Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

Tiểu luận môn tổ chức bản thảo mối quan hệ giữa biên tập viên và cộng tác viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.22 KB, 48 trang )

TIỂU LUẬN
Môn: TỔ CHỨC BẢN THẢO

Đề tài: Mối quan hệ giữa Biên tập viên và Cộng tác viên tác
giả trong công tác tổ chức bản thảo sách văn học trong tình hiện
nay ở Nhà xuất bản Phụ nữ

1


MỞ ĐẦU
I.

Lý do chọn đề tài
“Sách có thể ít đi một chút nhưng phải tốt, đẹp, không nên đặt một cuốn
sách tầm thường lên giá sách. Đừng đánh cắp thời gian của những người lao
động chân thực” (N.Oxtơrốpxki). Đối với những người làm công tác xuất bản
việc tạo ra những cuốn sách hay, sách tốt, sách vàng, sách bạc là chúng ta đã
không đánh cắp thời gian của người lao động chân thực. Như vậy để làm ra
sách hay sách tốt trách nhiệm khơng chỉ của tác giả mà cịn cả đội ngũ biên
tập viên. Họ phải biết chắt lọc ra những cuốn sách có giá trị cao chứ khơng
phải chỉ chạy theo số lượng.
Từ xưa tới nay, sách vốn là người bạn tốt đối với mỗi chúng ta. Không
thể phủ nhận vai trị vơ cùng quan trọng của sách, sách có mặt hầu hết trong
mọi lĩnh vực của cuộc sống dù bạn làm nghề gì, bạn ở đâu hay bạn học cái gì
sách vẫn ln là một kho tàng quý giá ẩn chứa những điều kỳ diệu: “Sách
giống như con ong mật truyền nhị hoa từ hoa này đến hoa khác, giúp hoa kết
trái, sách giúp cho con người có thể hồ hợp và có cuộc sống tốt đẹp hơn”
(Looen Dgiem).
Để cho ra đời được một cuốn sách hay và hồn chỉnh thì phải kể tới cơng
lao rất lớn của đội ngũ biên tập viên. Nhưng, nếu chỉ có đội ngũ biên tập viên


thơi thì chưa đủ. Điều quan trọng là ta phải có được những bản thảo tốt từ
nguồn cộng tác viên tác giả. Chính vì vậy, vấn đề dặt ra hiện nay là biên tập
viên cần sử dụng các kỹ năng của mình cũng như mối quan hệ bền chặt giữa
biên tập viên và cộng tác viên tác giả để từ đó có được nguồn bản thảo tốt, sau
đó cho ra những tác phẩm hay, để ại ấn tượng trong lịng người đọc.
Để có được một cuốn sách hay mà nội dung của nó khơng chỉ giàu ý
nghĩa nhân văn, ý nghĩa xă hội mà còn đạt hiệu quả kinh tế cao thì cơng tác
cộng tác viên tác giả là một khâu rất quan trọng. Bản thân tôi cũng là một sinh
viên theo học chuyên ngành biên tập xuất bản của Học viện Báo chí và Tuyên
truyền. Tơi u thích chun ngành mình đã chọn và ln nỗ lực cố gắng học
2


hỏi để sau này sẽ có chun mơn vững chắc, trở thành một biên tập giỏi, giúp
cho những cuốn sách hay ra đời làm phong phú thêm văn hóa đọc của mọi
người. Lựa chọn đề tài: “Mối quan hệ giữa biên tập viên và cộng tác viên tác
giả trong công tác tổ chức bản thảo sách…ở nước ta hiện nay” tơi hy vọng có
thể đóng góp một số ý kiến, một số giải pháp nhằm nâng cao mối quan hệ bền
chặt giữa biên tập viên và công tác cộng tác viên tác giả để cho ra đời được
những cuốn sách hay và có giá trị.
Và một lý do nữa là hiện nay mối quan hệ giữa biên tập viên và cộng tác
viên tác giả ở nước ta khơng chỉ có những mặt tốt mà còn rất nhiều tồn tại
đáng quan tâm. Trong tình hình thực tế hiện nay khi mà xã hội đang cuốn con
người vào vịng xốy của nền kinh tế thị trường do vậy chúng ta phải có
những cách thức nào đó để cho mối quan hệ của biên tập viên và cộng tác
viên tác giả không bị đồng tiền chi phối. Ngoài ra, đội ngũ biên tập viên cũng
khơng ngừng nâng cao trình độ của mình để có thể biên tập chỉnh sửa “những
đứa con tinh thần” của tác giả và tác giả cũng cần phải có con mắt nhìn khác
đối với biên tập viên, khơng nên coi họ chỉ là những người sửa chữa chính tả
đơn thuần mà là những “bà đỡ” cho đứa con tinh thần của mình.

Bên cạnh đó, trong q thình học mơn “Tổ chức bản thảo” do hai giảng
viên là Th.s Nguyễn Lan Phương và Th.s Vũ Thùy Dương giảng viên khoa
Xuất bản – Hoạc viện Báo chí và Tuyên truyền đã mở ra cho tơi những hướng
nghiên cứu hồn tồn mới. Chính vì thế mà tơi đã lựa chọn đề tài “Mối quan
hệ giữa biên tập viên và công tác cộng tác viên tác giả trong công tác tổ chức
bản thảo sách ở nước ta hiện nay” và tôi đã đi sâu tìm hiểu vấn đề này ở Nhà
xuất bản Phụ nữ.

II. Mục đích chọn đề tài
“Nếu ví trí lực như một cái cây, thì sách giống như những con ong
chuyển phấn hoa sinh sản từ một trí tuệ này sang một trí tuệ khác.” (G. LơOen)
3


" Không nên giữ sách như giam sách vào tù; chúng phải chuyển từ tủ
sách vào trí nhớ. Chỉ có những cuốn sách tốt thực sự mới đáng để ta đọc và
tiếp thu nội dung; ni dưỡng trí tuệ bằng nhiều cuốn sách khơng có lựa chọn
gì, tức là làm trí tuệ mất sức bay bổng và thậm chí, hủy hoại hồn tồn nó
nữa". (G.Pêtơrácca)
Trước thực trạng một số lượng lớn những cuốn sách được xuất bản hiện
nay vẫn chưa thực sự mang lại ý nghĩa đích thực về mặt nội dung cũng như
giá trị tư tưởng nên qua bài tiểu luận này tôi muốn chỉ ra những điểm hạn chế
cũng như những thành công trong việc gửi bản thảo tới nhà xuất bản và chỉnh
sửa bản thảo của đội ngũ biên tập viên và cộng tác viên tác giả . Thơng qua
đó, góp phần giúp các biên tập viên có thể tạo mối quan hệ tốt đẹp hơn đối
với đội ngũ cộng tác viên tác giả, để tạo ra những cuốn sách hay và có giá trị
phù hợp với nhu cầu của bạn đọc nhằm nâng cao văn hóa đọc trong giai đoạn
đầy biến động này.

III. Phạm vi nghiên cứu

Vì thời gian và mục đích nghiên cứu của đề tài có hạn, mặt khác muốn đi
sâu nghiên cứu đề tài này cần có kiến thức, phương pháp luận chuyên sâu. Do
vậy, với khả năng có hạn của mình tơi chưa bao quát được hết, bởi thế tôi chỉ
đi sâu vào nghiên cứu những nét nổi trội của đề tài này nhằm giúp người đọc
hiểu cặn kẽ hơn về mối quan hệ giữa biên tập viên và cộng tác viên tác giả ở
mảng sách văn học của Nhà xuất bản Phụ nữ.

