Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

42 vấn đề lý luận chức năng báo chí ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (83.08 KB, 15 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN: LỊCH SỬ LÝ LUẬN BÁO CHÍ VIỆT NAM

ĐỀ TÀI:

VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHỨC NĂNG BÁO CHÍ Ở NƯỚC TA

0


Câu 1: Lý luận báo chí ở nước ta đã nhận thức vấn đề chúc năng
báo chí như thế nào? Bằng thực tiễn hãy chứng minh.
Có thể nói rằng từ khi ra đời và phát triển đến nay, Báo chí Việt nam đã
làm tốt chức năng vai trò là tiếng nói, diễn đàn của các tầng lớp nhân dân.
Mặc dù nền Báo chí nước ta ra đời chậm so với các nước khác trên thế giới
nhưng Báo chí Việt nam nói chung và lý luận Báo chí nói riêng đã và đang
hồn thiện mình, tiếp tục có những bước phát triển vượt bậc cả về lý luận và
nội dung hoạt động. Báo chí ở nước ta đã nhận thức vấn đề chức năng báo chí
như thế nào và thực tế các chức năng này được thực hiện ra sao sẽ là nội dung
tiểu luận này đề cập Mặt khác, trên thực tế, nắm vững những vấn đề lý luận
về chức năng Báo chí và vận dụng vào thực tiễn chính là kim chỉ nam hành
động của mỗi nhà báo, để Báo chí thực sự.ngày càng làm tốt hơn vai trị tiên
phong trong cơng tác tun truyền tư tưởng, văn hóa, là công cự sắc bén
tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà
nước; đồng thời, là cầu nối, kịp thời phản ánh những tâm tư, nguyện vọng,
những nhu cầu cấp thiết của nhân dân.
Trước tiên chúng ta cùng hiệu khái niệm chức năng là gì? Theo tiếng
La tinh chức năng được hiểu là tổng hợp những vai trò và tác dụng của một
hoạt động nào đó trong tự nhiên và xã hội. Ngày nay, hệ thống báo chí thế
giới và ở Việt nam bao gồm nhiều loại hình khác nhau: báo in, báo phát thanh,
báo truyền hình, báo intemet...v.v. mỗi loại hình Báo chí có những thế mạnh


riêng, phong cách thể hiện biểu đạt riêng nhưng tựu chung lại các chức năng
Báo chí vẫn được các cơ quan Báo chí, mỗi nhà báo thực hiện nghiêm túc. Lý
luận Báo chí ra đời đã chứng minh sự ra dời và phát triển của Báo chí là do
nhiều nhân tố, trong đó nhấn mạnh nhiều đến nhu cầu thông tin của con người
khi bước chân vào xã hơi hiện đại.
Về mặt thực chất lý luận Báo chí ở nước ta không tách rời lý luận văn
chương. Trong một thời gian dài lý luận báo chí Việt nam là sự áp dụng gần
1


như ngun xi các lý luận của Báo chí Xơ viết trước đây cho đến những năm
đất nước khi đổi mới, có bổ sung các khảo cứu lý luận của báo chí Phương
Tây.
Chức năng của báo chí là gì? Liệu giờ đây có cịn đơn giản chỉ là tun
truyền, định hướng, giáo dục các đường lối chính sách của Đảng Nhà nước
khi cơ chế thị trường mở ra, các cơ quan báo chí nước nhà hầu như khơng cịn
được bao cấp nữa? Đó thực sự là câu hỏi trong bối cảnh chúng ta vận hành
theo nền kinh tế thị trường và liệu Báo chí có cịn làm tốt các chức năng của
mình? Đây cũng chính là những vấn đề lý luận Báo chí Việt nam đã quan tâm
nghiên cứu và đi sâu phân tích.
Như đã nói ở. trên, Báo chí cách mạng Việt Nam là một bộ phận quan
trọng trong công tác tuyên truyền của Đảng. Nhà báo là chiến sỹ xung kích
trên văn trận văn hóa - tư tưởng. Báo chí là cơng cụ sắc bén tun truyền
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước; đồng
thời, là cầu nối, kịp thời phản ánh những tâm tư, nguyện vọng, những nhu cầu
cấp thiết của nhân dân. Cũng như mọi nền báo chí, báo chí Việt Nam có nhiều
chức năng và nhiệm vụ. Tuy nhiên, do đặc trưng văn hóa và cũng xuất phát là
một bộ phận trong cơng tác văn hóa - tư tưởng của Đảng nên báo chí cách
mạng Việt Nam cũng có những đặc trưng riêng. Trong thực tiễn hoạt động và
lý luận có thế thấy một số đặc trưng của báo chí Việt Nam như sau:

