Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Hội thẩm nhân dân trong tố tụng dân sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.58 MB, 89 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

ĐINH THỊ KIỀU DUNG

HỘI THẨM NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng Dân sự
Mã số: 60380103

Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. NGUYỄN THỊ HOÀI PHƯƠNG

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan cơng trình nghiên cứu khoa học này là của riêng tôi. Các
số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, nếu đã từng được cơng bố trong
các cơng trình khác thì đều được trích dẫn nguồn cụ thể. Tơi xin chịu trách nhiệm
hồn tồn về tính xác thực này.
Tác giả luận văn
Đinh Thị Kiều Dung


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLTTDS



Bộ luật Tố tụng Dân sự

BTĐ

Bồi thẩm đoàn

HP

Hiến pháp

HTND

Hội thẩm nhân dân

HĐXX

Hội đồng xét xử

Luật Tổ chức TAND

Luật Tổ chức Tòa án nhân dân

Sắc lệnh 13/SL

Sắc lệnh 13/SL ngày 24/01/1946 về tổ chức các Tòa
án và ngạch Thẩm phán


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỘI THẨM NHÂN
DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM ................................................. 5
1.1. Mục đích qui định sự tham gia của Hội thẩm nhân dân trong tố tụng dân
sự
.................................................................................................................... 5
1.2. Địa vị pháp lý của Hội thẩm nhân dân trong hoạt động xét xử vụ án dân
sự
.................................................................................................................. 11
1.2.1. Khái niệm Hội thẩm nhân dân trong tố tụng dân sự ................................... 11
1.2.2. Địa vị pháp lý của Hội thẩm nhân dân trong hoạt động xét xử vụ án dân sự ..
.................................................................................................................. 16
1.3. Qui định về sự tham gia của Hội thẩm nhân dân trong lịch sử tố tụng dân
sự Việt Nam ........................................................................................................ 21
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến 1959 ............................................................... 21
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1959 đến 1980 ............................................................... 24
1.3.3. Giai đoạn từ năm 1980 đến 1992 ............................................................... 25
1.3.4. Giai đoạn từ năm 1992 đến nay ................................................................. 27
Kết luận chương 1 .............................................................................................. 30
CHƯƠNG 2. QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ
HỘI THẨM NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VÀ CÁC KIẾN NGHỊ
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ............................................................................. 32
2.1. Qui định của pháp luật Việt Nam hiện hành về Hội thẩm nhân dân trong
tố tụng dân sự ..................................................................................................... 32
2.1.1. Điều kiện tham gia của Hội thẩm nhân dân trong tố tụng dân sự ............... 32
2.1.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội thẩm nhân dân trong tố tụng dân sự ............ 40
2.1.3. Sự tham gia của Hội thẩm nhân dân trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm
dân sự .................................................................................................................. 45



2.1.4. Sự tham gia của Hội thẩm nhân dân tại phiên tòa sơ thẩm dân sự ............. 48
2.2. Thực tiễn tham gia của Hội thẩm nhân dân trong hoạt động xét xử vụ án
dân sự và kiến nghị hoàn thiện pháp luật.......................................................... 53
2.2.1. Thực tiễn tham gia của Hội thẩm nhân dân trong hoạt động xét xử vụ án dân
sự

.................................................................................................................. 53

2.2.2. Các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về Hội thẩm nhân dân trong hoạt động
xét xử vụ án dân sự ............................................................................................... 69
Kết luận chương 2 .............................................................................................. 73
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam đang trong quá trình chuyển mình để hội nhập cùng xu thế của thế
giới. Những giao lưu dân sự, kinh tế đã đem lại những chuyển biến tích cực về mọi
mặt của đời sống xã hội. Nhưng song hành với sự phát triển ấy là những mâu thuẫn
xung đột quyền lợi giữa các bên tham gia quan hệ giao lưu. Khi những tranh chấp
xảy ra thì Tịa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền xét xử giải quyết vụ việc nhằm
đảm bảo công bằng cho các bên và đảm bảo an ninh trật tự xã hội. Xuất phát từ tầm
quan trọng đó mà Đảng và Nhà nước ta đã rất chú trọng đến chính sách cải cách nền
tư pháp. Một trong những trọng tâm của công cuộc cải cách đến giai đoạn năm 2020
được ghi nhận trong Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ XI của Đảng và Nghị quyết
số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị là đổi mới, nâng cao hiệu quả cũng như hiệu lực

của công tác tố tụng nói chung và hoạt động xét xử nói riêng. Có thể nhận thấy đây
là khâu then chốt quyết định sự thành công của hoạt động cải cách tư pháp. Tuy
nhiên, khâu quan trọng nhất trong hoạt động xét xử vẫn là con người, mà cụ thể là
đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân.
Trong thời gian qua, chế định Hội thẩm nhân dân đã góp phần quan trọng
vào thành cơng chung của ngành Tịa án đối với việc thực thi tốt pháp luật để giữ
vững niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, góp phần xây
dựng một nhà nước Việt Nam giàu mạnh, công bằng, văn minh. Chế định Hội thẩm
nhân dân cũng đã khẳng định được rằng nhân dân có thể và cần phải có tiếng nói
của mình trong hoạt động tư pháp. Tuy nhiên, khi áp dụng những quy định pháp
luật về Hội thẩm nhân dân trong thực tiễn đã bộc lộ những hạn chế dẫn đến Hội
thẩm nhân dân chưa phát huy tối đa vai trị của mình, chưa khẳng định được vị trí
quan trọng của mình trong hoạt động xét xử, cũng như chưa có trách nhiệm cao đối
với công tác xét xử. Điều này đã phần nào làm giảm đi hiệu quả hoạt động của Hội
thẩm nói riêng và hiệu quả xét xử của ngành Tòa án nói chung.
Trong những năm gần đây chế định Thẩm phán đã thu hút được sự quan tâm
nghiên cứu của nhiều nhà nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực tố tụng khác nhau như
hình sự, dân sự, hành chính... Nhưng ngược lại, những vấn đề liên quan đến Hội
thẩm nhân dân chưa nhận được sự quan tâm nghiên cứu đúng mức về phương diện
lý luận và thực tiễn. Trước những đòi hỏi trong giai đoạn mới, chế định Hội thẩm
nhân dân cần được nghiên cứu sửa đổi hồn thiện hơn. Vì vậy, việc nghiên cứu về
Hội thẩm nhân dân một cách có hệ thống và chuyên sâu ở cấp độ đề tài luận văn cao
học là cần thiết và mang tính thời sự. Đây chính là lý do mà tác giả lựa chọn đề tài
“Hội thẩm nhân dân trong tố tụng dân sự Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sỹ.


2

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua nghiên cứu, tìm hiểu tác giả được biết, đề tài về Hội thẩm nhân dân đã

thu hút được sự quan tâm của một số nhà nghiên cứu luật học, cũng như những
người làm cơng tác thực tiễn áp dụng pháp luật. Có thể tạm phân loại các cơng trình
nghiên cứu này thành ba nhóm lớn như sau:
Nhóm các khóa luận, luận văn: Các cơng trình nghiên cứu tiêu biểu trong
nhóm này có: đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ của Tòa án nhân dân tối cao
(1999), Những yêu cầu và giải pháp nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ Tòa án nhân
dân; Nguyễn Văn Toàn (2009), Chế định Hội thẩm nhân dân trong tố tụng dân sựLý luận và thực tiễn, Luận văn cử nhân, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh; Vũ
Trọng Đạt (2010), Nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm nhân dân tham
gia trong Luật Tố tụng Hình sự, Luận văn cử nhân, Trường Đại học Luật Hà Nội.
Các cơng trình này hoặc chỉ giải quyết một khía cạnh nhỏ trong chế định Hội thẩm
nhân dân hoặc có phạm vi nghiên cứu rất rộng.
Nhóm sách giáo trình, sách chun khảo: Trong nhóm này có thể kể đến
một số cơng trình tiêu biểu như Giáo trình Luật Tố tụng Dân sự- Đại học Luật Hà
Nội, năm 1995, Nxb trường Đại học Tổng hợp Hà Nội; Giáo trình Luật tố tụng Dân
sự -Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, năm 2002, Nxb Hồng Đức-Hội Luật gia
Việt Nam, Sổ tay Hội thẩm nhân dân- Trường Đào tạo các chức danh Tư pháp, năm
2000, Nxb Thanh niên... Trong các cuốn sách trên, chế định Hội thẩm thường chỉ
được phân tích một cách chung chung, có tính chất tổng qt dưới góc độ lý thuyết,
chứ khơng phân tích một cách chuyên sâu và cụ thể.
Nhóm các bài viết trên các báo, tạp chí: Có thể kể đến một số bài như: Bài
viết của tác giả Lê Thu Hương (1999) “Sự hình thành và phát triển của chế định
Hội thẩm ở Việt Nam”, Thông tin khoa học pháp lý số 1/1999 đã khái lược lịch sử
hình thành và phát triển của chế định Hội thẩm ở Việt Nam; hay bài viết của tác giả
Hoàng Hùng Hải (2005) “Mấy ý kiến về đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của
Hội thẩm” đăng trên Tạp chí Tịa án nhân dân số 6/2005- bài viết đã đưa ra được
một số ý kiến về đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội thẩm nhân dân,
Hội thẩm quân dân; Nguyễn Quang Lộc (2006) có bài viết “Quản lý cơng tác bồi
dưỡng nghiệp vụ Hội thẩm Tòa án- Thực trạng và giải pháp” đăng trên Tạp chí Tịa
án nhân dân số 8/2006- bài viết đã nêu lên được một số giải pháp nhằm nâng cao
công tác quản lý bồi dưỡng Hội thẩm. Nhìn chung, các bài viết này thường phân

