PHẦN BÁO CÁO CÁ NHÂN
I.QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN
1.Phương pháp nghiên cứu
a.Phương pháp nghiên cứu văn bản
Trong quá trình thực hiện báo cáo nhóm em đã sử dựng phương
pháp nghiên cứu văn bản . Với phương pháp này trong quá trình định
hướng và thu thập thông tin và minh chứng để trả lời được những câu hỏi
sau đây:
• Thực trạng hay tình hình thực tế của biến đổi khí hậu ra sao
• Các biểu hiện , nguyên nhân , và hậu quả của q trình biến
đổi khí hậu
• Kế hoạch hành động
• Một số yếu tố báo chí như tít báo , các hình ảnh trong bài báo ,
các số liệu ...
Báo Dantri.vn và báo Vnexpress là 2 báo nhóm e chọn và thu thập tài liệu
từ đây dựa vào tìm kiếm những bài có chủ đề về biến đổi khí hậu . Thuận
lợi đó là thơng tin rất đa dạng phong phú với 147 bài báo nhiều thể loại
cùng thuộc chủ đề biến đổi khí hậu từ tháng 6 năm 2013 đến tháng 6 năm
2014
1
1
MỘT SỐ ĐIỀU KHÓ KHĂN KHI SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP NÀY ĐĨ
LÀ đây là một phương pháp cịn khá mới ở Việt Nam vì vậy quá trình làm
việc và xác định tính đầy đủ , tường mình và chọn lọc cịn gặp nhiều khó
khăn do khá mất thời gian để mã hóa
b.Phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên
Chọn mẫu ngẫu nhiên (hay chọn mẫu xác suất) là phương pháp chọn mẫu
mà khả năng được chọn vào tổng thể mẫu của tất cả các đơn vị của tổng
thể đều như nhau. Đây là phương pháp tốt nhất để ta có thể chọn ra một
mẫu có khả năng đại biểu cho tổng thể. Vì có thể tính được sai số do chọn
mẫu, nhờ đó ta có thể áp dụng được các phương pháp ước lượng thống kê,
kiểm định giả thuyết thống kê trong xử lý dữ liệu để suy rộng kết quả trên
mẫu cho tổng thể chung
Tuy nhiên ta khó áp dụng phương pháp này khi không xác định được danh
sách cụ thể của tổng thể chung (ví dụ nghiên cứu trên tổng thể tiềm ẩn);
tốn kém nhiều thời gian, chi phí, nhân lực cho việc thu thập dữ liệu khi đối
tượng phân tán ..
Thuận lợi và khó khăn là cái lợi lớn nhất của chọn mẫu ngẫu nhiên đơn
giản là sẽ tạo ra được một mẫu đại diện cho tất cả các đối tượng sẽ được
nghiên cứu. Tuy nhiên, việc tiến hành khơng phải dễ dàng vì từng thành
viên thuộc đối tượng nghiên cứu cần phải được xác định rõ.
II. NÔI DUNG CHÍNH
2
2
Đặt đầu đề cho bài báo là việc làm có tính chất quyết định số phận
của bài báo. Bài báo rất hay nhưng đầu đề dở thì có thể làm mất ít nhất
một nửa số độc giả. Theo một kết quả điều tra thì kết quả cung cấp chỉ có
khoảng 30% tít đặt phản ánh được hồn tồn bài viết. Đồng thời theo một
nghiên cứu xã hội học khác thì đặt tít hay khơng phải là khâu đơn giản,
mặc dù cố gắng nhưng chưa chắc đã có kết quả tốt. 100% những nhà báo
được hỏi đều cơng nhận ln có hứng thú đọc những bài báo có tít hấp
dẫn, có 18% số người được hỏi nói họ khơng thường xun cố gắng đặt tít
hấp dẫn. Cũng theo kết quả này thì có tới 80% số người thích tít báo hấp
dẫn về phương diện nội dung và 20% thích tít báo được trình bày hấp dẫn.