Báo chí với chức năng thơng tin: đây là chức năng cơ bản mang tính
tiên quyết của báo chí. Báo chí tồn tại và phát triển là để đáp ứng nhu cầu
thông tin ngày càng cao của con người và xã hội. Xã hội ngày càng phát triển
thì nhu cầu thơng tin của quần chúng càng địi hỏi cao, đa dạng và phong phú
hơn. Ngồi ra, thơng tin báo chí cũng đồng thời là chất liệu và động lực của
sự phát triển kinh tế - xã hội
Chức năng định hướng, giáo dục chính trị, tư tưởng: Định hướng, giáo
đặc chính trị, tư tưởng thực chất là tuyên truyền và bảo vệ hệ tư tưởng của
giai cấp công nhân. Báo chí nước ta là cơng cụ tun truyền của Đảng, vì vậy,
2


trước hết, cần tuyên truyền, phổ biến chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước dấn mọi tầng lớp nhân dân để tạo nên các phong trào, các hành động
cách mạng mạnh mẽ. Đồng thời, báo chí cũng là diễn đàn của nhân dân. Báo
chí phản ánh một cách trung thực tâm tư, nguyện vọng, mong muốn của nhân
dân đối với Đảng và Nhà nước. Chức năng định hướng của báo chí chính là
khơng ngừng nâng cao nhận thức chính trị, tính tự giác của quần chúng nhân
dâm đồng thời, tạo lập dư luận xã hội theo đúng định hướng tuyên truyền của
Đảng.
Chức năng văn hóa, giáo dục: Báo chí là bộ phận cấu thành của văn
hóa, vì thế, nó trực tiếp góp phần phát triển, bảo tồn và giao lưu văn hóa. Nó,
trước hết, bồi đắp, hướng dẫn, nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân; góp
phần định hướng, điều chỉnh và có vũ xây dựng mơi trường văn hóa mới.
Chức năng giáo dục của báo chí là giáo dục tư tưởng chính trị, trách nhiệm
công dân, giáo dục pháp luật, trao đổi kỹ năng sống,... cho cá nhân và cộng
đồng; phổ biến kiến thức, các thành tựu khoa học mới, hướng dẫn áp dụng,
chuyên giao công nghệ, tham gia cổ vũ, tổ chức thực hiện.
Chức năng giám sát, phản biện xã hội: Trong xã hội hiện đại, thơng tin

có vai trị đặc biệt quan trọng, chính thơng qua sử dựng và giám sát thơng tin
nên báo chí the hiện được chức năng giám sát và phản biện xã hội của mình.
Chức năng này thể hiện quyền lực của báo chí trong đời sống xã hội. Giám sát
xã hội của báo chí thực chất là giám sát bằng dư luận xã hội. Qua giám sát,
theo dõi một cách khách quan và có định hướng mà báo chí thể hiện vai trị
phản biện xã hội của mình. Phản biện xã hội theo nghĩa tích cực và xây dựng
là bản chất của báo chí cách mạng.
Chức năng giải trí: Trong xã hội hiện đại, cuộc sống của con người chịu
nhiều áp lực. Nhất là ở các đô thị, con người luôn trong trạng thái căng thẳng,
bức bối. Đây là lý do giải thích vì sao chức năng giải trí của báo chí trong xã
hội hiện đại ngày càng được quan tâm và đề cao. Giải trí khơng thuần túy là
3


một chức năng của báo chí mà cịn đáp ứng nhu cầu, địi hỏi của xã hội đối
với báo chí.
Khi đất nước ta mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế và vận hành theo cơ
chế thị trường thì trên cả thực tiễn và lý luận đều thừa nhận là có một chức
năng mới được hình thành đó là Chức năng quảng cáo - dịch vụ. Là nguồn
cung cấp thông tin cho đời sống xã hội nên quảng cáo - dịch vụ báo chí trong
điều kiện kinh tế thi trường và. tồn cầu hóa đã trở thành một hoạt động tất
yếu. Sự quảng bá thương hiệu, thu hút sự chú ý, giới thiệu sản phẩm, hướng
dẫn tiêu dùng, định hướng thị hiếu,. chỉ dẫn... đang là nhu cầu không chỉ của
giới kinh doanh, dịch vụ, giải trí mà cịn là đòi hỏi thiết yếu của đời sống xã
hội. Quảng cáo - dịch vụ là nhu cầu sống còn, nhu cầu tồn tại và phát triển của
bản thân xã hội hiện đại và của cả ca quan Báo chí.
Trong q trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn đánh
giá cao vai trị, chức năng của báo chí, coi trọng đội ngũ cán bộ báo chí, quan
tâm tới cơng tác lãnh đạo, quản lý báo chí để báo chí đóng góp tích cực vào
sự nghiệp cách mạng của đất nước. PGS- TS Tạ Ngọc Tấn đã nêu trong cuốn

