Lời mở đầu
Lịch sử phát triển của nhân loại đã trải qua những bớc thăng trầm khác
nhau song có thể nói cổ phần hoá (CPH) doanh nghiệp Nhà nớc là một nấc
thang tất yếu lịch sử trên con đờng trở thành nớc phát triển của bất cứ quốc gia
nào. Chính vì vậy cổ phần hoá là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn đặc
biệt quan trọng đối với nớc ta, một nớc có nền kinh tế chậm phát triển so với
thế giới. Trong công cuộc đổi mới ở nớc ta, vấn đề đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế đặc biệt đợc coi trọng nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang chuyển
đổi cơ chế quản lý kinh tế từ tập trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị tr-
ờng có sự quản lý vĩ mô của Nhà nớc. Có hiểu rõ nguồn gốc và bản chất của
cổ phần hoá cũng nh vai trò của cổ phần hoá trong nền kinh tế thị trờng chúng
ta mới khắc phục đợc tình trạng tụt hậu về kinh tế của đất nớc, nâng cao không
ngừng đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân vì mục tiêu dân giầu, nớc
mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bớc đi lên CNXH.
Vấn đề cổ phần hoá không phải đến bây giờ mới đợc đề cập mà đã đợc
Đảng đề ra từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. Và luôn coi trọng đó là
nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Song chỉ mới vài
năm gần đây vấn đề CPH mới đợc đa lên tầm cao mới, chiều sâu mới nhằm
từng bớc tạo ra thế và lực mới cho đất nớc. Chính vì hiểu đợc tầm quan trọng
và tính cấp thiết của vấn đề CPH mà em đã chọn đề tài này với hy vọng phản
ánh đợc phần nào thực tế sôi động và bức xúc của công cuộc CPH hiện nay.
Em xin chân thành cảm ơn sự hớng dẫn tận tình của thầy giáo Mai Hữu
Thực giáo viên hớng dẫn bộ môn Kinh tế chính trị trờng Đại học Kinh tế Quốc
dân để em hoàn thành tốt đề án này. Vì đây là lần đầu tiên em viết một bài đề
án có tính chất quan trọng và do thời gian có hạn nên không tránh khỏi những
thiếu xót và hạn chế nhất định, rất mong đợc sự đóng góp ý kiến của thầy giáo
cùng các bạn để đề án đợc hoàn chỉnh hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
A- Phần mở đầu
1
Từ thực tiễn tiến hành công cuộc phát triển nền kinh tế đất nớc theo
định hớng xã hội chủ nghĩa và những kinh nghiệm thu đợc qua quá trình chỉ
đạo điều hành sản xuất kinh doanh, chúng ta ta đã xác định đợc rằng cải cách
doanh nghiệp Nhà nớc (DNNN) một cách triệt để là yêu cầu có tính quyết
định để tăng cờng động lực phát triển sản xuất và thúc đẩy doanh nghiệp Nhà
nớc hoạt động có hiệu quả hơn.
Trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nớc ta đã kiên trì tập trung tiến
hành công tác sắp xếp, đổi mới các doanh nghiệp Nhà nớc và đã đạt đợc một
số kết quả nhất định nh giảm mạnh số lợng doanh nghiệp Nhà nớc, nâng quy
mô vốn bình quân, giả bớt đợc sự tài trợ của ngân sách, tạo điều kiện cho hoạt
động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp của các doanh nghiệp, bớc
đầu đã phát huy đợc quyền chủ động kinh doanh của đơn vị kinh tế cơ sở,
giảm mạnh sự can thiệt hành chính vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy
nhiên do đặc điểm và thực trạng doanh nghiệp Nhà nớc của nớc ta, việc sắp
xếp đổi mới doanh nghiệp Nhà nớc vẫn phải tiến hành một cách thận trọng,
lâu dài vì phải giải quyết đồng bộ nhiều vấn đề phức tạp trong cả lĩnh vực kinh
tế và lĩnh vực đời sống xã hội mới đạt đợc kết quả mong muốn.
Hiện nay, bên cạnh các khó khăn chủ quan xuất phát từ nội bộ nền kinh
tế, thì biến động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực đã ảnh hởng
theo chiều hớng xấu đến nền kinh tế nớc ta. Điều này cho thấy tính cấp bách
phải khẩn trơng nâng cao hiệu quả là sức cạnh tranh của nền kinh tế để đảm
bảo cho sự phát triển đất nớc một cách ổn định, vững chắc không những cho
những năm trớc mắt mà cho cả tơng lai lâu dài. Nghị quyết hội nghị Trung ơng
4 (Khoá VIII) đã giành một phần quan trọng cho mục tiêu đổi mới mạnh mẽ
các doanh nghiệp Nhà nớc, phấn đấu đa chúng thực sự trở thành lực lợng chủ
đạo dẫn dắt các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác cùng phát
triển, làm nòng cốt thực hiện thành công tiến trình CNH - HĐH đất nớc và hội
nhập kinh tế thế giới có hiệu quả. Tiếp theo, Chính phủ đã có chỉ thị số 20/TTg
ngày 21/4/1998 trong đó đã đề ra chơng trình, kế hoạch cụ thể triển khai thực
hiện và quyết tâm thông qua đợt xắp xếp này để hình thành một cơ cấu doanh
nghiệp Nhà nớc hợp lý, mạnh, đợc quản lý tốt. CPH là một trong những nội
dung quan trọng của quá trình đổi mới sắp xếp doanh nghiệp Nhà nớc. Chủ tr-
ơng CPH doanh nghiệp Nhà nớc lần đầu tiên đợc nêu tại nghị quyết hội nghị
lần thứ hai BCH Trung ơng khoá VII (tháng 11/1991) và tiếp tục đợc cụ thể
hoá tại nghị quyết hội nghị giữa nhiệm kỳ khoá VII (tháng 1/1994), nghị quyết
10/NQ - Trung ơngcủa Bộ chính trị ngày 17/3/1995 thông báo số 63/TB - TƯ
ngày 4/4/1997, và đợc khẳng định rõ hơn tại nghị quyết đại hội VIII, nghị
quyết hội nghị Trung ơng lần thứ IV (khoá VIII).
Mục tiêu nhất quán của cổ phân hoá một bộ phần doanh nghiệp Nhà n-
ớc là để huy động vốn, tạo điều kiện để ngời lao động đợc làm chủ thực sự
trong doanh nghiệp, tạo động lực bên trong, thay đổi phơng thức quản lý nhằm
nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp, đồng thời làm tăng tài
sản và thay đổi cơ cấu doanh nghiệp. Qua cổ phần hoá, hình thức sử hữu tại
doanh nghiệp đã chuyển từ sở hữu Nhà nớc duy nhất sang sở hữu hỗn hợp, và
chính từ đây dẫn đến những thay đổi quan trọng về hình thức tổ chức, quản lý
2
cũng nh phơng hớng hoạt động của Công ty. Doanh nghiệp Nhà nớc sau khi
CPH sẽ trở thành Công ty cổ phần, hoạt động theo luật Công ty. Việc đa dạng
hoá các hình thức sở hữu cho phép thực hiện triệt để những nguyên tắc quản lý
kinh tế nâng cao quyền tự chủ tài chính và khả năng tự quản trong sản xuất
kinh doanh, nâng cao tinh thần trách nhiệm cũng nh óc sáng tạo của ngời lao
động và ngời lãnh đạo doanh nghiệp. CPH chính là biện pháp có hiệu quả để
sử dụng đồng vốn đợc tốt nhất. Doanh nghiệp CPH sẽ thu hút đợc ngày càng
nhiều vốn nếu sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Nhất là khi đã hình thành thị
trờng chứng khoán.
B- Nội dung
I- Một số vấn đề lý luận về CPH doanh nghiệp Nhà
nớc
CPH là loại Công ty đợc thành lập do nhiều ngời bỏ vốn ra (cổ đông)
tiền vốn đợc chia thành các cổ phần bằng nhau, ngời hùn vốn với t cách là cổ
đông sẽ mua đợc một số cổ phần đó.
Theo luật Công ty ở nớc ta, Công ty cổ phần là Công ty trong đó:
- Số thành viên gọi là cổ đông mà Công ty phải có trong suốt thời gian
hoạt động ít nhất là bẩy.
Vốn điều lệ của Công ty đợc chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ
phần. Giá trị mỗi cổ phần gọi là mệnh giá cổ phiếu. Mỗi cổ đông có thể mua
một hoặc nhiều cổ phiếu.
- Cổ phiếu đợc phát hành có thể ghi tên hoặc không ghi tên. Cổ phiếu
của sáng lập viên, của thành viên hội đồng quản trị phải là những cổ phiếu có
ghi tên.
