước phải dùng vừa giáo dục, vừa phải dùng pháp
luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên những người lao động lương thiện” [75,
tr.504].
Trong từng thời kỳ cách mạng, Hồ Chí Minh ln có những chủ trương,
chỉ đạo cụ thể để giải quyết vấn đề dân sinh. Xuất phát từ yêu cầu thực tế mà tập
trung vào những mắt xích quan trọng nhất để đột phá. Điều này chỉ có thể làm
được trên cơ sở vừa có một quan điểm rõ ràng về dân sinh, vừa có khả năng nắm
bắt được những yêu cầu của đời sống nhân dân.

1.2. Quan điểm Hồ Chí Minh về thực chất và điều kiện, giải pháp
để giải quyết vấn đề dân sinh
1.2.1. Thực chất quan điểm dân sinh Hồ Chí Minh
Vấn đề dân sinh là vấn đề căn bản của xã hội loài người. Lịch sử nhân
loại, theo một nghĩa nhất định, “chính là lịch sử mà lồi người khơng ngừng
cải tiến điều kiện sinh tồn, giải quyết vấn đề dân sinh, thực hiện nhu cầu phát
triển tự thân. Trong mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau đều có những vấn đề dân
sinh đặc thù cần phải giải quyết, song tình hình dân sinh và trình độ giải quyết


27

luôn quyết định sự ủng hộ hay phản đối của mọi người và sự được mất của
chính quyền cùng sự hưng vong của quốc gia. Cho nên, các thánh hiền và triết
nhân của các thời kỳ đều xuất phát từ u cầu củng cố chính quyền và duy trì
sự ổn định xã hội mà đề xướng những chủ trương, quan niệm dân sinh mn
hình mn vẻ” [17, tr.169]. Điều đó cho thấy, vấn đề dân sinh trong lịch sử
phát triển của nhân loại, về thực chất, là vấn đề chính trị được đại đa số các
quốc gia trên thế giới quan tâm. Tuy nhiên, việc giải quyết vấn đề này phụ
thuộc vào rất nhiều yếu tố, trước hết là chủ trương và chính sách của giai cấp
thống trị, sau đó đến các tổ chức xã hội khác hoạt động trong nhiều lĩnh vực
khác nhau tạo thành chỉnh thể của một quốc gia. Nói cách khác, vấn đề dân
sinh, xây dựng xã hội có liên quan đến lợi ích, cuộc sống ấm no, hạnh phúc của
nhân dân, do đó cũng có quan hệ trực tiếp đến tính hợp pháp của bộ máy nhà
nước, thậm chí có thể làm thay đổi bộ máy nhà nước.
Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, mà trực tiếp là chủ nghĩa duy vật lịch
sử, đã khẳng định tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội và con người trước hết
họ cần phải ăn, mặc, ở rồi mới làm chính trị, nghệ thuật... đồng thời khẳng định
vai trò to lớn của quần chúng nhân dân-chủ thể sáng tạo chân chính ra lịch sử:
là lực lượng sản suất cơ bản của xã hội, trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, là

cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội; là động lực cơ bản của mọi cuộc
cách mạng xã hội; là người sáng tạo ra những giá trị văn hoá tinh thần. Tuy
nhiên, tuỳ vào điều kiện lịch sử mà vai trò chủ thể của quần chúng nhân dân
cũng biểu hiện khác nhau.
Đứng vững trên nền tảng lý luận khoa học và cách mạng ấy, Người đã
nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề dân sinh đối với sự thành bại của cách
mạng, cũng như thể hiện tính ưu việt, mục tiêu của chế độ mới, song vấn đề
đặt ra ở đây là, chữ “Dân” trong quan điểm dân sinh Hồ Chí Minh, họ là ai?
Chúng ta có thể nhận thấy, đó là tồn bộ những người lao động và những
người yêu nước, bao gồm nhiều giai tầng, tầng lớp, thậm chí có cả người
thuộc giai cấp bóc lột. Đó là mọi người dân Việt Nam có chung lịng u
nước, hy sinh vì độc lập dân tộc mà bộ phận nịng cốt là bộ phận trung thành
với bản chất giai cấp công nhân, Người khẳng định: “Nhân dân là bốn giai cấp


×