IV. Phương pháp nghiên cứu
Vận dụng kết hợp các phương pháp duy vật biện chứng và một số
phương pháp khác như đọc và tham khảo bài giảng trên lớp của cơ Nguyễn
Lan Phương kết hợp với giáo trình Lý luận nghiệp vụ xuất bản của thầy Trần
Văn Hải, đồng thời nghiên cứu các tài liệu có liên quan và các tài liệu nghiên
cứu của bản thân để bài tiểu luận của em lôgic và khoa học hơn. Vận dụng các
phương pháp nghiên cứu: Tổng kết đánh giá, thống kê, thu thập tài liệu, phân
tích, tổng hợp… để tiến hành nghiên cứu đề tài này.

4


CHƯƠNG I
NHỮNG KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BIÊN TẬP VIÊN VÀ
CỘNG TÁC VIÊN TÁC GIẢ
1. Quan niệm về sách
Sách là sản phẩm của nền văn hóa vật chất tinh thần, là cơng cụ để tích
lũy và truyền bá tri thức từ thế hệ này sang thế hệ khác. Sách chứa đựng
những giá trị văn hóa tinh thần trên tất cả các lĩnh vực hoạt động trong mọi
thời đại của con người. “Khơng có sách khơng có tri thức” (Lênin). Sách in
ra được phát hành rộng rãi đã làm cho việc giao lưu văn hóa, trao đổi kiến
thức kinh nghiệm của lồi người được mở rộng, con người đã có thêm vũ khí
lợi hại để đấu tranh cải tạo xã hội, chinh phục thiên nhiên.

5


Cùng với q trình phát triển của lịch sử lồi người, các hình thức của
sách cũng ngày càng thay đổi để đáp ứng nhu cầu của con người: ghi lại được
nhiều tri thức hơn, truyền bá được cho đông người hơn và bảo quản được lâu
hơn. Bắt đầu từ hình thức nguyên thủy thô sơ (vỏ cây, phiến đất nung, thẻ tre,
trên lụa hoặc trên các phiến đá…), sau là sách chép tay và tiến tới là sách in
hiện đại trên giấy. Hiện nay, sự phát triển của công nghệ kỹ thuật hiện đại, tin
học đã và đang cho hình thức sách truyền thống thay đổi. Sách được xuất bản
bằng chất liệu Micrôfilm, đĩa Compac…đã đáp ứng nhu cầu thông tin vơ cùng
nhanh chóng và đa dạng của con người hiện đại. Khái niệm về sách ngày càng
mở rộng và phong phú. Chỉ một chiếc đĩa nhỏ bé đã có sức chứa đựng tương
đương với một thư viện. Người ta gọi đó là sách điện tử, những cuốn sách
“khổng lồ” được “giấu” dưới một hình thức rất “nhỏ bé”. Sách hiện nay
không chỉ là tập hợp các trang giấy in mà cịn gồm nhiều lại hình đa dạng
khác. Con người tiếp nhận thông tin ở sách không chỉ bằng thị giác mà cịn
bằng các giác quan khác như thính giác… Sách cùng một lúc tác động đến cả
tư duy tình cảm của con người, thông qua nhiều loại kênh thông tin: kênh
chữ, kênh hình, âm thanh…
Sách có nhiều loại khác nhau. Việc phân loại sách rất đa dạng, tùy
thuộc vào những tiêu chí khác nhau như theo phương thức làm sách; mục đích
sử dụng; chức năng xã hội của sách; đối tượng sách; nội dung của sách hoặc
căn cứ vào cấu trúc của sách…
Xét từ phương diện nội dung tri thức mà sách chứa đựng người ta có
thể chia sách theo các lĩnh vực văn hóa và khoa học khác nhau: sách khoa học
tự nhiên, kỹ thuật, khoa học xã hội, văn học nghệ thuật, chính trị…
Dù ở thời đại nào, phát triển với hình thức nào, phân chia hệ thống nào
thì sách vẫn ln có vị trí quan trọng trong xã hội. N.I.Niculin – nhà văn hóa
lớn của nước Nga đã khẳng định: “Sách – đó là nguồn lương thực thiết yếu

để ni sống nền văn hóa của tồn xã hội và mỗi con người. Nếu như chúng
ta hạn chế khả năng phát triển của nó hoặc khả năng tiếp nhận sách của thư
6


viện, tức là chúng ta trên thực tế đã hạn chế sự phát triển của nền văn hóa,
của từng con người và của xã hội nói chung”.
2. Khái niệm biên tập xuất bản
Công tác biên tập là khâu trung tâm của hoạt dộng xuất bản. Nó cung
cấp hạt nhân tinh thần để tạo nên giá trị sử dụng của xuất bản phẩm, quyết
định phương hướng phát triển và ý nghĩa của hoạt động xuất bản.
Theo nghĩa rộng, biên tập là hoạt động, gồm việc tổ chức khai thác, lựa
chọn các tác phẩm để in, nhân bản, để phát trong các chương trình phát thanh,
truyền hình; đồng thời góp phần tu chỉnh, sửa chữa, nâng cao chất lượng tác
phẩm; kiểm tra những sai sót khi nhân bản; góp phần vào việc phổ biến tác
phẩm. Với nghĩa này hoạt động biên tập là khâu công tác quan trọng của mọi
hoạt động truyền thơng, của cơng tác báo chí, thơng tin, tun truyền.
Biên tập xuất bản là khái niệm chỉ hoạt động các xuất bản phẩm trong
các nhà xuất bản, chủ yếu là biên tập sách. Đó là cơng việc khai thác, lựa
chọn, tổ chức bản thảo; gia cơng sửa chữa, hồn chỉnh bản thảo để sẵn sàng
nhân bản xuất bản phẩm, nhằm đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần của xã hội.
3. Đề tài là gì?
Trong lý luận nghiệp vụ biên tập xuất bản, đề tài là ý tưởng tổng thể, là
bản thiết kế cho một xuất bản phẩm sắp xuất bản. Đó là ý tưởng thiết kế về
“ngơi nhà đang hình thành trong óc nhà kiến trúc”.
Đề tài – chính là thiết kế tổng thể về chủ đề, nội dung, tên gọi của xuất
bản phẩm tương lai. Đề tài là kết quả tư duy sáng tạo của biên tập viên, kết
quả tập hợp, phân loại xử lý thông tin nhằm phục vụ nhu cầu độc giả và thực
hiện một mục đích truyền thơng xác định.
Đề tài được đề xuất trong khâu biên tập không đồng nhất với khái niệm đề

tài trong tác phẩm văn học. Đề tài trong tác phẩm văn học là phạm vi, là khía
cạnh được phản ánh trong tác phẩm. Nó là lĩnh vực hiện thực được nhà văn nhận
thức và phản ánh. Nó là kết quả phản ánh sáng tạo của nhà văn, nhà khoa học
khi họ thu nhập thông tin trực tiếp – thông tin bước một – từ cuộc sống.
7