- Cổ phiếu không ghi tên đợc tự do chuyển nhợng. Cổ phiếu có ghi tên
chỉ đợc chuyển nhợng nếu đợc sự đồng ý của hội đồng quản trị. Công ty cổ
phần đợc tự do đặt tên. Trên bảng hiệu, hoá đơn quảng cáo, báo cáo, tài liệu,
giấy tờ giao dịc khác của Công ty đều pahỉ ghi tên Công ty kèm theo các chữ
"Công ty cổ phần" và vốn điều lệ.
1- Sự cần thiết phải CPH doanh nghiệp Nhà nớc .
Thực trạng hoạt động thiếu hiệu quả của các doanh nghiệp Nhà nớc.
Đây là nguyên nhân quan trọng kiến cho hầu hết các chính phủ đi đến quyết
định cổ phàn hoá các doanh nghiệp Nhà nớc. Do đâu mà có tình trạng này ?
Một điều dễ nhận thấy nhất là ngay cả những điều kiện thuận lợi thì hiệu quả
của các xí nghiệp quốc doanh cũng chỉ đạt đợc mức thấp hơn nhiều so với mức
trung bình của khu vực kinh tế t nhân. ở những nớc phát triển và Đông Âu,
các xí nghiệp quốc doanh đợc gọi là có hiệu quả cũng cần đợc cân nhắc vì thị
trờng ở đây có sự sai lệch lớn do giá cả bị điều tiết, không phải phản ánh đúng
tính khan hiếm hay các chi phí cơ hội thực tế và những doanh nghiệp này th-
ờng có vị trí độc quyền, đợc Nhà nớc bảo hộ và không có sự cạnh tranh với
3
hàng nhập khẩu, mặc dù về quản lý đã đợc điều hành không có hiệu quả của
các doanh nghiệp Nhà nớc.
+ Hệ thống kế hoạch hoá tài chính cứng nhắc không có tính chất thích
ứng với cơ chế thị trờng vì đợc quản lý theo hệ thống hành chính từ trên xuống
với nhiều cấp trung gian. Nguồn tài chính đợc sử dụng hoàn toàn theo kể
hoạch đợc duyệt đầu năm, không có sự chuyển đổi linh hoạt nhằm sử dụng
hợp lý nguồn vốn và cũng không đợc chuyển sang cho năm sau. Điều này làm
cho các kế hoạch tài chính của doanh nghiệp không có động cơ tiết kiệm, vì
vậy không hợp lý hoá dợc sản xuất và giá thành luôn phải cộng nhiều chi phí
so với các doanh nghiệp t nhân.
+ Tính tự chủ trong quản lý và hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp Nhà nớc, do đó gây ra nhữnh yếu tố làm cản trở đến hoạt động
có hiệu quả của doanh nghiệp.
+ Tình trạng độc quyền của các doanh nghiệp Nhà nớc trên thị trờng
pháp luật của Nhà nớc củng cố đã đánh mất những động lực nâng cao hiệu quả
hoạt động của các doanh nghiệp này, đa đến tình trạng xã hội buộc phải chấp
nhận tiêu dùng các hàng hoá và dịch vụ do chúng sản xuất ra với chất lợng ít
đợc cải tiến nhng giá cả ngày càng tăng không hợp lý và nếu không tăng giá
thì Nhà nớc phải chịu những gánh nặng trợ cấp ngày càng lớn.
+ Các doanh nghiệp Nhà nớc đợc thành lập nguồn vốn của Nhà nớc
không đợc phép phá sản và đợc trợ cấp từ ngân sách họăc đợc sử dụng các
nguồn vốn nội bộ với lãi suất thấp hoặc đợc u tiên tiếp cận đợc với các nguồn
tài chính nớc ngoài. Vì vậy, các doanh nghiệp Nhà nớc không có các yếu tố
kích thích phải nâng cao hiệu quả để tồn tại trong cạnh tranh đối với các doanh
nghiệp t nhân.
+ Động cơ của các doanh nghiệp Nhà nớc chỉ nhằm cố gắng tránh né sự
thẩm xét của các cơ quan cấp trên trớc những sản phẩm và dịch vụ đối với ng-
ời tiêu dùng, cũng nh tránh né sự xung đột trong nội bộ, tránh né sự cải tổ, đổi
mới tổ chức quản lý để nâng cao hiệu quả, đảm bảo cho xí nghiệp có điều kiện
hoạt động dễ chịu và ổn định. Do đó mua sắm trang bị ngày càng d thừa, biên
chế ngày càng phình to dẫn đến chi phí quá mức so với nguồn thu.
Thâm hụt ngân sách và nợ nớc ngoài. Đây cũng là một nguyên nhân
quan trọng thúc đẩy các nớc phải tiến hành CPH vì các khoản trợ cấp ngày
càng lớn cho khu vực kinh tế quốc doanh dể đảm bảo Nhà nớc kiểm soát giá
cả sản phẩm hoặc trang trải các chi phí về giá vốn đợc duy trì thấp để ổn định
sản xuất ở một số ngành. Ngoài các khoản trợ cấp trực tiếp còn có khoản gián
tiếp bị che dấu nh u tiên vốn và ngoại tệ để nhập khẩu cho các doanh nghiệp
Nhà nớc với giá cả kông phản ánh đợc khan hiếm của chúng.
Kết quả tài chính nghèo nàn của các doanh nghiệp Nhà nớc làm tăng sự
phụ thuộc của chúng vào ngân sách Nhà nớc. Thực tế, các nguồn tài chính có
thể đợc chính phủ huy động và vay nợ để trang trải thâm hụt ngân sách ngày
càng suy giảm đã làm bộc lộ nghiêm trọng sự yếu kém của các doanh nghiệp
Nhà nớc và điều này đã làm cho việc đánh giá lại vai trò của khu vực kinh tế
này ngày càng trở lên cấp bách.
4
Sự thay đổi quan điểm về vai trò điều tiết nhà nớc trong nền kinh tế thị
trờng. Đây là nguyên nhân nhận thức dựa trên thực tiễn đã thay đổi về tình
hình phát triển kinh tế theo hớng trì trệ và hiệu quả thấp hầu hết ở các nớc.
Vấn đề đa dạng hoá sở hữu đợc đặt ra và thực hiện do sự thay đổi nhận thức từ
chỗ nhấn mạnh vai trò của khu vực kinh tế Nhà nớc đến chỗ tộn trọng nhiều
hơn vào khu vực kinh tế t nhân và vai trò điều tiết của cơ chế thị trờng. Đây
cũng là một bớc phát triển mới về nhận thức đối với nền kinh tế thị trờng hỗn
hợp trong đó vai trò Nhà nớc đợc coi nh là một biển số của sự phát triển kinh
tế - nó chỉ có sự thúc đẩy khi sự can thiệp và điều tiết ở mức độ hợp lý dựa trên
sự tôn trọng các quy luật thị trờng.
- Thực chất của cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nớc.
Xét về mặt hình thức, CPH là việc Nhà nớc bán 1 phần hay toàn bộ giá
trị cổ phần của mình cho các đối tợng tổ chức hoặc t nhân trong và ngoài nớc
hoặc cho cán bộ quản lý và công nân của xí nghiệp bằng đấu giá công khai
hay thông qua thị trờng chứng khoán để hình thành các công ty trách nhiệm
hữu hạn hoặc công ty cổ phần. Xét về mặt thực chất, cổ phần hoá chính là ph-
ơng thức thực hiện xã hội hoá sở hữu, chuyển hình thái kinh doanh một chủ
với sở hữu Nhà nớc trong doanh nghiệp thành công ty cổ phần với nhiều chủ
sở hữu để tạo ra một mô hình doanh nghiệp phù hợp với nền kinh tế thị trờng
và đáp ứng đợc yêu cầu của kinh doanh hiện đại.
- Mục tiêu của CPH doanh nghiệp Nhà nớc.
Chuyển doanh nghiệp Nhà nớc thành công ty cổ phần nhằm đạt các
mục tiêu sau.
+ Huy động vốn cho toàn xã hội, bao gồm cá nhân, các tổ chức kinh tế,
tổ chức xã hội trong nớc và ngoài nớc để đầu t đổi mới công nghệ, tạo thêm
việc làm, phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh, thay đổi cơ cấu
doanh nghiệp Nhà nớc.
+ Tạo điều kiện để ngời lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và
những ngời đã góp vốn đợc làm chủ thực sự, thay đổi phơng thức quản lý tạo
động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng tài sản Nhà nớc,
nâng cao thu nhập của ngời lao động, góp phần tăng lợng kinh tế đất nớc.