Về thao tác đặt tít thì có 35,4% lo khái quát nội dung bài, 29,16%
muốn “mạ” cho tít hấp dẫn, 27,08% thích hể hiện phong cách cá nhân độc
nhân độc đáo và chỉ có 8,3% chú tâm tìm ngơn từ cho tít.
1. Chức năng và cấu trúc của tít báo
1.
Xét về mặt thuật ngữ thì tít báo còn được gọi là nhan đề, đầu đề, tiêu
đề... nhưng thuật ngữ tít dược sử dụng rộng rãi bởi đây vừa là thuật
ngữ báo chí vừa là một từ nghề nghiệp. Ngồi ra, thuật ngữ này cịn có
khả năng phái sinh cao, nói cách khác nó tiện lợi cho việc gọi tên các
thao tác xử lý tít.
Nếu nhìn từ góc độ makét báo, có nhiều cách gọi tít như sau: tít đầu trang,
tít đầu trang cố định, tít đầu trang biến động, tít chính, tít phụ, tít phụ trên,
tít phụ dưới, tít lớn, tít nhỏ...
3
3
Trong q trình thu thập chúng ta thấy có các loại tít theo thể loại tác
phẩm như sau tít tin, tít phóng sự, tít bài phản ánh , tít ký, tít bài bình
luận.... trong đó tít tin và tít phóng sự chiếm chủ yếu , tít tin chiếm
52,33 % chiếm chủ yếu
Ví dụ
-
Tít tin
• Thanh niên chung tay với biến đổi khí hậu
• Qn đội tìm hướng với ứng phó biến đổi khí hậu
...
Mỗi loại tít như thế có đặc điểm, tính chất và đặc trưng riêng. Chính cái
riêng ấy có tác dụng hai mặt: một mặt nó giúp độc giả nhận diện ngay
được nội dung, chủ đề mà bài báo thể hiện.
Những đặc điểm nổi bật của tít báo:
Thứ nhất, số lượng tít báo là rất lớn. Mỗi trang báo có thể có đến hàng
chục tít và một số báo bốn trang với mỗi ngày một số... thì con số đó là
hồn tồn dễ hiểu.
Thứ hai, chính vì số lượng tít báo lớn như vậy nên ngoại trừ những tít
rất đặc biệt, rất hấp dẫn, khó có thể được độc giả lưu nhớ và nhắc lại. Khi
đã không nhớ được tít họ cũng khó có thể nhớ được tên bài.
Thứ ba, đời sống của tít báo rất ngắn ngủi, xét vào mặt nào đó, nó chỉ “
sống “ trong khoảng thời gian giữa hai kì báo ra.
4
4
Thứ tư, tít báo địi hỏi một sự hấp dẫn cao, có khả năng níu mắt người
đọc với tác phẩm báo chí đó.
2.
Chức năng của tít:
Nói đến chức năng của tít báo thì chức năng đầu tiên được khẳng
định đó là phải “ bắt mắt “ độc giả.
Chức năng thứ hai là phải có khả năng phân biệt bài nào hơn bài
nào. Nó thể hiện sự lựa chọn của ban biên tập. Do vậy mà đọc toàn bộ các
đầu đề trong một tờ báo, độc giả sẽ biết hôm nay có gì mới và thơng tin
nào quan trọng hơn.
Quan trọng nhất là đầu đề phải nêu được chủ đề tức là phản ánh hồn
tồn hay khơng hồn tồn bài báo , nếu có thể được thì nêu vả góc độ của
bài báo nữa. Đầu đề phải nhấn mạnh có gì mới, có gì hay để độc giả có thể
lựa chọn ngay khi xem lướt qua tờ báo.
Tít báo là một bộ phận hữu cơ của tác phẩm báo chí, cho nên nó cũng
có những chức năng chung của tác phẩm báo chí. Nhưng do chỗ tít là phần
tồn tại tương đối độc lập với bài nên có những chức năng riêng, đặc thù,
chức năng định danh thông tin. Do vậy, để thực hiện được chức năng này
tít phải thoả mãn được hai yêu cầu:
-
Tít phải khái quát được nội dung của cả bài báo trong một cấu
trúc ngôn ngữ định danh xác định, chuẩn mực, ngắn gọn và có thể
có sức biểu cảm.