tích rất sâu một vấn đề trong chế định Hội thẩm, các tác giả chỉ đề cập đến một khía
cạnh hoặc một trường hợp cụ thể liên quan đến chế định Hội thẩm nhân dân mà
khơng thể phân tích tồn diện các khía cạnh của chế định này.


3

Một điểm chung của cả ba nhóm cơng trình nghiên cứu kể trên, đó là phần
lớn các tác giả thường thiên về việc phân tích, đánh giá pháp luật về Hội thẩm nhân
dân. Một số cơng trình nghiên cứu cũng đã có dẫn chiếu, liên hệ thực tiễn áp dụng
một số quy định pháp luật. Tuy nhiên, sự liên hệ, phân tích đó chỉ có tính chất minh
họa cho một số trường hợp cụ thể mà chưa có sự soi chiếu một cách tổng thể, tồn
diện tất cả các khía cạnh của những quy định về Hội thẩm nhân dân trong tố tụng
dân sự Việt Nam vào thực tiễn. Do vậy, các cơng trình nghiên cứu trên so với đề tài
của luận văn này là hồn tồn khơng có sự trùng lắp về mặt nội dung.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ một cách có hệ thống cơ sở lý luận và
thực tiễn của pháp luật về Hội thẩm nhân dân; đánh giá thực trạng qui định của
pháp luật cũng như thực tế hoạt động tố tụng của Hội thẩm nhân dân, từ đó đưa ra
hướng giải quyết góp phần hồn thiện chế định này. Để thực hiện được mục đích
đó, luận văn phải giải quyết những vấn đề về lý luận và thực tiễn liên quan đến Hội
thẩm nhân dân như mục đích việc quy định sự tham gia của Hội thẩm nhân dân
trong tố tụng dân sự, khái niệm, điều kiện để Hội thẩm nhân dân tham gia tố tụng
dân sự, nhiệm vụ và quyền hạn của Hội thẩm nhân dân, đề xuất các giải pháp hoàn
thiện pháp luật liên quan đến Hội thẩm nhân dân, qua đó nâng cao hoạt động của
Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án dân sự.
Từ việc xác định mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ là:
-

Tìm hiểu, phân tích những vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến Hội thẩm

nhân dân trong tố tụng dân sự;

-

Phân tích những qui định của pháp luật về địa vị pháp lý của Hội thẩm nhân
dân trong Bộ luật Tố tụng dân sự hiện hành;

-

Phân tích thực trạng hoạt động tố tụng của Hội thẩm nhân dân trong tố tụng
dân sự, từ đó chỉ ra những bất cập trong các qui định của pháp luật về chế
định Hội thẩm nhân dân

-

Đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện qui định của pháp luật về Hội
thẩm nhân dân.

4. Phạm vi nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu của đề tài
Trong khuôn khổ của luận văn Thạc sỹ, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu
những quy định của Hội thẩm nhân dân dưới góc độ tố tụng dân sự. Hội thẩm nhân
dân trong các lĩnh vực tố tụng khác như tố tụng hình sự, tố tụng hành chính, tố tụng
lao động, tố tụng kinh tế tác giả sẽ không nghiên cứu. Đồng thời, luận văn cũng chỉ


4

dừng lại ở việc nghiên cứu chế định Hội thẩm nhân dân chứ không nghiên cứu về
chế định Hội thẩm quân dân trong các vụ án liên quan đến quân đội.
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật

biện chứng của triết học Mac- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của
Đảng và Nhà nước về pháp luật. Ngoài ra tác giả còn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể như phân tích, so sánh- Phương pháp này sẽ được sử dụng chủ
yếu ở chương 1 nhằm đưa góc nhìn tổng quan về mặt lý luận liên quan đến chế định
Hội thẩm nhân dân; Bên cạnh đó, phương pháp tổng hợp, thống kê, quan sát, phỏng
vấn chuyên gia liên quan đến lĩnh vực áp dụng pháp luật sẽ được sử dụng nhiều ở
chương 2 nhằm phân tích rõ thực trạng chế định Hội thẩm nhân dân hiện nay và qua
đó đưa ra một số định hướng nhằm hoàn thiện hơn chế định này.
5. Ý nghĩa khoa học của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần vào việc nhận thức đúng đắn
những quy định pháp luật về Hội thẩm nhân dân trong tố tụng dân sự về mặt lý luận
cũng như thực tiễn. Luận văn sẽ là tài liệu tham khảo cho những sinh viên, học viên
học về chuyên ngành luật cũng như làm tài liệu nghiên cứu cho những người làm
công tác nghiên cứu pháp luật và áp dụng pháp luật, trong đó, có Hội thẩm nhân
dân.
6. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu kham thảo, phụ lục
cơ cấu của luận văn gồm hai chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận chung về Hội thẩm nhân dân trong tố tụng
dân sự
Chương 2. Qui định của pháp luật Việt Nam hiện hành về Hội thẩm nhân dân
trong tố tụng dân sự và các kiến nghị hoàn thiện pháp luật


5

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỘI THẨM NHÂN DÂN
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
1.1. Mục đích qui định sự tham gia của Hội thẩm nhân dân trong tố tụng

dân sự
Trong xã hội phong kiến với hình thức chính thể quân chủ chuyên chế được
phát huy tối đa thì tất cả quyền lực sẽ thuộc về nhà vua. Nhà vua sẽ là người có
quyền quyết định tất cả, bởi vì người dân trong xã hội ấy khơng có bất kỳ quyền lực
gì. Đến khi cách mạng tư sản nổ ra, nhà nước tư sản ra đời thì lúc này trong việc
thiết lập bộ máy nhà nước đã có sự phân chia quyền lực. Ba nhánh quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp được chia thành ba nhánh quyền độc lập, kiềm chế, đối trọng lẫn
nhau. Trong thể chế tư pháp thì Tịa án đóng vai trị quan trọng, Tịa án chính là nơi
quyết định số phận pháp lý của một chủ thể khi họ vi phạm những quy định của nhà
nước đặt ra. Do đó, để đảm bảo cho sự việc xét xử được khách quan, đúng pháp luật
thì trong Tịa án ngồi những Thẩm phán, nhà nước tư sản còn đặt ra nguyên tắc
nhân dân tham gia hoạt động xét xử nhằm kiểm soát sự lạm quyền của Thẩm phán
gọi là Bồi thẩm đoàn (BTĐ). Chế định Bồi thẩm đoàn này được ra đời đầu tiên ở
Anh vào năm 1066, sau đó là các nước khác cũng như nhà nước xã hội chủ nghĩa
sau khi ra đời đã kế thừa và phát triển với tên gọi là Hội thẩm nhân dân (HTND).
Việt Nam cũng là một trong những nước tiếp thu và kế thừa chế định “công dân
tham gia xét xử” và điều này thể hiện ở quy định “Hội thẩm nhân dân”.
Vai trò của HTND xuất hiện cùng với sự ra đời của Tòa án nhân dân. Theo
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (HP), Tịa án là cơ quan duy
nhất có chức năng thực hiện hoạt động xét xử. Chính vì vậy, Tòa án được xem là cơ
quan nhân danh Nhà nước xét xử hành vi vi phạm pháp luật và giải quyết tranh chấp
trong đời sống xã hội. Đồng thời, Tịa án nhân dân cũng chính là chỗ dựa của nhân
dân trong việc bảo vệ công lý, quyền của con người, là công cụ hữu hiệu bảo vệ
pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Vị trí, vai trị của Tòa án trong nhà nước pháp quyền lại càng được khẳng
định chắc chắn hơn về mọi mặt. Vì Tịa án chính là cơ quan thực thi quyền lực tư
pháp trong bộ máy nhà nước và việc thực thi này có tính ảnh hưởng trực tiếp tới
mục tiêu cùng các giá trị của công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt
Nam. Tịa án là cơ quan duy nhất có quyền xét xử và quyết định các vấn đề về bồi
thường, về áp dụng biện pháp ngăn chặn, về án phí… Nhưng bản thân Tịa án chỉ là