Trong nền kinh tế thị trờng thực thụ (tức là cái "Rốn" bao cấp của Nhà
nớc đã đợc cắt bỏ hoàn toàn) thì xu hớng cổ phần hoá một bộ phận các doanh
nghiệp Nhà nớc đã diễn ra nh là một quy luật.
- Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh quá trình cổ phần hoá
diễn ra nh sau:
+ Các doanh nghiệp nhỏ, nếu không muốn bị phá sản thì phải góp vốn
(Góp cổ phần) để tạo ra một doanh nghiệp lớn (công ty cổ phần) có sức cạnh
tranh lớn hơn. Bởi vì doanh nghiệp lớn thờng có lợi thế hơn doanh nghiệp nhỏ
trong việc nâng cao năng xuất lao động, hạ giá thành, đổi mới quy trình công
nghệ .... để cuối cùng hoặc là có giá bán rẻ hơn hoặc là tuy giá không hạ nhng
chất lợng mẫu mã tốt hơn, tiêu thụ nhanh và nhiều hơn đối với một sản phảm
cùng loại.
+ Các doanh nghiệp lớn, nếu không muốn bị phá sản, cũng phải hoặc là
đầu t vốn của mình vào nhiều doanh nghiệp khác bàng cách mua cổ phiếu của
5
các công ty cổ phần hoặc là phân tán sự rủi ro cho nhiều ngời khác bằng cách
bán cổ phần cho nhiều doanh nghiệp. Thức chất cách làm này là phân chia sự
rủi ro cho nhiều doanh nghiệp để hởng lợi bình quân ổn định về toàn bộ vốn
đã đầu t.
Nh vậy việc thành lập một công ty cổ phần trong trờng hợp này là rất
thuận lợi vì mọi cổ đông đeèu có chung 1 mục tiêu lên họ đến với nhau, thông
qua điều lệ, bầu giám đốc... là hoàn toàn tự chủ và tự nuyện. Hầu nh không có
sự cỡng bức mất dân chủ nào ngoại trừ số vốn góp của mỗi ngời là khác nhau,
lên tiếng nói của họ và lợi tức họ hởng là không giống nhau.
Đối với các doanh nghiệp Nhà nớc thì lý do cổ phần có khác và do vậy
cách thức tiến hành cổ phần hoá cũng khác .
Thực tiễn nhiều thập kỷ dã chứng minh là kinh tế quốc doanh kém hiệu
quả hơn so với kinh tế tập thể và kinh tế t nhân. Cũng có những trờng hợp khác
biệt, trong những điều kiện đặc biệt, với một thời gian ngắn, kinh tế quốc
doanh vẫn có thể làm ăn có lãi, phát triển. Nhng nhìn tổng quát, lâu dài thì
kinh tế quốc doanh kém hiệu quả .
Vì doanh nghiệp Nhà nớc thờng làm ăn kém hiệu quả, thua lỗ nên Nhà
nớc buộc phải có chính sách tài trợ bao cấp - Tài trợ, là một sách lợc, luôn cần
thiết nhằm đảm bảo cho các doanh nghiệp Nhà nớc hoạt động tốt các chủ tr-
ơng phát triển kinh tế - xã hội của Chính phủ. Còn bao cấp là việc không đáng
làm, vì Nhà nớc phải bù lỗ cho những doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả
và thực ra không cần phải duy trì hình thức quốc doanh. Nh vậy là cũng một
khoản tiền mà chính phủ cấp cho 1 doanh nghiệp Nhà nớc cụ thể nào đó có thể
coi là tài trợ hay là bao cấp phụ thuộc vào việc xác định doanh nghiệp đó có
cần là quốc doanh hay không. Xácc định đúng một doanh nghiệp là quốc
doanh hay ngoài quốc doanh là rất khó và tiêu chuẩn để xác định cũng luôn
luôn thay đổi tuỳ thuộc vào sự thay đổi chiến lợc và sách chiến lợc phát triển
kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn của Chính phủ.
Lịch sử phát triển kinh tế đã cho thấy: Sau đại chiến thế giới thứ II, các
nớc đua nhau thành lập doanh nghiệp Nhà nớc, đặc biệt là ở các nớc xã hội
chủ nghĩa và các nớc muốn bắt chớc mô hình của Liên- Xô (cũ). Nhng đến
1970 thì đa số các nớc trên thế giới đã nhận ra rằng: Kinh tế quốc doanh là
kém hiệu quả và chứa đựng nhiều yếu kém. Từ đó cho đến nay ở những mức
độ khác nhau với các biện pháp không hoàn toàn giống nhau, các nớc dang tìm
cách cải tổ khu vực kinh tế quốc doanh mà CPH đợc coi là 1 giả pháp quan
trọng và phổ biến.
2- Tầm quan trọng của việc CPH doanh nghiệp Nhà nớc.
Qua thực tiễn tiến hành công tác CPH ở nớc ta và qua kinh nghiệm của
một số nớc xung quanh, chúng ta thấy việc CPH đáp ứng đợc yêu cầu bức thiết
của công cuộc cải cách doanh nghiệp Nhà nớc trong việc giải quyết một số
vấn đề gay cấn nh:
- Khắc phục việc buông lỏng quản lý tài sản của doanh nghiệp, xoá bỏ
tình trạng "vô chủ" của doanh nghiệp. Mặc dù chủ trơng giao quyền tự quản
cho các doanh nghiệp Nhà nớc la giải pháp đạt kết quả nhất định, nhng mới
chỉ đẩy lùi đợc chế độ bao cấp của Nhà nớc đối với doanh nghiệp Nhà nớc,
6
còn về nhận thức thì tài sản của doanh nghiệp Nhà nớc vẫn là "tài sản chung",
cho nên tình trạng vô trách nhiệm, lãng phí của công vẫn cha đợc khắc phục.
Khi doanh nghiệp Nhà nớc trở thành Công ty cổ phần thì mặc nhiên điều này
sẽ không còn tồn tại.
- Huy động đợc nguồn vốn trong xã hội. Cung cấp cho mọi hoạt động
sản xuất kinh doanh và đầu t phát triển của doanh nghiệp, một mặt, vừa góp
phần tháo gỡ đợc khó khăn cho ngân sách Nhà nớc không phải chu cấp cho
doanh nghiệp. Mặt khác, vốn và tài sản doanh nghiệp Nhà nớc, nhờ CPH, thu
hồi lại sẽ đợc đầu t, mở rộng sản xuất, tăng thêm tài sản cố định, góp phần
thúc đẩy tăng trởng kinh tế.
Tác động lực mới trong quản lý doanh nghiệp ở Công ty cổ phần quyền
lợi của những ngời chủ mới của doanh nghiệp gắn chặt với sự thành bại của
hoạt động sản xuất kinh doanh, vì thế họ rất đoàn kết gắn bó và thống nhất
trong việc tìm kiếm và đa ra phơng hớng hoạt động phù hợp nhất của doanh
nghiệp, nhằm củng cố tăng cờng sức cạnh tranh của sản phẩm do họ sản xuất
ra, quan tâm, đến công việc của Công ty và lao động tích cực với tinh thần
trách nhiệm cao.
Thực tế ở các doanh nghiệp đã chuyển sang Công ty cổ phần đều cho
thấy hiệu quả hoạt động kinh doanh tăng lên rõ rệt. Nhờ hiệu quả đợc nâng
cao nên tăng thêm việc làm, tăng thu nhập cho cổ đông (trong đó có cổ đồng
Nhà nớc và ngời lao động) vừa đợc hởng cổ thức ở mức cao, vừa tăng giá trị
vốn góp tại Công ty. Ngoài việc tăng trởng đợc vốn góp, đợc chia cổ tức, các
khoản nộp ngân sách Nhà nớc cũng tăng nhanh. Kết quả này đã làm khích lệ
một số ngành, địa phơng, tổng Công ty Nhà nớc tích cực hơn trong việc triển
khai khi CPH.
3- Vai trò của cổ phần hoá trong nền kinh tế hiện đại.
Thực hiện chính sách nân cao hiệu quả kinh tế và sức cạnh tranh của
của các doanh nghiệp Nhà nớc, Đảng và Chính phủ đã coi CPH là một trong
những biện pháp tích cực nhằm tăng cờng vai trò chủ đạo của Kinh tế Nhà n-
ớc, thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển. Làm tốt CPH sẽ góp phần:
- Giải quyết tốt vấn đề sở hữu công cộng, cụ thể hoá quyền sở hữu của
ngời lao động, tạo diều kiện cho quần chúng lao động tham gia làm chủ doanh
nghiệp một cách thiết thực.