Cơ sở lý luận về Báo chí trong đó các chức năng tư tưởng của Báo chí, các
chức năng quản lý và giám sát xã hội của Báo chí, chức năng khai sáng, giải
trí.v.v.
Trong cuốn Truyền thơng đại chúng tác giả cũng nêu các chức năng văn
hóa và chức năng kinh doanh, giải trí, dịch vụ... Như vậy xác định những
chức năng của Báo chí là vấn đề có ý nghĩa khơng những ở bình diện lý luận
mà cịn cả ở thực tiễn.
Trong những năm qua, cùng với những thành tựu đổi mới đất nước, báo
chí nước ta đã phát tiền nhanh về số lượng ấn phẩm, các loại hình báo chí (cả
báo viết, báo nói, báo hình, báo điện tử), về đội ngũ phóng viên, biên tập viên;
về cơ sở vật chất, tiềm lực tài chính và từng bước nâng cao về chất lượng.
Cho đến nay lý luận Báo chí ở Việt nam đã giải quyết phần nào một số quan
điểm lý luận cơ bản như đặc trưng xã hội của Báo chí. Càng ngày càng đi sâu
4


vào ban thể của Báo chí giải quyết mối quan hệ biện chứng nội dung và hình
thức. Phân tích.lý luận về chức năng của Báo chí là trang bị nghiên cứu lý
luận, phương pháp hoạt động, kinh nghiệm vận hành của các phương tiện
thơng tin đại chúng trong hồn cảnh lịch sử xã hội là tiền đề quan trọng để
bản thân đội ngũ những người làm báo không ngừng rèn luyện chuyên môn,
nghiệp vụ, trau dồi phẩm chất đạo đức, xây dựng và rèn luyện bản lĩnh của
người cầm bút để thực sự trở thành một chiến sỹ tiên phong trên mặt trận văn
hóa - tư tưởng của Đảng, xứng đáng với niềm tin, sự trông cậy và kỳ vọng của
nhân dân.

5


Câu 2: Sưu tầm một tác phẩm Báo chí bộc lộ quan điểm lý luận

Báo chí từ sau năm 2005 và phân tích quan điểm của mình.
TuanVietnam.net
Phản biện xã hội và sứ mệnh của nhà báo chân chính
Bài đã được xuất bản.: 17/06/2009 16:32 GMT+7
(TuanVietNam) - Báo chí đang góp phần thúc đẩy q trình dân chủ
hóa xã hội. Đó là quá trình lấy đối thoại thay cho độc thoại, lấy cạnh tranh
lành mạnh trên thị trường thay cho độc quyền và đặc quyền "xin cho".
Khơng có phản biện sẽ khơng có phát triển
Sẽ hiểu được rõ vai trị của báo chí trong cuộc sống hơm nay nếu thống
kê những sự kiện tiêu cực lớn, những sai lầm được bưng bít, những thủ đoạn
gian manh được bảo kê mà các nhà báo phát hiện, phanh phui, đưa ra dư luận
chiếm tỷ lệ thế nào so với cuộc đấu tranh từ bên trong tổ chức đẩy tới sự can
thiệp của Pháp luật. Con số thống kê đó sẽ là minh chứng sống động nói lên
sự góp sức rất đáng biểu dương của những nhà báo chân chính trong "cuộc
chiến đấu khổng lồ " như Bác Hồ đã chỉ ra trong Di chúc, nhằm "chống lại
nhũng gì đã cũ kỹ hư hỏng để tạo ra những cái mới mẻ tốt tươi"
Những nhà báo chân chính ấy đã thực hiện tốt chức năng phản biện xã
hội của báo chí. Khơng có "phản biện" sẽ khơng có phát triển. Trong khoa
học, điều ấy q rõ vì khoa học là một chuỗi sai lầm được sửa chữa. Mà sửa
chữa được, là nhờ có sự tranh luận nhằm phê phán cái sai và chấp nhận cái
đúng, cái sai bị loại bỏ để cho cái đúng được tiếp tục đúng.
Nhưng đâu phải chỉ. khoa học mới cần đến "phản biện". Những "sai
lầm được sửa chữa ' ấy không kiêng đè, loại trừ bất cứ một lĩnh vực nào trong
đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của một đất nước.
Như công cuộc "Đổi Mới" từng tạo ra một bước đột biến, đẩy tới sự
phục hưng đất nước với Đại hội. VI, thời điểm chín muồi của những tìm tịi
quyết liệt kể từ 1 979 với Nghị quyết 6 của BCHTƯĐ [khóa 4], chẳng là một
minh chứng sống động của "sai lầm được sửa chữa" đấy thôi !
6