-
5
Tít phải đuợc trình bày hấp dẫn.
5
3.
Dạng tít và cấu trúc của tít:
Về dạng tít, có ba loại chính:
-
Đầu đề thơng báo: Loại đầu đề này tóm tắt tồn bộ bài báo để
cung cấp thơng tin chính cho độc giả.
Ví dụ : Châu Á tắt đèn trong giờ Trái Đất
- Đầu đề kích thích: Loại đầu đề này phản ánh cái thần của bài báo
hơn là nội dung bài báo. Nó chỉ chứa một vài yếu tố liên quan đến chủ đề
của bài báo, làm cho độc giả tò mò, muốn đọc ngay lập tức.
-
Đầu đề hỗn hợp: Loại đầu đề này thường được dùng nhất, hồ
hợp của hai loại trên, nên vừa cung cấp thơng tin vừa gợi ý tị mị.
Cấu trúc tít có thề là một từ, một ngữ, một câu, một kết cấu cố định,
thậm chí một kết cấu đặc biệt:
- Tít báo có cấu trúc một từ ít được ưa dùng chỉ chiếm 1,6%.
- Tít có cấu trúc một ngữ là loại phổ biến nhất chiếm khoảng
54,94%. Trong số ba kiểu ngữ chính của tiếng Việt là danh ngữ, động ngữ,
và tính ngữ, thì danh ngữ là thích hợp hơn cả đối với cấu trúc của tít báo
chiếm 41,02%.
- Tít có cấu trúc là một câu có tỉ lệ khá cao là 31,35% nhưng khơng
phải cấu trúc đắc dụng cho tít do khả năng định dạng của nó rất kém.
6
6
- Tít báo có cấu trúc là một kết cấu cố định tuy không phổ biến (chỉ
chiếm 1,18%) nhưng rất hiệu quả trong trường hợp cần định danh sắc thái
biểu cảm.
II. Những loại tít thường gặp:
Ở hai tờ báo được nghiên cứu trong khoảng thời gian 1 năm từ tháng
6 năm 2013 đến tháng 6 năm 2014 có 147 tít báo về chủ đề biến đổi khí
hậu . Nhưng có thể tổng hợp lại thành một số loại thường thấy sau:
1.
Dùng con số để nhấn mạnh.
2.
Dùng cấu trúc bỏ lửng mà dấu lửng hiện diện ở giữa tít.
3.
Đặt ra những câu hỏi.
4.
Dùng các đơn vị của ngôn ngữ dân gian như thành ngữ, tục
ngữ, ca dao, dân ca...
5. Dựa theo tên các tác phẩm văn học, điện ảnh, tên ca khúc
nổi tiếng.
6. Dập lại những mẫu cấu trúc tít có sẵn hoặc cấu trúc tít
vốn là những chệch chuẩn đã từng nổi tiếng trong làng
báo.
7.Tạo ra những cấu trúc mới lạ, bất thường cho tít.
8.Dùng biện pháp tu từ (so sánh, ẩn dụ, ...)
7
7
9. Dùng những từ ngữ đang hoặc vẫn là điều bí ẩn dối với
đa số độc giả
10. Tạo ra một mệnh đề có vẻ ngược đời làm cho độc giả
khơng thể khơng tìm hiểu.
11. Đưa tên riêng lên dầu tít, dành phần cịn lại của tít khái
qt về đặc điểm, tính chất.... của tên riêng đó.
III. Những loại tít mắc lỗi:
Dù vậy vẫn có những bài mắc lỗi trong quá trình đặt tít .Tít là bộ
phận tương đối độc lập của bài, nhưng nó có mối quan hệ chặt chẽ với
bài.: Tít phản ánh đầy đủ nội dung của bài, thậm chí trong một số trường
hợp nó có tác dụng nâng bài lên một tầm cao hơn. Nhưng khơng ít trường
hợp nó làm hại đến bài. Các loại tít đó là: tít mơ hồ, tít phạm lỗi logic,tít
dùng từ, đặt câu sai, tít có những thành tố khơng có căn cứ, tít thiếu đặc
trưng.