Tăng vốn, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh, tăng sức cạnh tranh của
các doanh nghiệp Nhà nớc, giúp các doanh nghiệp có sức và cơ hội mở rộng
thị trờng, tiếp thu kinh nghiệm quản lý tiên tiến, ứng dụng công nghệ hiện đại.
- Góp phần đắc lực và đạt hiệu quả cao để thực hiện thành công chủ tr-
ơng chuyển đổi cơ cấu kinh tế của Đảng và Nhà nớc.
- Huy động tối đa sức dân vào công cuộc xây dựng đất nớc. Bằng biện
pháp kinh tế, tiết kiệm trong dân c, CPH đã huy động một cách tự nguyện và
tối đa cho chơng trình kinh tế.
- Tạo cơ sở thúc đẩy quá trình ra đời, hoàn thiện và phát triển thị trờng
tài chính, chứng khoán ở Việt Nam.
Thực tế quá trình CPH thời gian qua đã làm tăng hiệu quả kinh doanh
và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp. Đây là vấn đề mấu chốt quyết định
7
đến khả năng nâng cao mức thu nhập của ngời lao động; đồng thời theo đó,
một vấn đề đợc coi là hoá búa nhất trong c cấu lại doanh nghiệp Nhà nớc - vấn
đề thất nghiệp - cũng đợc giải quyết thoả đáng. Các DNNN không những
không sa thải công nhân khi CPH, ngợc lại, trên thực tế, còn tuyển thêm nhiều
lao động mới vì hiệu quả kinh tế tăng lên, thị trờng mở rộng...
Về phía Nhà nớc, cái lợi vừa mang tính chiến lợc lại vừa cụ thể: ngân
sách Nhà nớc bớt đợc các khoản bao cấp, số thu ngân sách Nhà nớc tặng cho
doanh nghiệp làm ăn hiệu quả hơn. Mặt khác, thông qua cơ chế hoạt động của
loại hình doanh nghiệp CPH, Nhà nớc tạo ra đợc một cách quản lý mới, có
tính tập thể và hiệu quả cao. Thông qua hội đồng quản trị, từ nay, ngời lao
động cũng đợc tham gia vào quá trình quản lý và phân phối kết quả kinh
doanh của doanh nghiệp.
Nhng thực tế ở các nớc thị trờng phát triển (nh Anh, Pháp...) và ở các n-
ớc Đông Âu (nh Hungari, Ba Lan, Rumani, SNG...) đã cho thấy việc CPH các
DNNN là phức tạp khó khăn
4- Những khó khăn, khi tiến hành cổ phần hoá
Tính phức tạp của cổ phần hoá DNNN bắt nguồn từ nhiều lý do:
- Một là, quan niệm thế nào là DNNN và vai trò của nó trong nền kinh
tế quốc dân của mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi đảng phái,...thậm chí đến mỗi ngời
dân thờng không giống nhau, có lúc khác nhau rất lớn. Từ đó dẫn đến nhận
thức về hàng loạt các vấn đề khác cũng không thống nhất nh: những doanh
nghiệp nào để lại hình thức quốc doanh, doanh nghiệp nào cần CPH; cần phải
làm nhanh hay từ từ; coi lãnh đạo công việc này là đúng, là tốt; CPH bao nhiêu
phần trăm là vừa.v.v...
- Hai là, xử lý những vấn đề có tính chất nghiệp vụ trong quá trình CPH
là không đơn giản:
+ Xác định giá trị doanh nghiệp nh thế nào là chính xác?
+ Đất có tính vào giá trị doanh nghiệp không và tính nh thế nào?
+ Giải quyết vấn đề lao động nh thế nào khi DNNN chuyển sang Công
ty cổ phần?...
Ngoài những khó khăn có tính phức tạp gây ra nh trên, có một khó khăn
là một số DNNN không muốn CPH bởi họ cha hiểu rõ họ sẽ đợc gì, mất gì khi
chuyển sang Công ty cổ phần nghĩa là có lợi gì không? nên họ muốn chờ xem
đã; Do thiếu kiến thức và trách nhiệm nên họ rất ngại ngùng và lo lắng tiến
hành nh thế nào cho mọi việc đều êm đẹp cả.
Nói chung sự lo lắng chần chừ của các DNNN khi chuyển sang Công ty
cổ phần là tất nhiên và chính đáng. Ngời lao động không lo lắng sao đợc khi
cha biết ngày mai mình sẽ sống ra sao? có đợc tiếp tục làm việc hay không,
thu nhập có giảm không, tự do, dân chủ có đợc mở rông hơn không?...
Mọi câu hỏi đó chỉ có thể trả lời bằng chính sách và nội dung cụ thể về
CPH ở mỗi nớc, đặc biệt là vấn đề xử lý lợi ích của Nhà nớc và ngời lao động.
Song dù khó khăn phức tạp đến đâu, nhng nếu Chính phủ và toàn dân
nhận thức đợc rằng trong nền kinh tế thị trờng để phát triển và giầu có lên phải
CPH một nền kinh tế thị trờng để phát triển và giầu có lên phải CPH lớn các
DNNN thì công cuộc CPH nhất định sẽ tiến triển tốt. Bằng chứng là ở mức độ
8
thành đạt và sự nhanh chậm khác nhau, nhng từ năm 1980 đến nay các nớc
đều đạt đợc những thành tự về CPH và đang tích cực xúc tiến quá trình này
nhanh hơn nữa.
II- Kinh nghiệm CPH các DNNN ở một số nớc trên thế
giới.
1- Kinh nghiệm CPH ở Liên Xô (cũ)
Thờng "chơng trình đẩy mạnh hơn nữa công cuộc cải cách kinh tế của
Chính phủ liên bang Nga", những nhiệm vụ cơ bản của việc t nhân hoá cần
phải thực hiện trong vòng 3 - 4 năm. Hiện nay các vấn đề về tổ chức, lập pháp,
thể chế liên quan đến t nhân hoá đã đợc hoàn thành. Thời gian tiếp theo, t nhân
hoá sẽ đợc thực hiện theo "luật về t nhân hoá các xí nghiệp quốc doanh và
công cộng", đồng thời Liên bang Nga cũng tiến hành hoàn thiện các văn bản
dới luật, cũng nh hoàn thiện thêm bản thân luật t nhân hoá này.
Có phần giống nh Ba Lan, liên bang Nga tiến hành t nhân hoá theo 2 h-
ớng đó là t nhân hoá "nhỏ": T nhân háo ngành thơng nghiệp và dịch vụ, các xí
nghiệp công nghiệp lớn và những xí nghiệp quốc doanh lớn thuộc các ngành
khác.
Hiện nay Liên bang Nga đang bắt đầu tiến hành 2 hớng này với tên gọi
là giai đoạn t nhân hoá hàng loạt. Nhiệm vụ của giai đoạn này là tạo ra một
khu vực t nhân theo tiến trình sau: đến cuối 1993 sẽ chuyển sang khu vực t
nhân trên 30% toàn bộ giá trị tài sản sản xuất của đất nớc, đến cuối năm 1994
thêm 20% nữa, và đến cuối năm 1995 phải đạt đợc 60%. Trong số đó 80 - 85%
là chuyển cho không (sử dụng phiếu t nhân hoá và các u đãi cho tập thể lao
động).
Năm 1992 thực hiện bớc 1 là CPH các xí nghiệp lớn. Các cổ phiếu của
chúng hoặc do Nhà nớc nắm hoặc do tập thể lao động nắm. Với việc CPH này
sẽ này sinh một xu hớng ngợc lại, xu hớng đã hình thành trớc đây. Đó là xu h-
ớng giảm cơ cấu độc quyền, thiết lập các xí nghiệp nhỏ và vừa.. để thực hiện
có hiệu quả t nhân hoá "nhỏ" ngời ta dự kiến cho phép thuê thâu mặt bằng và
đất canh tác của các xí nghiệp đợc t nhân hoá, mở rộng khả năng cấp tín dụng
bằng cách đánh thuế bất động sản, tăng kích thích để mua các xí nggiệp cho
thuê thầu, không cho phép các cơ quan quản lý tài sản t nhân hoá có quyền thu
nhập nào khác ngoài một phần trích từ thu nhập do bán tài sản, chuyển phần
lớn tiền thu đợc do t nhân hoá cho ngân sách địa phơng.
Quá trình CPH phần lớn các xí nghiệp lớn của Liên bang Nga đợc tiến
hành vào tháng 7 đến tháng 10 năm 1992. Các xí nghiệp này sẽ đợc cải tạo
thành xí nghiệp cổ phần mở. Cổ phiếu của các xí nghiệp này đợc bán rộng rãi
để thu lại phiếu t nhân hoá đã phát cho nhân dân.