6

một cơ quan được tạo ra để thực hiện hoạt động xét xử, tự thân nó khơng thể hoạt
động mà cần có một chủ thể nào đó vận hành thơng qua sự trao quyền của nhà
nước. Chủ thể này không ai khác chính là những người tiến hành tố tụng, trong đó
có Thẩm phán và HTND. Họ sẽ dựa trên sự trao quyền nhân danh nhà nước để thực
hiện hoạt động xét xử. Hơn nữa, nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân, vì dân
nên cơng dân có quyền tham gia và giám sát hoạt động quản lý nhà nước và xã hội.
Việc Hội thẩm nhân dân tham gia vào hoạt động xét xử cùng với Thẩm phán là cơ
sở để bảo đảm quyền dân chủ trong tố tụng, giúp Tòa án giải quyết vụ án khách
quan, đúng pháp luật.
Chính vì những ngun do trên mà ngay từ những ngày đầu khi nhà nước ta
thiết lập bộ máy tư pháp đã đặc biệt chú trọng đến việc tham gia của người dân vào
hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân. Vấn đề này đã được quy định tại nhiều văn
bản pháp luật khác nhau, mặc dù tên gọi, số lượng và nhiệm vụ, quyền hạn của Hội
thẩm ở mỗi thời kỳ có sự khác nhau, nhưng sự tham gia xét xử của Hội thẩm nói
chung và HTND nói riêng là khơng thể thiếu vắng. Từ đó, đến nay các quy định liên
quan đến HTND ngày càng được củng cố và hoàn thiện hơn nhằm bảo đảm việc xét
xử khách quan, đúng pháp luật. Cụ thể, những quy định này đã được ghi nhận tại
các bản HP của nước ta năm 1946, 1959, 1980, 1992 và tiếp tục được ghi nhận
trong HP năm 2013; Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội
thẩm Tòa án nhân dân, Bộ luật Tố tụng Dân sự qua các thời kỳ.
Sự tham gia của HTND trong hoạt động xét xử chính là một trong những
nguyên tắc hiến định của pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
được cụ thể hóa trong Bộ luật Tố tụng Dân sự hiện hành cũng như các văn bản khác
có liên quan. Biểu hiện của quy định này là: “Việc xét xử của Tịa án nhân dân có
HTND tham gia, việc xét xử của Tịa án qn sự có Hội thẩm quân nhân tham gia.
Khi xét xử Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán”,”khi xét xử, Thẩm phán và Hội

thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”1. Các chế định về Hội thẩm Tòa án nhân
dân được quy định rõ ràng, chặt chẽ trong các văn bản pháp luật quan trọng nêu trên
đã chứng tỏ vai trò quan trọng đặc biệt của chế định HTND trong nền tư pháp.
HTND là người do cơ quan quyền lực bầu ra để đại diện cho nhân dân tham
gia vào hoạt động xét xử của Tòa án. Việc HTND tham gia xét xử vụ án dân sự với
tư cách là một thành viên trong Hội đồng xét xử sơ thẩm dân sự nhằm mục đích

1

Điều 129, Điều 130 HP năm 1992; Khoản 2 Điều 103 HP năm 2013;
Điều 11 BLTTDS năm 2004;
Điều 8 Luật Tổ chức TAND năm 2014;


7

thực hiện quyền dân chủ, quyền giám sát và quyền trực tiếp tham gia vào hoạt động
tố tụng của công dân đối với hoạt động xét xử của ngành Tòa án nhân dân. Ngoài
ra, việc HTND tham gia xét xử cịn nhằm mục đích nâng cao ý thức giáo dục pháp
luật và phát huy được tác dụng giáo dục thông qua hoạt động xét xử; đồng thời cũng
có ý nghĩa nhằm hỗ trợ Thẩm phán trong hoạt động xét xử.
Thứ nhất, việc qui định có sự tham gia của HTND trong hoạt động tố tụng
dân sự nhằm bảo đảm thực thi nguyên tắc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân
cũng như đảm bảo tính dân chủ trong hoạt động xét xử của Tịa án nhân dân; giúp
cho cơng tác xét xử của Tịa án nhân dân được chính xác, khách quan, đảm bảo tốt
nhất quyền và lợi ích của các bên trong quan hệ tố tụng nói chung và quan hệ tố
tụng dân sự nói riêng. Thực hiện tốt nguyên tắc này sẽ góp phần vào việc củng cố
tốt mối quan hệ giữa Tòa án và nhân dân, nâng cao tính chính xác, bảo đảm tính
cơng minh trong cơng tác xét xử.
Xuất phát từ bản chất của nhà nước ta là “ Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”2 đã được Hiến pháp, pháp luật và
văn kiện của Đảng khẳng định, nên việc tham gia của quần chúng nhân dân vào
công việc quản lý nhà nước cũng như công tác xét xử của Tòa án là nhu cầu khách
quan nhằm đảm bảo quyền dân chủ của người dân trong xã hội, tiến tới xây dựng
một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Điều 3 HP năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã khẳng
định “Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy làm chủ về mọi mặt của nhân
dân”. Yêu cầu đặt ra là việc xét xử của Tịa án phải cơng khai, dân chủ. Để bảo đảm
tính cơng khai, minh bạch, dân chủ thì các cơ quan tiến hành tố tụng phải tạo điều
kiện để các tổ chức xã hội và công dân tham gia tố tụng. Việc tham gia vào quá
trình tố tụng của các tổ chức và cá nhân là động lực to lớn tạo điều kiện cho Tòa án
xét xử được nghiêm minh, đúng người, đúng pháp luật, cũng có nghĩa là bảo đảm
được quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia tố tụng. Việc qui định sự tham
gia xét xử của HTND trong hoạt động tố tụng tại Tịa án nói chung và hoạt động tố
tụng dân sự nói riêng là một trong những biểu hiện rõ nét nhất của việc thực hiện
phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Đồng thời, đây cũng là
một hình thức để “thu hút nhân dân tham gia một cách bình đẳng và ngày càng
rộng rãi vào công việc quản lý nhà nước và xã hội”3. Nhân dân thơng qua cơ quan
đại diện của mình là Hội đồng nhân dân bầu ra HTND để cùng các Thẩm phán
2
3

Điều 2 HP năm 2013.
Dương Ngọc Mưu (2003), “Vai trò của hội thẩm nhân dân trong hoạt động tố tụng- thực trạng và hướng đổi

mới”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (số 3), tr.58.


8


chuyên nghiệp thực hiện quyền lực nhà nước trong hoạt động xét xử, qua đó nhân
dân tham gia trực tiếp vào quản lý công việc của nhà nước và xã hội, hay nói cách
khác nhân dân thơng qua người đại diện đã mang tiếng nói của mình trong hoạt
động tư pháp của nhà nước để thơng qua đó thực hiện quyền lực của mình- quyền
làm chủ đất nước trên mọi phương diện. Điều này hoàn toàn phù hợp với tư tưởng
của V.I Lênin là: “Bản thân chúng ta phải tự mình xét xử, tồn thể cơng dân khơng
trừ một ai đều phải tham gia việc xét xử và quản lý đất nước”4.
Hơn nữa, HTND cũng là những người sống và làm việc tại cơ sở sản xuất,
đơn vị, cụm dân cư, có kinh nghiệm và hoạt động xã hội, vốn hiểu biết đời sống
thực tế, mối quan hệ với quần chúng sâu rộng nên có điều kiện hiểu đúng tình hình,
đặc điểm, hồn cảnh của đương sự trong vụ án, từ đó giúp tịa án giải quyết vụ án
được chính xác hơn, phù hợp với lẽ công bằng và bảo vệ trật tự kỷ cương theo thể
chế Nhà nước mà HP và pháp luật đã quy định
Thứ hai, việc qui định có sự tham gia của HTND trong hoạt động tố tụng nói
chung và hoạt động tố tụng dân sự nói riêng cũng khơng nằm ngồi mục đích nhằm
góp phần thực hiện tốt quyền giám sát và quyền trực tiếp tham gia vào hoạt động tố
tụng của mọi công dân đối với hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân. Hội thẩm
nhân dân là người do cơ quan quyền lực bầu ra để đại diện cho nhân dân tham gia
vào hoạt động xét xử, để thực hiện quyền trực tiếp và quyền giám sát. Nội dung này
thể hiện ở việc HTND tham gia xét xử vụ án dân sự trong thành phần của Hội đồng
xét xử sơ thẩm có HTND5. Khi tham gia xét xử HTND phải nắm bắt tình tiết, diễn
biến của vụ án để từ đó có định hướng giải quyết vụ án đúng pháp luật, khách quan.
Trong trường hợp Thẩm phán có định hướng giải quyết vụ án chưa phù hợp với các
quy định của pháp luật, HTND có quyền đưa ra các ý kiến phù hợp nhằm hạn chế
những sai phạm trong quá trình xét xử tạo điều kiện ra bản án, quyết định khách
quan, cơng bằng, “thấu tình, đạt lý”. Đồng thời, sự giám sát này của quần chúng
nhân dân sẽ góp phần bảo đảm cho việc xét xử của Tòa án tuân theo đúng pháp luật,
đúng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, phù hợp với tâm tư,
nguyện vọng của nhân dân, sát với thực tế cuộc sống của quần chúng nhân dân
trong xã hội.

