Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự việt nam từ thực tiễn toà án nhân dân cấp cao tại đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 92 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THÀNH AN

KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM
THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THÀNH AN

KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM
THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 838.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐINH THỊ MAI

HÀ NỘI, năm 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu sử dụng phân tích trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng, đã
công bố theo đúng quy định. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn do tôi tự tìm
hiểu, phân tích một cách trung thực, khách quan và phù hợp với thực tiễn của Việt
Nam. Các kết quả này chưa từng được công bố trong bất kỳ nghiên cứu nào khác.
Tôi viết lời cam đoan này để Hội đồng cho phép tôi bảo vệ luận văn./.

Tác giả

Nguyễn Thành An


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VỀ KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM...................................................................... 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò kháng nghị phúc thẩm hình sự .......................... 7
1.2. Thẩm quyền, đối tượng, căn cứ và thời hạn của kháng nghị phúc thẩm theo
quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam ................................................ 15
1.3. Trình tự, thủ tục và hậu quả của kháng nghị phúc thẩm theo quy định của
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam ...................................................................... 26
CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM Ở

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG .......................................... 37
2.1. Hoạt động kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao
tại Đà Nẵng và Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh tại khu vực Miền Trung, Tây
Nguyên .................................................................................................................. 37
2.2. Thực tiễn giải quyết những vụ án bị kháng nghị của Tòa án nhân dân cấp cao
tại Đà Nẵng............................................................................................................ 52
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM HÌNH SỰ ........................................................ 62
3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về kháng nghị phúc thẩm và xét xử phúc thẩm
............................................................................................................................... 62
3.2. Kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng kháng nghị phúc thẩm hình sự ........... 69
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

: Bộ luật hình sự

BLTTHS

: Bộ luật Tố tụng hình sự

TANDTC

: Toà án nhân dân tối cao

VKSND


: Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Số hiệu

Tên biểu đồ

biểu đồ

Trang

Diễn biến số vụ án hình sự phúc thẩm bị kháng nghị từ
2.1.

năm 2015 -2017 ở Toà án cấp tỉnh Miền Trung, Tây

39

Nguyên.
So sánh Tỷ lệ vụ án bị kháng nghị trên tổng số vụ án thụ
2.2.

lý hình sự phúc thẩm từ năm 2015 – 2017 tại Tòa án nhân

40


dân cấp cao tại Đà Nẵng
Biểu đồ so sánh số lượng án kháng nghị của Viện kiểm
2.3.

sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng và Viện kiểm sát nhân
dân các tỉnh Miền Trung và Tây Nguyên qua các năm

41

2015, 2016, 2017
So sánh số vụ án hình sự phúc thẩm bị kháng nghị và số
2.4.

vụ án được chấp nhận kháng nghị và số vụ án Viện kiểm
sát rút kháng nghị thời gian từ 2015 đến 2017

42


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời đại ngày nay, quyền con người, quyền công dân ngày càng được
chú trọng bảo vệ trên toàn cầu. Chính sách lãnh đạo của Đảng và Nhà nước cũng
như Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 cũng
không nằm ngoài xu thế đó, ngày càng tập trung cải cách tư pháp mục tiêu “Xây
dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý,
từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa” [12.tr.02] góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Viện kiểm sát nhân dân được giao một vị trí quan trọng trong hoạt động tư

pháp với nhiệm vụ trọng tâm là: “…thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động
tư pháp…” quy định tại Điều 107 của Hiến pháp năm 2013. Trong tố tụng hình
sự, kháng nghị phúc thẩm hình sự là một quyền năng riêng biệt của Viện kiểm
sát nhân dân và cũng là căn cứ mở ra giai đoạn xét xử phúc thẩm. Xét xử phúc
thẩm là một trong hai cấp xét xử trong nguyên tắc xét xử hai cấp nhằm kiểm tra
lại tính hợp pháp của bản án hoặc quyết định sơ thẩm. Qua đó phát hiện và khắc
phục những sai lầm, thiếu sót trong quá trình xét xử, áp dụng pháp luật và đánh
giá chứng cứ của Toà án cấp sơ thẩm.
Kháng nghị phúc thẩm hình sự là quy trình và là công cụ sắc bén để kiểm
tra, rà soát quá trình xét xử sơ thẩm có thực sự vô tư, khách quan và đúng quy
định pháp luật. Kháng nghị phúc thẩm hình sự góp phần quan trọng trong việc
xét xử đúng người, đúng tội, phục vụ công tác đấu tranh phòng và chống tội
phạm, bảo vệ quyền con người, bảo vệ công lý cũng là mục đích của pháp luật tố
tụng hình sự. Vì vậy, việc tập trung nghiên cứu, đánh giá thực trạng kháng nghị
phúc thẩm hình sự, từ đó đề ra các phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả,
chất lượng công tác này có giá trị thiết thực và góp phần quan trọng trong công
cuộc cải cách tư pháp nước ta hiện nay.
1