ở cấp xí nghiệp, để thực hiện CPH, ban giám đốc cùng với tập thể công
nhân sẽ soạn thảo ra một kế hoạch t nhân hoá, phơng án phân chia quyền lợi
cho ngời lao động, cách thức và tiến trình bán cổ phiếu, có thể bán đấu giá cổ
phiếu khống chế hoặc các nhóm cổ phiếu khác.
9
ở cấp Nhà nớc, chơng trình t nhân hoá có nêu một số phơng án phân
chia quyền lợi cho ngời lao động nh sau:
- Ngời lao động đợc chia 25% cổ phiếu u đãi không mất tiền mà có
quyền mua 10% cỏ phiếu, có quyền biểu quyết với giá giảm 30% so với danh
nghĩa. lãnh đạo xí nghiệp có thể mua theo tiêu chuẩn đến 5% tổng số cổ phiếu
có quyền biểu quyết.
- Công nhân có thể mua 51% cổ phiếu có quyền biểu quyết theo những
điều kiện do Nhà nớc quy định.
- Công nhân có quyền mua 20% cổ phiếu có quyền biểu quyết giảm giá
30%, và một nhóm công nhân có quyền mua 20% cổ phiếu có quyền biẻu
quyết theo những điều kiện đặc biệt, không giảm giá, nếu họ chịu trách nhiệm
không để cho xí nghiệp phá sản và thực hiện đúng kế hoạch t nhân hoá. Phơng
án này chỉ áp dụng những xí nghiệp có quy mô trung bình không phải CPH bắt
buộc.
Việc phát huy không hay bán theo những điều kiện u đãi một phần cổ
phiếu của xí nghiệp cho các thành viên tập thể lao động theo những phơng án
mà họ lựa chọn sẽ đợc thực hiện ngay trong tiến trình biến xí nghiệp thanh
Công ty cổ phần. ở các xí nghiệp sẽ thành một hội đồng giám sát bao gồm đại
diện của ban giám đốc, tập thể lao động, cơ quan t nhân hoá và chính quyền
địa phơng. Hội đồng giám sát tiến trình t nhân hoá theo kế hoạch đã định ở xí
nghiệp, kể cả việc thực hiện những u đãi đối với công nhân viên.
Vừa qua liên bang Nga không kể tuổi tác, địa vị xã hội, mức trhu
nhập.v.v... điều đợc phát phiếu t nhân hoá nh nhau. Với phiếu này họ có quyền
đổi lấy cổ phiếu của xí nghiệp t nhân hoá với giá trị nhất định (do Liên Xô tối
cao quyết định). Dự định đến năm 1993 - 1994 sẽ phát bổ sung một đợt mới
phiếu t nhân hoá.
Phiếu t nhân hoá có thể đợc sử dụng theo những cách sau:
1- Đổi trực tiếp giấy cổ phiếu của xí nghiệp công nhân của các xí
nghiệp có thể đổi lấy cổ phiếu với những điều kiện u đãi, cũng nh đợc tham
gia giá các cuọc bán đấu giá đặc biệt để mua cổ phiếu nh mọi công dân khác
ngoài xí nghiệp.
2- Đổi lấy cổ phần của các quỹ đầu t t nhân hoặc quốc doanh. Các quỹ
đầu t sẽ thu phiếu t nhân hoá và và dùng chúng để mua cổ phần của các xí
nghiệp. Nh vậy mỗi quỹ đầu t sẽ có nhiều cổ phần trong nhiều xí nghiệp khác
nhau. Họ sẽ dùng lãi cổ phần thu đợc từ các xí ngiệp để trả lãi cho những ngời
mua cổ phiếu của mình.
3- Cách thứ ba là bán phiếu t nhân hoá để lấy tiền.
Để tránh mất giá hoặc thiếu lòng tin vào phiếu t nhân hoá, Nhà nớc quy
định rằng tổng số cổ phiếu phát hành trên thị trờng sẽ nhiều hơn phiếu t nhân
hoá phát cho nhân dân (nghĩa là tạo chênh lệch cung vợt cầu để phiếu t nhân
hoá không bị mất giá: các xí nghiệp cần t nhân hoá phải bán trên 35% cổ
phiếu của mình để lấy phiếu t nhân hoá. Đồng thời Nhà nớc lập ra các cơ quan
tài chính đặc biệt để t vấn cho t nhân xử dụng phiếu có hiệu quả. Nhà nớc
cũng bảo đảm mọi mặt về thông tin để nhân dân có thể lựa chọn theo ý mình.
10
Triển vọng t nhân hoá đến năm 1995
Với tiến trình mở của nền kinh tế của liên bang Nga và với quyết tâm
thúc đẩy t nhân hoá, xây dựng kinh tế thị trờng, Chính phủ cho rằng chơng
trình t nhân hoá có thể đạt đợc kết quả khả quan. Tuy nhiên, thực tế sẽ khó đạt
đợc kết quả nh vậy, vì nh các nớc Đông Âu. Nhân dân liên bang Nga không
thể lấy đâu ra tiền để mua khối lợng tài sản khổng lồ thuộc sở hữu Nhà nớc ớc
tính khoảng 2500 tỷ rúp vốn cố định và 1100 tỷ rúp vốn lu động. Việc bán
rộng rãi cổ phiếu bao bồ 3 giai đoạn:
- Bán u đãi những ngời đầu t lớn mua cổ phần khống chế của xí nghiệp.
Nếu chọn phơng án đâu đãi thứ hai, thì chính tập thể công nhân viên xí nghiệp
đó sẽ là những ngời nắm cổ phần khống chế. Nếu chọn phơng án ba, thì chủ
một nhóm công nhân của xí nghiệp mới có khả năng khống chế xí nghiệp
trong tay. Ngoài ra, khi có đợc một lợng phiếu t nhân hoá nhất định, các quỹ
đầu t cũng có thể trở thành ngời đầu t chính của xí nghiệp.
- Bán số cổ phiếu phần còn lại thông qua đấu thầu.
Trong năm 1993 sẽ kết thúc về cơ bản quá trình t nhân hoá nhỏ. Để đẩy
nhanh t nhân hoá, Chính phủ sẽ thực hiện phân phối loạt phiếu t nhân hoá mới,
tiến hành t nhân hoá nhà ở, điều chỉnh mức lãi cổ phân, tăng trợ cấp ngân sách
và tín dụng u tiên cho những nơi thực hiện tốt nhiệm vụ t nhân hoá.
Nhà nớc khuyến khích hình thức đấu giá cạnh tranh để tuyển chọn mua
xí nghiệp, đồng thời sẽ chú ý giải quyết những hậu quả về mặt xã hội nh công
ăn việc làm. Nhà nớc hứa sẽ mở rộng danh sách các xí nghiệp t nhân hoá đối
với khách hàng nớc ngoài, và dựa vào luật đàu t sẽ có những u đãi nhằm thu
hút đầu t nớc ngoài nhiều hơn.
Đến cuối năm 1995 giá trị tài sản sản xuất của đất nớc thuộc khu vực
quốc doanh sẽ còn khoảng 40%. Đây là một bớc đi khá lớn, những tiến mạnh
vào kinh tế thị trờng thì kết quả t nhân hoá đó cha đạt tới giới hạn cuối cùng.
2- Kinh nghiệm CPH ở Trung Quốc
Trung Quốc bắt đầu thí điểm CPH các doanh nghiệp Nhà nớc của họ
vào đầu những năm 1980, họ đã gặt hái đợc những kinh nghiệm đáng chú ý.
Từ ngày 22 đến ngày 25/8/1987 tại Hàn Châu (Sơn Tây) Chính phủ tổ chức hội
nghị thảo luận về 3 năm thực hiện về CPH.
Chỉ tính riêng trong 5 tỉnh thành phố (Thẩm Dơng, Thợng Hải, Bắc
Kinh, Quảng Châu, Thiển Tây) đã có trên 1500 xí nghiệp quốc doanh cổ phần
hoá với tổng số vốn lên tới hàng chục tỷ nhân dân tệ. Ngày 15/7/1984 thành
lập Công ty cổ phần đầu tiên của cả nớc với số vốn cổ phần của bên ngoài
Công ty lên tới 5318000 nhân dân tệ chiếm 73,6% tổng giá trị doanh nghiệp.
2.1. Hình thức cổ phần của Trung Quốc.
- Cơ cấu cổ phần:
Cơ cấu cổ phần của doanh nghiệp gồm: Cổ phần Nhà nớc, cổ phần cán
bộ công nhân viên trong doanh nghiệp và cá nhân ngoài doanh nghiệp.