Thứ ba, Điều 127 HP năm 1992 xác định chức năng của Tòa án nhân dân là
xét xử. Điều này tiếp tục được khẳng định trong HP năm 2013 của nước Cộng hoà
4

Lê Nin toàn tập (1977), tập 36, NXB Tiến Bộ- Matxcova, tr.67, 68.

5

Hội đồng xét xử sơ thẩm trong tố tụng dân sự có thể cơ cấu gồm: một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân

hoặc hai Thẩm phán và ba Hội thẩm nhân dân tùy thuộc vào tính chất đơn giản hay phức tạp của vụ án.


9

xã hội chủ nghĩa Việt Nam6. Đồng thời, “…bằng hoạt động của mình, Tịa án góp
phần giáo dục cơng dân trung thành với Tổ quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp
luật, tôn trọng những qui tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ý thức đấu tranh
chống và phòng ngừa tội phạm, các vi phạm pháp luật khác” 7. Ngoài ra, Tịa án cịn
có nghĩa vụ “… phối hợp với các cơ quan Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, đơn vị vũ
trang, tổ chức kinh tế trong việc phát huy giáo dục của phiên tòa và tạo điều kiện
thuận lợi cho việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án” 8. Chính vì vậy, với tư
cách là thành viên trong Hội đồng xét xử (HĐXX), HTND sẽ là người tạo điều kiện
giúp Tịa án làm tốt cơng tác tun truyền, phổ biến pháp luật, nâng cao ý thức chấp
hành pháp luật trong nhân dân, góp phần xây dựng một nhà nước dân chủ, công
bằng, văn minh9. Hội thẩm nhân dân cùng với Thẩm phán là người giữ vai trò định
hướng giáo dục cho toàn bộ hoạt động xét xử. Thái độ khách quan, nghiêm túc của
HĐXX trong việc duy trì, điều khiển phiên tòa theo đúng các nguyên tắc và trình tự
thủ tục tố tụng, bảo đảm quyền bình đẳng của các bên trong tranh luận để tìm ra sự
thật vụ án là yếu tố then chốt tạo lập bầu khơng khí thuận lợi nhằm phát huy và liên

kết tác dụng giáo dục của các chủ thể khác, làm cho những người được giáo dục
nhận thức rõ hơn và đầy đủ hơn về tính cơng bằng, dân chủ trên thực tế của nền tư
pháp
Hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong hoạt động xét xử
được hiểu là việc những người tiến hành tố tụng, trong đó có HTND, bằng hoạt
động của mình giúp cho những người tham gia tố tụng và những người quan tâm,
theo dõi hoạt động xét xử hiểu rõ ràng, đầy đủ những qui định của pháp luật được
áp dụng để giải quyết vụ án. Qua đó, giúp cho họ nhận thức được trách nhiệm pháp
lý của từng chủ thể trong vụ án, giúp hình thành ở họ những nhận thức về sự cơng
bằng, nghiêm minh của pháp luật, củng cố lòng tin và thái độ tơn trọng pháp luật.
Từ đó, định hướng cho hành vi phù hợp với qui định của pháp luật nói chung và
phù hợp với yêu cầu của những bản án, quyết định của Hội đồng xét xử nói riêng;
6

Điều 103 HP năm 2013 nêu rõ: “1. Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ

nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. 2. Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án
khác do luật định. 3. Tịa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ cơng lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân,
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân"
7

Khoản 1 Điều 2 Luật Tổ chức TAND năm 2014.

8

Điều 17 Luật Tổ chức TAND năm 2014.

9


Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Luật Tố tụng Dân sự Việt Nam, NXB

Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam, tr.39.


10

phù hợp với những giá trị nhân văn của xã hội. Bằng những định hướng giáo dục
như vậy trong quá trình xét xử mà Tịa án nhân dân phát huy tác dụng phòng ngừa
riêng và phòng ngừa chung của hoạt động xét xử đối với những tranh chấp pháp
luật. Hoạt động phổ biến giáo dục pháp luật của HTND trong quần chúng nhân dân
khơng chỉ thể hiện ở góc độ HTND tham gia xét xử, mà còn được ghi nhận ở khía
cạnh bên ngồi, chẳng hạn như việc hịa giải ở cơ sở.
Để có thể làm được điều này thì HTND cần nhận thức sâu sắc về vai trò,
trách nhiệm của mình trong hoạt động tố tụng nói chung và hoạt động tố tụng dân
sự nói riêng, ln phấn đấu rèn luyện đức và tài. Thực hiện đúng lời dạy của Bác
“Trong công tác xử án phải công bằng, liêm khiết, trong sạch. Như thế cũng chưa
đủ. Không chỉ giới hạn hoạt động của mình trong khung Tịa án mà phải gần dân,
hiểu dân, giúp dân, học dân…”10.
Thứ tư, Hội thẩm nhân dân có đời sống chung trong cộng đồng, trong tập thể
lao động, nên HTND hiểu sâu tâm tư nguyện vọng của quần chúng nhân dân, năm
bắt được dư luận quần chúng nhân dân. Khi được bầu làm Hội thẩm Tịa án nhân
dân, họ khơng tách rời hoạt động lao động sản xuất của cơ quan, đơn vị, cơ sở của
mình. Với vốn hiểu biết thực tế, kinh nghiệm cuộc sống, với sự hiểu biết về phong
tục, tập quán địa phương, HTND sẽ bổ sung cho Thẩm phán những kiến thức xã hội
cần thiết trong quá trình xét xử để có được một phán quyết của Tịa án đúng pháp
luật, được xã hội đồng tình. Đồng thời qui định này cũng hướng đến việc góp phần
khắc phục bệnh nghề nghiệp (nếu có) của Thẩm phán và những người tiến hành tố
tụng khác thể hiện trong quá trình xét xử. Qua đó góp phần vào việc loại trừ những
định kiến cho rằng Toà án chỉ là nơi đưa ra những phán quyết mang tính “trừng trị”.

Điều này được thể hiện qua một số nguyên tắc như: khi xét xử thì Thẩm phán và
HTND chỉ tuân theo pháp luật; khi xét xử Thẩm phán và HTND độc lập; khi xét xử
Thẩm phán và HTND ngang quyền với nhau.
Như vậy, khi tham gia xét xử, HTND vừa thực hiện quyền lực nhà nước
đồng thời cũng thể hiện được ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Điều này góp phần
đáng kể trong việc đảm bảo hoạt động xét xử thực sự mang tính dân chủ, khách
quan. Do vậy, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ dân sự được bảo
đảm một cách cơng bằng nhất.
Tóm lại, chế định HTND tham gia trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân
dân đã được hình thành từ ngày đầu khi nhà nước ta thiết lập bộ máy tư pháp. Đây
là một chế định quan trọng trong hoạt động tư pháp nói chung và hoạt động xét xử
10

Bộ Tư pháp (2000), Sổ tay Hội thẩm, NXB Thanh Niên, tr.12.