Toà án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng được thành lập tháng 6 năm 2015 với
hai nhiệm vụ trọng tâm là xét xử phúc thẩm và xem xét giám đốc thẩm, tái thẩm
các bản án của Toà án nhân dân các tỉnh Miền Trung và Tây Nguyên. Trong đó,
công tác xét xử phúc thẩm là công tác hàng đầu không những có chức năng kiểm
tra tính có căn cứ và hợp pháp của bản án, quyết định sơ thẩm mà còn hướng dẫn
Tòa án cấp dưới áp dụng thống nhất pháp luật. Thực tiễn xét xử phúc thẩm cho
thấy, công tác kháng nghị phúc thẩm đối với bản án, quyết định hình sự sơ thẩm
đã đạt được kết quả nhất định và đang có xu hướng chuyển biến tích cực. Chất
lượng kháng nghị ngày càng nâng cao, đa phần đảm bảo được về hình thức cũng
như nội dung, căn cứ pháp lý. Tỷ lệ vụ án bị kháng nghị được Toà án cấp phúc

thẩm chấp nhận tăng lên góp phần không nhỏ trong việc loại trừ những sai sót do
nguyên nhân chủ quan cũng như khách quan của Toà án cấp sơ thẩm. Qua thực
tiễn xét xử của Toà án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng từ thời điểm thành lập (năm
2015) đến nay đã phản ánh được phần nào chất lượng kháng nghị phúc thẩm
hình sự của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng và Viện kiểm sát nhân
dân các tỉnh Miền Trung và Tây Nguyên. Tuy nhiên, ngoài những kết quả đã đạt
được, trên thực tiễn, công tác này cũng còn tồn tại nhiều hạn chế, khó khăn.
Chẳng hạn như còn có một bộ phận không nhỏ những bản kháng nghị không đạt
yêu cầu cả chất lượng lẫn nội dung dẫn đến việc Viện kiểm sát cấp trên phải rút
kháng nghị của Viện kiểm sát cấp dưới, hoặc Toà án cấp phúc thẩm bác kháng
nghị của Viện kiểm sát nhân dân, việc này không những gây tổn thất về tài chính
và thời gian của Cơ quan tiến hành tố tụng cũng như những người tham gia tố
tụng mà còn làm mất lòng tin của nhân dân đối với hoạt động của ngành kiểm
sát. Nguyên nhân chủ yếu là do năng lực và trách nhiệm của cán bộ, Kiểm sát
viên còn hạn chế, một số đơn vị chạy theo chỉ tiêu kháng nghị lấy thành tích,
lãnh đạo một số đơn vị chưa thật sự quan tâm tới công tác kháng nghị phúc thẩm
hình sự, mối quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát các cấp cũng như sự phối hợp
giữa Viện kiểm sát và các cơ quan tư pháp trong công tác kháng nghị phúc thẩm
2


chưa thống nhất. Mặt khác, Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành chưa có quy định
cụ thể về căn cứ kháng nghị phúc thẩm, thời hạn kháng nghị đan xen với thời
hạn cấp phát, gửi bản án sơ thẩm của Toà án cấp sơ thẩm cho Viện kiểm sát còn
chậm, trang thiết bị, cơ sở vật chất hỗ trợ cho công tác thực hành quyền công tố
và kiểm sát xét xử chưa đầy đủ.
Từ những lý do nêu trên, tác giả chọn đề tài “Kháng nghị phúc thẩm theo
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Toà án nhân dân cấp cao tại Đà
Nẵng” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ luật. Nội dung cơ bản của đề tài là
tác giả nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của công tác kháng nghị phúc thẩm

hình sự của Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh Miền Trung, Tây Nguyên và kết
quả giải quyết của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng. Tác giả sẽ tổng hợp,
đánh giá và tìm ra nguyên nhân của hạn chế và tồn tại, đưa ra một số giải pháp
và kiến nghị để nâng cao chất lượng kháng nghị phúc thẩm hình sự, qua đó góp
phần giúp ngành kiểm sát thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và
kiểm sát xét xử, đáp ứng yêu cầu công cuộc cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị
quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Kháng nghị phúc thẩm hình sự là quyền năng pháp lý quan trọng của Viện
kiểm sát nhân dân và ngày càng được chú trọng nâng cao nên đã có nhiều công
trình khoa học nghiên cứu vấn đề này, Luận văn thạc sĩ hoặc các bài báo khoa
học có nội dung liên quan của một số tác giả dưới nhiều góc độ, khía cảnh khác
nhau. Trong đó, một số Luận văn Thạc sĩ luật học như: Kháng nghị phúc thẩm
hình sự của Viện kiểm sát nhân dân trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, tác
giả Chu Thị Thanh Tú, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2007. Kháng
nghị phúc thẩm các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh, một
số vấn đề lý luận và thực tiễn, tác giải Trần Thị Minh Ngọc, Đại học Quốc gia
Hà Nội năm 2011. Các bài báo, tạp chí: Bàn thêm về kháng nghị theo thủ tục
3


phúc thẩm vụ án hình sự, tác giả Đinh Văn Quế, Tạp chí kiểm sát số 15 (tháng
8/2007), số 17 (tháng 9/2007). Một số đề xuất nhằm thực hiện có hiệu quả hơn
công tác kháng nghị phúc thẩm án hình sự, tác giả Lê Doãn Tiết, Tạp chí Kiểm
sát số 17 (tháng 9/2009). Nâng cao chất lượng công tác kháng nghị phúc thẩm
hình sự, Chuyên đề của Tạp chí Kiểm sát, số 16 (tháng 8/2010).. Ngoài ra, còn
có một số các bài viết của các tác giả trên một số tạp chí, sách báo pháp lý…
Tuy nhiên, chưa có bài viết nào nghiên cứu, đánh giá, nhìn nhận ở khía
cạnh thực tiễn xét xử phúc thẩm những bản án hình sự bị kháng nghị của Tòa án

nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng để rút ra nguyên nhân, lý giải các yếu tố ảnh
hưởng, những tồn tại, đưa ra giải pháp, kiến nghị nâng cao hơn nữa chất lượng
kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân nói chung và chất lượng
kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh Miền Trung, Tây
Nguyên nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về kháng nghị hình sự theo
thủ tục phúc thẩm Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng.
- Từ đó đề xuất những kiến nghị, giải pháp nâng cao hiệu quả, chất lượng
của công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của ngành kiểm sát nói chung và
Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh Miền Trung, Tây Nguyên nói riêng trong thời
gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:
Một là, làm rõ cơ sở lý luận của kháng nghị phúc thẩm hình sự: Khái niệm,
đặc điểm, vai trò, thẩm quyền, căn cứ, thời hạn, trình tự, thủ tục kháng nghị phúc
thẩm hình sự. Phân tích sâu sắc các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm
2015 về kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm của Viện kiểm sát.
Hai là, đánh giá toàn diện thực trạng công tác kháng nghị phúc thẩm hình
4