1.
Tít mơ hồ:
Là hiện tượng mà với một cấu trúc ngơn ngữ có thể hiểu theo hai hoặc hơn
hai cách. Đây là một lỗi chứ không thể được coi là dụng ý nghệ thuật, bởi
nó tạo ra 2-3 cách hiểu một bài báo mà sự thực bài đó chỉ có một nội dung.
- Tít đặt thiếu từ chỉ quan hệ giữa các thành tố của nó. Đây
là nguyên nhân chủ yếu, chiếm 50% số tít mơ hồ.
8
8
- Tít có cấu trúc khơng thể hiện rõ được ý nghĩa quan hệ
giữa các thành tố
- Tít do xuất hiện từ đồng âm.
2.
Tít sai so với bài:
Đây là loại tít mà:
- Hoặc là to hơn bài (tít đưa vấn đề rộng, nhưng bài chỉ đề cập đến
một phần của vấn đề).
- Hoặc là nhỏ hơn bài (tít khơng khái quát được hết nội dung của
bài).
- Hoặc là không ăn nhập gì với bài.
- Hoặc là có những chi tiết khơng đúng với bài.
Ở dạng thứ nhất, có thể do tác giả đặt tít trước khi viết bài, hoặc đặt
tít để “câu khách”.
Ở dạng thứ hai, nguyên nhân chính là do khả năng khái qt hố của
tác giả khơng tốt, hoặc do chính những vấn đề của bài báo quá vụn vặt.
3.
Tít có độ dài q lớn:
Mặc dù chưa có tiêu chuẩn nào cho độ dài của tít, nhưng thường
những tít dài hơn 30 tiếng thường vượt qua ngưỡng của độc giả có trình độ
văn hố trung bình do họ khơng thể nhớ rõ ràng phần đầu tít khi đọc đến
cuối tít.
9
9
4. Tít thiếu căn cứ để hiểu:
Thực ra đây khơng phải là loại tít mắc lỗi nhưng do nó có những yếu tố
khơng có căn cứ để so sánh nên thơng tin định lượng ở tít rất ít hiệu quả.
5. Tít đặt theo mẫu có sẵn
Đây là tít có cấu trúc hết sức cơng thức.
III.PHẦN NHẬN XÉT
Trong q trình làm việc cả nhóm đã hết sức cố gắng để cơng việc được
hoàn thành theo tiến độ đã đề ra . Nhóm em gồm có 5 người và tất cả đều
chung sức để có thể tạo ra được kết quả .Trong cùng một nhóm các thành
viên đều trợ giúp lẫn nhau trong cơng việc, nếu đồng đội của mình gặp
khó khăn các bạn luôn sẵn sàng chia sẻ, giúp đỡ . Khi đã là một đội thì các
bạn ln biết tơn trọng và lắng nghe ý kiến của người khác, bởi trong
chúng ta khơng ai hồn hảo cả. được hồn thiện hơn. Lắng nghe cịn giúp
các thành viên trong nhóm hiểu nhau hơn, biết được điểm yếu của nhau để
cùng góp ý sửa chữa . Đồng thời ai cũng có trách nhiệm với những cơng
việc mình được giao để có thể hoàn thành tốt được bài tập này
Tuy nhiên trong quá trình thực hiện và mã hóa nhóm em cũng gặp khá
nhiều khó khăn khi các thành viên ở địa điểm xa nhau , sự liên kết luôn
phải linh động để các cơng việc đặc biệt phần mã hóa được hồn thành
Trên đây là phần báo cáo cá nhân của em , bài báo cáo này cịn nhiều thiếu
sót mong cơ giáo và các bạn có thể góp ý để có thể hoàn thiện hơn
10
10
Em xin chân thành cảm ơn
11
11