11

nói riêng. Điều này đã được ghi nhận trong HP, Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Bộ
luật Tố tụng Dân sự và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Từ đó đến nay, chế
định này ln ln được củng cố và hoàn thiện nhằm bảo đảm việc xét xử khách
quan, đúng pháp luật, cũng là cơ sở bảo đảm của tính dân chủ trong tố tụng. Đồng
thời, đây cũng là một hình thức để thu hút nhân dân tham gia một cách bình đẳng và
ngày càng rộng rãi vào công việc quản lý đất nước, thể hiện tư tưởng “lấy dân làm
gốc”, bảo đảm thực hiện quyền lực của nhân dân trong hoạt động xét xử nói riêng
và hoạt động quản lý xã hội nói chung. Ngồi ra cịn có ý nghĩa nâng cao ý thức
pháp luật cho nhân dân và phát huy được tác dụng giáo dục pháp luật thông qua
hoạt động xét xử.
1.2.
sự


Địa vị pháp lý của Hội thẩm nhân dân trong hoạt động xét xử vụ án dân

1.2.1. Khái niệm Hội thẩm nhân dân trong tố tụng dân sự
Việc đảm bảo sự tham gia của nhân dân trong quản lý nhà nước, quản lý xã
hội nói chung và cơng tác xét xử của Tịa án nói riêng là một nhu cầu khách quan
cũng là yêu cầu quan trọng trong một nhà nước tiến bộ. Việc quy định người dân
tham gia xét xử dựa trên nguyên lý cho rằng: hoạt động xét xử cần phải có sự tham
gia và giám sát trực tiếp của người dân để bảo đảm sự công bằng, khách quan và
không thiên vị. Ở các nước khác nhau, với chế độ chính trị, điều kiện kinh tế khác
nhau nên hình thức thể hiện việc nhân dân tham gia công tác xét xử của Tịa án
cũng có sự khác nhau. Các nước theo hệ thống pháp luật tư bản như Anh, Hoa Kỳ…
quy định q trình xét xử thơng qua Bồi thẩm đoàn. Các nước theo hệ thống xã hội
chủ nghĩa như Trung Quốc, Việt Nam…quá trình xét xử được thực hiện thông qua
Hội thẩm nhân dân.
BTĐ được “khai sinh” tại Anh quốc năm 1066. Ở thời kỳ đầu, Bồi thẩm viên
được lựa chọn trong giới thượng lưu- những người thường trú trong những ngơi nhà
có giá trị. Qui định này đặt ra nhằm hạn chế những tầng lớp dân nghèo trong xã hội
tham gia BTĐ. Đây là tầng lớp mà giai cấp tư sản cho rằng: “trình độ hiểu biết pháp
luật kém và có xu hướng chống lại nhà nước tư sản”11.
Bắt đầu từ những Đạo luật do thượng nghị viện Anh ban hành năm 1972 và
1974 đã qui định lựa chọn một cách ngẫu nhiên các Bồi thẩm viên trong danh sách
đăng ký cử tri. Tuy vậy, qui định này trên thực tế vẫn chưa được thực thi một cách
triệt để, nghiêm túc. Bồi thẩm viên ở Anh được lựa chọn vào BTĐ để tham gia xét
xử một vụ án cụ thể, không cần qua thủ tục sát hạch như luật sư và công tố viên ở
11

Nguyễn Đăng Dung (2004), Thế chế tư pháp trong nhà nước pháp quyền, NXB Tư pháp, tr. 116.



12

Mỹ. Do đó, phiên tịa ở Anh có thể bắt đầu khi việc lựa chọn Bồi thẩm viên kết
thúc. Thẩm quyền của BTĐ trong hoạt động xét xử, ở thời kỳ đầu, các Bồi thẩm
viên được triệu tập để thuật lại những chi tiết họ đã biết về vụ án cụ thể hay được cử
đến những nơi để tìm hiểu những sự việc liên quan đến việc giải quyết vụ án sau khi
tìm hiểu sự việc, Bồi thẩm viên họp lại trao đổi ý kiến và đưa ra kết luận. Trong giai
đoạn này, vai trò của Bồi thẩm viên khá mờ nhạt, không độc lập trong việc tiếp thu
những ý kiến của nhân chứng, vì họ phụ thuộc quá nhiều vào các báo cáo của thanh
tra. Tuy nhiên, dần dần các quan điểm, nhận định của BTĐ đưa ra được coi trọng
hơn. Xuất phát từ nhận thức của nhà nước tư sản là chú ý tới quyền con người hơn,
vì thế vị trí của BTĐ trong hoạt động xét xử được nâng cao hơn. Đây hiện là một
chế định không thể thiếu trong hoạt động tố tụng ở Anh.
BTĐ ở Anh tham gia xét xử sơ thẩm trong tố tụng dân sự nhưng BTĐ chỉ
đưa ra ý kiến đối với tình tiết vụ án, chứ khơng có quyền quyết định những vấn đề
áp dụng pháp luật. Đây là một điểm khác so với chế định HTND ở nước ta. Vì chế
định HTND của nước ta cho phép HTND được quyền quyết định việc áp dụng pháp
luật khi thực hiện hoạt động tố tụng.
Còn ở Hoa Kỳ, tùy nhu cầu xét xử của các Tịa án đóng trên địa bàn mà pháp
luật của mỗi bang quyết định số lượng Bồi thẩm viên. Bồi thẩm viên được lấy ra từ
danh sách cử tri đã đăng ký tại quận huyện. Vào ngày mở phiên tòa, Thẩm phán sẽ
triệu tập một số lượng lớn các Bồi thẩm viên, sau đó sẽ lựa chọn 12 người làm Bồi
thẩm viên chính thức và 2 người làm Bồi thẩm viên dự bị. Các Bồi thẩm viên phải
tuyên thệ về tính chất cơng bằng, khách quan và vệ tiêu chuẩn làm Bồi thẩm viên.
BTĐ trong pháp luật của Hoa Kỳ tham gia trong cả vụ án hình sự và dân sự.
Nếu như trong vụ án hình sự, BTĐ có quyền quyết định bị cáo có tội hay khơng có
tội nhưng khơng có quyền quyết định mức phạt, thì đối với vụ án dân sự, BTĐ sẽ
xác định ai có lỗi và giá trị bồi thường là bao nhiêu. Để thực hiện được thẩm quyền
trên, BTĐ phải có mặt tại phiên tịa để nghe lời trình bày của nhân chứng, xem các
vật chứng mà các bên đưa ra cũng nghe lời thẩm vấn của các luật sư đại diện cho

các bên đương sự trong vụ án, nghe lời trình bày, giải thích của Thẩm phán về việc
áp dụng pháp luật để chấp thuận hay không chấp thuận đối với các chứng cứ do các
bên và luật sư đưa. Các Bồi thẩm viên trong BTĐ có thể giơ tay đề nghị được hỏi và
chuyển các câu hỏi đến Thẩm phán, Thẩm phán sẽ tự mình nêu câu hỏi nếu xét thấy
đúng hoặc sẽ không hỏi, ghi vào biên bản phiên tòa, nếu câu hỏi bị bác bỏ. Ở giai
đoạn tranh luận, BTĐ sẽ khơng tham gia. Sau đó, các luật sư sẽ tóm tắt, tổng kết lại
trước BTĐ các chứng cứ của phía mình. Cuối cùng, Thẩm phán sẽ có những hướng
dẫn, giải thích cần thiết về pháp luật trước khi BTĐ vào phòng riêng để thảo luận và