- Chế độ cổ phần hữu hạn.
Vốn cổ phần của các xí nghiệp này do những xí nghiệp Nhà nớc, tập thể
và t nhân đóng góp. Những xí nghiệp tham gia liên hiệp xí nghiệp cổ phần có
11
thể dùng tài sản dới những hình thái khác nhau nh: Tiền vốn, tài sản cố định...
Để đóng góp cổ phần.
- Chế độ cổ phần hỗn hợp.
Cổ phần của các xí nghiệp là sự hỗn hợp cổ phần trong nội bộ và cổ
phần ngoài xã hội. Chúng bao gồm: Cổ phần Nhà nớc, cổ phần xí nghiệp, cổ
phần các tổ chức kinh doanh và cổ phần cá nhân.
2.2. Xác định cổ phần
Việc xác định cổ phần nhằm làm rõ vai trò sở hữu của ngời sở hữu cổ
phần. Căn cứ vào vốn đầu t để chia quyền sở hữu cổ phần. Tổng số cổ phần đ-
ợc phân làm 4 loại: Cổ phần Nhà nớc, cổ phần xí nghiệp, cổ phần xã hội và cổ
phần cá nhân. Cổ phần Nhà nớc chủ yếu là chỉ tài sản đợc hình thành do đầu t
của Nhà nớc vào những xí nghiệp thuộc sở hữu toàn dân bao gồm: tài sản cố
định, vốn lu động do Nhà nớc cấp. Cổ phần xí nghiệp nói chung là chỉ tài sản
đợc hình thành từ lợi nhuận để lại cho xí nghiệp. Cổ phần xã hội là cổ phần mà
các tầng lớp xã hội ở ngoài xí nghiệp đã mua. Cổ phần cá nhân mà công nhân
trong xí nghiệp và nhân dân mua bằng những thu nhập cá nhân từ nguồn vốn
nhàn rỗi cuả họ.
3.2. Về phân phối lợi nhuận
Nhìn chung có 3 cách lợi nhuận:
- Lợi nhuận hình thành trớc hết phải trả các khoản vay của ngân hàng,
sau đó căn cứ vào các luật thuế để nộp các loại thuế cho Nhà nớc. Phần lợi
nhuận còn lại phân phối cho các quỹ căn cứ vào số lợng các quỹ và tỷ lệ cụ thể
cho mỗi quỹ do hội đồng quản trị quyết định căn cứ vào những quy định có
liên quan của Nhà nớc.
- Hạ thấp mức thuế doanh thu, phần lợi nhuận còn lại sau khi nộp thuế,
trả nợ sẽ đem phân bổ cho quỹ.
- Lợi nhuận thực hiện còn lại của xí nghiệp đợc phân bổ cho các quỹ
sau khi nộp thuế, tiền phạt nếu chiếm dụng vốn của Nhà nớc hoặc của các xí
nghiệp khác, trả nợ và trả lãi ngân hàng.
2.4. Phân phối lợi tức cổ phần
Cơ bản đều căn cứ vào tỷ lệ của cổ phần để chia lợi tức đợc hởng khi
hoạt động kinh doanh có lãi và chịu thiệt hại tổn thất khi thua lỗ. Lợi tức đợc
phân chia dới dạng một khoản thu nhập cố định hoặc dới dạng biến động phụ
thuộc vào khối lợng lợi nhuận thu đợc trong quá trình sản xuất kinh doanh.
3- Những bài học kinh nghiệm có thể rút ra từ việc cổ phần hoá, t
nhân hoá ở các nớc trên thế giới
3.1. Cổ phần hoá phải đợc nghiên cứu toàn diện.
Nó không phải là mục đích tự thân, mà là một bộ phận trong một chơng
trình cải cách rộng lớn hơn nhằm thúc đẩy bố trí tốt hơn các nguồn lực,
khuyến khích cạnh tranh, tạo môi trờng thuận lợi cho phát triển kinh tế, phát
triển thị trờng vốn.
3.2. Việc nghiên cứu thiếu thận trọng các phơng án lựa chọn trớc khi
hành động có thể dẫn đến những sai lầm tốn kém.
12
Nhiều chơng trình các xí nghiệp mới chỉ chủ trọng đến hiệu quả thu hồi
trớc mắt, nhng lại cha quan tâm đến tìm cách bảo đảm lợi nhuận tài chính lâu
dài.
3.3. Trong trờng hợp thị trờng vốn cha phát triển thậm chí còn yếu
kém thì việc cổ phần hoá cần phải thận trọng và phải đợc cụ thể hoá trong
chủ trơng bán một phần tài sản.
Điều kiện tài chính là kiên quyết, nếu không trong nên kinh tế sẽ xuất
hiện những tình trạng bất thờng. Nhiều nớc đã thu hẹp thị trờng tài sản của
mình băng cách giới hạn hoặc loại trừ sự tham gia của ngời nớc ngoài.
3.4. Xây dựng một chiến lợc cổ phần hoá và phân loại xí nghiệp quốc
doanh là bớc cần thiết để làm sáng tỏ mục tiêu và quan điểm của Nhà nớc.
3.5. Việc cổ phần hoá yêu cầu phải có các cán bộ phải có trình độ, quản
lý một chơng trình CPH là công việc phức tạp trong khi nhiều quan chức
Chính phủ cha có đầy đủ năng lực cần thiết. Mặt khác Nhà nớc thờng ở thế
yếu trong thơng lợng: nhiều xí nghiệp không hấp dẫn, lại thiếu thông tin, thiếu
kinh nghiệm trong việc bán tài sản. Trong những trờng hợp nh vậy, kết cục
chung thờng thấy là tài sản bị đánh giá thấp hơn giá trị thực của nó, và cuối
cùng, điều cần phải có là công khai và lòng tin tởng của quần chúng đối với
chơng trình cổ phần hoá.
III- Doanh nghiệp Nhà nớc Việt Nam và thực trạng cổ
phân hoá
1- Thực trạng của khu vực kinh tế nớc ta
ở nớc ta cũng giống nh các nớc XHCN trớc đây thực hiện mô hình kế
hoạch hoá tập trung, lấy việc mở rộng và phát triển khu vực kinh tế Nhà nớc
bao trùm toàn bộ nền kinh tế quốc dân là mục tiêu cho công cuộc cải tạo và
xây dựng CNXH. Vì vậy khu vực kinh tế Nhà nớc đã đợc phát triển một cách
nhanh chóng, rộng khắp trong tất cả lĩnh vực cơ bản với tỷ trọng tuyệt đối
trong nền kinh tế bất kể hiệu quả đích thực mà nó mang lại, trong đó phải kể
đến sự ra đời chàn lan của các doanh nghiệp Nhà nớc do cấp địa phơng quản
lý. Theo số liệu thống kê đến ngày 1/1/1990 cả nớc có 12084 doanh nghiệp
Nhà nớc trong đó có 1695 doanh nghiệp trong trung ơng quản lý 10389 doanh
nghiệp do cấp địa phơng quản lý. Khu vực kinh tế Nhà nớc cs số vốn trị giá
khoảng 10 tỷ USD, chiếm 85% tổng số vốn đầu t từ ngân sách Nhà nớc,
khoảng 70% tổng giá trị tài sản toàn xã hội tạo ra khoảng từ 30% - 38% giá trị
tổng sản phẩm xã hội (GDP) và thu nhập quốc dân khoảng 23% - 30%. Trong
một vài năm gần đây phần của kinh tế Nhà nớc tăng lên nhanh là do bán
quyền thăm do và khai thác dầu, xuất khẩu gạo, than đá.
Bảng tỷ trọng khu vực kinh tế Nhà nớc trong nền kinh tế quốc dân (%)
1985 1986 1987 1988 1989 1990 199
1
199
2
199
3
13
Tỷ trọng trong
GDP
37,0 34,9 33,6 30,5 34,5 32,8 33,7 34,7 35,7
Tỷ trọng trong
TNQD
28,0 29,8 27,4 22,5 26,3 28,0 29,0 30,1
Tỷ trọng của kinh tế Nhà nớc trong tổng sản phẩm xã hội của từng
ngành tơng ứng hiện nay là: xây dựng 76%; trồng rừng trong lâm nghiệp 35%;
nông nghiệp 3%: trong các ngành bu chính viễn thông, vẫn tải đờng sắt, hàng
không chiếm 100%, viễn dơng 98%; đờng bộ 80%. Trong nhiều ngành sản
xuất công nghiệp dầu khí điện, than, khai thác quặng, hầu hết các ngành cơ
khí chế tạo chất cơ bản, xi măng, thuốc lá... kinh tế Nhà nớc vẫn nắm chủ yếu.
Trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, tín dụng ngân hàng... hầu hết là kinh tế Nhà n-
ớc nắm giữ. Hàng năm, kinh tế Nhà nớc vẫn đang là nguồn thu ngân sách chủ
yếu của ngân sách Nhà nớc (khoảng 60% - 70% tổng thu ngân sách). Tuy
nhiên, so với khối lợng vốn đầu t và khoản trợ cấp ngầm qua tín dụng u đãi của
ngân hàng, cũng nh nếu bóc tách trong đóng góp hiện nay của các doanh
nghiệp Nhà nớc phần thuế tài nguyên do bán dầu thô, phần khấu hao cơ bản
(đây là khoản thu hồi vốn của Nhà nớc và một phần rất lớn thuế tiêu thụ đặc
biệt và các loại thuế gián thu khác đánh vào ngời tiêu dùng mà Nhà nớc thu
qua doanh nghiệp thì mức độ đóng góp trên còn cha tơng xứng.
Các doanh nghiệp Nhà nớc đợc hình thành và phát triển trên cơ sở
nguồn vốn cấp phát của ngân sách Nhà nớc và do đó, tất cả các hoạt động đều
chịu sự kiểm soát và chi phối trực tiếp của Nhà nớc. Song cũng giống nh nhiều
nớc trên thế giới, khu vực kinh tế Nhà nớc hoạt động hết sức kém hiệu quả đặc
biệt là các doanh nghiệp do cấp địa phơng trực tiếp quản lý. Có thể minh hoạ
nhận xét này qua một vài chỉ tiêu cụ thể sau đây:
+ Tỷ trọng tiêu hao vật chất trong tổng sản phẩm xã hội của khu vực
kinh tế Nhà nớc cao gấp 1,5 lần và chi phí để sáng tạo ra một đồng thu nhập
quốc dân thờng cao gấp 2 lần so với kinh tế t nhân.
+ Mức tiêu hao vật chất của các doanh nghiệp Nhà nớc trong sản xuất
cho một giá trị đơn vị tổng sản phẩm xã hội ở nớc ta thờng cao gấtp 1,3 lần so
với mức trung bình trên thế giới. Ví dụ, chi phí vật chất của sản phẩm hoá chất
bằng 1,88 lần, sản phẩm cơ khí bằng 1,3 - 1,8 lần, phân đạm bằng 2,35 lần.
Mức tiêu hao năng lợng của các doanh nghiệp Nhà nớc ở nớc ta cũng cao hơn
so với mức trung bình của thế giới. Ví dụ trong sản xuất giầy gấp 1,26 lần, hoá
chất cơ bản bằng 1,44 lần, than bằng 1,75 lần, phân đạm 1,83 lần.
+ Chất lợng sản phẩm của các doanh nghiệp Nhà nớc rất thấp và không
ổn định. Trung bình trong khu vực kinh tế Nhà nớc chỉ có khoảng 15% đạt tiêu
chuẩn xuất khẩu. 65% số sản phẩm đạt mức độ dới trung bình để tiêu dung nội
địa: 20% sóo sản phẩm kém chất lợng. Do đó hiện tợng hàng hoá ứ đọng với
khối lợng lớn và chiếm hơn 10% số vốn lu động của toàn xã hội.
+ Hệ số sinh lời của khu vực kinh tế Nhà nớc rất thấp. Ví dụ hệ số sinh
thời của vốn lu động tính chung chỉ đạt 7%/ năm, trong đó ngành giao thông
vận tải đạt 2%/năm: ngành công nghiệp khoảng 3%/năm, ngành thơng nghiệp
14
đạt 22%/ năm... hệ số sinh lời của vốn lu động đạt 11%/năm trong đó các
ngành tơng ứng ở trên đạt 9,4%, 10,6% và 9,5%.
+ Hiệu quả khai thác vốn đầu t của khu vực kinh tế Nhà nớc hết sức
thấp. Cụ thể là trong mấy năm gần đây, hàng năm Nhà nớc dành hơn 70% vốn
đầu t ngân sách của toàn xã hội cho các doanh nghiệp Nhà nớc, tuy nhiên
chúng chỉ tạo ra đợc từ 34 - 35% tổng sản phẩm xã hội. Hơn nữa khu vực kinh
tế Nhà nớc lại sử dụng hầu hết lao động có trình độ đại học, công nhân kỹ
thuật, phần lớn số vốn tín dụng của các ngân hàng thơng mại quốc doanh.
+ Số các doanh nghiệp thua lỗ chiếm một tỷ trọng lớn. Theo số liệu của
tổng cục thống kê năm 1990, trong số 12084 cơ sở quốc doanh thì có tới 4584
đơn vị sản xuất kinh doanh thua lỗ, chiếm hơn 30% tổng số các doanh nghiệp
Nhà nớc. Trong đó quốc doanh trung ơng có 501 cơ sở thua lỗ, bằng 29,6% số
cơ sở do trung ơng quản lý, quốc doanh địa phơng có 4083 cơ sở thua lỗ,
chiếm 39,9% số đơn vị địa phơng quản lý. Các đơn vị thua lỗ trên đây có giá
trị tài sản cố định bằng 38% tổng giá trị tài sản của toàn bộ khu vực kinh tế
Nhà nớc và với 787300 lao động trong tổng số 2590000 lao động bằng 32,9%
só lao động của toàn bộ khu vực kinh tế Nhà nớc. Các số liệu đó cho thấy việc
làm ăn thua lỗ của các doanh nghiệp Nhà nớc đã gây ra tổn thất lớn cho ngân
sách Nhà nớc và là một trong những nguyên nhân đa đến việc bội chi ngân
sách Nhà nớc triền miên trong những năm qua. Thêm vào đó Nhà nớc lại có
hàng lạot chính sác bù giá, bù lơng, bù chênh lệch ngoại thơng và hàng loạt
các khoản bao cấp khác cho các doanh nghiệp Nhà nớc đã làm cho gánh nặng
tài chính và các khoản vay nợ của Nhà nớc ngày càng nặng nề và trầm trọng.
Chỉ tính trong giai đoạn 1985 - 1990 tỷ lệ thâm hụt ngân sách thờng xuyên ở
trên mức 30%.
Từ năm 1989 đến nay nền kinh tế đã thực sự bớc sang hoạt động theo cơ
chế thị trờng. Các chính sách về kinh tế, tài chính đối với doanh nghiệp Nhà n-
ớc đã đợc thay đổi theo hớng tự do hoá giá cả. Chi phí ngân sách Nhà nớc do
bù lỗ, bù giá, bổ sung vốn lu động cho khu vực này đã giảm đáng kể. Tuy
nhiên t tởng bao cấp trong đầu t vẫn còn rất nặng nề. Tất cả các doanh nghiệp
đợc thành lập đều đợc cấp toàn bộ vốn từ ngân sách Nhà nớc. Hàng năm trên
85% vốn tín dụng với lãi suất u đãi đợc dành cho các doanh nghiệp Nhà nớc
vay. Tài sản tiền vốn của Nhà nớc giao cho doanh nghiệp chủ yếu là không đ-
ợc bảo tồn và phát triển. Theo báo cáo của tổng cục thống kê, hầu hết các
doanh nghiệp Nhà nớc mới chỉ bảo toàn đợc vốn lu động, còn vốn cố định thì
mới chỉ bảo toàn ở mức 50% so với chỉ số lạm phát. Hai ngành chiếm giữ vốn
lớn nhất là công nghiệp và thơng nghiệp (72,52%) lại là hai ngành có tỷ lệ thất
thoát vốn lớn nhất (16,41% và 14,95%). Vấn đề nợ lần vòng vo mất khả năng
thanh toán còn diễn ra khá nghiêm trọng do tình trạng quản lý của Nhà nớc về
tài chính đối với doanh nghiệp chậm đợc đổi mới đồng thời từ đó nạn tham
nhũng, lãng phí diễn ra ở mức báo động.