sự của Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh Miền Trung, Tây Nguyên trong thời gian
từ năm 2015 đến nay, từ đó rút ra những mặt tích cực và hạn chế về công tác
kháng nghị phúc thẩm hình sự cũng như việc áp dụng quy định này trên thực tế
xét xử ở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng hiện nay.
Ba là, đề xuất các giải pháp, kiến nghị khả thi nhằm nâng cao chất lượng,
hiệu quả công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân
trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu vấn đề lý luận về quyền kháng nghị của Viện kiểm
sát và thực tiễn công tác xét xử của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng những
vụ án hình sự bị kháng nghị ở các tỉnh Miền Trung, Tây Nguyên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu quy định về quyền kháng nghị trong BLTTHS Việt
Nam và thực tiễn xét xử phúc thẩm của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đối
với kháng nghị Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng và Viện kiểm sát
nhân dân các tỉnh Miền Trung, Tây Nguyên từ năm 2015 đến năm 2017.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Cơ sở phương pháp luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác– Lê
Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về xây
dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, về cải cách tư pháp; những tri thức
khoa học của triết học, xã hội học, luật học, các học thuyết chính trị pháp lý…
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, điều tra xã hội học... Ngoài
ra, trong quá trình nghiên cứu, tác giả tham khảo ý kiến chuyên gia, tọa đàm và
5


phương pháp nghiên cứu các bản án và hồ sơ vụ án.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiển của luận văn
Đây là công trình đầu tiên ở cấp độ luận văn thạc sĩ nghiên cứu hệ thống,
toàn diện về kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam từ
thực tiễn Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng. Những kết quả nghiên cứu của
luận văn có ý nghĩa khoa học và thực tiễn quan trọng sau:

6.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần hoàn thiện lý luận khoa học
về kháng nghị phúc thẩm hình sự.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả của đề tài có thể được vận dụng trong thực tiễn xét xử phúc thẩm
các vụ án hình sự ở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, giúp cho các kiểm sát
viên có cái nhìn toàn diện, đầy đủ về kháng nghị phúc thẩm hình sự, góp phần
nâng cao chất lượng, hiệu quả xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự. Đây là đề tài
nghiên cứu một cách toàn diện về kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, do
vậy luận văn có thể là cơ sở cho các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tham
khảo trong việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự trong thời gian tới và
dùng làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu, học tập tại các cơ sở nghiên
cứu và đào tạo chuyên ngành luật ở nước ta.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Những lý luận và pháp luật tố tụng hình sự về kháng nghị phúc
thẩm.
Chương 2. Thực tiễn hoạt động kháng nghị phúc thẩm ở Tòa án nhân dân
cấp cao tại Đà Nẵng.
Chương 3. Giải pháp và kiến nghị nâng cao hiệu quả kháng nghị phúc thẩm
hình sự.
6


Chương 1
NHỮNG LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VỀ KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò kháng nghị phúc thẩm hình sự
1.1.1. Khái niệm kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự

Bản án, quyết định của Toà án là văn bản pháp lý thể hiện sự phán quyết
đối với hành vi của con người, phản ánh công bằng xã hội. Do vậy, Hiến pháp và
pháp luật Việt Nam quy định nguyên tắc hai cấp xét xử: Chế độ xét xử sơ thẩm,
xét xử phúc thẩm được bảo đảm (Điều 103 Hiến pháp năm 2013) nhằm mục đích
khắc phục những sai sót trong quá trình xét xử sơ thẩm, đảm bảo áp dụng pháp
luật một cách thống nhất và bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân. Một trong những cơ sở phát sinh thủ tục xét xử phúc thẩm là
quyền kháng nghị của Viện kiểm sát. Chế định kháng nghị là quy định hiện thực
hoá nguyên tắc hai cấp xét xử của Tòa án và cũng là biện pháp quan trọng thực
hiện chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện
kiểm sát nhân dân (Điều 107 Hiến pháp năm 2013).
Về mặt lý luận có nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm kháng nghị phúc
thẩm hình sự. Trước hết, tác giả muốn phân tích khái niệm “kháng nghị” và
khái niệm “xét xử phúc thẩm” để từ đó đưa ra khái niệm “kháng nghị phúc
thẩm hình sự”.
Nếu hiểu nghĩa thông dụng, theo Từ điển Tiếng Việt, thuật ngữ kháng nghị:
Là bày tỏ ý kiến chống lại điều đã quyết nghị [54.tr.180]. Như vậy, theo cách
hiểu về câu từ thì kháng nghị là việc đưa ra ý kiến chống lại quyết định của một
nhóm người, hay tổ chức nào đó. Ở khía cạnh của những người nghiên cứu Luật
học và lịch sử tố tụng, thì kháng nghị có một số định nghĩa như: “Kháng nghị là
hành vi tố tụng của người có thẩm quyền, thể hiện sự phản đối một phần hoặc
toàn bộ nội dung bản án, quyết định của Toà án với mục đích bảo đảm cho việc
7