13

phán quyết theo ý kiến của mình. Theo truyền thống, BTĐ chỉ có thể đưa ra những
phán quyết trên cơ sở nhất trí tuyệt đối, nếu có Bồi thẩm viên vắng mặt hay khơng
nhất trí với các Bồi thẩm viên cịn lại thì sẽ khơng có phán quyết nào được đưa ra và
vụ án sẽ phải được xét xử lại trước một BTĐ khác12. Trong các vụ án dân sự, một số
bang cho phép phán quyết của BTĐ về lỗi và về mức bồi thường của các bên trên
cơ sở 5/6 nhất trí13.
Như vậy, Bồi thẩm đồn được hiểu là một nhóm cơng dân đã tun thệ sẽ
phán xét trung thực về những sự kiện của vụ án trên cơ sở các chứng cứ đưa ra
trước Bồi thẩm đoàn14. Đây là những người được tuyển chọn một cách ngẫu nhiên
trong danh sách cử tri, nếu những người này khơng có thành kiến với vụ án đó thì
có thể được chọn vào BTĐ. Thành viên của BTĐ được giải tán sau khi kết thúc việc
giải quyết vụ án cụ thể.
Ở Trung Quốc, Việt Nam khơng có chế định BTĐ như trong luật Anh hay
Hoa Kỳ. Tuy nhiên nếu xét về tính chất đại diện nhân dân của BTĐ thì theo luật tố
tụng dân sự của Trung Quốc có thể kể đến một chế định có tính chất tương tự là chế
định về Hội thẩm viên nhân dân15, tại Việt Nam nó có tên gọi là Hội thẩm nhân dân.
HTND là người đại diện cho nhân dân tham gia vào hoạt động xét xử. Tiếng
nói của HTND trong Hội đồng xét xử là tiếng nói của quần chúng nhân dân. Khi

tham gia hoạt động xét xử cùng với Thẩm phán, HTND có thể sẽ góp phần hỗ trợ
Thẩm phán hiểu được nguyên nhân, hoàn cảnh của vụ việc dẫn đến sự tranh chấp
của đương sự trong vụ án. Thêm vào đó, HTND là những người làm việc trong
nhiều ngành nghề, lĩnh vực khác nhau nên họ cũng là người tích lũy được nhiều
kiến thức chuyên môn trong các lĩnh vực mà họ đang cơng tác. Với những ưu điểm
đó, HTND sẽ cùng Thẩm phán đánh giá các tình tiết của vụ án một cách khách
quan, tồn diện và chính xác hơn, giúp HĐXX đưa ra bản án, quyết định hợp tình

12
13

Lưu Tiến Dũng (2012), Độc lập xét xử trong Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, NXB Tư pháp, tr. 91.
Nguyễn Văn Toàn (2009), “Chế định Hội thẩm nhân dân trong tố tụng dân sự- Lý luận và thực tiễn”,

Luận văn cử nhân, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh, tr. 30.
14

Lưu Tiến Dũng (2012), Độc lập xét xử trong Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, NXB Tư pháp, tr. 89.

15

Điều 10 Luật Tổ chức Tịa án nhân dân quy định, Tồ hợp nghị do các Thẩm phán tham gia hoặc Thẩm

phán và Hội thẩm viên nhân dân cùng tham gia tiến hành xét xử sơ thẩm các vụ án mà Tòa án nhân dân đã
thụ lý hồ sơ. Điều kiện để công dân được đảm nhiệm vai trò Hội thẩm viên nhân dân bao gồm: Trung thành
với Hiến pháp nước cộng Hòa nhân dân Trung Hoa; Đủ 23 tuổi trở lên; Phẩm chất đạo đức tốt, có lập trường
tư tưởng đúng đắn; Có sức khỏe tốt”,

nguồn: />
Trung-Quoc.html , truy cập lần cuối ngày 15/11/2014.



14

hợp lý. Như vậy, có thể nói HTND chính là người đại diện cho nhân dân xác định
sự thật khách quan của vụ án, là người đại diện cho nhân dân phán xét vụ án.
Qua những phân tích ở trên có thể thấy, HTND đóng một vai trị quan trọng
hoạt động tố tụng nói chung và hoạt động tố tụng dân sự nói riêng. Vậy, HTND
được hiểu như thế nào?
Theo từ điển Tiếng Việt, “Hội thẩm nhân dân” được định nghĩa là “người do
Hội đồng nhân dân bầu ra trong một khoảng thời gian nhất định cùng với Thẩm
phán làm nhiệm vụ xét xử các vụ án xảy ra ở địa phương”16. Như vậy, theo khái
niệm từ điển Tiếng Việt thì HTND chính là người được Hội đồng nhân dân bầu theo
nhiệm kỳ để thực hiện nhiệm vụ của họ, là người cùng với Thẩm phán xét xử các vụ
án thuộc thẩm quyền của tòa án. Trên phương diện khoa học pháp lý thì thuật ngữ
“Hội thẩm nhân dân” xuất phát từ thuật ngữ “Hội thẩm”. Theo Điều 7 17, khoản 2,
khoản 3 Điều 84 Luật Tổ chức TAND năm 2014 và Quy chế Tổ chức và hoạt động
của Hội thẩm Tòa án nhân dân năm 2005: “Hội thẩm là người được bầu hoặc cử
theo quy định của pháp luật của để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm
quyền của Tòa án”.
Ở nước ta, Hội thẩm Tòa án nhân dân gồm có: HTND Tịa án nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương, HTND Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh (gọi chung là HTND); Hội thẩm quân nhân Tòa án quân sự quân khu
và tương đương, Hội thẩm quân nhân Tòa án quân sự khu vực (gọi chung là Hội
thẩm quân nhân)18. Theo quy định của Luật tổ chức TAND năm 2014 thì “Hội thẩm
nhân dân thực hiện nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án
nhân dân theo phân cơng của Chánh án Tịa án nơi được bầu làm Hội thẩm nhân
dân. Hội thẩm quân nhân thực hiện nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền
của Tịa án qn sự theo phân cơng của Chánh án Tịa án nơi mình được cử làm
Hội thẩm qn nhân”19. Như vậy, quy định trên HTND được hiểu là những người

được bầu theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc
thẩm quyền của Tòa án nhân dân. Còn Hội thẩm quân nhân là những người được cử
để làm nhiệm vụ xét xử trong các Tòa án quân sự.
16

17

Từ điển Tiếng Việt (2006), Nxb Đà Nẵng- Trung tâm Từ điển học, Hà Nội- Đà Nẵng.
Điều 7 Luật Tổ chức TAND năm 2014 quy định “Chế độ bầu Hội thẩm nhân dân được thực hiện đối với

Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh và tương đương. Chế độ cử Hội thẩm quân nhân được thực hiện đối với Tòa án quân sự quân khu
và tương đương, Tòa án quân sự khu vực”.
18

Khoản 1, 2, Điều 86 Luật Tổ chức TAND năm 2014.

19

Điều 84 Luật Tổ chức TAND năm 2014.


15

Còn theo Quy chế về Tổ chức và hoạt động của Hội thẩm Tòa án nhân dân
năm 2005, “Hội thẩm Tòa án nhân dân (sau đây gọi chung là Hội thẩm)”, “là
người được bầu theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án
thuộc thẩm quyền của Tịa án”20. Theo đó, thuật ngữ được sử dụng trong Quy chế
này được hiểu dùng để chỉ HTND- người được quy định theo pháp luật để làm
nhiệm vụ xét xử.

Tóm lại, HTND trong tố tụng dân sự Việt Nam được hiểu là những người
được bầu theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án dân sự
thuộc thẩm quyền của Tòa án.
Qua những nội dung phân tích nêu trên, có thể thấy dù thực hiện hoạt động
xét xử thông qua BTĐ hay HTND thì bản chất của hai tên gọi này vẫn như nhau. Cả
hai chế định đều nhằm mục đích huy động quần chúng nhân dân tham gia vào quá
trình xét xử của Tòa án, tăng cường vai trò giám sát nhân dân đối với cơng tác xét
xử của Tịa án, đảm bảo cho các bản án, quyết định của Tòa án được hợp tình, hợp
lý. Đồng thời, chế định này đã thể hiện được tính dân chủ trong hoạt động tố tụng
của Tòa án. Tuy nhiên, pháp luật của mỗi nước có những quy định khác nhau cho
phù hợp với đặc điểm pháp luật và điều kiện thực tiễn của mình. Mỗi hình thức thể
hiện đều có những ưu và nhược điểm nhất định. Từ đó, chúng ta cũng có thể rút
kinh nghiệm, học hỏi để hoàn thiện hơn những quy định về HTND trong pháp luật
tố tụng nói chung và tố tụng dân sự Việt Nam nói riêng cho phù hợp điều kiện thực
tế của nước ta. Từ đây, ta cũng có thể phần nào lý giải được vì sao pháp luật Việt
Nam không gọi người đại diện cho nhân dân tham gia xét xử là BTĐ, mà gọi là
HTND. Bởi vì những nguyên do sau:
Thứ nhất, vì số lượng HTND trong một phiên tịa của nước ta khơng nhiều
chỉ gồm hai hoặc ba người nên khơng gọi là đồn; trong khi đó ở các nước số theo
chế định BTĐ thì BTĐ bao gồm nhiều Bồi thẩm viên. Ví dụ như ở Mỹ BTĐ gồm
12 Bồi thẩm viên chính thức và 2 Bồi thẩm viên dự bị.
Thứ hai, do tính lịch sử của quy định về BTĐ. Khi bắt đầu khai sinh ra chế
định BTĐ thì Bồi thẩm viên chỉ có vai trị là tham gia góp ý kiến với Thẩm phán.
Và hiện nay, BTĐ ở phần lớn các nước cũng chỉ giải quyết những vấn đề mang tính
sự kiện, còn lại là Thẩm phán chủ tọa phiên tòa giải quyết. Họ không được ngang
quyền với Thẩm phán, trừ BTĐ ở Pháp. Bồi thẩm tức là “phụ”. Do đó, việc các
nước này sử dụng thuật ngữ BTĐ là hoàn toàn hợp lý.