Mọi chủ trương, chính sách, mọi chương trình kế hoạch không thể luôn
luôn đúng. Nếu không thường xuyên bám sát cuộc sống, nương theo sự vận
động, biến đổi và phát triển của cuộc sống để kịp thời điều chỉnh, sửa sai thì
khơng thể tránh khỏi những thất bại. Những thơng tin phản hồi từ nhiều
nguồn, chủ yếu là từ dưới lên, sẽ là tiền đề không thay thế được của sự điều
chỉnh, sửa sai ấy Báo chí với chức năng vốn có của mình sẽ phải đối diện với
cơng việc đầy thách thức này. Cùng với việc chuyến tải những chủ trương
đường lối đến với mọi người, những thông điệp từ trên xuống, báo chí thực
hiện chức năng chuyển tải những thơng tin phản hồi từ dưới lên để góp phần
quan trọng vào sự điều chỉnh và sửa sai ấy.
Hành trình nhận thức của con người là hành trình liên tục sửa sai. Vào
thế kỷ XV, bằng đường biển, Christopho Colombo đến được châu Mỹ mà cứ
ngỡ là án Độ. ông đã khẳng định đúng là "quả đất tròn". Thế là từ 6 thế kỷ
trước đây, cách nhìn trái đất phẳng theo hình vng là một cái nhìn sai lầm đã
bị vút bỏ. Quả đất trịn" chính là cái nhìn mới, hiện đại về thế giới vào lúc ấy.
Thếnhưng, nay thì lại có một cái nhìn mới về quả đất của chúng ta, "ngơi nhà
tồn cầu,, đã trở nên q chật chội với sự xuất hiện khái niệm "thế giới
phẳng". Khơng phải là quả đất từ "trịn" được thượng đế ép lại cho trở thành
"phẳng", mà là thế giới chúng ta đang sống trở thành "phẳng" nhờ trí tuệ của
con người, nhờ sự gắn kết toàn cầu của nối mạng ỉntemet! Chẳng phải đi
đường vòng, mà là trực diện, ngay tức thì, trước màn hình của máy vi tính.
Chiếc màn hình "phẳng" ấy đã kết nối những người ở khắp mọi nẻo
đường của thế giới, tại những góc khuất nhất của trái đất, hay ngay giữa chốn
phồn hoa đô hội, hoặc trong ca bin máy bay đang bay ở độ cao mười nghìn
mét, và xa hơn, trong khoang tàu vũ trụ. Trên mặt phẳng của chiếc màn hình
ấy, thế giới hiện ra như một biểu tượng của "thế giới phẳng". ĐÓ là "biểu
tượng" về thành tựu kỳ diệu của cuộc cách mạng công nghệ, trước hết là công
nghệ thông tin, "với việc thêu dệt những sợi đây trí tuệ từ kính và sóng radio,
lồi người bắt đầu nối kết tất cả các khu vực tất cả các quá trình, tất cả các