Đề tài trong hoạt động biên tập không phải chỉ là ý muốn chủ quan của
người biên tập, mà đó là kết quả nghiên cứu, xử lý thông tin nhiều chiều từ
phía hiện thực cuộc sống, từ độc giả, tác giả và cơ quan truyền thông đại
chúng trên tinh thần chủ động, sáng tạo của người truyền bá văn hóa.
4.Cơng tác kế hoạch đề tài
Là chỉ hoạt động đề xuất đề tài của biên tập viên, quá trình xây dựng,
quyết định và điều chỉnh kế hoạch đề tài của nhà xuất bản, nhằm bảo đảm
hoạt động của đơn vị xuất bản có chất lượng và hiệu quả cao.
Nếu như mỗi đề tài được đề xuất từ cán bộ biên tập thì kế hoạch đè tài
được xây dựng nhờ trí tuệ tập thể của nhiều bộ phận trong nhà xuất bản: Ban
Giám đốc, phòng ban biên tập, bộ phận kế hoạch – sản xuất, phịng phát hành,
… Trong đó cấp phịng (ban) biên tập là cấp trung gian quan trọng trong việc
xây dựng kế hoạch đề tài.
Căn cứ vào các tiê chí khác nhau, có thể phân chia thành nhiều loại kế
hoạch đề tài. Theo thời gian thực hiện, có thể có kế hoạch dài hạn và kế hoạch
hàng năm.
5. Biên tập viên là gì?
Biên tập viên là người hoạt động (công tác) trong các nhà xuất bản,
chuyên làm việc với tác phẩm, tham gia q trình sửa chữa, gia cơng, làm cho
tác phẩm trở nên hồn thiện hơn, có thể đáp ứng nhu cầu của xã hội về giá trị
tinh thần là sách.
Biên tập viên đảm nhận khâu xây dựng chiếc cầu nối tác giả và độc giả,
đưa đứa con tinh thần của họ và tác giả tới tay của người đọc, làm giàu cho

vốn kiến thức và văn hóa của con người.
Trách nhiệm của đội ngũ biên tập vô cùng quan trọng, quyết định toàn
bộ sự thịnh suy của hệ thống ngành xuất bản. Nếu khơng có những biên tập
viên thì khơng thể có những xuất bản phẩm chất lượng tung ra thị trường,
mang tri thức văn hoá đến với nhân dân.
6. Công tác cộng tác viên tác giả
8


Trong lĩnh vực xuất bản, cộng tác viên là khái niệm chỉ những người có
quan hệ cộng tác với các nhà xuất bản để làm ra sách và phát huy tác dụng của
sách. Do vậy, công tác cộng tác viên là khâu then chốt của hoạt động biên tập.
Có nhiều loại cộng tác viên trong quá trình tổ chức biên tập xuất bản.
Hoạt động biên tập xuất bản có bao nhiêu khâu thì có bấy nhiêu loại cộng tác
viên.
Có cộng tác viên gợi ý, giới thiệu đề tài. Họ thường là những cán bộ tư
tưởng – văn hóa của cơ quan chủ quản nhà xuất bản, hoặc là cán bộ nghiên
cứu, giảng dạy ở các học viện, viện, các trường đại học hoặc cán bộ lãnh đạo
của các tổ chức chính trị - xã hội, các hội nghề nghiệp, họ cũng có thể chính
là các tác giả đã nổi danh đã từng hợp tác với nhà xuất bản.
Có cộng tác viên là những người sáng tác, biên soạn, dịch giả… Họ là
đội ngũ tác giả tạo ra các sản phẩm văn hóa tinh thần, tạo ra nguồn bản thảo
dồi dào cho nhà xuất bản, là lực lượng chủ chốt biến kế hoạch của nhà xuất
bản thành hiện thực.
Trong hoạt động biên tập xuất bản cịn có loại cộng tác viên thẩm định
bản thảo, cộng tác viên gia công biên tập. Đó thường là những chuyên gia học
thuật am hiểu sâu sắc các chuyên ngành tri thức mà lực lượng biên tập của
nhà xuất bản còn thiếu và yếu. Họ cũng có thể là những cây viết tài năng có
thể truyền tải tri thức khoa học dễ dàng đến mọi đối tượng mà nhà xuất bản
cần phục vụ…

Trong biên tập cũng rất cần những cộng tác viên hiệu đính (sách dịch),
cộng tác viên thiết kế, trình bày minh họa sách, đọc phê bình giới thiệu sách
cho nhà xuất bản…
Trong cơ chế thị trường, do tính chất xã hội hóa hoạt động xuất bản được
mở rộng, khái niệm cộng tác viên lại bao quát thêm những đối tượng khác:
Cộng tác viên phát hành sách, cộng tác viên liên kết với nhà xuất bản để in
sách, các tác giả tự đầu tư liên kết làm sách với nhà xuất bản; các nhà sách tư

9


nhân tham gia hoạt động liên kết với nhà xuất bản ở các khâu biên tập, in ấn
và phát hành.
Nhưng trong tiểu luận này tôi chủ yếu tập trung vào nguồn cộng tác viên
tác giả, đó là những người sáng tác, biên soạn, dịch giả… Bởi vì họ và biên
tập viên có mối liên hệ mật thiết với nhau để tạo ra những tác phẩm hồn
chỉnh và có ý nghĩa.

II. Công tác đề tài và kế hoạch đề tài
1. Vị trí, vai trị
Biên tập là hoạt động sáng tạo văn hóa, đồng thời cũng là khâu đầu tiên
của hoạt động sản xuất xuất bản phẩm. Sản xuất xuất bản phẩm vừa bao gồm
sản xuất tinh thần (khâu biên tập), vừa bao gồm sản xuất vật chất (khâu chế
bản, nhân bản).
Cùng như mọi hoạt động sản xuất vật chất khác trong xã hội, xây dựng
kế hoạch, kế hoạch hóa hoạt động xuất bản là yêu cầu tự nhiên, khách quan
do sự địi hỏi tất yếu của sự phân cơng, hợp tác lao động. Đó là việc mở đầu
của mọi tiến trình sản xuất của con người. C.Mác nói: “Con ong dù có khéo
léo xây dựng cái tổ hồn hảo đến đâu cũng không thể sánh được với một kỹ
sư, dù chỉ với một kỹ sư tồi, vì trước khi xây dựng ngơi nhà, anh ta đã hình

dung ra nó ở trong óc”. Do vậy, trong hoạt động xuất bản, xây dựng kế hoạch
đề tài được coi là khâu công tác mở đường. Bởi lẽ, quá trình xác lập kế hoạch
đề tài chính là q trình qn triệt định hướng xuất bản của Đảng, quá trình
thực hiện đường lối quan điểm xuất bản của Đảng và Nhà nước. Kế hoạch đề
tài thể hiện tính tự giác, chủ động trong nhà xuất bản trong việc nắm vững yêu
cầu của xã hội và độc giả, tìm ra phương án để đáp ứng tốt các nhu cầu này.
Kế hoạch đề tài là biểu hiện trình độ khoa học trong việc tổ chức sản xuất,