xét xử được chính xác, công bằng đồng thời sửa chữa những sai lầm trong bản
án, quyết định của Toà án” [53.tr.88]. Hoặc theo Từ điển giải thích Luật học của
Trường đại học Luật Hà Nội thì kháng nghị được định nghĩa: “Là việc người có
thẩm quyền yêu cầu Toà án xét lại bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực
pháp luật theo thủ tục phúc thẩm” [55.tr.183]. Cả hai cách định nghĩa về thuật

ngữ Luật học đều thể hiện được chủ thể thực hiện quyền kháng nghị chung
chung là người có thẩm quyền chứ chưa xác định cụ thể người nào, cơ quan, tổ
chức nào có quyền kháng nghị cũng như chưa xác định được đối tượng kháng
nghị cụ thể là bản án, quyết định có hiệu lực hay chưa có hiệu lực.
Đối với khái niệm xét xử phúc thẩm: Theo Từ điển Tiếng Việt năm 1994,
chủ biên Giáo sư Hoàng Phê thì “phúc thẩm là Tòa án cấp trên xét xử lại một vụ
án do cấp dưới đã xét xử sơ thẩm mà có chống án” [33.tr.780]. Về cơ bản khái
niệm này đã nêu được phúc thẩm là Tòa án cấp trên xét xử lại vụ án của Tòa án
cấp dưới trong trường hợp có cá nhân, tổ chức trong vụ án có phản đối lại bản án
và yêu cầu Tòa án xét xử lại ở cấp cao hơn. Tuy nhiên, khái niệm này cũng chưa
chưa chỉ rõ Tòa án cấp trên là Tòa án nào, khái niệm này cũng chưa luận giải rõ
chống án là gì, ai có quyền chống án, đối tượng chống án. Trong khi theo quy
định của Luật tổ chức hệ thống Tòa án nhân dân năm 2014 thì hệ thống tổ chức
Toà án nhân dân của nước ta có hai Toà có quyền xét xử phúc thẩm: Toà án nhân
dân cấp cao, Tòa án nhân dân cấp tỉnh.
Hiện nay, thuật ngữ xét xử phúc thẩm đã được Bộ luật tố tụng hình sự định
nghĩa chính thức, theo quy định tại Điều 330 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
thì khái niệm xét xử phúc thẩm được định nghĩa là: “việc Toà án cấp trên trực
tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ
thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng
nghị”[17.tr.280]. Theo định nghĩa này thì xét xử phúc thẩm với ý nghĩa là cấp
xét xử thứ hai; căn cứ làm phát sinh thủ tục phúc thẩm là kháng cáo, kháng nghị.
Đối tượng xét xử phúc thẩm là bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp
8


luật và phải do Toà án cấp trên trực tiếp xét xử lại.
Từ việc nghiên cứu hai định nghĩa về kháng nghị và xét xử phúc thẩm.
Chúng ta đã phần nào hình dung được khái niệm kháng nghị phúc thẩm hình sự.
Theo tác giả Đinh Văn Quế thì “Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm hình sự là

một văn bản do Viện kiểm sát ban hành yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm xét xử lại
vụ án mà Toà án cấp sơ thẩm cùng cấp hoặc cấp dưới trực tiếp đã xét xử, nhưng
xét thấy không đúng pháp luật” [37.tr.235]. Về cơ bản thì khái niệm này đã làm
rõ được Viện kiểm sát nhân dân có thẩm quyền kháng nghị nhưng lại cho rằng
Viện kiểm sát ban hành văn bản kháng nghị hình sự phúc thẩm yêu cầu Toà án
cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án Toà án cấp sơ thẩm đã xét xử nhưng xét thấy
không đúng pháp luật là chưa thật sự cụ thể, chưa thể hiện rõ đối tượng kháng
nghị là bản án, quyết định chưa có lực pháp luật mới bị kháng nghị, và cũng
chưa thể hiện đây là quyền năng chỉ có Viện kiểm sát mới có được.
Pháp luật Việt Nam hiện hành vẫn chưa có điều luật định nghĩa khái niệm
kháng nghị phúc thẩm hình sự, nhưng có những quy định xoay quay chế định
kháng nghị phúc thẩm hình sự.
Theo Điều 17 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960: “Viện kiểm
sát nhân dân tối cao và các Viện kiểm sát nhân dân địa phương có quyền:
Kháng nghị những bản án hoặc quyết định sơ thẩm của Toà án nhân dân cùng
cấp và dưới một cấp”[28.tr.17] và theo Điều 13 Luật Tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân năm 1981 quy định: “Khi thực hiện công tác kiểm sát xét xử, các Viện
kiểm sát nhân dân có quyền: Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm các bản án và
quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cùng cấp và
dưới một cấp, khi thấy có vi phạm pháp luật”[28.tr.16].
Như vậy, kháng nghị phúc thẩm hình sự được xem là quyền năng pháp lý
đặc biệt mà Nhà nước chỉ giao cho ngành kiểm sát.
Theo quy định tại Điều 336 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thì “Viện
kiểm sát cùng cấp, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị bản án
9


hoặc quyết định sơ thẩm” [16.tr.285]. Tức là, Viện kiểm sát cùng cấp và Viện
kiểm sát cấp trên trực tiếp với Tòa án đã tuyên bản án, quyết định sơ thẩm có
quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với bản án và quyết định sơ thẩm