7


khái niệm thành một hệ thống khổng lồ. Từ nền tảng mạng lưới trí tuệ phơi
thai đó đã ra đời một nền tảng hợp tác cho nền văn minh của chúng ta"
(Thomas L.Friedman).
Với mạng intemet nối mạng tồn cầu thì sự bưng bít thơng tin là
chuyện ngớ ngẩn. CĨ khi, chính sự bưng bít ấy lại gợi thêm sự tị mị đến
người đọc tự tìm lấy thơng tin cho mình qua mạng.
Bởi vậy, trong thời.đại hiện nay, hơn bao giờ hết, báo chí có điều kiện
thực hiện sứ mệnh cao quý của mình theo khát vọng của Các Mác báo chí "là
cái thế giới ý tưởng khơng ngừng trào ra từ thực tế hiện thực, lại chảy trở về
hiện thực như một dịng thác đầy sinh khí".
Chỉ có thể là dịng thác đầy sinh khi, khi "báo chí sống trong nhân dân
và trung thực chia sẻ với nhân dân niềm hy vọng và nỗi lo lắng của họ, tình
yêu và lòng căm thù của họ, niềm vui và nỗi buồn của họ". Vì, dịng thác đầy
sinh khí đó chỉ có thể khởi nguồn từ trong cuộc sống của khối quần chúng
nhân dân vĩ dại, cuộc sống kiên cường và nhẫn nại, có thể âm thầm và lặng lẽ
nhưng cũng khơng thiếu những dồn dập, trào dâng, có thể giàu chất tráng ca
song cũng khơng thiếu những khúc bi ca.
Chỉ có điều, dịng chảy của cuộc sống miệt mài khơng một phút giây
ngừng nghỉ không là cái trước tiếp cái sau theo trình tự tuyến tính, mà ln
nảy sinh những nhân tố mới, những tương tác mới tạo ra khả năng hình thành
những hợp trội khơng dự báo trước được.
Trật tự mới, tố chức mới là do các thành phần liên kết, tương tác với
nhau mà tạo thành, chứ không phải được lập nên do một mệnh lệnh nào từ
bên ngoài hay từ bên trên quyết định. Cũng giống như tốc độ dịng sơng được
quyết định bởi sức cuộn chảy từ bên dưới, dịng sơng cuộc sống cũng vậy.
Ý chí và sức mạnh của nhân dân rồi sẽ quyết định sự phát triển của
chính nó. Lịch sử dân tộc ta đã chứng minh rõ điều đó. Đâu phải chúng ta tự

huyễn, một học giả nước ngoài đã từng đưa ra nhận định "lịch sử cổ xưa và

8


hiện đại cho thấy khả năng kỳ lạ của đất nước này trong việc tìm ra những
giải pháp độc đáo cho những vấn đề gặp phải" [Edouard De Penguilly].
Những "giải pháp độc đáo" ấy khơng là.sản phẩm ngẫu nhiên, tình cờ
mà là sự thể hiện bản lĩnh của dân tộc ta. Bản lĩnh ấy được hun đúc và rèn
luyện trong trường kỳ dựng nước và giữ nước của ông cha ta, cái bản lĩnh "có
cứng mới đứng được đầu gió".của một dân tộc ở vào một vị thế địa-chính trị
khơng mấy dễ dàng của một bán đảo đầu cầu của vùng Đông Nam Á nằm ở
ngả tư đường giao lưu quốc tế. Bản lĩnh ấy đã từng quyết định số phận của
đạo quân xâm lược từng kiểm soát một vùng lãnh thổ rộng lớn trải dài từ bờ
Thái Bình Dương đến bên kia Hắc Hái ở thế kỷ XIII. Cái đế chế vốn được xây
dựng trên lưng ngựa ấy lại bị đánh bại trên sóng biển Đơng nơi cửa sơng Bạch
Đằng!
Và sóng Bạch Đằng khơng chỉ cuộn lên một lần trong lịch sử Việt Nam
chống ngoại xâm. Báo chí cách mạng Việt Nam ln được tiếp sức từ dịng
thác đầy sinh khí " đó để kịp - thời đóng lên tiếng chuông cảnh báo, khởi
động tinh thần yêu nước và ý chí quật cường của dân tộc nhằm chống trả kịp
thời những mưu toan xâm hại đến chủ quyền đất nước.
Cùng với nhiệm vụ. trọng đại đó, nhiều trang báo đã thực hiện một
cách xuất sắc nhiệm vụ chuyên tải ý chí, nguyện vọng của nhân dân, phấn đấu
quyết liệt để có thể "là con mắt sáng suốt của tinh thần nhân dân" như C.Mác
đã yêu cầu.
Chỉ có thể trở thành "con mắt sáng suốt của tinh thần nhân dân", chứ
không là những bản sao lười nhác công văn chỉ thị dội từ trên xuống, khi mỗi
nhà báo chân chính nhận thức được sứ mệnh lớn lao nhưng cũng cực kỳ gian
khổ của họ để không lùi bước trước những thách thức.