20


Điều 1, Điều 6 Quy chế Tổ chức và hoạt động của Hội thẩm Tòa án nhân dân.


16

Ở nước ta, trong giai đoạn sơ khai chúng ta cũng sử dụng thuật ngữ Phụ
thẩm trong HP năm 194621. Tại thời điểm này, quyền năng của người đại diện cho
nhân dân tham gia xét xử không nhiều, họ ngang quyền với Thẩm phán. Sau này,
chúng ta nhận thức được vai trò to lớn của người đại diện cho nhân dân trong hoạt
động xét xử của Tòa án nên đã chú trọng nâng cao chất lượng của những chủ thể
này. Pháp luật trao cho họ nhiều quyền hành hơn chẳng hạn như họ tham gia tất cả
các vụ án từ hình sự, dân sự đến hành chính, thương mại… đồng thời khi xét xử họ
cùng với Thẩm phán được quyền quyết định mọi vấn đề thuộc thẩm quyền của
HĐXX, điểm quan trọng nhất là họ hoàn toàn độc lập và ngang quyền với Thẩm
phán chủ tọa phiên tòa. Bởi thế, hiện nay chúng ta không sử dụng thuật ngữ Phụ
thẩm mà thay vào đó là tên gọi HTND.
1.2.2. Địa vị pháp lý của Hội thẩm nhân dân trong hoạt động xét xử vụ án dân sự
Địa vị pháp lý của HTND trong tố tụng dân sự chính là tổng thể các quy định
của pháp luật dân sự về vị trí, về các quyền mà pháp luật quy định đối với HTND
trong hoạt động tố tụng dân sự. Như vậy, địa vị pháp lý của HTND trong tố tụng
dân sự được thể hiện ở hai khía cạnh là vị trí của HTND và quyền của HTND khi
tham gia hoạt động xét xử vụ án dân sự.
Thứ nhất, xét về mặt vị trí thì HTND là một trong những thành viên của Hội
đồng xét xử vụ án dân sự
Xét xử là một hoạt động đặc thù của nhà nước nhằm bảo vệ pháp chế xã hội
chủ nghĩa, có liên quan đến vận mệnh cá nhân, gia đình, quyền và lợi ích của nhà
nước, các tổ chức xã hội. Do đó, cơng tác xét xử ln địi hỏi sự thận trọng cùng với
trí tuệ của một tập thể để đưa ra những quyết định đúng đắn vì thế khi thực hiện
hoạt động xét xử nhất thiết phải thành lập một HĐXX. Hội đồng xét xử được thành
lập, hoạt động theo quy định của pháp luật tố tụng. Hội đồng xét xử này gồm ba đến

năm thành viên có trình độ pháp luật, hiểu biết xã hội được Nhà nước trao quyền
lực để thực thi pháp luật, tùy thuộc vào tính chất của từng vụ án khác nhau mà số
lượng thành viên trong HĐXX này có thể thay đổi. HTND chính là một trong
những thành viên của HĐXX- nhân danh quyền lực nhà nước thực hiện hoạt động
xét xử.
Trong hoạt động tố tụng dân sự, HTND là người có quyền tham gia vào việc
xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự. HTND chỉ tham gia xét xử tại phiên tòa sơ thẩm
vụ án dân sự (không tham gia vào giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm ngoại trừ việc
21

Điều 65 HP năm 1946 đã nêu rõ “Trong khi xét xử việc hình phải có phụ thẩm để tham gia ý kiến nếu là

việc tiểu hình, hoặc cùng quyết định với thẩm phán nếu là đại hình”.


17

họ nghiên cứu hồ sơ vụ án trong giai đoạn này); đặc biệt HTND không tham gia
hoạt động tố tụng phiên tòa phúc thẩm, phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm và các
phiên họp giải quyết việc dân sự mà HTND chỉ tham gia xét xử từ khi có quyết định
đưa vụ án ra xét xử và chấm dứt khi HĐXX tuyên án sơ thẩm. Quy định này có nét
tương đồng với quy định về BTĐ ở các nước. Việc không áp dụng sự tham gia của
HTND ở các thủ tục khác bắt nguồn từ lý luận của người Anh về BTĐ từ nhiều thế
kỷ trước. Ở đây, BTĐ tham gia phiên tòa sơ thẩm chỉ được trao quyền quyết định
những vấn đề về sự kiện của vụ án còn việc quyết định các vấn đề pháp lý sẽ thuộc
thẩm quyền của Thẩm phán. Trong khi đó, căn cứ phúc thẩm, giám đốc thẩm bản án
chỉ là những vấn đề pháp luật mà không xem xét về mặt sự kiện đã được quyết định
bởi BTĐ tại phiên tòa sơ thẩm. Vì vậy, những gì mà BTĐ đã quyết định ở phiên tịa
sơ thẩm thì tịa phúc thẩm khơng xem xét lại nữa22. Ở nước ta, Tòa cấp phúc thẩm
làm nhiệm vụ xét xử lại bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên bị

kháng cáo, kháng nghị. Do đó, địi hỏi HĐXX phải là những người có sự am hiểu
sâu sắc về pháp luật, bởi vậy mà trong tố tụng dân sự cấp phúc thẩm HTND khơng
có trong thành phần của HĐXX phúc thẩm vụ án dân sự.
Theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, xét xử sơ thẩm vụ án dân sự là
giai đoạn trung tâm của hoạt động tư pháp nhằm để giải quyết một vụ án dân sự,
bằng hoạt động xét xử của mình Tịa án đưa ra bản án, quyết định thể hiện phán
quyết của Nhà nước đối với một vụ án dân sự. Như vậy, xét xử sơ thẩm vụ án dân
sự là một khái niệm pháp lý dùng để chỉ hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân diễn
ra tại phiên tòa nhằm làm sáng tỏ bản chất khách quan của vụ án, trên cơ sở đó mà
áp dụng các chế tài để giải quyết tranh chấp, xử lý mọi hành vi trái pháp luật. Từ
quy định trên cho thấy, chủ thể của hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án dân sự là
HĐXX. Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án dân sự là chủ thể thay mặt Nhà nước giải
quyết toàn bộ nội dung vụ án, mọi chứng cứ tài liệu đều phải được đưa ra xem xét,
thẩm tra, đánh giá cơng khai tại phiên tịa. Thơng qua đó, HĐXX sẽ đưa bản án,
quyết định đối với vụ án dân sự. Bản án, quyết định của HĐXX phải đảm bảo đảm
tính khách quan, đúng pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các đương
sự trong quan hệ tranh chấp, sâu xa hơn nữa là nhằm bảo đảm trật tự kỷ cương theo
thể chế Nhà nước mà Hiến pháp và pháp luật quy định.
Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2004 quy định HTND là một trong những người
tiến hành tố tụng23 và là một trong những thành viên của HĐXX sơ thẩm vụ án dân
22

Tổng Công Cường (2007), Luật Tố tụng Dân sự Việt Nam: Nghiên cứu so sánh, NXB Đại học Quốc gia

TP. Hồ Chí Minh, tr. 64.
23

Khoản 2 Điều 39 BLTTDS năm 2004.