10


kinh doanh của nhà xuất bản, bảo đảm hiệu quả cao cả về văn hóa xã hội và
kinh tế của hoạt động xuất bản.
Kế hoạch đề tài là khâu mở đường cịn là vì mọi hoạt động của nhà xuất
bản liên quan đến nội dung biên tập, xuất bản đều phải căn cứ vào kế hoạch
đề tài, vì đó là căn cứ để tổ chức phân công lực lượng biên tập, tổ chức mạng
lưới cộng tác viên, là căn cứ để chuẩn bị vật tư, tài chính, xây dựng chiến lược
thị trường cho việc phát hành, kinh doanh xuất bản phẩm… Khâu mở đường
có chất lượng thì tồn bộ các khâu tiếp theo của hoạt động biên tập và xuất
bản sẽ có được hiệu quả mong muốn. Và ngược lại, kế hoạch đề tài khơng
khoa học, có sai sót sẽ làm cho xuất bản bị động, kém hiệu quả, thậm chí sẽ
có những sai lầm khơn lường về hiệu quả xã hội.
Trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, kế hoạch
đề tài vẫn là nội dung và tính chất của kế hoạch trong quản lý vĩ mô (quản lý nhà
nước) và quả lý vi mô (quản lý sản xuất kinh doanh của nhà xuất bản).
2. Nội dung lập kế hoạch đề tài
Lập kế hoạch đề tài là q trình phát hiện và hồn chỉnh ý tưởng xuất
bản những xuất bản phẩm của một nhà xuất bản, trong một thời gian cụ thể.
Lập kế hoạch là cơng việc của nhiều người, trong đó lực lương cơ bản và chủ
lực là đội ngũ cán bộ biên tập. Một kế hoạch đề tài được xác lập thường bao

gồm 3 nội dung cơ bản như sau:
2.1. Nội dung và hình thức của xuất bản phẩm sẽ xuất bản
Đây là những nhân tố cơ bản của một bản thiết kế cơng trình văn hóa.
Biên tập viên dựa trên những kết quả của công việc thu thập và xử lý các
thông tin cần thiết đưa ra ý tưởng về vấn đề đề tài cụ thể và tưởng tượng ra
hình thức của xuất bản phẩm trong tương lai.
Nội dung thiết kế mỗi đề tài thường bao gồm: Tên gọi, nội dung chính,
tác giả, đối tượng, khổ sách, số chữ, hình thức trang in, kiểu đóng bìa, thời
gian ra sách, giá thành, giá bán, kênh phát hành…

11


Những hạng mục này, trong q trình thực hiện có thể sẽ thay đổi, nhưng
trong thiết kế ban đầu vẫn phải chỉ rõ.
2.2. Dự đoán thị trường
Đây là nội dung mang tính chất phân tích, luận giải của bản kế hoạch.
Dự đốn thị trường bao gồm sự phân tích các yếu tố sau:
Tình hình, nhu cầu độc giả. Tốt nhất là đưa ra được bảng thống kê số
lượng tương đối cụ thể về quy mơ, tình hình độc giả, độc giả thực tế và độc
giả tiềm năng.
Tình hình xuất bản phẩm cùng loại: Phải phân tích được và so sánh các
xuất bản phẩm cùng loại về thời gian xuất bản, số lượng đã in, nội dung cơ
bản, đặc điểm chủ yếu va khả năng tiêu thụ của chúng trên thị trường…
Phân tích tính đặc sắc của đề tài: Phân tích nội dung đề tài, so sánh với
các loại sách cùng loại đã xuất bản, nói rõ các giá trị mới và ưu thế đặc biệt
của đề tài sẽ được xuất bản.
Qua phân tích các yếu tố trên, biên tập viên đánh giá tổng thể về triển
vọng tiêu thụ của đề tài, tính tốn ước lượng về lỗ lãi kinh tế, đưa ra ý kiến dự
đoán về khả năng cạnh tranh thị trường của đề tài.

2.3 Phương án thực hiện đề tài
Đây là nội dung mang tính thao tác, vạch cương lĩnh hoạt động cho việc
xuất bản. Kế hoạch phải đưa ra phương án có tính khả thi để chuyển đề tài
thành sách. Phương án thực hiện phải bao gồm các nội dung sau:
Lựa chọn tác giả: Đề tài có sự lựa chọn tác giả phù hợp và giới thiệu tình
hình cơ bản về họ: trình độ văn hóa, chun mơn, chức vụ, kết quả nghiên cứu
sáng tác, đặc điểm phong cách; cần đặc biệt chú trọng các tác giả mới.
Bảng tiến độ thời gian thực hiện: Thời gian giao nộp bản thảo, thời gian
đưa in và ra sách.
Kế hoạch tuyên truyền: Nêu ra yêu cầu tuyên truyền cho các giai đoạn
khác nhau, phương thức tuyên truyền chuẩn bị phải sử dụng và các phương
tiện liên lạc cần áp dụng.
12


Chiến lược kinh doanh: Từ đặc điểm, vị trí của đề tài, biên tập viên cần
nêu kiến nghị về chiến lược kinh doanh tiếp thị, giá bán, xúc tiến bán hàng…
3. Các bước xây dựng kế hoạch đề tài
Công tác xây dựng kế hoạch đề tài là một dạng lao động tinh thần phức
tạp. Đó là cơng sức của cả tập thể, được tiến hành một cách khoa học, theo
một trình tự nhất định, theo chu kỳ thống nhất từ trên xuống dưới và từ dưới
lên trên. Công tác xây dựng kế hoạch đề tài phải trải qua các bước sau:
3.1.Thiết kế đề tài
Lãnh đạo nhà xuất bản gồm tổng biên tập (giám đốc) cùng với phòng đề
xuất khung tổng thể của kế hoạch đề tài.
Khung tổng thể gồm các nội dung: Tư tưởng chỉ đạo, nguyên tắc cơ bản,
mục tiêu tổng quát, quy mô kế hoạch.
Căn cứ vào khung tổng thể, các phòng ban biên tập đưa ra kiến nghị về
đề tài phịng (ban) mình.
Khung tổng thể và kiến nghị về đề tài được xây dựng trên cơ sở điều tra

nghiên cứu trên cả hai mức độ vĩ mô và vi mô.
Sau khi điều tra, nghiên cứu, biên tập viên phải xem xét cụ thể mỗi đề tài
trên cả hai khía cạnh: giá trị văn hóa và giá trị kinh tế; phân tích, so sánh và
sàng lọc để nêu ra những kiến nghị về đề tài cụ thể đưa vào kế hoạch.
Sau khi phác thảo kiến nghị đề tài, biên tập viên phải tưởng tượng về
hình thức xuất bản phẩm và dự trù kinh phí cho mỗi đề tài, phịng biên tập
phải tính tốn dự trù kinh phí cho tồn bộ kế hoạch đề tài cảu phịng (ban)
mình.
3.2. Luận chứng kế hoạch đề tài
Luận chứng là bước quyết định để bảo đảm chất lượng kế hoạch đề tài
được xây dựng. Phải tiến hành luận chứng từng đề tài. Có những đề tài phải
qua nhiều lần luận chứng mới được chính thức đưa vào kế hoạch. Đề tài được
luận chứng, đánh giá theo các khía cạnh sau:

13


Giá trị của đề tài: đề tài có giá trị tư tưởng, giá trị học thuật, giá trị nghệ
thuật, giá trị tư liệu hay khơng?
Luận chứng về tính khả thi của đề tài cần phân tích xem xét về lực lượng
biên tập, trình độ và khả năng của tác giả, điều kiện in ấn, điều kiện về vốn và
phát hành đáp ứng yêu cầu các đề tài như thế nào? Những khả năng rủi ro có
thể gặp trong q trình thực hiện.
Hiệu quả kinh tế của đề tài: Dự tính về lỗ lãi khi kế hoạch đề tài được
thực hiện.
3.3. Quyết định và phê chuẩn kế hoạch đề tài
Tổng biên tập (giám đốc) hoặc Ban Giám đốc sẽ ra quyết định hình
thành tồn bộ kế hoạch đề tài xuất bản chính thức của nhà xuất bản sau khi tổ
chức Hội nghị luận chứng lần thứ hai.
Hội nghị này do giám đốc hoặc tổng biên tập nhà xuất bản chủ trì. Tham

gia hội nghị có: phụ trách các cán bộ biên tập (phòng, ban biên tập); phụ trách
phát hành, tuyên truyền. Khi cần thiết cịn có thể mời người phụ trách các bộ
phận sản xuất, tài vụ… Nếu là các đề tài trọng điểm, các bộ sách lớn, hội nghị
cần mời thêm các chuyên gia học giả có liên quan.
3.4. Điều chỉnh và sửa chữa kế hoạch đề tài
Kế hoạch đề tài dù được tiến hành khoa học như thế nào cũng vẫn mang
tính chất dự đốn, nội dung đề tài sẽ phải thay đổi cùng với thời gian. Hơn
nữa, xuất bản thuộc lĩnh vực tư tưởng – văn hóa. Đây là lĩnh vực đòi hỏi
phạm vi sáng tạo linh hoạt rất cao, khơng thể rập khn, máy móc như sản
xuất vật chất. Kế hoạch đề tài xuất bản, vì thế cũng mang tính linh hoạt cao.
III. Cơng tác tổ chức cộng tác viên
Là công việc tổ chức mạng lưới những người cộng tác với nhà
xuất bản, mà trước hết là hoạt động lựa chọn tổ chức các tác giả, soạn giả,
dịch giả; hướng dẫn, bồi dưỡng, giúp đỡ họ để đạt chất lượng và hiệu quả cao
trong công việc làm ra bản thảo, nhân bản và đưa xuất bản phẩm đến đúng đối
tượng cần phục vụ.
14


Trong công tác biên tập, bản thảo đến nhà xuất bản có thể bằng nhiều
con đường, từ nhiều nguồn khác nhau. Không phải tất cả đều do nhà xuất bản
tổ chức. Do vậy, nội hàm công tác cộng tác viên rộn hơn công việc tổ chức
bản thảo. Song, trong các nguồn bản thảo, bản thảo do biên tập viên tổ chức,
đặt hàng một cách chủ động, có kế hoạch bao giờ cũng là nguồn bản thảo chủ
yếu nhất, quan trọng nhất đối với sự tồn tại và phát triển của nhà xuất bản.
Do đó, người ta nói cơng tác cộng tác viên, tổ chức cộng tác viên làm
ra bản thảo là khâu then chốt trong hoạt động xuất bản. Bởi lẽ, mục tiêu cơ
bản của hoạt động xuất bản là truyền bá văn hóa, làm sao có được nhiều tác
phẩm tốt, hay để chuyển thành các xuất bản phẩm truyền bá rộng rãi trong xã
hội. Song, nhân tố quyết định tạo ra các tác phẩm văn hóa, quyết định chất

lượng của nó lại là đội ngũ cán bộ nghiên cứu sáng tác, những tác giả - những
người nằm ngoài biên chế của nhà xuất bản. Người biên tập xuất bản chủ yếu
không phải là người nghiên cứu, sáng tác, mà là người khai thác, tổ chức và
sử dụng những thành quả sáng tác vào việc truyền bá phục vụ nhu cầu rộng
rãi của xã hội. Các nhà xuất bản không phải, cũng không thể biến thành các
trại viết, viện nghiên cứu, mà phải là các trung tâm lo việc truyền bá, phân
phối các sản phẩm văn hóa đến người tiêu dùng. Bởi vậy, công tác tổ chức
cộng tác viên là khâu then chốt để tạo lực lượng chủ lực thực hiện tơn chỉ,
mục đích của các nhà xuất bản, quyết định thắng lợi việc thực hiện kế hoạch
đề tài của nhà xuất bản.
Công tác cộng tác viên biên tập, theo nghĩa rộng, cịn là cơng việc thu
hút đơng đảo lực lượng xã hội tham gia hoạt động xuất bản, thực hiện chủ
trương xã hội hóa, dân chủ hóa việc xuất bản sách theo Chỉ thị 42/CT-TW
ngày 25.8.2004 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, nhằm thúc đẩy sư nghiệp
xuất bản Việt Nam phát triển phong phú, đa dạng và có hiệu quả.

15


CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA BIÊN TẬP
VIÊN VÀ CỘNG TÁC VIÊN TÁC GIẢ Ở NXB PHỤ NỮ HIỆN
NAY
I. Giới thiệu về NXB Phụ nữ và tình hình xuất bản sách văn học
1.Vài nét khái lược về Nhà xuất bản Phụ nữ
Nhà xuất bản Phụ nữ được thành lập vào tháng 10 năm 1957, là nhà xuất
bản duy nhất ở Việt Nam dành cho giới nữ. Là cơ quan thông tin, tuyên
truyền, giáo dục của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Là Nhà xuất bản tổng
hợp, xuất bản nhiều loại sách và văn hóa phẩm có nội dung thiết thực, bổ ích,
góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống và trình độ về mọi mặt của phụ nữ

và trẻ em.
Từ khi thành lập đến nay, Nhà xuất bản Phụ nữ đã xuất bản hơn 11.000
tít sách. Từ năm 2007 đến tháng 6 năm 2012, Nhà xuất bản đã nộp lưu chiểu
2792 tít sách, với 5.584.000 bản sách; số bản in của mỗi tít sách ngày một
tăng.
Ngồi ra, Nhà xuất bản còn xuất bản lịch Blốc, lịch tờ, lịch bàn, lịch sổ
tay, tờ rơi… phục vụ nhu cầu đa dạng của phụ nữ.
Nhà xuất bản đã bám sát sự chỉ đạo và những định hướng lớn của Ban
Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền thông về hoạt động xuất
bản; phương hướng và chương trình hoạt động của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam, yêu cầu của phong trào phụ nữ để vận dụng xây dựng và thực hiện các
kế hoạch xuất bản ngắn hạn, dài hạn.
Nhà xuất bản chú trọng đào tạo, nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ, nhất là
cán bộ biên tập. Đã xây dựng được một đội ngũ cộng tác viên rộng rãi, có tài
năng, giàu nhiệt tình gồm đơng đảo các nhà văn, nhà thơ, nhà dịch thuật, nhà
khoa học, bác sĩ…
Nhà xuất bản tiếp tục đẩy mạnh việc tự chủ trong công tác tổ chức bản
16


thảo, tự in ấn và phát hành vì đây là hướng đi đúng đắn đạt hiệu quả tốt cả về
thực hiện nhiệm vụ chính trị và hiệu quả kinh tế.
Trong 5 năm qua, Nhà xuất bản đã chủ động biên soạn tài liệu, và phối
hợp với các ban, đơn vị của Trung ương Hội xuất bản 121 tít sách gồm nhiều
nghìn bản, và chuyển phát trực tiếp xuống các cấp Hội phụ nữ cơ sở trên toàn
quốc dùng làm tài liệu sinh hoạt nghiệp vụ công tác Hội.
Bên cạnh mảng sách chính trị, cơng tác Hội, sách giáo dục truyền thống;
các mảng sách khoa học giáo dục và đời sống, sách văn học Việt Nam và văn
học nước ngồi có nội dung đề tài phong phú, thiết thực, giữ vững được chất
lượng nên được nối bản, tái bản nhiều lần, đã góp phần nâng cao trình độ về

nhiều mặt cho hội viên, phụ nữ.
Nhà xuất bản không chỉ quan tâm đến việc nâng cao chất lượng sách, mà
còn coi trọng việc cải tiến hình thức, kỹ thuật in ấn, trình bày sách để đáp ứng
nhu cầu ngày càng cao của độc giả. Là đơn vị sự nghiệp có thu tự chủ về tài
chính, hạch tốn kinh tế độc lập, Nhà xuất bản đã chủ động xây dựng mạng
lưới phát hành xuất bản phẩm, kinh doanh đạt hiệu quả, làm tròn nghĩa vụ với
Nhà nước.
Từ năm 2007 đến nay, Nhà xuất bản đã tích cực mở rộng quan hệ đối
ngoại với nhiều tổ chức, cá nhân ở nhiều nước như Mỹ, Pháp, Anh, Trung
Quốc, Đức, Ba Lan… nhằm đẩy mạnh sự hợp tác trong lĩnh vực xuất bản, xin
và mua bản quyền sách.