Báo chí - tấm gương tinh thần trong đó nhân dân nhìn thấy bản
thân mình
Dõi theo những phóng sự nóng bỏng, những thơng tin giàu sức cảnh
báo, với nội dung truyền cảm đầy tính thuyết phục mà để thu thập được,
9


những người làm báo phải đổ mồ hôi sôi nước mắt, kế cả không loại trừ khả
năng bị đe doạ đến tính mạng, sẽ hiện ra được cuộc chiến đấu trên trận địa
này không kém phần cam go.
Sự nhanh nhạy trong nắm bắt thơng tin, tính chính xác trong nhìn nhận
và phân tích sự kiện của một. số nhà báo tài năng thể hiện trên nhiều trang của
những tờ báo được cơng chúng đón chờ, đã thổi một luồng sinh khí vào đời
sống xã hội. Xã hội nhận ra ở đó cách nhìn thẳng vào sự thật và dám nói lên
sự thật, phản ánh đúng ý chí và nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, từ đó,
tạo ra một áp lực của dư luận xã hội đấu tranh chống lại những tiêu cực,
những trì trệ, thối hóa biến chất đang. kìm hãm sự phát triển của đất nước.
Những trang báo, những cây bút ấy đã thực hiện tốt chức năng phản biện xã
hội của báo chí. Người đọc thực sự biết ơn những cây bút trung thực và can
đảm dám nói lên sự thật cho dù có phải trả giá đắt cho việc đó.
Thực hiện chức năng phản biện xã hội, báo chí đang góp phần thúc đẩy
q trình dân chủ hóa xã hội mà Nghị quyết Đảng đã đề ra. Đó là q trình
lấy đối thoại thay cho độc thoại, lấy cạnh tranh lành mạnh trên thị trường thay
cho độc quyền và đặc quyền "xin cho". Thói quen độc thoại tự dành cho mình
quyền được độc quyền chân lý, áp đặt tư duy, tùy tiện quy kết, theo nguyên lý
loại trừ, ai không nghe ta tức là chống ta. Còn đối thoại là biết lắng nghe, nhất
là lắng nghe những tiếng nói trái tai, những ý kiến phản hồi có góc cạnh,
nhằm làm phong phú thêm hiểu biết của mình để có thể loại cái giả, giữ cái
thật theo nguyên lý bổ sung. Tư duy hiện đại đã vượt qua sự cố chấp của
"nguyên lý loại trừ" mà bước vào "nguyên lý bổ sung": khuyến khích thái độ

lắng nghe để tiếp nhận thông tin, nhằm làm cho tri thức của mình ln ln
mới vì thế mà tạo đang được phong cách ứng xử khoan dung, cởi mở, thúc
đẩy sự hịa hợp, tin cậy lẫn nhau. Khơng có đối thoại cởi mở và thẳng thắn thì
khơng thể có phản biện xã hội lành mạnh nhằm tạo ra động lực của phát triển.
Mục tiêu của phản biện xã hội mà báo chí đang phấn đấu thực hiện là nhằm
tạo nên sự đồng thuận xã hội. Đồng thuận xã hội là động lực của sự phát triển
10


xã hội, đồng thuận càng cao thì sự phát triển càng bền vững. Đất nước ta đang
đối diện với những thách thức cam go từ biển, từ trời, từ cuộc khủng hoảng
kinh tế toàn cầu và những hiểm họa do môi trường bị tàn phá, mỗi một người
Việt Nam yêu nước đều khát khao được góp phần. mình vào nhiệm vụ. chung
của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Hơn lúc nào hết càng thấm thía
lời căn dặn của Bác Hồ: "Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng
lồ này cần động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực
lượng vĩ đại của toàn dân". Thực hiện sứ mệnh cao cả của mình, báo chí có
một vai trị khơng thể thay thế được trong cuộc chiến đấu khổng lồ đó để phấn
đấu sao cho mỗi trang báo phải là "tấm gương tinh thần trong đó nhân dân
nhìn thấy bản thân mình ".
Quan điểm nhàn xét.
Đọc hết bài báo chắc chắn sẽ có người hỏi rằng "Phải chăng Báo chí
khơng phản biện thì mất đi sức sống của mình" Xin trả lời hồn tồn khơng.
Từ khi ra đời và phát triển Báo chí mang trong mình các chức năng thơng tin,
tun truyền, động viên các nhân tố điển hình trong xã hội, mang chức năng
thơng tin giải trí.v.v. Bên cạnh sứ mệnh to lớn là tuyên truyền các chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước, cổ vũ động viên toàn dân ta đay
mạnh phong trào thi đua yêu nước, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế xã hội và góp phần chuyển tải, nâng cao kiến thức, trình độ văn hóa, thẩm mỹ
cho các tang lớp nhân dân, báo chí cách mạng Việt Nam cịn đảm nhiệm chức
năng, vai trò quan trọng là tham gia phản biện xã hội. Giám sát và Phản biện