của Toà án nhân dân chưa có hiệu lực pháp luật. Viện kiểm sát nhân dân là cơ
quan thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, thực hiện chức
năng kiểm sát đối với việc áp dụng pháp luật của tất cả các chủ thể trong hoạt
động tư pháp, trong đó có Toà án nhân dân vì Viện kiểm sát là cơ quan có quyền
truy tố người phạm tội trước toà và để đảm bảo cho việc quyết định truy tố của
mình, cũng như đảm bảo cho việc xét xử đúng pháp luật, khi phát hiện bản án,
quyết định sơ thẩm có vi phạm nghiêm trọng, Viện kiểm sát kháng nghị phúc
thẩm để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại vụ án theo đúng quy định pháp luật.
Trên cở sở tiếp thu những quan điểm và quy định của pháp luật tố tụng hình
sự Việt Nam, tác giả cho rằng khái niệm kháng nghị hình sự phúc thẩm được
hiểu theo hai nghĩa cơ bản: Theo nghĩa rộng về mặt hình thức và hiểu theo bản
chất nội dung cụ thể.
Xét về nghĩa rộng về mặt hình thức thì tác giả có thể đưa ra khái niệm:
Kháng nghị phúc thẩm hình sự là quyền riêng biệt của Viện kiểm sát thể hiện
bằng văn bản pháp lý yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm xét xử lại bản án, quyết
định hình sự chưa có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp sơ thẩm có vi phạm
pháp luật.
Xét về bản chất, nội dung cụ thể thì có thể hiểu khái niệm kháng nghị phúc
thẩm hình sự như sau: Kháng nghị phúc thẩm hình sự là một quyền năng pháp lý
riêng của Viện kiểm sát cùng cấp, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp thực hiện bằng
văn bản pháp lý nêu rõ lý do, căn cứ và yêu cầu của việc kháng nghị đối với bản
án, quyết định hình sự sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, đề nghị Toà án cấp
phúc thẩm xét xử lại vụ án khi cho rằng một phần hoặc toàn bộ nội dung bản án,
quyết định đó không đúng pháp luật nhằm đảm bảo Toà án xét xử đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
10


1.1.2. Đặc điểm của kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình
sự

Từ việc phân tích khái niệm, chúng ta có thể nhận thấy kháng nghị phúc
thẩm hình sự có những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, kháng nghị phúc thẩm hình sự là quyền năng pháp lý riêng biệt
của Viện kiểm sát.
Chủ thể của quyền kháng nghị phúc thẩm hình sự là Viện kiểm sát, cụ thể
là Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp với Tòa án đã
tuyên bản án, quyết định sơ thẩm được quy định tại khoản 1 Điều 336 Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2015. Theo quy định này, pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
đã giao quyền kháng nghị cho Viện kiểm sát chứ không phải là Kiểm sát viên
hay Công tố viên. Như vậy, khi đại diện của Viện kiểm sát tham gia phiên toà sơ
thẩm cho rằng quá trình xét xử cũng như bản án, quyết định sơ thẩm vi phạm tố
tụng hình sự, áp dụng pháp luật không đúng, không thể hiện được diễn biến
khách quan của vụ án thì có thể báo cáo, đề xuất Viện trưởng ban hành quyết
định kháng nghị.
Kháng nghị phúc thẩm là một hoạt động quan trọng của Viện kiểm sát nhân
dân và chỉ Viện kiểm sát mới có quyền kháng nghị phúc thẩm, trong tất cả các
văn bản pháp quy định về quyền kháng nghị từ trước đến nay đều thể hiện:
Quyền kháng nghị phúc thẩm hình sự là quyền năng pháp lý đặc biệt duy nhất
chỉ có ở Viện kiểm sát. Viện kiểm sát là cơ quan thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp, thực hiện chức năng kiểm sát đối với việc áp
dụng pháp luật của tất cả các chủ thể trong hoạt động tư pháp, trong đó có Toà
án nhân dân. Toà án là cơ quan xét xử có tính độc lập, nhưng hoạt động xét xử
của Tòa án chỉ có thể đạt hiệu quả cao và không có những vi phạm nghiêm trọng
khi đặt dưới sự giám sát của Viện kiểm sát nhân dân. Trong khi đó pháp luật của
nhiều nước trên thế giới không quy định Viện kiểm sát có quyền kiểm sát hoạt
động xét xử của Tòa án, vì làm như vậy vô tình ảnh hưởng đến nguyên tắc độc
11


lập xét xử của Tòa án. Tuy nhiên, căn cứ vào tình hình thực tại của nước ta, vấn

đề kiểm sát, ngăn chặn sự lạm dụng quyền lực trong tố tụng hình sự rất phức tạp
nên quyền về tư pháp cũng như kiểm sát hoạt động tư pháp được Nhà nước giao
cho nhiều cơ quan.
Viện kiểm sát kháng nghị phúc thẩm đề nghị Tòa án cấp trên xét xử lại vụ
án để đảm bảo cho việc quyết định truy tố của mình, cũng như đảm bảo cho việc
xét xử đúng pháp luật, khi phát hiện bản án, quyết định sơ thẩm có vi phạm
nghiêm trọng. Trong giai đoạn điều tra và giai đoạn xét xử sơ thẩm, Viện kiểm
sát nhân dân thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật nhằm đảm bảo cho mọi hoạt động điều tra, truy tố, xét xử đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật. Thông qua kháng nghị phúc thẩm, Viện kiểm
sát bảo vệ quyền truy tố của mình đồng thời cũng bảo đảm cho Tòa án ban hành
một bản án chính xác, nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đây
là một trong những quyền năng pháp lý mà thông qua đó Viện kiểm sát đồng
thời thực hiện hai chức năng là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp.
Thứ hai, kháng nghị được thể hiện bằng văn bản pháp lý, là điều kiện pháp
lý để vụ án được xét xử lại ở cấp phúc thẩm.
Không phải bất cứ vụ án nào đều phải trải qua hai cấp xét xử, mà chỉ có
những vụ án có kháng cáo, bị kháng nghị mới được tiến hành xét xử ở cấp phúc
thẩm. Như vậy, kháng nghị phúc thẩm là một trong hai điều kiện pháp lý để vụ
án được xét xử lại ở cấp phúc thẩm. Khi có kháng nghị của Viện kiểm sát thì
Toà án cấp trên trực tiếp phải mở phiên toà xét xử lại bản án, quyết định bị
kháng nghị.
Theo quy định mới của Bộ luật tố tụng hình sự thì quyết định kháng nghị
hình sự phúc thẩm phải đầy đủ nội dung theo quy định tại khoản 2 Điều 336 Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2015. Đặc điểm này thể hiện sự khác biệt giữa kháng
nghị của Viện kiểm sát và kháng cáo của bị cáo, bị hại, nguyên đơn dân sự, bị
12



đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Bởi lẽ, kháng nghị của Viện
kiểm sát bắt buộc phải bằng văn bản có nội dung chính theo luật đinh và nêu rõ
ràng căn cứ, lý do kháng nghị, đồng thời yêu cầu cụ thể Tòa án cấp phúc thẩm
giải quyết vấn đề nào. Kháng nghị của Viện kiểm sát khác kháng cáo của đương
sự, bị cáo ở chỗ những người kháng cáo có quyền trình bày trực tiếp với Tòa án
đã xét xử sơ thẩm hoặc Tòa án cấp phúc thẩm về việc kháng cáo của mình và
được Tòa án ghi nhận bằng văn bản (khoản 1 Điều 332 BLTTHS năm 2015).
Trong nội dung kháng cáo cũng không nhất thiết phải nêu rõ căn cứ kháng cáo,
chỉ cần thể hiện quan điểm không đồng ý với bản án, quyết định sơ thẩm.
Thứ ba, đối tượng kháng nghị là bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu
lực pháp luật.
Các quyết định sơ thẩm bị kháng nghị là quyết định tạm đình chỉ hoặc đình
chỉ vụ án, quyết định tạm đình chỉ vụ án đối với bị cáo, quyết định đình chỉ vụ
án đối với bị cáo và quyết định khác của Toà án cấp sơ thẩm mà Bộ luật tố tụng
hình sự quy định (khoản 2 Điều 330 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015). Đây là
quy định mới sửa đổi, bổ sung của BLTTHS năm 2015 so với quy định của
BLTTHS năm 2003 thì nay đã quy định rõ ràng đối tượng kháng nghị là quyết
định nào để tránh sự nhầm lẫn Viện kiểm sát có thể kháng nghị đối với bất cứ
quyết định nào của Tòa án cấp sơ thẩm. Như vậy, theo quy định của pháp luật tố
tụng hình sự hiện hành thì những quyết định khác của Tòa án cấp sơ thẩm bị
khiếu nại thì không làm phát sinh thủ tục xét xử phúc thẩm, mà do Chánh án,
Phó Chánh án Tòa án ra quyết định xem xét giải quyết theo thủ tục giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự.
1.1.3. Vai trò của kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự
Kháng nghị hình sự phúc thẩm là một trong những cơ sở pháp lý để vụ án
được xét xử lại ở cấp phúc thẩm. Mục đích nhằm khắc phục những sai phạm của
bản án, quyết định sơ thẩm, đảm bảo tính có căn cứ pháp lý, hợp pháp của bản
án, quyết định, đảm bảo phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh mọi hành vi phạm
13



tội, không để lọt người, lọt tội, không làm oan người vô tội.
Kháng nghị phúc thẩm là cơ chế phát hiện kịp thời sai phạm, đề nghị khắc
phục, nâng cao chất lượng xét xử vụ án. Là phương tiện bảo vệ lợi ích Nhà nước,
xã hội, quyền lợi ích hợp pháp của công dân. Trong giai đoạn xét xử phúc thẩm
Viện kiểm sát giám sát mọi hoạt động của cơ quan Toà án, giám sát tính hợp
pháp và tính có căn cứ của các bản án, quyết định của Toà án nhằm đảm bảo cho
việc xét xử được tiến hành theo đúng các quy định của pháp luật.
Thông qua quyền kháng nghị phúc thẩm hình sự, Viện kiểm sát bảo vệ
quan điểm truy tố, bảo đảm cho hoạt động của các cơ quan tư pháp được đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật, đồng thời nhằm đảm bảo cho Tòa án ra một bản
án chính xác, có căn cứ, xét xử đúng người, đúng tội.
Bằng hoạt động kháng nghị phúc thẩm hình sự, Viện kiểm sát thực hiện
chức năng mà Nhà nước đã giao cho ngành kiểm sát là yêu cầu Toà án phải đưa
vụ án ra xét xử theo trình tự phúc thẩm, góp phần nâng cao chất lượng xét xử các
vụ án hình sự, đảm bảo cho việc Toà án ra một bản án dân chủ, khách quan,
đúng pháp luật, đồng thời tăng cường hiệu quả giáo dục, nâng cao ý thức pháp
luật, cũng cố niềm tin vào công lý cho quần chúng nhân dân và chủ động tham
gia đấu tranh phòng chống tội phạm một cách có hiệu quả.
Khi thực hiện tốt công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự sẽ đảm bảo pháp
chế xã hội chủ nghĩa. Trong Nhà nước pháp quyền mọi cơ quan Nhà nước, tổ
chức chính trị xã hội, mọi công dân đều phải tuân thủ pháp luật một cách nghiêm
chỉnh, triệt để và thống nhất. Điều đó đòi hỏi việc tổ chức và hoạt động của Bộ
máy nhà nước phải được tiến hành theo đúng quy định của pháp luật trong đó có
hoạt động xét xử, tất cả các công dân phải nghiêm chỉnh và triệt để tôn trọng
pháp luật khi thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, đồng thời mọi vi phạm
pháp luật đều phải được xử lý nghiêm minh.
Tính thống nhất của pháp chế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi Bộ máy nhà nước,
cơ quan, đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội và mọi công dân phải thực hiện một
14