2. Tình hình hoạt động xuất bản sách văn học nói chung
Trong cuộc sống, văn học đã trở thành nhu cầu tinh thần không thể thiếu
trong đời sống con người. Trong hồn cảnh sống vơ cùng khó khăn, cách biệt
với nền văn hóa chữ viết, nhân dân lao động hàng ngàn thế hệ qua vẫn nối
tiếp nhau thầm lặng sáng tạo nên nền văn học chung của mình. Nền văn học
Việt Nam đã phát triển từ rất sớm, cho dù trước đây bị coi là một nước nô lệ,
nhỏ bé, khơng được thừa nhận bản sắc riêng của mình.

17


Văn học hàng ngàn đời nay không đơn giản chỉ là thỏa mãn nhu cầu giải
trí. Văn học nâng cao con người trong q tình chiếm lĩnh, đồng hóa hiện
thực khách quan. Mỗi tác phẩm văn học dù ít hay nhiều nó cũng làm tâm hồn
con người thêm phong phú. Nó nâng đỡ và bồi dưỡng tâm hồn cao đẹp cho
mỗi chúng ta, giúp chúng ta hiểu ra nhiều giá trị tốt đẹp của cuộc sống. Trong
tác phẩm “Ý nghĩa văn chương” tác giả Hồi Thanh có viết “Văn chương gây
cho ta những tình cảm ta khơng có, luyện cho ta những tình cảm ta sẵn có”.

Qua mỗi một thời kỳ nền văn học Việt Nam lại có sự thay đổi nhất định.
Văn học thời kỳ đổi mới tồn tại và phát triển trong tình hình xã hội có nhiều
biến đổi. Đời sống văn học trong những năm qua rất đa dạng, phức tạp và
bước đi của văn học không ít những quanh co, thăng trầm. Khuynh hướng tư
tưởng, cảm hứng sáng tác văn chương, phương thức nghệ thuật có nhiều sự
thay đổi.
Văn học hiện nay rất đa dạng về đề tài, phong phú về thể loại, có nhiều
tìm tịi về thủ pháp nghệ thuật và phong cách cũng như khuynh hướng thẩm
mĩ, sự phong phú, đa dạng cũng đi liền với tính phức tạp và khơng ổn đinh.
Nhiều cuốn sách văn học xuất bản chỉ rộ ra trong một thời gian ngắn rồi bị rơi
vào quên lãng nhanh chóng. Thị hiếu của công chúng không thuần khiết và
cũng luôn biến động, các nhu cầu của bạn đọc sách ngày càng cao hơn và địi
hỏi cần có nhiều yếu tố mới trong các tác phẩm văn học. Sự phức tạp và
không ổn định này do sự chi phối của cơ chế thị trường. Văn học tất yếu phải
là một sản phẩm hàng hóa trong nền kinh tế thị trường. Điều đó vừa có tác
động thúc đẩy sự phát triển sách văn học, vừa tác động tiêu cực khó tránh
khỏi đối với sáng tác và xuất bản.
Thực trạng chung của nền kinh tế thị trường có tác động khơng nhỏ đến
nền văn học nói chung mà đặc biệt là nền văn học trong nước. Văn học là
nhân hộc và là một khía cạnh của đời sống cịn người. Nhà Thơ, nhà phê bình
văn học Trần Mạnh Hảo đã từng phát biểu trên tạp chí Văn nghệ trẻ (số 19)
rằng: “Nhìn vào một dân tộc, muốn biết dân tộc đó đang thịnh hay suy vong
18


người ta nhìn vào thế hệ trẻ, xem thế hệ này yêu hay ghét môn văn”. Văn học
phản ánh một mặt của nền văn hóa. Nhưng hiện nay, đối với cơng tác xuất bản
thì số lượng sách văn học xuất bản đang trong tình trạng tìm lối thốt. Thực tế
cho thấy rằng nhu cầu đọc sách văn học đang có chiều hướng thay đổi, bạn
đọc trẻ chủ yếu tìm đọc những cuốn sách văn học ngơn tình nước ngồi và

dường như quên lãng đi phần văn học trong nước. Để kích thích nhu cầu bạn
đọc quan tâm tới mảng sách văn học trong nước nhà xuất bản cũng như các
tác giả đang chuyển dần sang xu hướng viết các loại sách ngơn tình để thu hút
nhiều bạn đọc hơn hay nói đúng hơn là sách văn học thị trường. Theo đánh
giá chung của giới phê bình văn học thì nền văn học nước nhà trong thời điểm
hiện tại chưa có những tác phẩm được coi là vượt trội.
3. Tình hình xuất bản sách văn học ở NXB Phụ Nữ
Giống như tất cả các nhà xuất bản khác khi xuất bản mảng sách văn học.
NXB Phụ nữ cũng đứng trước những khó khăn, thử thách chung của nền văn
học hiện nay. Tuy nhiên, khó khăn mà nhà xuất bản gặp phải có phần phức tạp
hơn, vì nhà xuất bản khơng phải là nơi chuyên đi sâu khai thác về mảng sách
văn học, sách xuất bản chính của nhà xuất bản là sách đời sống, chiếm 60%
tổng lượng sách phát hành. Chính vì vậy, mảng sách văn học chỉ là mảng sách
thứ yếu và chiếm một phần nhỏ trong tổng lượng sách phát hành. Nếu so với
các nhà xuất bản chuyên sâu về mảng sách văn học như Nhà xuất bản Văn
học, hoặc Nhà xuất bản Hội nhà văn thì mảng sách văn học của Nhà Xuất bản
Phụ nữ có phần hạn hẹp hơn về mảng đề tài và cũng như mối quan hệ với các
nhà văn có tên tuổi. Song, khơng phải vì thế mà nhà xuất bản Phụ nữ chịu
đứng yên. Họ không ngừng đưa ra những giải pháp mới để tìm kiếm va tạo
mối quan hệ thân thiết với các tác giả có tên tuổi.
Là một trong số các nhà xuất bản lâu năm, nhà xuất bản đã trải qua một
chặng dường khá dài là 55 năm, do vậy uy tín của nhà xuất bản trong lịng
độc giả rất lớn. Nguồn bản thảo đưa tới nhà xuất bản ngày càng nhiều, tuy
nhiên khơng phải bản thảo nào cũng có thể sử dụng. Muốn sử dụng được
19


nguồn bản thảo đó thì cần phải qua tay đội ngũ biên tập đầy kinh nghiệm của
nhà xuất bản. Hiện nay nhà xuất bản đang từng bước khẳng định tên tuổi của
mình trong làng sách văn học. Tuy sách phát hành ra ít nhưng chất lượng khát