xã hội là hai khái niệm chức.năng gắn bó mật thiết. Chỉ trên cơ sở giám sát
một cách nghiêm túc thì mới có thơng tin đầy đủ và thấu đáo làm tiền đề cho
phản biện.
Trong khoa học, phản biện cũng là một trong những cách thức chủ yếu
để các nhà nghiên cứu tiệm cận tới các chân lý khoa học. Còn trong đời sống
xã hội, phản biện là một công cụ không thể thiếu để tổ chức ra một xã hội dân
chủ. Ở đây, theo quan niệm của người làm tiếu luận, các đối tượng: hệ thống
11


bộ máy nhà nước, các cơ quan chức năng; đông đảo quần chúng nhân dân, các
tổ chức phi chính phủ, dư luận xã hội... đều vừa là đối tượng giám sát -phản
biện, vừa là đối tượng chịu sự giám sát - phản biện nhằm vào những chủ
trương, quyết sách, những hiện tượng, trào lưu, những quan điểm nảy sinh
trong thực tế đời sống chính trị, kinh tế, văn hố - xã hội. Mà diễn đàn của các
hoạt động này chính là Báo chí.
Bài báo trên ngồi việc phân tích vai trị, chức năng phản biện Báo chí
cịn cho thấy một thực tế là ngòi bút của những người phản biện được ví như
con dao hai lưỡi. Nếu người phản biện có động cơ lành mạnh, mục đích cao
đẹp, lương tâm trong sáng và ln có ý thức trân trọng những điều hay lê phải
thì sẽ góp phần thúc. đẩy đất nước phát triển văn minh, tiến bộ. Ngược lại,
nếu người phản biện có cái nhìn thiển cận, suy nghĩ nơng cạn, tư duy hẹp hịi,
thái độ cực đoan thì chỉ càng làm lịng người phân tán, xã hội phân tâm.
Tóm lại, với tư cách là diễn đàn rộng rãi của tồn xã hội, việc phản biện
trên báo chí là một trong những chức năng vô cùng quan trọng. Tuy nhiên khi
thực hiện chức năng phản biện, Báo chí cần tơn trọng những chuẩn mực đạo
đức cộng đồng, truyền thống văn hóa của dân tộc, tuân theo những quy định
của Hiến pháp, pháp luật và vì lợi ích tối cao của Tố quốc có như vậy Báo chí
mới làm tốt được vai trị,.chức năng của mình trong đời sống xã hội.


12


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS Nguyễn Văn Dùng (chủ biên). Báo chí - Những điểm nhìn
từ thực tiễn. NXBVHTT, H.2000, (tập I); H 2001, (tập II).
2. PGS..TS Trần Thế Phiệt-tác phẩm báo chí, tập 3. NXB Giáo dục,
H.1995.
3. PGS.TS Nguyễn Văn Dùng (chủ biên) - Tác phẩm báo chí tập hai NXB Lí luận chính trị
4. Nhà báo Hữu Thọ: Nghĩ về nghề báo. NXB Giáo dục, H.1997.
5. PGS.TS Trần Thế Phiệt: Lịch sử nghiên cứu lý luận báo chí ở Việt
Nam (Giáo trình dành cho đào tạo sau đại học- Học viện Báo chí và Tuyên
truyền)
6. Tạp chí Xây dựng Đảng các năm 2010, 2011.
7. Tạp chí Cộng sản các năm 2010, 2011

13


MỤC LỤC
Câu 1: Lý luận báo chí ở nước ta đã nhận thức vấn đề chúc năng báo chí như
thế nào? Bằng thực tiễn hãy chứng minh..........................................................1
Câu 2: Sưu tầm một tác phẩm Báo chí bộc lộ quan điểm lý luận Báo chí từ
sau năm 2005 và phân tích quan điểm của mình...............................................6
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................13

14




×