2- Một số nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng hoạt động kém
hiệu quả của khu vực kinh tế Nhà nớc
Thứ nhất: khu vực kinh tế Nhà nớc đợc sinh ra và trởng thành trong cơ
chế tập trung, quan liệu, bao cấp kéo dài hàng chục năm. Với chính sách cấp
15
phát - giao nộp, các doanh nghiệp Nhà nớc hoạt động trong điều kiện vốn đợc
Nhà nớc cấp, vật t đợc nhận theo chỉ tiêu hoạt động, sản xuất ra đợc giao nộp
theo địa chỉ khu vực. Các điều kiện vật chất đợc Nhà nớc phân phối theo chỉ
tiêu định mức. Doanh nghiệp chỉ đơn thuần là một đơn vị "gia công" hàng hoá
cho Nhà nớc. Trong điều kiện bao cấp tràn nan nh vậy, rõ ràng doanh nghiệp
không còn là một đơn vị kinh tế có quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất
kinh doanh. Vì vậy khi chuyển sang kinh tế thị trờng, cả một khu vực kinh tế
Nhà nớc đồ sộ, cồng kềnh, bộc lộ tất cả những yếu kém về hiệu quả sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp, cơ cấu chắp vá, không đồng bộ và xơ cứng
trong việc thích ứng với cơ chế mới.
Thứ hai, các doanh nghiệp Nhà nớc đã từ lâu không đợc đặt trong môi
trờng cạnh tranh, không gắn với thị trờng, do đó chậm đổi mới công nghệ và
nâng cao chất lợng sản phẩm. Trong một nền kinh tế thiếu hụt triền miên vì bị
công hữu hoá và thi hành chính sách đóng cửa thì những sản phẩm do các
doanh nghiệp này làm ra đều buọc xã hội phải chấp nhận, mặt dù chất lợng
thấp, mẫu mã, kiểu dáng cũ kỹ lạc hậu. Thêm vào đó chế độ bao cấp bù lỗ tràn
nan đã làm cho hạch toán kinh tế trong các doanh nghiệp Nhà nớc chỉ là hình
thức giả tạo, sản xuất không tính chi phí, nhng hiện tợng lãi giả - lỗ thật lại hết
sức phổ biến. Điều tất yếu xẩy ra là vốn liếng của doanh nghiệp không đợc
quan tâm bảo toàn, thiết bị cũ kỹ. công nghệ lạc hậu hàng chục năm so với
mức trung bình của thế giới.
Thứ ba, tổ chức bộ máy trong các doanh nghiệp Nhà nớc không phù
hợp do quan điểm về sở hữu trong các doanh nghiệp không rõ dàng. Không có
sự phân biệt đầy đủ quyền sở hữu Nhà nớc và quyền quản lý kinh doanh của
giám đốc và tập thể ngời lao động trong doanh nghiệp. Tình trạng làm chủ tập
thể chung chung kéo dài mà thực chất là vô chủ phổ biến ở hầu hết các doanh
nghiệp Nhà nớc.
Thứ t, việc phân phối về thực chất không dựa trên nguyên tắt phân phố
theo lao động mà chủ yếu nhằm phục vụ chính sách xã hội, mang nặng tính
bình quân chủ nghĩa, không kích thích ngòi quản lý và công nhân trong các
doanh nghiệp Nhà nớc nâng cao hiệu quả công tác và năng suất lao động.
Thêm vào đó, đội ngũ cán bộ với kiến thức và trình độ quản lý không phù hợp
với kinh tế thị trờng, thiếu sự năng động và mạo hiểm trong kinh doanh.
Tựu trung lại, có thể thấy tình trạng kém hiệu quả của khu vực kinh tế
Nhà nớc về cơ bản là do cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp tồn
tại trong mấy chục năm qua. Trớc đây do điêu kiện lịch sử của cuộc kháng
chiến chống Mỹ, nền kinh tế đợc quản lý nh vật sẽ bảo đảm huy động ở mức
cao nhất mọi tiềm lực cho kháng chiến thắng lợi mà không cần tính đến hiệu
quả. Tuy nhiên khi đất nớc đã chuyển sang thời kỳ hoà bình xây dựng kinh tế
thì việc kéo dài quá lâu cơ chế quản lý này đã kìm hãm sự phát triển của lực l-
ợng sản xuất và đẩy nền kinh tế rơi vào sự khủng hoảng.
Sự đổi mới t duy về phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiêu thành phần có
sự điều tiết định hớng của Nhà nớc đã cho phép thực hiện việc phê phán và
từng bớc xoá bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp, xây dựng
16
cơ chế quản lý mới thích ứng với nền kinh tế thị trờng, trong đó có những
chính sách, biện pháp nhằm đổi mớc khu vực kinh tế Nhà nớc.
3- Thực trạng của doanh nghiệp Việt Nam và tiến trình cổ phân hoá
Thực tiễn không những năm vừa qua đã khẳng định đờng lối đổi mới ở
Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn, nhiều nhà kinh tế trên thế giới đánh giá cao
thành tự đổi mới của Việt Nam, coi đó là "hiện tợng Việt Nam". Tuy nhiên
quá trình cải cách cũng đặt ra nhiều vấn đề bức xúc, trong đó có vấn đề nâng
cao vai trò, hiệu quả của doanh nghiệp Nhà nớc và quá trình CPH và quá trình
CPH loại hình doanh nghiệp này. Trớc kia chúng ta có hơn 12000 doanh
nghiệp Nhà nớc. Sau quyết định 388 cảu Chính phủ, sắp xếp lại khu vực kinh
tế Nhà nớc, vừa giải thế các doanh nghiệp thua lỗ nhiều năm, vừa sát nhập,
đến nay chúng ta còn gần 6000 doanh nghiệp nữa. Bên cạnh những mặt đợc,
hoạt động doanh nghiệp Nhà nớc bộ lộ nhiều hạn chế.
- Hầu hết các doanh nghiệp Nhà nớc có quy mô nhỏ, vốn ít, kỹ thuật lạc
hậu. ở nớc ta số doanh nghiệp Nhà nớc có vốn dới 1 tỷ đồng chiếm tới 50%.
Năm 1994 doanh nghiệp thu trung bình của các doanh nghiệp Nhà nớc do bộ,
ngành trung ơng quản lý là 64 tỷ đồng/năm. Các doanh nghiệp địa phơng quản
lý là 16 tỷ đồng/ năm. Trừ một số doanh nghiệp Nhà nớc mới xây dựng trong
những năm gần đây, hầu hết các doanh nghiệp lại có kỹ thuật lạc hậu so với
thế giới tới 2 - 3 thế hệ nh ngành đờng sắt, đóng tầu, cơ khí... vì vậy sản phẩm
của các doanh nghiệp này cung cấp có chi phí sản xuất cao, chất lợng kém.
- Tình trạng chiếm dụng vốn, công nợ dây da kéo dài giữa các doanh
nghiệp Nhà nớc là hiện tợng phổ biến. Tính đến 31/12/1994 tổng số công nợ
phải thu chiếm 20% doanh thu khu vực kinh tế này, bằng 54% tổng số vốn của
doanh nghiệp và tổng số công nợ phải trả chiếm 26,4% doanh thu. Trừ một số
doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ nh ngân hàng thơng mại, Công ty bảo hiểm,
còn lại đại bộ phận của doanh nghiệp Nhà nớc đều có số nợ phải trả lớn hơn số
nợ phải thu, số nợ không có khả năng thanh toán rất lớn.
- Hệ thống quản lý nặng lề, kém linh hoạt, cha đáp ứng đợc yêu cầu của
cơ chế thị trờng. Các quyết định đầu t, các phơng án sản xuất kinh doanh và
tiêu thụ sản phẩm, các phơng án đổi mới kỹ thuật và công nghệ, phân phối tài
chính.. có quá nhiều quy định, thủ tục phiền hà, chế độ tập thể quyết định, trên
thực tế không ai chịu trách nhiệm, gây thất thoát lớn đối với tài sản của Nhà n-
ớc trong các doanh nghiệp.
- Hiệu quả kinh tế trong các doanh nghiệp Nhà nớc rất thấp nhiều doanh
nghiệp Nhà nớc không bảo tồn đợc vốn, mức sử dụng lao động thấp, tốc độ
chu chuyển của vốn chậm, sức cạnh tranh yếu. Đến cuối năm 1994, riêng nó
doanh nghiệp Nhà nớc do địa phơng quản lý thua lỗ lên tới 469 doanh nghiệp,
chiếm 12% tổng số doanh nghiệp Nhà nớc và 33,2% tổng số lỗ của khu vực
kinh tế Nhà nớc. Có doanh nghiệp trớc khi có quyết định giải thế còn mắc nợ
hàng trăm tỷ đồng và hàng triệu đô la. Mặc dù Chính phủ thờng xuyên rà soát
công nợ của doanh nghiệp Nhà nớc và có chính sách phù hợp đối với số nợ tồn
đọng từ nhiều năm trớc, nhng nhiều doanh nghiệp Nhà nớc vẫn không có khả
năng trang trải công nợ bằng lợi nhuận thu đợc của các doanh nghiệp này.
17