tốt và có rất nhiều những tác phẩm đạt giải cao trong nước.
Thị trường sách văn học hiện nay rất đa dạng. Nhà xuất bản nào hầu như
cũng xuất bản mảng sách này. Vì đây là mảng sách đang thu hút được nhiều
đối tượng bạn đọc và tăng nguồn thu nhập cho nhà xuất bản. Tuy nhiên, đây
cũng chính là thách thức để sách văn học NXB Phụ nữ phải khẳng định mình
và phát triển. Trong nhà xuất bản đã tập hợp được một đội ngũ biên tập viên
ban văn học xuất sắc, dày dặn kinh nghiệm. Nguồn bản thảo sách văn học hầu
như đều do ban này phụ trách.
Mảng sách văn học của nhà xuất bản đã có từ rất lâu, ngay từ những năm
đầu nhà xuất bản thành lập. Nghĩa là, sách văn học có bề dày truyền thống là
55 năm. Một số tác phẩm được xuất bản từ những năm đầu và đã khẳng định
được giá trị như: Thăm chồng (Hải Hồ - 1957); Nhãn đầu mùa (Xuân Tùng.,
Trần Thanh – 1959), Người mẹ cầm súng (Nguyễn Thi - 1966); Nhớ nguồn
(Sơn Tùng – 1967)…
Số lượng và chất lượng sách văn học ngày càng được nâng cao theo từng
năm. Từ khi thành lập đến nay nhà xuất bản đã xuất bản 2148 đầu sách văn
học. nhiều tác phẩm đã có sức sống trong thời kì kháng chiến mang ý nghĩa
giáo dục về tư tưởng, tình cảm cách mạng và nâng cao đời sống tinh thần,
khắc họa hình tượng người phụ nữ trong thời kỳ kháng chiến và trong công
cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Với ý
nghĩa vơ cùng to lớn đó, mảng sách văn học của nhà xuất bản phần nào đáp
ứng được nhu cầu độc giả và đang ngày càng khẳng định được vị thế của
mình trong làng sách văn học.

20


II. Vai trị của biên tập viên trong cơng tác xây dựng kế
hoạch đề tài
1. Tình hình chung về cơng tác xây dựng kế hoạch đề tài của các nhà

xuất bản
Xây dựng kế hoạch đề tài là công việc quan trọng của nhiều nhà
xuất bản. Trong công tác kế hoạch đề tài, biên tập viên giữ vai trị trọng yếu.
Đó là việc chủ động tìm chọn và đề xuất những đề tài hay, có chất lượng. Đề
tài là căn cứ cơ bản để biên tập viên hướng tới độc giả.
Trong 6 tháng đầu năm 2012, các nhà xuất bản đã đăng ký kế hoạch xuất
bản 38.358 cuốn, cục Xuất bản xác nhận đăng ký kế hoạch xuất bản 37.107
cuốn, lưu chiểu 6.358 cuốn, tăng 14% so với cùng kỳ năm 2011. Nhìn chung
các nhà xuất bản đăng kí đề tài phù hợp với nội dung, có ý kiến của cơ quan
chủ quản và cơ quan chức năng đã được một số nhà xuất bản thực hiện
nghiêm.
Các nhà xuất bản thực hiện tốt kế hoạch xuất bản như: NXB Y học
(58%), NXB Bách khoa Hà Nội (53%), NXB Hồng Bàng (51%), NXB Kim
Đồng (45%).
Dưới đây tôi xin đi sâu nghiên cứu về công tác xây dựng kế hoạch đề tài
ở mảng sách văn học của Nhà xuất bản đó là Nhà xuất bản Phụ nữ.
2. Những căn cứ để xây dựng kế hoạch đề tài ở ban văn học của Nhà
xuất bản Phụ nữ
2.1. Kế hoạch đề tài được xây dựng căn cứ vào định hướng của
Đảng và Nhà nước
Công tác xuất bản hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hoạt động xuất bản trong điều
kiện hiện nay, do đặc điểm và vị trí quan trọng của nó, về cơ bản do các cơ
quan Nhà nước thực hiện. Vì vậy, vai trị của Nhà nước là điều kiện cơ bản có
tính chất quyết định đến chất lượng khâu công tác kế hoạch đề tài xuất bản.
21


Mỗi cuốn sách được xuất bản phải mang nội dung thiết thực phục vụ cho
cuộc sống con người. Với định hướng như vậy nên mỗi biên tập viên ln có

kế hoạch khai thác bản thảo có giá trị. Vì vậy kế hoạch đề tài bám sát vào
quan điểm đường lối của Đảng trong từng thời kỳ.
Trong thời kì kháng chiến thì biên tập viên phải đưa vào kế hoạch của
mình những tác phẩm đề cập đến con người với những đóng góp to lớn vào sự
nghiệp giải phóng dân tộc. Nhưng trong giai đoạn đất nước đang đổi mới và
phát triển thì kế hoạch đề tài hướng vào đề cập con người trong sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Định hướng của Đảng, Nhà nước là căn cứ quan trọng để nhà xuất bản
có kế hoạch đề tài chung theo mục tiêu và nhiệm vụ đặt ra. Đối với biên tập
viên phải nắm vững những định hướng chiến lược, chương trình của Đảng và
Nhà nước để từ đó có sự thẩm định, đánh giá bản thảo theo quan điểm, đường
lối chính trị của Đảng và Nhà nước.
2.2 Kế hoạch đề tài được xây dựng căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của
nhà xuất bản
Quá trình phát triển 55 năm qua, chức năng, nhiệm vụ của NXB Phụ nữ
luôn được mở rộng, phát triển và cho đến ngày nay, đã được cụ thể hóa trên một
phạm vi thật sự rộng rãi và phong phú. Thông qua các ấn phẩm của mình, Nhà
xuất bản Phụ nữ tuyên truyền, giới thiệu những quan điểm của Đảng, chính sách,
luật pháp của Nhà nước liên quan đến cuộc sống của phụ nữ và trẻ em; phương
hướng và chương trình hoạt động của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, kinh
nghiệm công tác của đoàn thể phụ nữ. Phổ biến những kiến thức khoa học cần
thiết, bổ ích nhất thuộc nhiều lĩnh vực liên quan đến đời sống phụ nữ và trẻ em.
Giới thiệu các tác phẩm văn học có giá trị của Việt Nam và nước ngoài viết về
cuộc sống của người phụ nữ... Nhà xuất bản đã bám sát sự chỉ đạo và những
định hướng lớn của Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền thông
về hoạt động xuất bản; phương hướng và chương trình hoạt động của Hội Liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam, yêu cầu của phong trào phụ nữ để vận dụng xây dựng và
22