cách thống nhất, vì vậy bảo đảm tính thống nhất của pháp chế là điều kiện không
thể thiếu để thực hiện quyền dân chủ đối với mọi công dân.
Viện kiểm sát thực hiện chức năng kháng nghị phúc thẩm tốt sẽ đảm bảo
cho hoạt động xét xử của Tòa án cũng như hoạt động tư pháp của các cơ quan tư
pháp phải tuân thủ pháp luật một cách triệt để, đảm bảo cho mọi vi phạm đều bị
phát hiện và xử lý kịp thời. Thông qua thực hiện quyền kháng nghị, Viện kiểm
sát bảo vệ quan điểm truy tố, nhằm đảm bảo cho mọi hành vi vi phạm pháp luật
đều bị xử lý nghiêm minh. Đồng thời, đảm bảo cho hoạt động xét xử của Tòa án
được công bằng, việc áp dụng pháp luật thống nhất trên phạm vi cả nước.
Như vậy thực hiện tốt công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự có vai trò rất
quan trọng trong việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp, góp phần nâng cao hiệu quả công tác của ngành kiểm sát.
1.2. Thẩm quyền, đối tượng, căn cứ và thời hạn của kháng nghị phúc
thẩm theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
1.2.1. Thẩm quyền, giới hạn và đối tượng kháng nghị phúc thẩm hình sự
* Thẩm quyền, giới hạn kháng nghị phúc thẩm hình sự
Hoạt động xét xử của Tòa án được xem là trung tâm của hoạt động tư pháp.
Phán quyết của Tòa án có giá trị pháp lý cao nhất xác định một con người, pháp
nhân có tội hay không có tội. Viện kiểm sát với chức năng thực hành quyền công
tố, buộc tội một người và truy tố người đó ra Tòa án xét xử bằng một bản cáo
trạng. Nếu nhận định của Tòa án không đồng thuận với cáo trạng thì sau khi xét
xử sơ thẩm, Viện kiểm sát có thể phản ứng lại bằng cách kháng nghị đối với bản
án, quyết định của Tòa án đã xét xử sơ thẩm. Đồng thời, trong quá trình xét xử
Tòa án có nhưng hoạt động không phù hợp với tố tụng hình sự, áp dụng pháp
luật không đúng sự thật khách quan, hay quá trình thẩm vấn, tranh tụng không
khách quan thì với vai trò kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án, Viện kiểm sát
có quyền kháng nghị.
Về thẩm quyền kháng nghị, theo Điều 232 của BLTTHS năm 2003, nay là

15


Điều 336 BLTTHS năm 2015 cũng không có thay đổi quy định: “Viện kiểm sát
cùng cấp và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị những bản án
hoặc quyết định sơ thẩm”[15.tr.171]. Như vậy, quyền kháng nghị thuộc thẩm
quyền của Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp đối với
Toà án đã xét xử sơ thẩm.
Việc quy định Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp cũng có quyền kháng nghị là
phù hợp nhằm khắc phục ngay những hạn chế của Viện kiểm sát cấp dưới khi
không phát hiện được vi phạm trong bản án, quyết định hoặc phát hiện được
nhưng lại hết thời hạn kháng nghị thì có văn bản đề nghị Viện kiểm sát cấp trên
trực tiếp kháng nghị phúc thẩm hoặc khắc phục tình trạng Viện kiểm sát cấp
dưới đồng tình với quan điểm xét xử của Toà án cùng cấp mặc dù có vi phạm
nên không kháng nghị.
Theo quy định của BLTTHS hiện hành cũng như Quy chế số
960/2007/QĐ-VKSTC ngày 17/9/2007 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao về
thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử quy định Viện trưởng hoặc Phó Viện
trưởng Viện kiểm sát kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm những bản án hoặc
quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, được quy định cụ thể sau:
- Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm những bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa
có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp huyện.
- Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh kháng
nghị theo thủ tục phúc thẩm những bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu
lực pháp luật của Tòa án cấp tỉnh và Toà án cấp huyện.
- Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao kháng
nghị theo thủ tục phúc thẩm những bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu
lực pháp luật của Tòa án cấp tỉnh.
Việc quy định Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng VKSND có quyền kháng

nghị phúc thẩm hình sự là chưa có gì thay đổi khi BLTTHS năm 2015 ra đời.
16


Mặc dù Nghị quyết 49 –NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020 và Báo cáo Tổng kết 35-BC/CCTP ngày
12/3/2014 của Ban chỉ đạo cải cách Tư pháp đã nêu rõ những tồn tại của ngành
kiểm sát như sau:
“Chưa phân công rõ nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên được giao
thực hiện quyền công tố và Kiểm sát viên được giao kiểm sát hoạt động tư pháp.
Việc phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư
pháp trong hoạt động tố tụng của Viện kiểm sát nhân dân, theo hướng tăng
quyền và trách nhiệm cho kiểm sát viên để họ chủ động thực thi nhiệm vụ, nâng
cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi và quyết định tố
tụng của mình chậm được nghiên cứu và cụ thể hóa”[2.tr.8].
Như vậy, quan điểm của Ban chỉ đạo cải cách tư pháp là muốn nâng cao
thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm cho cả Kiểm sát viên, bởi họ là người trực
tiếp nghiên cứu hồ sơ, tham gia từ giai đoạn điều tra, xét xử và là người trực tiếp
phát hiện vi phạm thì phải mạnh dạn giao nhiệm vụ, quyền hạn cho họ cũng như
kèm theo trách nhiệm đối với việc kháng nghị.
Theo định hướng của Ban chỉ đạo cải cách tư pháp thì Viện trưởng và Phó
Viện trưởng là chức danh quản lý, phụ trách quản lý hành chính, nên phân định
rõ ràng về chức danh quản lý hành chính và chức danh chuyên môn để chuyên
nghiệp hóa trong công tác ngành kiểm sát. Bởi lẽ, Viện trưởng và Phó Viện
trưởng phải quản lý nhiều mặt trong cơ quan Viện kiểm sát nhân dân các cấp nên
không có thời gian nghiên cứu vụ án cụ thể, dẫn đến việc phải nghiên cứu lại
mất thời gian và không đảm bảo thời hạn kháng nghị phúc thẩm. Tuy nhiên, nếu
giao thẩm quyền kháng nghị cho Kiểm sát viên thì vụ án chưa được nghiên cứu,
bàn bạc kỹ lưỡng, có thể xảy ra tình trạng kháng nghị tràn lan theo ý chí chủ
quan của Kiểm sát viên.