18

sự. HTND có một vị trí pháp lý khá quan trọng, số lượng HTND chiếm 2/3 trong
thành phần HĐXX “Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án dân sự gồm một Thẩm phán và
hai Hội thẩm”24; đối với những vụ án phức tạp, tính chất nghiêm trọng, số lượng
HTND có thể lên đến 3 người trong tổng số 5 thành viên của Hội đồng xét xử :
“Trong trường hợp đặc biệt thì Hội đồng xét xử sơ thẩm có thể gồm hai Thẩm phán
và ba Hội thẩm nhân dân”. Như vậy có thể nhận thấy, trong thành phần của HĐXX,
số lượng HTND bao giờ cũng chiếm tỷ lệ cao hơn so với Thẩm phán. HTND sẽ
cùng với Thẩm phán trực tiếp tiến hành xét xử tại phiên tịa thơng qua các hoạt động
như kiểm tra, xác minh các chứng cứ, hỏi các bên đương sự; hướng dẫn các bên
tranh luận, tiến hành nghị án và tuyên án.
Việc quy định HTND là một trong những thành viên của HĐXX là hoàn toàn
phù hợp với những nguyên tắc hiến định: “Nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có
Hội thẩm tham gia”, “Nguyên tắc xét xử tập thể và biểu quyết theo đa số” đã được
quy định trong bản HP đầu tiên của nước ta năm 1946 và tiếp tục khẳng định trong
các bản Hiến pháp qua các thời kỳ25. Hiện nay, nguyên tắc này được quy định tại
khoản 1, khoản 4 Điều 103 HP năm 2013. Trong pháp luật tố tụng dân sự hiện hành
thì nguyên tắc HTND tham gia xét xử vụ án dân sự, và nguyên tắc tòa án xét xử tập
thể lần lượt được ghi nhận tại Điều 11, Điều 14 BLTTDS năm 2004 và được cụ thể
hóa thông qua các điều luật khác. Trong xét xử sơ thẩm vụ án dân sự, sự có mặt của
HTND là bắt buộc. Nếu HTND vắng mặt thì phiên tịa sơ thẩm không thể diễn ra.
Thứ hai, xét về mặt quyền của HTND khi tham gia hoạt động xét xử vụ án
dân sự thì HTND là người có quyền đưa ra các ý kiến biểu quyết để phán quyết về
vụ án
Trong khi xét xử tại phiên tòa, với tư cách là thành viên của HĐXX, người
đại diện cho quần chúng nhân dân tham gia vào hoạt động xét xử của Toà án nên
HTND được quyền tiến hành các hoạt động tố tụng, được quyền ghi nhận, xem xét,
đánh giá mọi tình tiết, chứng cứ mà các chủ thể tham gia tố tụng (nguyên đơn, bị
đơn, người có quyền nghĩa vụ liên quan…) đưa ra, đồng thời được quyền biểu quyết

mọi vấn đề thuộc quyền của HĐXX, quyết định theo nguyên tắc đa số. Quyền này
được thể hiện như sau:
24

Điều 52 BLTTDS năm 2004.

25

Điều 65 HP năm 1946;
Điều 99 HP năm 1959;
Điều 130 HP năm 1980;
Điều 129, Điều 130 HP năm 1992;
Điều 103 HP năm 2013.


19

Tại phiên tòa, ngay ở thủ tục bắt đầu phiên tịa HTND có quyền cùng các
thành viên của HĐXX thảo luận và thông qua các quyết định về việc thay đổi người
tiến hành tố tụng. Theo đó, việc thay đổi Thẩm phán, HTND, Thư ký Tòa án, Kiểm
sát viên do HĐXX quyết định sau khi nghe ý kiến của người bị yêu cầu thay đổi 26.
Người yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng phải trình bày rõ lý do và căn cứ
của việc yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng. Yêu cầu thay đổi người tiến hành
tố tụng và lời trình bày của người có u cầu, của người bị yêu cầu thay đổi phải
được ghi đầy đủ vào biên bản phiên tòa. HĐXX thảo luận tại phòng nghị án và căn
cứ vào quy định tại các Điều 46, 47, 48 và 49 của BLTTDS năm 2004 và hướng dẫn
tại Điều 13, 14 của Nghị quyết 03/2012/NQ-HĐTP về việc hướng dẫn thi hành một
số quy định trong phần thứ nhất “những quy định chung” của Bộ luật Tố tụng Dân
sự đã được sửa đổi, bổ sung theo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố
tụng Dân sự để ra các quyết định cho phù hợp .

Trường hợp quyết định thay đổi người tiến hành tố tụng thì trong quyết định
phải ghi rõ việc hỗn phiên tịa và đề nghị người có thẩm quyền cử người khác thay
thế người tiến hành tố tụng đã bị thay đổi trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận
được quyết định và thời hạn hoãn phiên tịa. Quyết định thay đổi hoặc khơng thay
đổi người tiến hành tố tụng phải được HĐXX công bố công khai tại phiên tịa.
Đồng thời, HĐXX trong đó có HTND được quyền ra quyết định đình chỉ giải
quyết vụ án, xem xét việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu của đương sự khi có các
căn cứ theo quy định pháp luật27. Trong quá trình giải quyết vụ án tại phiên tịa, nếu
thấy có những căn cứ, cơ sở để ra những quyết định trên thì HTND có quyền đề
nghị chủ tọa phiên tịa, thảo luận và biểu quyết thơng qua tại phòng nghị án theo sự
điều khiển của chủ tọa.
Trong phần thủ tục hỏi HTND được quyền hỏi những người tham gia tố tụng
nhằm mục đích làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án, HĐXX trong đó có HTND có
quyền hỏi những người tham gia tố tụng như nguyên đơn, bị đơn, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng…Việc hỏi được thực hiện theo
quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, HTND cịn có quyền xem xét và đánh giá các
chứng cứ. Chứng cứ có thể rút ra từ các nguồn như: vật chứng, lời khai của người

26

Khoản 2 Điều 51 BLTTDS năm 2004 và Điều 15 Nghị quyết só 03/2012/NQ-HĐTP về việc hướng dẫn thi

hành một số quy định trong Phần thứ nhất “Những quy định chung” của Bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa
đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự.
27

Điều 217 BLTTDS năm 2004.


20


của người làm chứng, nguyên đơn, bị đơn28. Trên cơ sở đó, HTND sẽ có nền tảng
để đánh giá chứng cứ và làm căn cứ để quyết định các vấn đề của vụ án.
Ngồi ra, HTND cịn có quyền thảo luận và biểu quyết thông qua các nội
dung của bản án trong giai đoạn nghị án. Trước khi tuyên án, các thành viên của
HĐXX trong đó có HTND phải thảo luận và biểu quyết thông qua tất cả các vấn đề
của vụ án như xem xét các yêu cầu của luật sư và những người tham gia khác tại
phiên tòa, xác định lỗi của các bên trong giao dịch, xác định mức bồi thường của
các đương sự...; thông qua và ký xác nhận biên bản nghị án, bản án. Người có ý
kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn bản và được đưa vào hồ
sơ vụ án. Thảo luận về nội dung vụ án để thể hiện quan điểm của cá nhân HTND
khi nhìn nhận đánh giá tình tiết trong vụ án, từ đó HTND sẽ đưa ra các quyết định
về việc giải quyết tranh chấp của các đương sự trong vụ án. Quyết định của HTND
là độc lập với quyết định của Thẩm phán và các quyết định đó phải được HĐXX tơn
trọng, ghi nhận. Nếu ý kiến của HTND là thiểu số thì vẫn được bảo lưu trong hồ sơ
vụ án. Nếu ý kiến đó là đa số trong HĐXX thì được đưa vào bản án làm quyết định
chính thức của Tồ án.
Tất cả các quyết định trên đều được tiến hành trên nguyên tắc “Khi xét xử
HTND ngang quyền với Thẩm phán”. Khi tham gia hoạt động xét xử đòi hỏi mỗi
thành viên của HĐXX phải có sự nhìn nhận, đánh giá tất cả các vấn đề của vụ án
một cách toàn diện, khách quan. Nếu các thành viên trong HĐXX không có sự
ngang quyền với nhau thì sẽ khó có thể làm được điều này, dễ dẫn đến việc người
có quyền lực sẽ lấn áp ý chí của bên cịn lại, điều này sẽ có thể làm cho việc ra
quyết định chỉ mang tính phiến diện của chủ thể đó. Tuy vậy, sự ngang quyền và
độc lập trong mối quan hệ giữa Thẩm phán và HTND cần được hiểu một cách mềm
dẻo, linh hoạt, có sự tác động hỗ trợ lẫn nhau trong công tác xét xử từ khi nghiên
cứu hồ sơ vụ án, việc hỏi tại phiên tòa cho đến khi nghị án để đưa ra phán quyết
cuối cùng. Từ sự hỗ trợ, bổ sung cho nhau, Thẩm phán và HTND sẽ đưa ra những
nhận định chính xác, những phán quyết vừa hợp tình, hợp lý, bảo đảm tốt nhất
quyền của các bên trong quan hệ tố tụng dân sự.

Nhìn chung, với số lượng đa số trong HĐXX, điều này tạo điều kiện thuận
lợi cho HTND phát huy mạnh mẽ vai trò là người đại diện của nhân dân tại Tòa án.
Trong giai đoạn này, các quyền của HTND khi tham gia xét xử vụ án dân sự cũng là
các nghĩa vụ của HTND. Các quyền, nghĩa vụ này gắn liền với quyền hạn và nghĩa
vụ của HĐXX mà pháp luật tố tụng dân sự đã quy định.
28

Điều 82 BLTTDS năm 2004.


×