thực hiện các kế hoạch xuất bản ngắn hạn, dài hạn.
Kế hoạch đề tài phải bám sát vào chức năng, nhiệm vụ của nhà xuất bản
để từ đó lựa chọn đề tài phù hợp với thị hiếu của đối tượng bạn đọc cần phục
vụ. Trong mỗi giai đoạn cụ thể của cách mạng, ngoài đề tài dài hạn và ngắn
hạn đăng kí theo kế hoạch hàng năm của nhà xuất bản, biên tập viên cần hiểu
biết về thời cuộc, nhạy bén với chính trị, bổ sung các đề tài đột xuất để đáp
ứng nhu cầu bạn đọc, phục vụ kịp thời sự phát triển chung của đất nước.
2.3.Kế hoạch đề tài được xây dựng căn cứ theo thị hiếu của độc giả
Thị trường luôn là yếu tố quan trọng trong công tác kế hoạch đề tài của
biên tập viên trong ban văn học. Mỗi biên tập viên làm sách văn học phải tự
tìm hiểu thị trường, thị hiếu của độc giả. Thị trường đòi hỏi về sách văn học ở
mỗi thời kỳ khác nhau. Thị hiếu của độc giả cũng khá đa dạng. Chính vì vậy,
ban biên tập ln nắm được những nhu cầu đó của độc giả để xuất bản sách.
Mỗi nhà xuất bản đều có đối tượng cơng chúng riêng. Nếu như đối tượng
phục vụ của NXB Thanh niên là bạn đọc trẻ tuổi thì NXB Văn hóa thông tin
với nhiệm vụ tuyên truyền giới thiệu đến độc giả trong và ngoài nước những
thành tựu tinh hoa văn hóa Việt Nam và thế giới, NXB Lao Động phục vụ đời
sống văn hóa tinh thần cho người lao động trong cả nước thì NXN Phụ nữ lại
hướng tới đối tượng chủ yếu là phụ nữ và trẻ em. Nhưng đấy chỉ là đối tượng
phục vụ chung của các mảng sách đời sống, khoa học, cịn sách văn học thì
nhà xuất bản hướng tới nhiều đối tượng bạn đọc. Do vậy, đề tài cũng khá
phong phú và đa dạng không thua kém gì nhiều nhà xuất bản khác. Như thế
đồng nghĩa với việc biên tập viên phải khai thác đề tài ở mọi lĩnh vực, mọi
khía cạnh của hiện thực cuộc sống cũng như tâm tư, tình cảm của phái đẹp.
Thị trường sách văn học có nhiều biến động. Việc lập kế hoạch lớn và
dài hạn cũng gặp nhiếu khó khăn nên kế hoạch đề tài của ban văn học gói gọn
trong một năm, thậm chí ngắn hơn. Những ý tưởng mà biên tập viên ban văn
học phác thảo trong kế hoạch đề tài thường mang tính khả thi. Nhưng cũng có
23



thể kế hoạch đề tài không thực hiện được ngay trong năm mà phụ thuộc vào
thời điểm. Vấn đề thời điểm có ý nghĩa quan trọng. Ban biên tập có thể có
nhiều bản thảo hay, nhưng khơng hẳn đã phù hợp với nhu cầu của thị trường
và tiến độ khai thác bản thảo của ban biên tập.
2.4. Kế hoạch đề tài được xây dựng căn cứ vào tình hình sách xuất bản
năm trước đã được tổng kết, đánh giá ưu khuyết điểm và những bài học kinh
nghiệm.
Thị trường sách văn học hiện nay rất đa dạng. Đây là mảng sách gần
như nhà xuất bản nào cũng xuất bản. Vì vậy, mỗi biên tập viên phải không
ngừng cải tiến tốt chức bản thảo. Căn cứ vào tình hình xuất bản từng năm của
nhà xuất bản mà biên tập viên có kế hoạch đề tài cụ thể.
Theo thời gian, số lượng, chất lượng sách văn học được nâng lên đáng
kể. Mỗi cán bộ biên tập ln nhìn nhận, dự báo tình hình thị trường sách đã,
đang và sẽ xuất bản để bổ sung vào kế hoạch đề tài của mình.
2.5. Kế hoạch đề tài được xây dựng căn cứ vào mối quan hệ số lượng
bản thảo sẵn có


Căn cứ vào số lượng bản thảo sẵn có của nhà xuất bản và biên tập viên
Nguồn bản thảo sẵn có cũng là căn cứ để biên tập viên xây dựng kế
hoạch đề tài. Đây được coi là dạng bản thảo lai cảo. Đó là những bản thảo tác
giả gửi trực tiếp đến cho nhà xuất bản do cộng tác viên lâu năm hoặc có thể là
những cây bút trẻ mới sáng tác. Ngoài ra, một dạng bản thảo nữa cũng khá
quan trọng là bản thảo liên kết (Với cộng tác viên và các nhà sách).



Căn cứ vào sự chủ động trong xây dựng kế hoạch đề tài của biên tập viên
Người biên tập luôn có quỹ đề tài, quỹ bản thảo dự trữ để kịp thời điều

chỉnh, bổ sung kế hoạch. Như vậy, công tác kế hoạch đề tài được thực hiện
khá linh hoạt và có hiệu quả. Ngồi căn cứ vào nhu cầu của độc giả trên thị
trường, căn cứ vào định hướng của Đảng, Nhà nước và chức năng, nhiệm vụ
của nhà xuất bản thì sự chủ động về kế hoạch đề tài luôn là cơ sở để các biên
tập viên tổ chức mạng lưới cộng tác viên xây dựng bản thảo.
24


Căn cứ vào nhu cầu, đặc điểm, thị hiếu của các lớp đối tượng phục vụ
của nhà xuất bản sẽ đảm bảo thành công của kế hoạch đề tài. Nhưng sự căn
cứ vào thị trường để xây dựng kế hoạch đề tài chỉ là một phần. Phần còn lại
mỗi biên tập viên trong ban ln có định hướng kế hoạch riêng. Kế hoạch đó
phụ thuộc vào sự chủ động khai thác bản thảo của biên tập viên. Thực tế đã có
rất nhiều bản thảo có giá trị từ kế hoạch đề tài riêng của cán bộ biên tập. Các
biên tập viên đã luôn chủ động về kế hoạch đề tài và nguồn bản thảo. Mà sự
chủ động bao giờ cũng mang lại hiệu quả cao hơn.
Nhiều cuốn sách đến tay bạn đọc có giá trị cao thể hiện sự nhạy bén
trong việc lựa chọn đề tài. Mỗi biên tập viên không ngừng cố gắng để khai
thác bản thảo mới theo kế hoạch đề tài riêng. Họ tự tổ chức lập ra kế hoạch,
phấn đấu hoàn thành và vượt mức kế hoạch đó. Nhìn chung, kế hoạch đề tài
của mỗi biên tập viên ln có sự bổ sung. Đó là nguồn bản thảo mà tác giả
gửi trực tiếp đến cho nhà xuất bản hoặc là phụ thuộc vào sự khai thác bản
thảo năng động của từng biên tập viên.
Chẳng hạn, biên tập viên Kim Hằng có ý tưởng đưa kế hoạch đề tài của
mình tuyển chọn các truyện ngắn viết về mẹ, ý tưởng làm sách đó có cơ sở
bởi biên tập viên nhìn nhận, đánh giá thị trường phù hợp với nhiều đối tượng
độc giả. Viết về mẹ là đề tài khơng bao giỡ cũ với người cầm bút. Hình tượng
người mẹ trong kháng chiến, trong hiện tại luôn được phản ánh khá nhiều.
Nhưng sự miêu tả ấy sẽ không bao giờ có đích cuối cùng bởi hình ảnh người
mẹ như hình ảnh q hương mà ai cũng chỉ có một.

Như vậy: Mọi hoạt động liên quan đến nội dung biên tập – xuất bản
mảng sách văn học phần lớn căn cứ trên kế hoạch đề tài và lấy đó làm cơ sở
cho việc tổ chức lực lượng biên tập. Kế hoạch đề tài do từng biên tập viên lập
ra. Mỗi cán bộ biên tập phải xây dựng cho mình những ý tưởng, kế hoạch và
đề xuất được những bản thảo hay có giá trị.
Trước đây, mỗi biên tập viên của ban văn học được phân công ở một
ban cụ thể và biên tập mảng sách chính của ban. Biên tập viên sẽ chuyên biên
25


×