Hiện nay, trình độ, năng lực của Kiểm sát viên chưa thực sự đạt chất lượng
dễ dẫn đến tỷ lệ vụ án Toà án không chấp nhận kháng nghị tăng, hơn nữa cũng
17


chưa có quy chế xác định trách nhiệm của Kiểm sát viên khi kháng nghị không
được chấp nhận. Do vậy việc quy định thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm như
quy định hiện hành chưa đáp ứng được yêu cầu của cải cách tư pháp.
Giới hạn kháng nghị phúc thẩm có liên quan chặt chẽ với phạm vi xét xử
phúc thẩm vụ án. Theo Từ điển Tiếng Việt do Giáo sư Hoàng Phê chủ biên năm
1994 thì: “Giới hạn là phạm vi, mức độ nhất định, không thể hoặc không được
vượt qua” [33, tr.406]. Do đó, Viện kiểm sát kháng nghị phúc thẩm có nội dung
không được vượt quá phạm vi xét xử của Toà án cấp phúc thẩm.
Theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, khi thực hành quyền công tố và
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự, Viện trưởng
Viện kiểm sát có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm các bản án, quyết
định của Toà án. Trong trường hợp Viện kiểm sát cùng cấp hoặc cấp trên trực
tiếp nếu kháng nghị phúc thẩm theo hướng có lợi cho bị cáo hoặc các đương sự
thì không bị giới hạn. Tuy nhiên, nếu Viện kiểm sát cùng cấp hoặc cấp trên trực
tiếp kháng nghị phúc thẩm theo hướng bất lợi cho bị cáo hoặc các đương sự thì
sẽ bị giới hạn nếu nội dung kháng nghị đó chưa được Tòa án cấp sơ thẩm xét xử
hoặc không thuộc thẩm quyền xét xử và quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm.
Do vậy, trước khi Viện trưởng kháng nghị cần xem xét, yêu cầu kháng nghị
không được vượt quá phạm vi xét xử của Toà án cấp phúc thẩm.
* Đối tượng của kháng nghị phúc thẩm hình sự.
Trước đây, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 tại Điều 230 quy định:
“Xét xử phúc thẩm là việc Toà án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc
xét lại bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị
kháng cáo hoặc kháng nghị”[16.tr.170].
Tại Điều 232 quy định: “Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát cấp

trên trực tiếp có quyền kháng nghị những bản án hoặc quyết định sơ
thẩm”[16.tr.171].
Việc quy định như vậy dẫn đến việc Viện kiểm sát hiểu nhầm là mọi quyết
18


định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật đều bị kháng nghị.
Nay quy định tại khoản 2 Điều 330 BLTTHS năm 2015 đã dành một điều
khoản riêng quy định về quyết định sơ thẩm bị kháng nghị là:
“Quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ vụ án, quyết định tạm đình
chỉ vụ án đối với bị can, bị cáo, quyết định đình chỉ vụ án đối với bị can, bị cáo
và quyết định khác của Tòa án cấp sơ thẩm theo quy định của Bộ luật
này”[17.tr.280].
Qua nội dung điều luật trên cho thấy đối tượng của kháng nghị phúc thẩm
hình sự là bản án sơ thẩm hoặc quyết định sơ thẩm của vụ án đó nhưng chưa có
hiệu lực pháp luật. Bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật là
những bản án, quyết định sơ thẩm còn trong thời hạn kháng cáo hoặc kháng nghị
theo thủ tục phúc thẩm. Như vậy, về nguyên tắc, bản án hoặc quyết định sơ thẩm
đã có hiệu lực pháp luật không phải là đối tượng của xét xử phúc thẩm và do đó,
cũng không thuộc đối tượng của kháng nghị phúc thẩm.
Đối tượng kháng nghị phúc thẩm theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
hiện hành là thành quả của quá trình luật hóa Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP
ngày 08/12/2005 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, về việc
hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ tư “Xét xử phúc thẩm” của
Bộ luật tố tụng hình sự. Theo quy định mới thì ngoài những quyết định được quy
định rõ ràng, cụ thể ra, còn có những quyết định khác được quy định theo Bộ
luật này. Tất cả các quyết định đó đều có những đặc điểm chung. Theo phân tích
của tác giả thì quyết định bị kháng nghị có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, phải là các quyết định sơ thẩm của Toà án liên quan trực tiếp đến
việc xử lý vụ án, bị can, bị cáo.

Thứ hai, phải là những quyết định sơ thẩm có vi phạm mà nếu không kháng
nghị phúc thẩm thì không có trình tự pháp luật nào để khắc phục.
Thứ ba, là những quyết định sơ thẩm theo quy định của Bộ luật tố tụng hình
sự mà Toà án phải có trách nhiệm gửi quyết định đó cho Viện kiểm sát.
19


×